14 C
Hanoi
Thứ Tư, 26 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 19

45. Thái-cực tử-vi bí-pháp: Khảo-luận về thân và mệnh (KHHB số 10)

0

Thái-Cực Tử-vi Bí-pháp

KHẢO-LUẬN về THÂN và MỆNH

□ HƯƠNG-VÂN cư sĩ

Trong khoa đoán số Tử Vi, việc đầu tiên phải làm là tính giờ sanh và an trí các cung Mệnh và cung Thân trên Thiên bàn tức là trên vòng mười hai Ô của tờ giấy.
Muốn định các cung Mệnh và Thân cần phải biết tháng sanh và giờ sanh đúng theo Âm lịch. Chúng ta đều biết rằng Giờ sanh là một dữ kiện quan yếu, nhất là trong việc an MỆNH và định CỤC.
Để hiểu được thấu đáo căn nguyên của vấn đề này, cũng là vấn đề then chốt, ta sẽ lần lượt tìm hiểu các lý thuyết căn bản mà rất ít người có dịp đề cập đến. Trong tinh thần khảo sát khoa học dù là khoa học huyền cơ, những lý thuyết khởi đầu, những phương pháp lý luận và diễn tả đều là những yếu tố để minh định giá trị khoa học của một bài luận. Vì thế nên trong các phần sau đây, chúng tôi cố gắng trình bày theo đúng phương pháp khoa học:
“Lý thuyết là khởi đầu và kết thúc của mọi công cuộc Khảo Sát Khoa học.”

I – Lý thuyết về bào thai và tượng hình. Ảnh hưởng của giờ sanh.

Theo kinh nghiệm của Đông Phương Y lý mà Y học Âu Tây cũng công nhận, Đạo gia Thái cổ đã lập nên một lý thuyết được diễn tả sơ lược như sau:
Ngay sau khi một phôi noãn (cái trứng) đã thụ khí trong tử cung thì cái mầm sống bé nhỏ ấy bắt đầu lớn lên, và chuyển biến theo các chu trình tự nhiên. Tại trung đạo giữa các chu kỳ (thời gian) thì bào thai lại có một hình tượng đặc biệt và càng ngày càng tiến hóa, trong khi các chu kỳ càng ngày càng dài,

1) Kể từ chu trình thứ 7 đến thứ 13, độ dài chu kỳ sẽ đều đặn là 1 tháng âm lịch, nghĩa là theo chu kỳ kí huyết của con người do ảnh hưởng của mặt trăng (Nguyệt kỳ).
2) Tuy nhiên chu kỳ hành khí căn bản do ảnh hưởng của mặt trời (Nhật kỳ) vẫn còn tồn tại. Mỗi chu tuần này đúng 24 giờ mặt trời tức là 12 giờ Tử Vi. Trong chu tuần một ngày, hành khí chuyển vận có lúc mạnh lúc yếu, lúc vượng lúc suy.
Tùy theo đứa trẻ lọt lòng vào lúc trùng với giờ vượng hoặc suy mà tánh khí cũng như số mệnh của nó thay đổi khác nhau. Do đó, giờ sanh là một yếu tố quyết định trong Khoa Tử Vi.
Tương tự như vậy, ngày sanh trong tuần trăng (tức là tháng âm lịch) sẽ ảnh hưởng đến số mệnh, được biểu hiện trong phép an các bộ Tử Vi và Thiên phủ. Soạn giả sẽ bàn đến trong loạt bài kế tiếp, sau khi bàn về phép lập Cục theo ngũ hành.

II – Lý thuyết về phương vị trong không gian. Phép định cung THÂN

Trong phần lý thuyết này, tùy theo tháng sanh và giờ sanh, mà người ta chịu ảnh hưởng tại một vùng trời nhất định trong không gian.
Điều này sẽ được diễn tả theo Thiên văn Học để độc giả tân học tiện theo dõi.
Vị trí của mặt trời trong giải Ngân Hà
Sông Ngân Hà, gồm có hàng tỉ tỉ sao đủ loại, chiếm một khoảng không gian rộng lớn, tương đối ít thay đổi, được xem như bất di dịch. Mặt trời cùng với vòm sao, mà ta thấy được trong những đêm tốt trời, chỉ chiếm một khoảng thật nhỏ trong Ngân Hà, như hình vẽ sau đây.

Vị trí của quả đất đối với Mặt Trời trong Ngân Hà
Trong khoảng vòm sao này, Mặt Trời xem như đứng yên và địa cầu lại chạy vòng quanh Mặt Trời,

Chung quanh Mặt Trời được chia ra làm 12 vùng hình quạt được đánh số theo chiều kim đồng hồ, từ số 1 đến số 12. Đó là mười hai vùng của Ngân Hà hoặc của không gian.
Cần phải chú ý rằng: Người Trung Hoa ở về phía Bắc, khi nhìn lên bầu trời, họ thường quay về phía Nam, và vì vậy họ lấy trục từ Băc đến Nam, do đó chiều quay của địa cầu được thấy trong hình vẽ từ phải sang trái. Hình này là hình lật ngược của hình vẽ trong sách Thiên Văn của Tây Phương, nhưng vẫn hoàn toàn đúng với thực tế.
Trong hình vẽ này, địa cầu đang ở vùng số 8 âm lịch. Trong tháng 8 này, tùy theo giờ sanh (đối với vị trí mặt trời) mà kẻ ra chào đời chịu ảnh hưởng TẠI một vùng của Ngân Hà.

Thí dụ:
Sanh tháng 8:

Vào giờ Tí, thuộc vùng 8
Vào giờ Sửu, thuộc vùng 9
Vào giờ Dần, thuộc vùng 10
Vào giờ Mão, thuộc vùng 11
Vào giờ Thìn, thuộc vùng 12
Vào giờ Tỵ, thuộc vùng 1
Vào giờ Ngọ, thuộc vùng 2
và vân vân.

Phép định cung THÂN

Căn cứ vào lý thuyết và dữ kiện thiên văn nói ở trên đây, người ta đặt 12 vùng vào 12 cung của Thiên bàn, rồi tùy theo tháng sanh và giờ sanh mà tìm cung nào chịu ảnh hưởng: đó là cách định cung THÂN vậy.
Muốn tìm phương vị của THÂN, thì hãy đặt hình vẽ ở trang trước vào khoảng trống ở giữa Thiên bàn, sanh tháng nào thì thì quay cho mũi tên giờ Tí chỉ vào số ấy (sanh tháng 11, mũi tên chỉ vào số 11). Rồi xem giờ sanh chỉ cung nào, là THÂN đóng tại cung đó.
Muốn cho tiện lợi và nhanh chóng, xin xem bảng kê ở cuối bài này để tra tìm cung THÂN và cung MỆNH luôn thể.
Tuy thế, cách tìm cung Thân và Mệnh theo lối xưa, là lối đếm cung, vẫn dùng được mà không có gì là bất tiện lắm.

III – Lý thuyết về vũ trụ siêu hình. Sự phân biệt Thân với Mệnh

Trong các phần trên đây, chỉ nói đến cách tìm phương vị trong không gian và suy ra cách tìm cung THÂN. Tất cả các điều ấy đều nằm trong phạm vi của thế giới vật chất hay vũ trụ hữu hình.
Theo thuyết lý của Đạo gia học thuật thì song song với vũ trụ hữu hình còn có thế giới vô hình hay vũ trụ siêu hình. Vũ trụ siêu hình cũng có các hình tướng riêng mà ta không cảm biết được với những giác quan thông thường. Nhưng hai thế giới vô hình và hữu hình vẫn liên hệ với nhau bởi các nguyên lý siêu việt mà kết quả là hai thế giới này liên lạc với nhau rất chặt chẽ bằng những luật tự nhiên.
Sau đây là vài nguyên tắc khởi đầu:
1 – Hữu hình kết tụ thì siêu hình giải tán và ngược lại.
2 – Hữu hình tiến thì siêu hình thoái và ngược lại.
3 – Hữu hình và vô hình nhất động nhất tĩnh và ngược lại.
4 – Chiều chuyển hóa của hữu hình và vô hình luôn luôn ngược với nhau trong không gian và thời gian tương đối.
Trên đây chỉ là những nguyên tắc hỗ hoán dùng làm căn bản trong việc tu luyện của đạo gia để cảm thông với Vũ trụ siêu nhiên.
Soạn giả đã trình bày theo hình thức diễn dịch của khoa học hiện đại để bạn đọc theo dõi được dễ dàng. Các nguyên tắc này sẽ còn được đề cập đến luôn, trong bài khảo luận này.
Chính các nguyên tắc này đã được áp dụng vào việc định MỆNH VỊ trong khoa Tử Vi Khí Vận:
1 – Theo đó thì khi quả đất quay theo chiều kim đồng hồ, khoảng thế giới siêu hình thiết cận của nó cũng quay theo chiều nghịch lại, trong khoảng thời gian tương đối.
2 – Theo giải lý của Khoa Tử Vi, chính ảnh hưởng của Vũ trụ siêu hình mới thực sự quyết định Mệnh vận, vì nó cảm ứng trực tiếp vào Thần khí và Tuệ giác của con người.
Do hai lẽ nêu trên, người ta an cung Mệnh bằng cách tính nghịch lại với chiều quay quả đất.
Trong thí dụ ở hình vẽ 3, một người sanh tháng 8, mặt trời ở cung Mão (số 2), nếu sanh giờ Dần (chẳng hạn) thì từ số 8 theo chiều thuận mà an THÂN ở cung Hợi (số 10) và theo chiều nghịch mà an MỆNH ở cung Mùi (số 6).
Về sau này, khi luận đoán vận hạn, chúng ta sẽ căn cứ vào các lý thuyết trên đây để phân biệt sự quan hệ của Thân và Mệnh.
Tiếp sau đây là Bảng để tìm cung an THÂN và an MỆNH. Dùng bảng này để tránh mọi sự nhầm lẫn do sự đãng trí gây ra.

Cách dùng bảng này
1) Chiếu tháng sanh theo cột dọc và chiếu giờ sanh theo hàng ngang, gặp nhau tại 1 ô, chữ ghi trong ô này là cung an Mệnh.
2) Chiếu giờ sanh theo hàng ngang đến cột THÂN CƯ là tìm thấy cung an Thân.

PHỤ THÍCH VỀ CÁC LUẬT SIÊU HÌNH.

1 – Sự hiện hữu của Thế Giới Siêu Hình

Theo đúng tinh thần khoa học, muốn chối bỏ cái sự hiện hữu của Siêu hình giới, ta cần phải minh chứng rằng “không thể có được” một thế giới siêu hình.
Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chưa có một nhà khoa học nào chứng tỏ được thế cả. Mà trái lại, có quá nhiều dữ kiện (soạn giả chưa dám dùng chữ: bằng chứng) của thế giới siêu hình hiển nhiên đã xảy ra. Lẽ tất nhiên là với những phương tiện hữu hình người ta khó lòng minh chứng được sự hiện diện của vũ trụ siêu hình.
Mặc dù vậy, thế giới siêu hình vẫn có thể có vì không ai chứng tỏ được là chỉ có thể không.
Trong tinh thần ấy, và xuyên qua những kết quả mà soạn giả đã thu hoạch được về siêu hình học, tôi xin trình bày sự giải thích các nguyên tắc khới đầu đã nêu lên ở đoạn trước.

2 – Thứ Nhất: Hữu hình kết tụ thì Siêu hình giải tán và ngược lại.

Khi con người chết đi, hình hài tan rã, thì linh khí hay thần khí lại kết tụ và rời khỏi hình hài để trở về với vô hình giới.
Trong trường hợp lăng mộ của người chết gặp nơi hội tụ thần khí của cõi vô hình thì phần khí chỉ kết tụ mà không hẳn rời khỏi hình hài (di cốt) quá xa.
Trường hợp ngược lại, khi bào thai nẩy nở thì vật chất hữu hình kết tụ thành hình vóc, càng ngày càng lớn, thì phần thần khí của nó càng ngày càng phân tán. Kết quả là người ta càng lớn lên theo không gian (vóc) hoặc theo thời gian (tuổi) thì phần thần khí bị tản mát nhiều; nếu không biết cách tu luyện để giữ vững thì khả năng thần hóa càng ngày càng kém. Vì lẽ đó, mà trẻ con học tập nhanh hơn người già, và người ta thường chọn trẻ con là xác đồng. Tương tự như thế, trẻ con lúc ngủ dễ mộng mị nhiều hơn và trẻ chết non rất linh ứng. Bạn đọc có thể tìm những thí dụ khác rất dễ dàng.
3 – Thứ Hai: Hữu hình tiến thì Siêu hình thoái và ngược lại.

Sự tiến thoái ở đây có thể là trong không gian hoặc thời gian tương đối. Thí dụ về sự tiến hóa của bào thai là thuộc về không gian tương đối.
Khi con người càng tiến về tương lai thì càng già, đồng thời thần khí siêu hình của con người lại càng thoái về quá khứ. Cho nên, càng về già, con người càng dễ cảm thông với quá khứ hơn.
Nguyên tắc thứ hai này cũng được dùng để giải thích các trường hợp về luân hồi quả báo. Tuổi trẻ gặp quả báo cho những duyên nghiệp của quá khứ gần và lúc già phải chịu quả báo của quá khứ xa.

4 – Thứ Ba: Hữu Hình và Vô Hình: nhất động, nhất tĩnh và ngược lại.

Theo luật này khi hình xác hóa động thì thần khí siêu hình phải tĩnh, và nghịch lại.
Điều này chúng ta thường gặp và thường dùng luôn mà không cảm biết. Muốn suy tưởng thì phải có phần hữu hình thật yên tĩnh để cho phần siêu hình động, tư tưởng sẽ được dồi dào và phát triển dễ dàng. Cũng vì lẽ này mà khi ngủ ta thường chiêm bao.
Ngoài ra, nguyên tắc thứ ba này là căn bản của phương pháp tu luyện của mọi môn phái siêu linh học, cổ cũng như kim.
Độc giả có thể tự tìm lấy các thí dụ và những áp dụng thông thường của nguyên tắc này.

5 – Thứ Tư: Chiều chuyển hóa của hữu hình và vô hình luôn luôn ngược với nhau.

Nguyên tắc này rất giống nguyên tắc thứ hai, nhưng khác nhau ở chỗ là vô hình và hữu hình tương đối là cùng động cả.
Ta có thể dùng Hình Học hiện đại để dễ dàng hiểu được điều này:
– Hữu hình là hình Vị Tự của Vô hình (hay ngược lại).
– Tỉ số vị tự k < 0 là số âm. (II)
– Trị số tuyệt đối |k| thay đổi một chiều. (I)
– Ảnh của 2 hình vị tự âm phải nghịch nhau (III).

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

44. Phối kiểm lá số và cuộc đời nữ diễn viên Ánh Nga (KHHB số 08)

0

Phối kiểm lá số và cuộc đời nữ diễn viên

ÁNH NGA

 

Tường thuật của LÊ THÀNH THÁI

Đọc xong lời giải đóan của Lá Số Tử Vi của cuộc đời mình, Ánh Nga vui vẻ cho biết những chuyển biến trong đời Ánh Nga từ ngày xa gia đình lên Sài Gòn đến giờ đều đúng như định mệnh đã an bài trong lá số Tử Vi, do chúng tôi giải đóan.

Sinh trong một gia đình nề nếp khá giả ở quận Nhơn Trạch, Biên Hòa. Cha mẹ Anh Nga rất nghiêm khắc với con gái, tánh Ánh Nga thích nghệ thuật từ lúc nhỏ, do đó không hợp với gia đình, Anh Nga đã lìa quê lúc 15 tuổi, lên Sài Gòn với mục đích theo đuổi con đường nghệ thuật.

Những ngày đầu tiên trên đất Sài Gòn hoa lệ đầy cám dỗ, một Ánh Nga đang tuổi trăng tròn, đầy hăng say và yêu đời, đã bao lần va chạm thực tế đầy cạm bẫy của xã hội lòai người, Ánh Nga súyt bị cưỡng hiếp vào cuối năm 15 tuổi, để rồi qua năm 16 tuổi vì lòng yêu thương dạt dào của lứa tuổi dậy thì, Ánh Nga đã đặt trọn niềm tin và cuộc đời trong trắng của mình vào người yêu đầu, mà nàng nghĩ rằng đôi lứa sẽ vai sánh vai đi trọn đường đời. Cuộc tình Ánh Nga cho là lý tưởng, bỗng chốc lại tan rã vào năm nàng 16 tuổi, để lại một niềm đau xót chung cho 2 người là năm 17 tuổi nàng đã sẩy một bào thai vừa được 3 tháng. Ánh Nga cho biết vì nghịch cảnh mà 2 đứa xa nhau chứ không phải nàng bị phụ bạc. Ánh Nga nói:
– Chuyện buồn đó, Ánh Nga ít nói cho ai nghe, chỉ trừ một vài người bạn thân, không ngờ trong lá số Tử Vi của Nga đã an bài sẵn. Hồi Nga 18 tuổi, đang trải qua cơn buồn chán như vậy, Ánh Nga có coi bói một ông thầy mù cầm chuông lắc lắc trước cửa nhà, lúc đó Ánh Nga đang ở nội trú trong nhà đường Phạm Ngũ Lão. Ông thầy này gieo mấy đồng tiền trong cái mu rùa, cho Nga biết năm 20 tuổi trở lên cô sẽ có xe hơi, có nhà và sẽ xuất ngọai nữa. Rồi từ năm 33 tuổi trở đi cô sẽ giàu lớn. Nghe xong Nga và chị bạn cười thầm, cho là ông thầy mù nói nịnh để lấy tiền quẻ cho xuôi, tin sao nổi. Vậy mà từ năm 20 tuổi đến giờ, Nga thấy đời Nga đã ứng nghiệm đúng như lời ông thầy bói mù đã nói năm trước.

Rồi Ánh Nga cho biết tiếp là bắt đầu tư năm 1962, nàng 19 tuổi, là năm làm quen với nghệ thuật do một nhạc sĩ kiêm vũ sư đưa vào làm trong Nha CTTL, và cũng năm đó, nàng lập gia đình với người nhạc sĩ này. Năm 1963, 20 tuổi, nàng sinh được một đứa con gái, đúng như sự kiện đã biểu hiện trong lá số. Và sang năm 1964, 21 tổi vì bất đồng ý kiến mà xa nhau. Vấn đề tiền bạc chỉ là nguyên nhân phụ, còn điểm chính yếu vẫn là không hợp tính và bất đồng quan điểm với nhau.

Ánh Nga đọc đến đọan giải đóan trong lá số, tiểu hạn năm 21 tuổi là hạn nặng nhất, nếu còn ở với chồng con, sẽ bị tai nạn thương tật đến hủy họai nhan sắc, nàng nói giọng buồn buồn:

– Như vậy cũng là số khiến xui, chứ đâu có ai muốn dang dở, nhất là đời con gái, phải đứt nối đôi ba lần, phải không anh?

Tôi hỏi:

– Ánh Nga có nhớ năm 21 tuổi, bị té ngã ở đâu khiến cho mặt mũi có sao không?

Ánh Nga lắc đầu:

– Lâu quá không nhớ, mà mặt Nga đâu có thẹo chỗ nào đâu? Vừa nói, nàng đưa tay rờ rờ khắp mặt mũi.

Tôi nhìn lại lá số:

– Như vậy chắc điểm này sai rồi. Thôi để ghi lên cho độc giả nghiên cứu rút kinh nghiệm.

Tôi đang hí hóay ghi, bỗng Ánh Nga sờ vào sống mũi nói:

– A, Nga nhớ ra rồi! Hồi năm 1964, có chị bạn chở Nga đi xe gắn máy bị đụng, hai đứa té lăn cù, Nga trầy sống mũi, sờ còn thấy thẹo đây nè. Vì Nga đánh kem nên anh nhìn không thấy. Đúng rồi.

Và năm 1966, Nga có xe hơi, đó là chiếc Floride, cuối năm đó Nga đổi chiếc DKW, qua năm 1967, Nga xuất ngọai sang Hồng Kông, đúng như lời giải đóan của các anh. Năm đ1o về, Nga nghèo quá chừng, phải bán xe DKW. Rồi cuối năm mua lại chiếc Triumph hiện Nga đang đi.
Còn chuyện đóng phim thì nhiều lần lắm, đó là Nga đóng cho Juapao, dưới sự đạo diễn của ông Hòang Vĩnh Lộc, Thân Trọng Kỳ, Trần Đình Mưu, Nguyễn Văn Tường, làm sao Nga nhớ cho hết. Qua năm 1971, Nga có xuất ngọai, lần này đi Đài Loan. Chuyện tới cò bót hả anh? Để Nga nhớ coi, a phải rồi, Nga có người bà con chạy xe Lm, đang gặp túng bấn, Nga mua xe để giúp đỡ và cũng là cách để dành tiền luôn thể. Xe chạy lộ trình Sài Gòn, Chợ Lớn, cứ bị ảnh sát công lộ ở bùng binh chợ Bến Thành làm khó làm dễ hòai, vì Nga không chịu đút lót. Lần đó xe bị thâu giấy tờ, Nga tức mình, xin gặp ông trưởng ty công lộ, rốt cuộc Nga vẫn thắng cuộc đụng độ. Cũng từ đó xe Lam của Nga không bị làm khó làm dễ nữa.

Nghe chúng tôi hỏi đến chuyện Ánh Nga vì bị ghen tuông mà sinh ra chuyện xô xát, bị thương tích vào năm 1972 này. Ánh Nga mỉm cười:

– Nãy giờ Ánh Nga muốn xin phép anh, cho Nga nằm dựa vào lưng ghế để nói chuyện, vì bác sĩ cấm Nga ngồi lâu. Sợ vô phép nên chưa tiện nói, bây giờ anh hỏi đến chuyện đó, vậy xin cho Nga nằm dựa vào gối nghen.

Chuyện xảy ra cách đây chừng vài tuần, người yêu của Nga vì hiểu lầm, đã xô Nga té lăn từ trên lầu 2 xuống nấc thang cuối dười đất, Nga bị dập một đốt xương sườn gần sống lưng, hiện còn đi bác sĩ, hi vọng là Nga không bị Tật. Cũng vì vậy mà tan vỡ cuộc tình đó…

Khi tiễn chúng tôi ra cửa. Ánh Nga nói thêm:

– Lời giải đóan trong lá số Tử Vi đúng quá làm Nga sợ, vì ở đọan chót, các anh đóan đời Nga danh vọng và tiền bạc tuy có, mà thiếu hạnh phúc gia đình…

– Ánh Nga đừng bi quan, có trời mà cũng có ta, đức năng thắng số. Ăn ở có đức thì gặp chuyện xấu 10 sẽ giảm còn 5 đừng lo…

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

43. Lá số và cuộc đời nữ nghệ sĩ Ánh Nga (KHHB số 7)

0

Lá số và cuộc đời Nữ Nghệ Sĩ Ánh Nga

Sanh năm giáp thân- tháng 12 ngày 15 giờ Sửu
Dương nữ – Thủy Mệnh – Thủy Nhị Cục

Khái luận về Mệnh, Thân
Mệnh đắc cách Khoa, Quyền, Lộc hội Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Thanh Long ngộ Long Trì.
Thân cư Phúc Đức hội đủ cách : Thất Sát triều đẩu, Lộc, Tướng, Ấn, Mã, Khốc, Khách.
Mệnh và Thân đắc cách : Lưỡng Lộc thủ Mệnh, Thân.
Trên đây là những cách Phú và Quý. Hiềm vì mệnh ngộ Liêm, Phá, Hình , Diêu, Tuế, Kiếp , Hổ, Phục tam phương xám nhiễu. Thân ngộ Hình, Tuế, Tang, Điếu và giáp Kình , Đà , làm cho độ số chiết giảm. Khiến nên tuổi này phải sớm ly tổ bôn ba, trải qua nhiều trầm luân tân khổ , mới thoát khỏi sự yểu vong, vài Thất Sát làm Thân chung thị yểu.
Tuổi này nhờ sinh Dương Nữ, Thủy Mệnh, Mệnh lập tại Tí thuộc Dương Thủy hợp với Thiên Tướng cũng Dương Thủy, gặp các bang tinh : Thanh Long, Long Trì, Thiên Diêu, Thiên Y đều thuộc Thủy, Hóa Lộc Thuộc Mộc cư Tí là miếu địa hợp với các bàng tinh thuộc Thủy đã giúp cho đương số thoát khỏi những tai ương nguy khốn thưở thiếu thời.

Cung Phúc Đức và Phụ Mẫu

Đương số thân cư Phúc Đức , gặp Thất Sát tọa thủ, nếu không sớm ly tổ sẽ bị chết non, thành thử phải bôn ba từ năm 15 tuổi, khi tiểu hạn đến Tài Bạch có Tử Vi, Thiên Phủ ngộ Triệt, gặp Thất Sát ở Phúc Đức xung chiếu. Đáng lẽ năm này đương số phải bị tai nạn xe cộ vỡ đầu mà yểu vong, vì hội đủ các sao : Mã, Hư, Hình, Kiếp, Hổ, Phục. Nhưng nhờ tiểu hạn ở Tài Bạch có Triệt Đáo Kim Cung, đương số là Thủy Mệnh, gặp các sao Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Thanh Long, Sinh, Vượng, Long , Phượng hóa giải. Lưu Đại Hạn năm này đi vào Nô Bộc, hội tam đức ( Thiên Đức, Phúc Đức, Nguyệt Đức ) và Thiên Phúc Qúy Nhân. Gốc Đại Hạn có Tả Hữu ngộ Long Đức, Thiên Đồng đẩy đương số thoát khỏi ngịch cảnh của gia đình để ra đi nương nhờ bè bạn. Và từ đó tự lập cuộc đời mình. Vì cung Phụ Mẫu tuy có Cơ, Lương, Nhật, Nguyệt, Khôi , Việt, Thai, Tọa, Xương Khúc, Quan, Phúc quý nhân hội chiếu là song thân tuy khá giả nhưng không hợp được với đương số vì bộ sao Đà La, Hỏa Tinh, Tử, Tử Phù ngộ Đào Hoa, Thiên Không, Hóa Kị, Kiếp Sát, Phá Toái làm cho đương số phải y tổ bôn ba.

Luận về cách của một nghệ sĩ diễn xuất

Cung Quan Lộc có Vũ Khúc, Hóa Khoa hội Tuế, Cái, Diêu, Hổ, Khốc, Quang, Qúy, Thanh Long, Long trì, Hóa Lộc là nổi tiếng về bộ môn diễn xuất. Đương số có cách này rất đa tài nhưng không gặp thời, cho nên việc đóng phim cũng như công việc buôn bán, tiền bạc tụ tán thất thường
Luận về Phu Quân và Tử Tức
Cung Phu Quân có Tham Lang độc thủ là “ đa hư thiếu thực” cung này lại hội chiếu Thân, cư Phúc Đức. Mệnh có Thiên Diêu hội Bạch Hổ, làm cho đương số phải lận đận vì chuyện chồng con suốt cả cuộc đời
Cung Tử Tức có Đào, Thai ngộ Âm Dương, Xương Khúc …( đoạn này chữ bị mất),khi tiểu hạn đến Thiên Di, lúc đương số 17 tuổi vì năm đó Lưu đại hạn đến Điền Trạch gặp Hồng , Đào, Thai, Hỉ là biểu hiện sự sinh nở. Tiểu hạn ở Thiên Di hợp với Phu cung cũng có Tham Lang ngộ Đào, Thai, Không, Kiếp khiến đương số khó tránh một mối tình ngang trái và ôm mối hận lòng. Nhưng năm này quá nhiều hung sát tinh như : Khốc, Hư, Tang, Điếu, Kiếp, Không, Tuần Không khiến nên hữu sinh vô dưỡng hoặc bị xảy thai
Để rồi đến năm 19 tuổi, tiểu hạn vào cung Quan Lộc là năm đương số vướng vào chuyện chồng con, vì đối diện với Phu cung gặp Tham Lang, Thiên Diêu hội Sinh , Vượng, Cái, Hổ, Tướng, Phục, Thai đương số có chồng; dầu là một việc bất đắc dĩ bởi hạn đi vào La Võng. Cũng trong năm này đương số bắt đầu làm quen với Nghệ Thuật Diễn Xuất.
Năm 20 tuổi, tiểu hạn vào Điền Trạch, có Đào, Hồng, Hỉ, Thái Âm, Thiên Phúc, Long Đức, Tả Hữu ngộ Thiên Đồng là biểu hiện sự sinh con. Vì hạn đến cung Mão thuộc Âm, bàng tinh hội chiếu sao Âm nhiều hơn Dương, nên sinh con gái.
Năm đương số 21 tuổi, tiểu hạn vào cung Phúc Đức, có Lộc, Mã đồng cung ngộ Thất Sát. Cung Phu Quân với Thiên Di giao huy hội đủ các sao Khốc, Hư, Tang, Điếu lại them Tuế, Hình ở Tài Bạch khiến cho đương số và chồng bất đồng ý kiến vì vấn đề tiền bạc rồi đi đến chỗ chia ly.
Từ đó đương số sống độc thân với ý hướng phụng sự nghệ thuật. Vì nữ mệnh Thuộc Thủy có Thiên Tướng thụ mệnh, đương số không thích bị ràng buộc bởi một người đàn ông nào . Lại them có Liêm Trinh đồng cung khiến đương số phải nhiều lần đứt nối tình duyên như vậy mới hợp số.

Luận về các Đại và Tiểu Hạn :

khi tiểu hạn đến Phúc Đức năm 1964, đương số 21 tuổi , là hạn nặng nhất, vì có Tuế Phá, Thái Tuế lưu niên giáp Kình Đà ngộ Thái Tuế cố định, Thiên Hình ở Tài Bach xung chiếu, nếu đương số vẫn sống với chồng con, sẽ bị thương tật đến hủy hoại nhan sắc hoặc té ngã dập mặt mũi đến có thẹo : Vì Mệnh có Tướng hợp Đà ( Thiên Tướng ở Tí, Đà La ở Sửu nhị hợp )
Năm 22 tuổi, gốc đại hạn đổi lên Phu Quân có Lộc , Mã , Khoa, Quyền, Tham, Vũ , Quang, Qúy, Tướng , Ấn, Khốc, Khách , Hổ , Cái là một đại hạn đưa đương số lên đài danh vọng, và tiền bạc cũng dồi dào. Gặp những năm tiểu hạn hội đủ Khoa , Quyền, Lộc, Tử, Phủ như năm 1966, đương số 23 tuổi đi vào Mệnh viên, là kẻ đón người đưa có thể sắm xe tậu nhà.
Từ đây trở đi, những năm 24, 26, 27, 28 đương số sẽ gặp may nhiều, rủi ít. Sẽ được xuất ngoại vào những năm 24, 26 và 28 tuổi vì đại hạn Khoa, Quyền, Lộc vào nhưng năm đó tiểu hạn đi vào Tả, Hữu, Xương, Khúc, Đồng, Âm , Khôi, Việt và trong những năm ấy tên tuổi Ánh Nga cũng xuất hiện rạng rỡ trên vòm trời nghệ thuật thứ bảy.
Riêng năm 28 tuổi tuy có tốt mà cũng sẽ gặp rắc rối tới cò bót vì hạn vào tật ách có Đường Phù, Tử, Phủ, Trực Phù ngộ Linh Hỏa, Kình Đà. Tuy nhiên nhờ có Khôi, Việt, Tả, Hữu , Thiên giải cho nên đương số vẫn giành được phần thắng. Năm 1972 ( 29 tuổi) hạn vào Thiên Di có Phá Quân ngộ Tuần hội Liêm, Sát, trùng phùng với đại hạn có Tham Lang ngộ Bạch Hổ và hội đủ các bộ sao Khốc, Hư, Tang, Điếu, Tướng, Phục, Quyền, Diêu sẽ bị tai nạn vì ghen tuông mà sinh ra xô xát gây thương tích.
Tóm lại, số này lận đận từ lúc nhỏ vận tốt và vận xấu chen lẫn nhau suốt cả cuộc đời. Sẽ đau khổ về chuyện chồng con. Nếu có chồng con đầm ấm thì tuổi thọ chiết giảm. Vừa sống cho nghệ thuật vừa buôn bán chứ không chuyên một nghề nào là hợp số. Tại năm 30 tuổi trở đi phải đề phồng thương tật ở mắt và nhất là mặt vì Thái Dương , Hóa Kị ngộ Thiên Không, song Hao. Danh vọng còn lên, mà gian nan và thị phi cũng không ít. Tuy nhiên tuổi này sẽ sống trong tiền bạc nhưng thiếu hạnh phúc gia đình

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

42. Tướng pháp bí truyền: nhận xét và bàn về các kiểu mắt.

0

TƯỚNG PHÁP BÍ TRUYỀN

Nhận xét và bàn về các kiểu mắt.

– ĐÔNG NAM Á 330 Lạc Long Quân ( Hương Lộ 14 ) Phú Thọ Chợ Lớn –

MẮT LÁ RĂM – Xin xem bài

MẮT PHƯỢNG – Xin xem bài

MẮT HỔ- Khuôn mắt nhỏ và tròn, mi cao nhọn, nhìn thẳng phía trước, là người làm lớn về quân sự.

MẮT VOI – mắt hơi dài, lòng đen ít đưa đi đưa lại, trông ôn hậu, là người có thể làm tư pháp thanh liêm, con cái hiển đạt.

MẮT DIỀU HÂU – Dài, đuôi mắt vắt lên, lòng đen nhiều, mắt sâu: người hiền tinh khôn, phát võ cao.

MẮT HẠC: – Mắt rất dài, đuôi mắt vòng xuống, rôi lượn lên tròng đen nhiều, tánh hiền, về già tu hành đắc quả, con cháu sang….

MẮT MI HEO – Mắt dầy, đuôi mắt ngắn, lòng trắng vàng vàng, mắt hay ngước lên: gian tham, phản phúc.

MẮT CÁ – Mắt khổ tròn, mi mỏng, tròng đen ít mà lồi, mắt không hay đưa qua đưa lại, lòng trắng có vằn đỏ hay vàng: yểu vong, nghèo, nhưng không hay gian trá.

MẮT DÊ – Xem trong bài.

Tất cả 12 cung trong nét mặt, mới chỉ là đại cương, và chúng ta thấy rằng Tướng của con người còn có nhiều yếu tố nữa mới có thể quyết định một cách không sai lầm, và vẫn có việc bù trừ thăng giảm.
Cho nên, lại ngay ở nét mặt còn có ngũ quan:

1 – Mắt, là giám sát quan
2 – tai, Thái thính quan
3- Mũi, Thẩm biện quan.
4- My, Bảo thọ quan.
5 – Miệng, Xuất nạp quan.

Mắt cần sáng

Giám sát quan đượm ý nghĩa về việc trông tìm rồi xét định, cho nên mắt cần phải sáng, thành mắt tinh anh, tròng đen đen kịt, tròng trắng trắng như men chén sứ. Người nào mắt tinh, thần sáng thì xét việc mau biết, tính toán không sai lầm, và đường chủ về thọ cách. Tuy nhiên, có cặp mắt sáng, nhưng lại phải có dáng nhìn thẳng thắn, đượm vẻ khoan hòa lễ độ, thì mới được là nét tướng trượng phu quân tử, sự học thông minh, có nhiều tài năng xuất chúng.

Những cách xấu

Mắt to lồi, thần sắc lờ đờ như mắt cá vàng thì yểu triết, tính nết lu lơ; chậm chạp con cái không mấy hiển đạt.

Mắt tròng trắng đục, tròng đen lờ đờ, lại bị nhỏ và ngắn, thì ngu độn.

Mắt có tia máu đỏ, thần mắt ngơ ngác, tính nết ham uống rượu thì nghèo và suy vong.

Mắt lươn

Mắt nhỏ ti hí như mắt lươn, gian dâm, xảo trá. Ca dao có câu:

Những người ti hí mắt lươn
Trai thì trộm cướp gái buôn chồng người.

Mắt lươn là kiểu mắt như thế nào mà lại “ dữ dằn “ đến vậy ?

Thứ mắt lươn, chỗ nơi con ngươi như hơi lồi lên, tròng đen đen như một chấm nhỏ, còn vành con ngươi hơi lờ lờ xanh, hình mắt cũng nhỏ và không dài lắm. Điểm đặc biệt của loại mắt lươn là luôn luôn lim dim, nhưng lúc đối diện đàm thoại với ai, cặp mắt đôi khi mở choàng ra trông lớn quá cỡ. Thêm một đặc điểm của loại mắt lươn nữa, con ngươi ít đưa đi liếc lại.

Người đàn bà có loại mắt lươn lại có thịt nhiều, lưng dài, vai rộng thì cuộc đời thường là chủ lầu xanh. Chồng là khách bốn phương, ít nhất cũng có từ 2 đến 3 đời chồng là cái chắc, con cái hầu như không có, hoặc nếu có, cũng chỉ được 1 hooặc 2 người mà ít khi có tình “ người “ !

Mắt lá dăm

Mắt nhỏ dài, đuôi mắt vút nhọn hơi chếch lên, tức là mắt lá dăm.

Ca dao có câu:

Người nào con mắt lá dăm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền

Điểm đặc biệt của kiểu mắt này là nơi đầu mắt ( phần giáp mũi ) có thu nhọn tựa như cuống lá, hình mắt dài. Phần đuôi mắt nhọn vút tựa đuôi lá rau răm, vì thế nên nhà tướng pháp theo hình thể của nó ( lá răm ) rồi đặt cho kiểu mắt ấy, mắt lá răm thì khôn ngoan, tài đảm. Nếu thần mắt dữ, thì con cái hơi kém, nếu thần mắt hiền sáng sủa, thì con cái khôn ngoan hiển đạt.

Ngày xưa, một trăm quan tiền rất lớn, có thể làm được căn nhà đáng triệu bây giờ chỉ có cặp mắt lá răm đã có một giá trị quý báu đến vậy. Đủ biết loại mắt này có một tầm hệ trọng vô cùng,

Nhưng kiểu mắt lá răm làm đẹp cho nữ giới.
Nam giới có cặp mắt lá răm thì ủy mỵ, hay tìm các nơi cầm ca và hiếu sắc.

Mắt phượng

Mắt phượng, ở nước Việt Nam tôi mới được coi có đôi mắt Nam Phương Hoàng Hậu là người có cặp mắt Phượng Nhỡn. Sự giầu sang và các đức tính của loại mắt này, điển hình lấy ở cuộc đời Nam Phương Hoàng Hậu. Nam Phương Hoang Hậu, không hay du ngoạn không ưa ra mắt công chúng, lại còn vì Cựu Hoàng Bảo Đại vốn cũng không ưng cảnh “ Đi đâu có anh có tôi. Người ta mới biết là đôi vợ chồng “. Cho nên không hay đi đôi và mọi tình tiết về đức hạnh, không mấy ai hiểu rõ.

Ở đây, cần giải về đức hạnh của cặp mắt Phượng. Người Phượng nhỡn, ít nói, đi đứng thong thả và còn có thể liệt vào “ loại lười đi lại xa “. Đối với tình chăn gối loại Phượng nhỡn cũng không đậm đà cuồng loạn, và còn coi vấn đề sinh lý chỉ là một công việc làm để có con mai hậu mà thôi. Nam Phương Hoàng Hậu kém thọ; có lẽ vì cổ nhỏ quá, mặc dầu cổ cao có ba ngấn.

Phượng nhỡn có ở Nam tướng, là người cương nghị quả cảm có can trường. Tài kiêm văn võ. Võ ở đây có một ý nghĩa là ngồi trong trướng mà tài quyết định chiến trường ngoài ngàn dặm.

Nếu mắt phượng, được thêm mày tầm ( sẽ giảng sau về kiểu my ) thì bản tính kiêu kỳ, khó tính, chung thủy, hơi tự đắc và đôi khi can đản xông pha trận mạc ( tướng của Quan Vân Trường ) .

Tuy còn có rất nhiều loại mắt quý khác: Mắt cọp mắt to và ngắn) mắt trâu, mắt ngựa, mắt rồng, mắt sư tử v.v…

CÁC LOẠI MẮT THỌ YỂU

MẮT SÂU – Đàn ông lẫn đàn bà mắt sâu đều thọ, duy về phần đàn bà mắt sâu thì con cái ít, còn một loại mắt sâu nhưng con ngươi tròng đen nhỏ như hột đậu thì kém thọ, ngoài 30 tuổi dễ bị bịnh, vì thế nên mưu định nhân duyên sớm, may ra vượt được cảnh ít con.

– Mắt bên to bên nhỏ, hoặc bên cao bên thấp, cuộc đời kém về tiền bạc.

– Mắt lồi như mắt ốc nhồi, kém thọ.

– Mắt sáng long lanh như có nước, trai gái đều kém đức kiên tâm, tình dục lăng nhăng.

– Mắt trắng dã con ngươi đưa đẩy liếc trộm, gian dâm, nên coi chừng khi có vợ hay có chồng mà còn gia du cùng người khác.

– Mắt thần dữ dằn, dễ chết về tai nạn bất ngờ.

– Mắt trông ai hơi him nhỏ lại tiểu nhân mà còn gian manh phản phúc.

– Mắt trợn trừng, nóng nảy kiêu ngạo, ít cảm tình mà còn hơi tham lam.

– Mắt nhìn xuống, hoặc mắt nhìn đi nơi khác, gian dối, tham lam hơi ngu muội ( hay vì quá tham nên thành ngu )

– Mắt con ngươi hơi đỏ, nhìn vào người đối diện trừng trừng, hoặc ngoảnh lại mà con ngươi trừng trừng, là loại mắt rắn. Điểm đặc biệt của loại mắt rắn, mu mắt trên hơi hùm hụp, như người bị mù mắt. Nếu trán cao, rộng, xương quai hàm rộng, cằm hơi nhọn, thì sự nghiệp của họ khá cao, nhưng có tính hay đá bạn bè để lấy bước tiến thân, một loại mắt cực nguy hại.

– Mắt lúc nào cũng như khóc ( nước mắt đọng bao quanh mắt, và nơi đầu mắt nước tụ nhiều ) Trai hay gái có loại mắt này khó mấy ai không khổ về tình duyên.

– Mắt có vết thẹo ( ve ) là người kém lòng từ thiện và còn tham bẩn hiểm ác.

Tây phương nhận con mắt là cửa sổ cuộc đời. Đông phương lấy kinh nghiệm ở tướng pháp, còn ấn định rằng tất cả mọi ẩn tàng trong lòng con người đều phát hiện ra đôi mắt. Mỗi khi người ta dự định làm một việc gì dù việc lành hay việc dữ, sự biểu lộ đó xuất phát ra và chỉ trong giây khắc, bằng một cách nhìn khác thường.
Bởi cặp mắt có chứa đựng một tính chất quan trọng như vậy. Cho nên các cụ xưa đã ví

Con mắt là mặt đồng cân.

Tất cả các loại mắt trên đây đều có thể chính xác rất nhiều. Sự học tướng và sự quan sát không khó khăn mấy, nếu các bạn chuyên tâm ắt thông hiểu mau lẹ.

Về sự học coi tướng, xưa kia các cụ nhà ta quy định bằng hai câu ca dao:

Người khôn con mắt đen sì
Người dại con mắt nửa chì nửa thau

Mắt người dại, như màu chì và thau pha lẫn, nó nhờ nhờ màu xanh như gio, đượm màu vàng nhợt.

Còn mắt người khôn thì tròng đen nhiều: tròng trắng trắng tinh, trông vào cặp mắt này hầu như không thấy tròng trắng hoặc tròng trắng chỉ có độ ba phần tư ( chắc tác giả nhầm )

Các loại mắt dâm đãng và bạc tình.

Người bị cặp mắt dâm đãng và bạc tình có loại mắt dê.

Kiểu mắt dê này hơi tròn, mắt ngắn, đuôi mắt không nhọn lắm, mu mắt trên lợp như hơi lồi. Con ngươi đượm màu vàng nhạt, một kiểu mắt bất thành nhân. Nghĩa là công danh không có phận mà chỉ ở vào hàng tôi tớ ( cần vụ )

Đuôi mắt lung tung

Mắt gà mắt heo ( lợn ) cũng đều thuộc loại mắt dữ dằn tính nết không mấy ôn hậu.

41. 1001 chuyện tử vi: Đào hoa ngộ sao thai … có dắt trai vào nhà;… (KHHB số16)

0

1001 CHUYỆN TỬ VI


ĐÀO HOA NGỘ SAO THAI … CÓ DẮT TRAI VÀO NHÀ
MẠNG VÔ CHÍNH DIỆU TU HAY KHÔNG TU?
NGỒI TRÊN ĐỐNG BẠC MÀ VẪN CHẾT ĐÓI NHƯ THƯỜNG
ÁC TINH ĐÁNG SỢ NHƯNG CŨNG ĐÁNG QUÝ

HÒANG HẠC

LTS Dưới đây là mộ số câu chuyện ngắn ngắn của cụ Hòang Hạc về Tử Vi, nhưng chuyện lý thú, lạ và có ích. Cụ Hòang Hạc vừa làm một số nhận xét, vừa kể những câu chyện có thật về Tử Vi. Thời gian của các câu chuyện được xác định, có thể là khi cụ Hòang Hạc còn trẻ, có thể là mới xảy ra gần đây. Nhưng chắc chắn bạn đọc cũng nghĩ rằng thời gian của các việc không cần thiết lắm.

Nghề coi số bạc bẽo

Xem Tử Vi, cũng còn có nhiều tay giải, trong đó có một số là những nhà học giả. Tôi biết nhiều nhà học giả cừ khôi rất sành Tử Vi, nhưng các ông này dấu tài thật kỹ. Chỉ khi nào họ biết mình đứng đắn, họ mới nói chuyện với mình về Tử Vi thôi. Các ông này không thích cho ai biết tài, lại cũng không thích coi cho ai. Họ nghiên cứu và vui trong công việc nghiên cứu của họ, coi cho con cái, bạn bè chí thân mà thôi, vì coi số là một cái việc làm … bạc bão lắm.

Nói tốt thì người ta thích, nhưng không tốt mà bảo tốt sao được. Lợi lộc gì mà đi nói láo! Nhưng nói thẳng thì đâu nỡ.

Sao Thai mà ngộ Đào Hoa

Một người kia có người giới thiệu, đến nhà một người bạn tôi, mượn coi số Tử Vi đã làm sẵn. Bạn tôi coi một hồi, trao tôi xem và nói.

– Anh đóan dùm tôi đi! Tôi coi không nổi.

Tôi xem qua chẳng thấy gì là khó. Mới hỏ:

– Khó khổ nào?
– Ậy, cứ coi đi, rồi tự tiện mà giải đóan dùm.

Tôi bảo:

– Thì anh đóan đi. Bà chị đây cậy anh mà. Tôi thì đóan ẩu, vì học lăng nhăng.

Bạn tôi nhấp nháy tôi, bảo:

– Thôi anh cứ đóan đi

Tôi hiểu ý, bèn chỉ vào sao Thai và Đào Hoa ở tại mạng, cười hỏi:

– Đóan sao cha nội?
– Thì cứ nói? Có sao? (nhưng hỏi vậy mà anh ta nháy mắt láy tôi một cái).

Tôi ngụ ý bèn nói:

– Có cái này không mấy tốt, bà chị tha lỗi thì mới dám nói:
– Dạ, không sao cả ạ,
– Bà chị coi chừng, đàn ông nó thấy bà chị nó hay để ý lắm. Phải coi chừng vì số đào hoa mà.
– Nghĩa là gì sao gọi là số đào hoa?
– Nghĩa là ai thấy cũng thương. Bời vậy mà khổ, và coi chừng hay mang tiếng. Người ta thấy bà chị vui vẻ, tưởng bà chị không đứng đắn nên hay true ghẹo và nói xấu.
– Đúng quá í, họ nói xấu tôi, tôi cứ bị mang tiếng mãi. Chứ tôi đứng đán lắm.
– Nhưng bà chị nhẹ dạ lắm. Hay tin là vì thật thà, tưởng ai cũng thật như mình, mà thiên hạ thì quỷ quyệt lắm

Tùy cái “Đào Hoa mà ngộ sao Thai”

Bà ấy nghe liền phân bua với bạn tôi:

– Ông này là ai mà đóan hay hết sức. Đúng phong phóc.

Rồi tới chừng bà ra về, dĩ nhiên bà hết sức cảm ơn.

Bạn tôi nói

– Tôi ghét không them nói. Muốn mắng con mẹ vài tiếng cho bỏ ghét. Ngại mết lòng cũng chỗ quen lớn.

Tôi cãi

– Anh nói sai, bà ấy có gì mà đáng ghét?
– Con mẹ ấy dâm dật số dách. Còn gì nữa! Đào Hoa mà ngộ sao Thai, chồng vừa đi khỏi rước trai vô nhà!
– Không anh quên rằng bà này đâu đến nỗi. Là vì còn có sao Lộc Tồn thủ mạng, thì đã biến thể sao Đào Hoa thành vị sao đa cảm, đa tình thôi, chứ đâu phải còn dâm đãng? Anh lầm rồi.

Sao Lộc Tồn trong Tử Vi lạ lung lắm, nó có 2 tánh chất: Phúc tinh hay Lộc tinh. Nó lại cũng có công dụng là sao thanh cao gọi là “chân nhân chi tú” và nó biến tất cả những tính cách dâm đãng của các sao Đào Hoa và Hồng Loan. Tôi từng xem Tử Vi cho một người đàn bà đứng đắn lắm (một vị nữ giáo sư) vậy mà lá số tử vi có Đào Hoa và sao Thai thủ mạng lại có thêm Lộc Tồn

Anh bạn bảo:
– Lạ nhỉ để tôi kiếm lại

Mệnh Vô chính diệu: tại sao không tu?

Có nhiều người quen thân hỏi tôi về việc cãi số. Tôi đã nói về vụ đó nhiều, nhưng vẫn chưa hết hẳn. Đúng thật là cái sự xem lá số để cãi số quý hơn là để cam phận một cách thụ động để cần phú quý mà thôi.

Việc ấy rất đúng. Và về việc này, tôi có sẵn một tập hồ sơ về các vị tu sĩ. Các tu sĩ là nhhững con người dám đổi số, tin rằng “Có Trời mà cũng có Ta”, bằng không họ không bao giờ dám nghĩ đến việc tu. Vì “tu’ là gì, nếu không phải là “sửa đổi”, bồi cái hay, bỏ cái dở.

Có bạn yêu cầu tôi viết thường thường nhhững câu chuyện vui vui hơn là đi sâu các vấn đề Tử Vi mà chỉ có những bạn hiểu sâu về Tử Vi thì mới hiểu nổi. tôi cũng thông cảm như thế, nhưng để dung hòa câu chuyện vừa vui mà không kém phần nghiêm trang hơn, tôi xin kể một vị tu sĩ leo rào.

Có một tu sĩ hỏi tôi:

– Từ nhỏ đến lớn tôi thích đạo đức, nhưng mạng Vô Chính Diệu có đi tu được không?

Mạng Vô Chính Diệu tức là cung mạng không có chính tinh. Khoa đóan Tử Vi thông thường cho rằng mạng Vô chính diệu là con người hay thay đổi: nếu thêm Tam Không, Nhị Không (tức các sao Tuần Không, Địa Không, Triệt Không) thì phú quý khả kỳ (phú quý một thời mà thôi)

Nếu không có Nhị Không, Tam Không, cũng phải có nhiều cặp sao tốt.

Tôi nói:

– Mạng Vô chính diệu sao lại không tu? Dù là ông bạn đắc Nhị Không hay Tam Không, rồi thì phú quý, công danh chỉ nhhư phù vân. Đợi đến kinh nghiệm bản thân thì không còn thời giờ. Nhưng có điều này, Mạng ngộ Kình Dương lạc hãm, e rằng ông bạn cứng đầu quá. Mà người có mạng Vô chính diệu, muốn đi tu hay làm gì cho thành công, phải có người dẫn đạo, anh cần quy y và phải tìm ông thầy nào thật phúc hậu dìu dắt mới đặng. Đó là việc khó cho anh, vì anh có tánh tự phụ thái quá.
– Làm sao tìm thầy?
– Cái đó khó. Cần phải tìm thầy, nhưng rồi phải đi xa thầy đó.
– Tôi không hiểu

Cần chú ý cái sự phú quý khả kỳ

Tôi mới nói:

– Số mạng Vô chính diệu thì phải làm con nuôi, dù là con nuôi tinh thần, nhưng rồi ông bạn phải tự tìm học Đạo mà không cần ai nữa, vì có sao Kình. Sao Kình ở đây rất hợp cho người đi tu mà không bị chướng ngại. Khó là chỗ đó. Xưa nay trong tay tôi đã nhận được bao nhiêu lá số Vô chính diệu mà đắc Nhị Không hay Tam Không. Họ khóai công danh lắm. Mà đã có công danh là có suy sụp. Tôi đã thấy người bạn là Tổng Trưởng, nhưng rồi hiện giờ bị chìm sâu hết sức, bởi cái hậu quả của con diều bay cao, thì khi bị đứt dây, nó rơi xuống những vũng bùn lầy.

Tôi lại tiếp:

– Ông đó từ chỗ thật cao rơi xuống, thân danh bị hoen ố cả. Nên bạn nào mà có thấy lá số Vô chính diệu, nên xa lo tránh cái cảnh “phú quý khả kỳ” của mình đi. Những người khôn ngoan bao giờ cũng nên tránh cái thứ phú quý tạm thời ấy… Không một ai khỏi lụy một đời, khi cái phú quý tạm thời ấy đến chỗ mình.

Khổ một nỗi phú quý đến với mấy người có cái số này, lại thường không phải vì tài hoa quán thế, mà là vì đột ngột bất ngờ mà đến, cho nên khó lòng từ chối.

Muốn tránh cái cảnh ấy, nên thụ lãnh cái chức phó, nghĩa là làm phụ tá mà thôi. Người ta đẩy mình lên ngôi cao chót vót chức vị nguyên thủ quốc gia, thì nên từ chối và nếu có khóai phú quý, hãy tạm làm viên “phó tướng” mãn đời thì sẽ bình yên.

Tôi có người bạn chí thân có cái số ấy. Suốt đời ông chỉ làm phó mà thôi. Một khi được quan trên yêu mến cất lên chức Trưởng ty… thì 2 tháng sau liền mất chức. Mà việc như thế trong đời ông đã xảy ra 5, 7 lần như vậy. Tôi đã có khuyên, nhưng ông ta không nghe. Nhưng cứ ông làm phó là ông ta ngồi hòai, ngồi thật lâu.

Hạn chết đói

Khi lớn tuổi, tôi có gặp một ông Song Hao đắc địa, nhưng không có cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, nhưng ông đó lại được cách Song Lộc. Một ông thầy bảo Song Lộc triều viên là giàu lắm. Nhưng ông đó đến 50 tuổi chả thấy gì cả.

Tôi đã nói với ông bạn đó là Đại Hao và Tiểu Hao ở Tí – Ngọ; Mão – Dậu là đác địa, nhưng gặp Song Lộc là xấu. Tuy vậy mà không nghèo khổ rách rưới đâu mà lo. Là vì Song Hao ở Mão Dậu thì của có bao nhiêu rồi cũng sẽ hết, mà là hết cái này thì lại sẽ có của khác vào. Ngòai ra người có Song Hao đắc địa là người xem tiền bạc như không có, tức là kẻ trọng nghĩa khinh tài, thích giúp đỡ bạn bè.
Thường thì Lộc rất ghét Hao. Hạn của Hao gặp Lộc không ăn thua gì. Sợ nhất khỏang về già, vào hạn Thiên Thương ngộ Hao. Gặp hạn đó thì phải có lúc đói ngang xương. Nếu may sao đó lại đóng vào cung Giải Ách, sợ đau và chết vì không ăn được, chứ không phải nghèo đến nỗi không có cơm ăn.

Một câu chuyện ngồi trên đống bạc mà chết đói

Tôi còn nhớ có một Ông Cậu có cái số này.

Đã lâu rồi, hồi tôi còn trẻ tuổi. Cậu tôi là tay cự phú. Của cải ông suốt đời làm sao ăn cho hết. Một khi kia, tôi đã nói thẳng sự thật về lá số của ông, thì ông cười to lên.

– Thằng này láo. Tao mà chết đói. Năm nay tao 55 tuổi rồi, của cải điền sản của tao ăn 3 đời cũng không hết.

Tất cả nhhững người xung quanh đều cho rằng ông nói đúng. Mợ tôi nói:

– Không phải nói phách, giấy bạc của tao đem ra chợ này, đốt 3 ngày cũng chưa tắt. Mày coi sai rồi.

Có một ông thầy đồ trong làng cũng phụ họa:

– Song Lộc triều viên mà. Cậu coi không đến chỗ tinh vi. Cần học kỹ lại.

Nhưng tôi quả quyết:

– Để xem! Tôi không nói cậu chết đói vì thiếu ăn mà chết đói vì không ăn được.
– Sao vậy?
– Không biết. Mà cũng gần tới rồi, số cậu không hơn 60 tuổi – cỡ 58 lo lần là vừa.

Cậu tôi đổi sắc. Là vì biết tôi miệng hay ăn mắm ăn muối hay nói ẩu mà nói thật, nói đúng. Mẹ tôi ngồi đó rầy tôi:

– Con ăn nói vô lễ, thôi nín đi.

Về sau mẹ tôi còn rầy:

– Dù có thật như vậy, mày cũng đừng nói. Huống chi việc u u minh minh, con đừng quả quyết. Hãy bỏ tánh hiếu thắng và tự phụ của mày đi.

Tôi nói:

– Con quả quyết là cậu sắp chết vì hạn đáo Thiên Thương lại gặp cả Song Hao. Để mẹ xem. Nhưng có điều không rõ, là lý do nào lại có thể đói mà chết.

Vậy mà sau quả thật Cậu tôi bị bao tử ung thư vào nhà thương, họ không cho ăn, chỉ tiêm thuốc bổ. Cậu tôi lúc gần chết cứ kêu: “Tao đói quá, cho tao a7n chút cũng được, chích đau quá”

Nói chuyện ác tinh

Có một ông bạn chỉ thắc mắc lo sợ các ác tinh. Có một lần tôi mới bảo:

– Đừng nên sợ ác tinh lắm, không có chúng thì làm ăn gì nổi Bầy ác tinh. Nếu hợp cách thì tốt lắm. Có bậc phi thường đều là được hung tinh (ác tinh) đắc cách cả.

Người bạn đó có hỏi thêm, và tôi đã trả lời:

– Nếu cả 6 cặp ác tinh đều đác địa, thì nên biết lá số đó là của người làm nên việc phi thường. Mạng, Thân tuy không gặp, nhưng gặp hạn Tiểu Hao hay Đại Hao gì cũng vậy, sẽ hay lắm. Ta không nghe nói “hung tinh đác địa, phát giả như lôi” đấy hay sao?

Tôi đã nêu lên một vài ví dụ, xin kể ra đây để cống hiến quý bạn:

– Sao Đà La xấu lắm, nhưng nếu nó ở cung Phúc Đức mà Phúc Đức lại ở cung Thân, và ở đây không có chính tinh, thì ta gọi đó là cách Đà La độc thủ, tức là đời mình sẽ lên cao bất thường, họanh phát kinh khủng.

– Sao Cô Thần – Quả Tú xấu lắm, nhưng ở cung Điền hay cung Tài, thì là sao giữ bền tiền của hay đáo để

– Sao Tang Môn xấu, nhưng nó là Thiên Môn, (cửa trời) ở vào cung Điền thì nhà cao cửa rộng. Nếu lại gặp cả sao Cự Môn (tức là cách Tang – Cự) cùng một chỗ thì gọi là Lương Môn, tức là ở lâu đài như dinh Gia Long hay dinh Độc Lập, nếu cung Quan tốt, còn không thì cũng ở lâu đài nguy nga.

– Sao Thái Tuế rất xấu, vậy mà gặp Văn Xương – Văn Khúc, hay Khoa Quyền thì văn chương lừng lẫy ấy, gọi là cái thế văn chương.

– Ai lại chả sợ Thiên Không, nhưng nếu Thiên Không mà gặp Hồng Loan thì mưu trí ai bằng.

Không có gì là thật xấu hay thật tốt, miễn là đúng vị, đúng cách thì hay.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

31. 1001 chuyện tử vi thân cư – thê: Không lấy vợ thế mà cung vẫn làm mọi cho đàn bà (KHHB số 9)

0

1001 chuyện Tử vi
THÂN CƯ – THÊ: KHÔNG LẤY VỢ THẾ MÀ CUNG VẪN LÀM MỌI CHO ĐÀN BÀ


– Hoàng Hạc _-

• Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu: Những sao uy quyền đều nằm trong tay cung thê.
• Một chuyện cải số bằng cách trá hình.

Cái vụ “ Thân cư Thê “ tự nó không làm mệt cho đương sự, vì cái thân dựa vào vợ hay là phải rắc rối chịu lụy vợ, không phải là một cái mệt đối với những thường nhân. Nhưng nó sẽ mệt đối với những người làm lớn, những nhà cách mạng.
“ Thân cư Thê “ – không có vợ, cũng chịu ảnh hưởng.
Có một sự trùng hợp kỳ dị, ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, có những ngôi sao uy quyền đều nằm ở cung … đàn bà.

Các vụ “ thân cư thê “ làm mọi gián tiếp cho đàn bà.

Một bạn hỏi tôi:

– Số tôi lận đận về đường vợ con, vậy chớ tôi ở vậy luôn không cưới vợ nữa như vậy có được không ?

Tôi nghĩ rằng cũng có thể tránh được nhưng mà khó. Tôi xin kể câu chuyện một anh bạn có số Tử Vi không xấu không tốt nhưng Thân lại đóng ở Thê. Cái đó mới nguy. Anh ấy khi bàn đến lá số của mình, anh ta đâm ra chán quá nhất định là anh ta không cưới vợ trong khi ấy, anh ta đang hứa hôn với một người. Nhưng anh ta hỏi tôi:

– Tôi muốn sống độc thân có được không ?

Tôi nói:

– Sao không được ? Anh có chính tinh đắc địa, lại không có dâm tinh thi đâu có khó. Và dù có dâm tinh cũng không sao. Nhưng tôi e rồi anh cũng sẽ “ làm mọi “ cho đàn bà . Rất tiếc, nếu “ làm mọi” cho đáng, chả nói chi, e rằng lại “ làm mọi” một cách gián tiếp thì mệt quá .

Không lấy vợ cũng cứ làm mọi cho đàn bà

Anh ta hỏi:

– Nghĩa là thế nào ?

– Nghĩa là thế nào anh cũng dính. Khó chạy. Tuy nhiên, có “ tận nhân lực “ mới “ tri thiên mạng “ . Anh thử xem, nhưng phải cương quyết là nếu gặp đàn bà mà cưới về làm vợ, thì có nhiều sự bất tiện cho sự nghiệp của anh.

Nghe lời tôi, anh không lấy vợ. Nhưng một hôm, anh bảo:

– Khổ quá, “tránh cha mồ mắc cha mả “ “ tránh thầy cả gặp thầy con” . Không thèm cưới vợ bây giờ lại kẹt con em gái tôi, chồng nó chết bất ngờ, lại có thêm một bầy con, tôi đã nhận mấy đứa nhỏ và kêu mẹ nó về…. nuôi cả gia đình. Chứ làm sao bây giờ ! Khổ quá ! Thà là tôi có vợ đi thì dù chúng nó có muốn ở với tôi, tôi bao quanh chúng nó, cũng khổ như là vợ con mình.

Tôi bảo:

– Không sao ! Đàn bà mà Thân đóng cung Phu là ( nhờ chồng ) chứ đàn ông mà Thân đóng cung Thê, dở lắm. Nhất là cung Thê xấu nữa.

Anh nuôi bầy cháu và em gái anh, chỉ cực có cái tiền, chứ không bị hệ lụy ở cái tình. Gặp một chị vợ đòi hỏi nhiều hơn cái đồng tiền của anh …. Vậy thì thà như vậy, đỡ khổ.

Anh ấy đồng ý, nhưng lại nói,

– Thì té ra như lời anh đoán suốt đời làm mọi đàn bà.

– Anh có thương cô em đó không ?

– Thương lắm chứ sao không ?
Chỉ có hai anh em từ nhỏ không rời. Đến khi lớn lên nó lấy chồng, tôi buồn ghê lắm, nhưng dầu sao cũng phải xa nhau.

Tình máu mủ đậm đà bởi cha mẹ đều mất cả. Trên đời trơ trọi có hai anh em. Mà nghĩ kỹ, nếu tôi không nghe lời anh, thì nay khó xử. Tôi không thể bỏ em tôi và bầy cháu. Nếu tôi phải bỏ một trong hai người nhứt định tôi giữ em tôi. Tội nghiệp, hiện tôi là lẽ sống của cả gia đình nó.

Câu chuyện như thế, hiện nay, tuy anh không lập gia đình, nhưng bầy cháu đều xem anh như người cha và anh đã yêu- thương lo – lắng không khác con đẻ. Một nhà đầm ấm….
Người em gái lo lắng cả vấn đề săn sóc anh còn hơn một người vợ lo cho chồng. Té ra đổi cảnh, tuy khác nhau mà lại y số mạng.

Cải số…. bằng cách trá hình

Về vấn đề cải số, tôi được một nhà lý- số có tài cho biết, việc gì chứ cải số là được ngay. Mình trá hình…. Như xưa kia Khổng Minh cầu thọ bằng cách làm “ đám ma “ cho mình…

Tôi nói:

– Dùng “ ma thuật “ à !
– Không đâu. Nói phải thì không phải, nhưng không hẳn là vô lý. Là như thế này!

Bạn tôi thuật:

– Có một người bạn quen thân, theo lá số thì năm… ấy phải có việc tục huyền. Hỏi tôi phải làm sao ? Tôi bảo: nếu dám làm mà đừng sợ dư luận, thì tôi thử chỉ cho.

– Rồi ông chỉ cách nào ?

– Tôi bảo đầu năm ấy… hai ông bà xin ( ly dị ) đi. Đăng báo hẳn hoi và hai ông bà sau thời gian xa nhau, bà về quê ở một thời gian. Bà không chịu. Là vì bà ta nghi tôi sắp đặt để cho ông ấy cưới vợ khác . bà nói: “ Chết thì chết, chứ xa nhau làm việc ly dị công khai nhục nhã lắm. Thiên hạ dị – nghị lắm. Tôi không chịu. tôi bèn cắt nghĩa : mình làm giả, chứ đâu phải làm thiệt. bà cũng không chịu bà vẫn nghi ngờ đây là một âm mưu gì đây.

Tôi khuyên ông chồng:

– Anh có đồng ý với tôi chăng ? Và anh tin tôi không ?

– Tôi tin mới hỏi. Tôi biết anh đã tiên đoán được nhiều việc không sai, tôi lo lắm ! Tôi cũng đã hỏi nhiều người khác rất thông Tử Vi thì họ cũng quyết đoán như anh.

Xin anh bày vẽ cho tôi cách khác, vì vợ tôi khó tánh lắm và nhất là ghen đáo – để.

Tôi bèn nghĩ cách khác:

– Thì anh xin đổi đi nơi khác thật xa, và bảo rằng chừng nào lo xong việc nhà cửa sẽ đem gia đình về đó.

Ông bạn tôi nghe nói, liền nói:

– Được. Trong sở người ta cũng định gởi tôi đi ngoại quốc làm việc ở một tòa lãnh sự. Nhưng tôi ngại xa xôi con toi đang đi học tại đây.

Tôi nói:

– Vậy, anh cứ nhận đi, rồi viện lẽ con đang đi học, anh sẽ lo liệu sau. Miễn là anh đi ra xa vắng gia đình trong khoảng năm nay để tránh tiểu hạn là được. Phải có đau khổ vì một cuộc sinh ly giống như tử biệt thì mới mong thoát ! Nhất là anh cũng vừa để cho mất một số tiền.

– Tại sao vậy ?

– Vì tài hào cũng là hào vợ nữa, tán tài để cứu mạng vợ anh.

Bạn tôi nghe theo tôi. Nhưng lại hỏi ý kiến mấy thằng bạn khác giỏi về Tử Vi, chúng nó bảo: không sao cứu vãn. Thế nào cũng phải ly biệt vĩnh viễn.

Bạn tôi tâm sự tôi bảo:

– Ăn thua anh, nếu anh tin tôi thì tin không tin không còn là lỗi tôi nữa. Tôi không còn trách nhiệm.

Anh bạn tôi về nghĩ sao không rõ thì tháng sau có sự vụ lệnh đổi anh đi… như anh đã nói. Anh cho tôi hay, tôi nói:

– Còn anh phải “ làm mất “ một số tiền.

– Rồi ! Tôi đã “ phóng thích “ cho một người bạn thiếu tôi gần triệu bạc bằng cách xé giấy nợ nhưng tôi không cho vợ tôi biết mà bạn tôi thì cám ơn tôi lắm !

– Đáng lẽ anh phải cám ơn người bạn đó.

– Đúng vậy nhưng mà anh bạn tôi chẳng hiểu lý do gì tôi lại quá tốt đến thế.

Vậy mà qua tháng 8 vợ anh ấy đau nặng, đánh điện gọi anh về, thì lúc anh đi vắng phải công cán một nơi khác. Đến khi về thì hay là vợ anh đã được cứu chữa. Chỉ trong khoảnh khắc là thấy chết.

Bạn tôi kết luận:

– Tránh số là vậy. Nhưng rồi anh ấy cũng vẫn điêu linh, vì đau khổ lo nghĩ như người đã chết vợ và người vợ anh cũng ở trong tình trạng có chồng mà như mất chồng.

Sau năm ấy anh được hồi hương sau một năm rưỡi xa nhau và theo lời khuyên lén của tôi, anh làm một cái lễ để “ cưới lại vợ anh “ lúc này chị vợ anh không còn dám cãi tôi nữa, và để cho chồng làm gì thì làm.

Cải cái số “ Thân cư Thê “

Hôm nay xin tiếp câu chuyện đổi mạng đổi số mà tôi vừa thuật cho các bạn tức là chuyện một người biết có số mình có Thân đeo cung Thê muốn tìm con đường tự do ( không cưới vợ ) để dễ dàng và thênh thang trên con đường làm chính trị của mình.

Chúng tôi đồng ý với anh bạn ấy vì nếu là một nhà cách mạng thật sự cách mạng vì dân vì nước, không nên sớm xây dựng gia đình như Aristide Briond đã nói: Một là khỏi bị ràng buộc trong tình thương mà đâm ra rụt rè e ngại, hai là đừng lôi cuốn vợ con vào cảnh bất thường của con nhà cách mạng. Anh bạn tôi chưa định hy sinh gia đình để lấy gia đình của dân tộc làm gia đình mình.

Anh có lý phần nào nhưng rồi “ Thân đeo cung Thê “ rốt cuộc lại cũng là chạy khỏi cảnh đeo theo vì phải gánh vác một gia đình khác. Đó là “ chạy cha mồ mắc cha mả, chạy thầy cả mắc thầy con “

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

40. Lá số danh nhân: Nhà văn kinh doanh Nguyễn Văn Vĩnh (KHHB số 74l2)

0

Dưới thời Pháp thuộc, ở mỗi miền Việt Nam, Trung cũng như Nam hay Bắc, đã khai sanh ra những nhân vật có thể nói là nhân tài thường đi có cặp.

Khắp nước người dân tôn kính cụ Phan Bội Châu bao nhiêu thì luôn luôn không sao quên được lòng ngưỡng vọng cụ Phan Chu Trinh, ở miền Nam một khi đã nghĩ đến ông Bùi Quang Chiêu là liên tưởng ngay đến ông Nguyễn Phan Long, thì ở miền Bắc cũng vậy đã nói đến ông Phạm Quỳnh là nhớ ngay đến ông Nguyễn Văn Vĩnh.

Trước đây tôi đã có dịp trình bày hai cụ Phan và ông Quỳnh, nay tôi xin kể đến ông Vĩnh (xin quý vị nào có lá số ông Bùi Quang Chiêu hay ông Nguyễn An Ninh xin cho biết, tôi xin thành thật cảm ơn).

Ông Nguyễn Văn Vĩnh tuổi Nhâm Ngọ (1882) sanh ngày 30 tháng 4 giờ Dậu, nghĩa là ông hơn ông Quỳnh 10 tuổi.

Tuổi Nhâm Ngọ Mệnh vô chính diệu ở cung Thân. Thân đắc Đồng lương ở Dần. Ở đây có thể nói hai vị trí đi gióng đôi liên hệ mật thiết với nhau, mặc dầu Tang môn vẫn là thế nghịch của Bạch hổ và Thân cung vẫn ở thế đàn áp Dần cung.

Người này sanh ra đời ở hoàn cảnh cứ canh cánh lo âu tính toán (Mệnh) mà khi đã tính toán rồi thực hành lao đầu làm việc (Thân).

Mệnh vô chính diệu thấy Tang môn nằm chình ình (Mộc) nghiễm nhiên đóng vai chủ động cho đương số (Mộc mệnh). Người ta thường nói gặp Tang môn, Bạch hổ đắc dịa ở Mão Dậu, Dần Thân, cũng nên phân tách cho rõ hơn:
Bạch Hổ (Kim) đắc địa ở Thân Dậu (Kim) còn Tang Môn (Mộc) đắc địa ở Dần Mão (Mộc) thì Tang môn ở đây là trong nghịch cảnh hội với Đại hao, Địa Kiếp (Hỏa) một bầy hung hãn dẫu là hai sao này đều đắc địa phải kể là đắc Tuần ngự chế. Nếu là Triệt thì hết thảy từ Mã, Trường sinh, Hao, Kiếp, Tang môn gì đều tan nát hết. Với cái Mệnh vô chính diệu đắc Tuần này (tạm kể vì chỉ có Hỏa mệnh hay Kim mệnh mới toại nguyện) bảo toàn được chủ đích là sự lo toan cho Thân kinh doanh sự nghiệp dầu có bôn ba đây đó cũng xông pha không quản ngại.

Cũng nên kể Thiên Mã này chính lẽ không phải của ông, bằng ông có xử dụng thì chỉ mất công, sự nghiệp trồi trụt không có gì là bền vững mà ông còn lao tâm khổ xác vì Mộc mệnh.

Ngắm đến Thân ở Dần, Đồng Lương đắc cách, phải nhìn nhận ông được thanh danh là vì Đồng Lương được Cơ Âm cùng đắc cách hội chiếu. Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương tối hảo chỉ có ở Dần đủ cả nghĩa một sức thông minh hơn người và một văn nghiệp xuất chúng. Nhưng nào ông có theo hẳn văn nghiệp (Đồng Lương Triệt). Định mệnh đặt ông là phải lo âu toan tính, trí óc ông là làm việc thực tế kinh doanh cho nên lời văn ông cũng giản dị bình thường hoạt bát, không chứ đựng nhiều từ ngữ nặng nề như một số đồng nghiệp cùng thời. Ngay đến tư tưởng ông cũng thực tế hơn ông Phạm Quỳnh chủ chương lập luận bênh vực thuyết Lập Hiến muốn giữ phần nào chủ quyền hình thức, trái lại ông Nguyễn Văn Vĩnh nói huỵch toẹt là đã bị trị thì nên áp dụng chương trình trực trị cho rồi, ăn thua ở chỗ thực tâm của kẻ cầm quyền và dân chí, đừng nên nửa trăng nửa đèn thành không đi đến đâu. Có lẽ vì thế người đời mới gán cho cả hai ông là thân Pháp.
Cái nỗi khổ tâm của ông Quỳnh là tin vào lòng nhân hậu và khả năng của mình (Thiên Lương Tả Hữu). Nước dầu đã mất, nhưng tiếng nói của dân Việt còn là còn…Đối với một văn nhân trong nghịch cảnh (Tuổi Nhâm ở Hợi) Kể cũng đáng thương. Ông Vĩnh cũng viết “Nước Việt Nam sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ”. Hai ông cùng chủ trương nên bảo toàn tiếng nói mẹ đẻ làm sao cho nó đừng mất và phổ biến rộng ra là được, cũng như cụ Phan Chu Trinh thường nói: Điều làm trước nhất là khai thông dân trí đã.

Cái chủ trương kinh doanh của ông Vĩnh không phải là không có hậu ý (Thân trong tam hợp tuổi) không phải là không chính nghĩa. Chỉ vì Thân (Đồng Lương) bị Triệt mà sự nghiệp ông không toại khi trồi khi trụt (Mã mượn). Với ông ta thấy con đường văn nghiệp chỉ là phương tiện, cái chí hướng kinh doanh mới là mục đích xa xăm của ông. Không phải là ông không biết thân phận của kẻ mất nước (thế Tang môn) cho nên ông cố hành động theo con đường chính nghĩa (Bạch Hổ) riêng tư của ông, tưởng không phải là không có tâm hồn với đất nước.

Đời ông đi vào cung Tuất là giai đoạn bắt đầu làm báo (1908) đạt được chí hướng của mình với nhiều hy vọng sau này (Thái Âm miếu đắc Long Trì). Bị Đà la không hẳn là La Võng nhưng cũng là một trong tam ám của Thái ÂM chỉ phần nào ngăn trở chậm bước đường tiến thân thỏa mãn của ông.

Bước sang cung Điền chỉ là giai đoạn khai sơn phá thạch giật gấu vá vai đem cái chí kinh doanh ra thực hành rầm rộ. Theo một số người cộng sự cho biết ông làm việc ngày đêm bất kể, chưa được hưởng thụ gì thì tuổi 45 đã đến rồi cứ một ngày một mội giòng nước ngược luôn cho đến năm 54 tuoir (1936) ông trút hơi thở cuối cung ở Tchephone (Hạ lào)

Đây cũng là một trường hợp tuổi Nhâm vận hành gặp Lộc tồn, lưu hà, Kiếp sát, Thiên không, ông mới chỉ là gây dựng sự nghiệp còn thiếu trước hụt sau. Nếu được đầy đủ cho mình hưởng thụ ngôi cao phú quý, có lẽ cao sanh đã đoản mệnh sớm hơn, cho hay đó chỉ là con đường rẽ mà thôi. Vì Thân ông bị Triệt thì làm sao ông mở máy chạy tốc độ không khỏi trục trặc lúc ban đầu, hay bước đầu tiến phải mất nhiều thời giờ hơn người khác. Một phần mệnh ông (Mộc) đáo Thủy cung không đến nỗi đoản mau phải chờ đến cung Quan (cũng Thủy) Kình Hình một cặp song kiếm phi đao kẹp cổ mạng Mộc, cũng phải chờ đến năm giao vận là năm tính sổ 10 năm thiếu đủ phải thanh toán cho sòng phẳng.

Người Mộc mệnh vô chính diệu thật khó kiếm được hung tinh đắc địa thủ vai cho xứng làm nên trò hơn Tang môn đắc Tuần. Còn Thiên Mã ở đây chỉ là Mã mượn của người Kim mệnh cũng nhờ Tuần cho ông được phần nào nghị lực. Đại hao, Địa kiếp ngộ Tuần cũng phần nào tiết chế sự tiết khí của Mệnh. Nhưng cung Quan Kình Hình không gì ngăn cản, Thái Dương vượng địa cùng Phượng Riêu đắc cách ở Tài tức là cát hung chung chiếu dàn cảnh kiến nhất Không, cuộc đời bôn ba như mộng ảo, phú quý là phù vân. Chỉ tiếc cho Thân ông được Thiên Lương vượng địa bị Triệt, cái thế chính nghĩa (Thái Tuế) đứng với Thiên Cơ đắc địa hẳn ông đã tính toán với một hoài vọng lớn lao cho dân cho nước, đến khi nhắm mắt qua đời ông ôm theo không một ai hiểu thấu (Thái ÂM miếu bị Đà ám).

Có phải cái dự tính của ông Nguyễn Văn Vĩnh hãy còn trong vòng bí mật mà tôi tin là không phải như người ta đã nghĩ về ông.

KHHB số 74L2.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

39. Giải thích cách phú:“Thạch trung ẩn ngọc” để xác định: Hình tượng của Nhật – Nguyệt (KHHB số 74)

0

GIẢI THÍCH CÁCH PHÚ: “THẠCH TRUNG ẨN NGỌC” ĐỂ XÁC ĐỊNH: HÌNH TƯỢNG CỦA NHẬT – NGUYỆT


Bài của Nghi Nghi
Trần Nhật Tường

Bài sau đây có những ý tưởng lạ khác với những cách giải đoán cũ, kính xin quý vị cao thủ thấy không thể tán đồng, cho chúng tôi ý kiến… Những người trẻ đi tìm Tử vi ngày nay khá đông, nghĩ sao là cứ nêu ra – nhưng còn vấn đề kinh nghiệm nữa.

Trước khi trình bầy lá số của Thạch Sùng tôi xin giải thích một câu phú ghi trong tập Tử vi đẩu số toàn thư của đức Hi Di Trần Đoàn sau đây thì mới thấy cái hay, cái lạ và cái vô cùng lý thú của Tử vi được:
“Cự môn Tí Ngọ: Khoa Quyền Lộc, Thạch trung ẩn ngọc, Phúc hưng long”
Nghĩa chính của câu phú thế này “Mệnh ở Tí Ngọ có Cự Môn tọa thủ gia thêm Khoa Quyền Lộc nữa là cách: “Thạch trung ẩn ngọc” (Ngọc ẩn trong đá) sẽ được hưởng phúc lớn”.

Đó là ý chính còn muốn hiểu cho rõ ngọn nguồn và cho chính xác câu phú trên, ta phải tự hỏi: Cự môn là một sao thuộc hành Thủy, đóng tại cung Tí là Thủy địa hay vào cung Ngọ là Hỏa hướng, tại sao lại được coi như “Ngọc ẩn trong dá? Ngọc ở đâu và đá ở đâu? Trong khi chỉ thấy có Thủy, Hỏa. Nước với lửa không lẽ thành ngọc, thành đá được!

Để trả lời cho thỏa đáng câu hỏi này, tôi phải ghi lên đây một vài nhận xét mà trong dân gian thường dùng làm biểu tượng hay để ví von…Như câu:
“Song long tranh châu” chẳng hạn, thức là nói đến hình vẽ hai con rồng tranh ông mặt trời hoặc “Ngọc thổ thanh kỳ” là con thỏ ngọc trong đẹp lạ lùng: ý chỉ mặt trăng sáng sủa rực rỡ…

Từ đó nói chung: Châu, Ngọc là hình tượng của Mặt trời, Mặt trăng (Nhật, Nguyệt) theo quan niệm của Á đông ta vậy.
Hiểu như trên rồi, câu phú mới có thể giải thích được:

A)Trường hợp thứ nhất:

Cự môn ở Tí, Cự môn ở Tí luôn luôn kết hợp với Thái Dương (ngọc) ở Thìn (Thổ thạch) để thành cách Cự, Nhật (Mệnh sẽ chịu ảnh hưởng sự chi phối của hai sao này).

Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Dương
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Thìn
Cho nên: Thái Dương ở cung Thìn mới chính là “Ngọc ẩn trong đá” (Thạch trung ẩn Ngọc) vậy.
Sao Cự môn (Thủy) trong mạng chính là cái mầm mống dùng để câu hút Thái Dương (Hỏa) ở cung Thìn cho bản Mệnh được sáng sủa, không có nó không xong. Một Thủy một Hỏa một Âm một Dương thu hút lẫn nhau. Suy rộng ra giống như luật hấp dẫn vũ trụ. “Attraction d’univers” của Newton ngày xưa vậy.

Cự môn ở Tí theo các sách Tử vi khác:
“Nếu Mạng được Tuần triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung (Kị ngộ Lộc tồn) thì vẻ đẹp sáng sủa tốt đẹp mới được rõ rệt, cũng như đá đã được phá vỡ, ngọc lộ hẳn ra ngoài”

Câu này được rút trong sách Tử vi Đẩu số tân biên của cố Biên giả Vân Đằng Thái thứ lang trang 56, nói về sao Cự môn. Hay nói chung các cụ ta cũng đều giảng như thế cả. Không hiểu các cụ đã căn cứ vào đâu để giảng giải như vậy? Theo tôi thấy thì nó có hơi kỳ cục! Nếu nói: “Gặp Tuần, Triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung thì ngọc mới lộ được ra ngoài và đã coi như đã bị phá vỡ…” Một khi ngọc đã bị lộ ra ngoài là hết còn ẩn nữa rồi, mà hết còn ẩn thì coi như cách “Thạch trung ẩn ngọc” đã hỏng cho nên theo sự hiểu biết riêng của tôi thì: chữ Ẩn trong câu phú này chỉ có một dụng ý cho ta biết vị trí của sao Thái Dương đóng vào cung Thìn mà thôi. Còn điều cốt yếu trong cách này là: bản Mệnh có nhận được sức sáng của Thái Dương hay không? (do sao Cự môn câu hút). Để được tốt đẹp hơn, có thể thêm vào những phần phụ sau đây:

-Cần được Tuần, Triệt án ngữ ở Mệnh (trường hợp Cự môn ở Tí) để làm giảm, mất đi cái tính chất Ám (che, khuất) của Cự môn, Mạng mới sáng được.

-Kị ngộ Lộc tồn: không phải sao này làm cho ngọc cứ mãi mãi chìm trong đá. Mà vì nó có đặc tính giữ chặt lấy (Tồn) tính chất ám của Cự môn nên không có lợi cho bản Mệnh.

-Không cần sao Hóa Lộc trong trường hợp này để cho vào trường hợp sau, ở Ngọ.


B)Trường hợp thứ hai:

Cự môn ở Ngọ. Theo tôi thấy, Cự môn ở Ngọ tuy vẫn là cách “Thạch trung ẩn ngọc” song trường hợp này đã mất đi hết cái hay của cách rồi. Mấy điểm xấu có thể kể ra là:
1.Cự môn ở Ngọ bị sai vị: thất cách vì Cự môn là Bắc đẩu thủy tinh cư vào cung Ngọ thuộc Hỏa là Nam vị. Mặc dầu Thủy Hỏa vẫn kết hợp được theo nguyên tắc của Âm, Dương, Cự môn, vốn Vượng địa ở đấy nhưng…

2.Đưa đến tình trạng Thái Dương ở Tuất thất huy (không sáng sủa) nên không thể ghi “Phúc hưng long” được.

3.Khi cho Hóa lộc đồng cung: Không giải thích nổi tại sao lại tốt?
Vậy, tôi xin đưa ra một đề nghị: sửa lại câu này một chút như sau:
“Cự Cơ, Tí Ngọ Khoa Quyền Lộc.
Thạch trung ẩn ngọ, Phúc Hưng long”
Bỏ chữ Môn đi thay bằng chữ Cơ để giải thích cặp sao Cơ, Cự ở bốn vị trí: Tí, Ngọ, Mão, Dậu
Tí Ngọ: Thạch trung ẩn ngọc
Mão Dậu: Chúng thủy triều đông
Cự Môn ở Tí, Thiên Cơ ở Ngọ.
Bắc đẩu tinh Cự Môn vào Bắc vị mới hay và Nam đẩu tinh Thiên Cơ của Nam vị mới đúng. Khi đó cặp Nhật Nguyệt mới sáng sủa tốt đẹp được.

Ghi chú thêm: Cơ, Cự ở Mão mới đúng cách: “Chúng thủy triều đông”. Còn ở Dậu không phải, có chăng chỉ là:
Cơ Cự Dậu thượng hóa cát giả
Túng ngộ Tài Quan dã bất vinh

Cũng như Cự ở Tí mới tốt, Cơ ở Ngọ mới hay còn ngược lại Cự ở Ngọ và Cơ ở Tí thì cũng quá, cũng lại “dã bất vinh” mà thôi, không thể “phúc hưng long” được

Vậy bây giờ xét trường hợp: Thiên Cơ ở Ngọ. Khi Thiên Cơ ở Ngọ thì bao giờ cũng vậy, Thái Âm (Ngọc) ở Tuất (Thổ thạch)
Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Âm.
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Tuất, cho nên: “Thạch trung ẩn ngọc” cũng là cách của Thái Âm đóng vào cung Tuất vậy.
Tính chất của Mộc là thu hút Thủy nên Nam đẩu Thiên Cơ (Mộc) với Bắc đẩu Thái Âm (Thủy): Một Nam một Bắc, Một Âm, Dương: Thiên Cơ (Mộc) thu hút lấy Thái Âm (Thủy) để biến sinh, nuôi dưỡng bản Mệnh vậy.

 

Phần phụ thêm

Bây giờ nếu thêm vào sao Hóa Lộc đồng cung nữa sẽ thấy cái rất hay của cách phú:
Khi có Hóa Lộc đồng cung thì Thiên Cơ (Mộc) được Hóa Lộc (Thổ) bồi đắp Thái Âm (Thủy) dinh dưỡng, sẽ đâm chồi, nẩy lá (Hóa Lộc).
Cái cảnh cây xanh lá non với trăng sáng giữa trời còn gì đẹp bằng

Đến đây coi như ta đã hiểu được thế nào là cách “Thạch trung ẩn ngọc rồi. Bây giờ chỉ còn một đoạn chót phải tìm hiểu thêm tại sao với cách này, Lão tổ Hi Di lại không ghi chẳng hạn như “Quan cư Hầu Bá” hoặc “Cự thương Cao Mại”… mà lại ghi là “Phúc hưng long”!
Ta thấy, vì trong thiên “Đẩu số cốt tủy” Lão tổ Hi Di dậy rằng:
“Âm Dương duyên thọ tăng bách phúc”
Mà ảnh hưởng chính của cách này lại do cặp Âm Dương ở hai cung Thìn Tuất tạo nên. Do đó, bắt buộc ngài phải ghi thêm vào cái đuôi “Phúc hưng long” vậy.

Sở dĩ tôi phải giải thích câu phú trên là chỉ có một mục đích, muốn nêu lên một minh chứng rõ rệt để xác định về hình tượng của Nhật Nguyệt: đến khi giải thích sang lá số của Thạch Sùng, quý vị mới thấy cái linh diệu và cái vô cùng lý thú của Tử vi được.

KHHB số 74L2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

38. Độc giả góp ý kiến về lá số tử vi của Trần Đình Yên (KHHB số 8)

0

Độc giả góp ý kiến về lá số tử vi của Trần Đình Yên

Cứ theo năm, tháng, ngày, giờ của lá số. Tôi xin mạo muội quyết đoán là số này không thể bị Tử hình được vì số này có nhiều cách rất tốt như:
1.Mệnh cục tương sinh
2.Dương nam cư dương vị (cả mệnh thân)
3.Mệnh thân đều được cách Tử Phủ Vũ Tướng hội tả hữu, Xương Khúc Long Phượng, Khoa, Quyền, Lộc.
4.Đặc biệt cung an mệnh tại Thìn là Thổ sinh chính diệu là Vũ khúc Kim, Vũ khúc chính diệu sinh Thủy mệnh cách này rất hiếm.
5.Cung Bản Thân đóng tại Thân cung sinh cho bản thân của đương số, hơn nữa là 2 sao chính tinh là Tử Vi Thiên phủ 2 vị chúa tinh đóng ở đây là Miếu địa đối chiếu có Thất sát triều đẩu tại Dần và có Thiên mã Lộc tồn, tam phương tứ chiếu có Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Khoa Quyền Lộc. Đặc biệt cung bản thân này có đủ bộ Tứ linh chầu Đế tinh. Tuy có Triệt nhưng Triệt đáo Kim cung cũng không đáng lo ngại.
6.Xét Phúc đức để biết Thọ Yểu Phúc đức cư Ngọ, có Phá quân miếu, tức là cách sóng cồn đại hải có thể dập tắt được Hỏa của cung Ngọ và Hỏa của Tuần ở đây chỉ ngại có Tướng quân ngộ Tử và Tuần, nhưng Tuần cũng có thể ngăn cản được Hình Việt, Địa Kiếp ở nhị hợp, vì Tuần có tính cách ngăn cản cả tốt lẫn xấu, ngoài Giải thần và Hóa Lộc cũng là sao cứu giải, nhị hợp có Thiên quan Quý nhân, thì sao lại chết Tử hình như vậy được.
Xét về hạn năm 26 tuổi là năm Dậu tại Hợi là cung Tật ách mà đương số bị thương thập tử nhất sinh là tại sao?
Vì tiểu hạn năm đó, có Cự môn Hóa Kị, Kiếp sát và Đại tiểu hao hợp, chiếu có Kiếp, Không, Kình dương Thiên hình mà lưu tang môn cũng đến đấy cho nên đương số bị nạn thập tử nhất sinh là phải, mà bị thương nặng nhất ở mồm, má, răng lưỡi. Hạn đó đương số không chết là nhờ có Lương y tận tâm cứu chữa vì có các sao như Thiên Quý, Thiên Y, Thiên đức, Phúc đức, hợp chiếu có Thiên quan quý nhân nhị hợp có Giải thần và Lộc mã.
Viết đến đây tôi xin tạm ngừng, mong quý vị cao học tha thứ và chỉ dạy cho cái nhầm lẫn của tôi và cũng mong được quý vị cao học dẫn giải tường tận thêm cho để bạn đọc chúng tôi được học hỏi thì quý hóa vô cùng.

Phụ bàn

Xét như số này đương số cũng không phải là kẻ hung đồ ăn cướp thực sự. Cũng chỉ vì Đại hạn đến cung Phúc đức có Phá quân cho nên đương số phải cần có tiền để giải quyết vấn đề cấp bách, mà phải móc nối với bọn gian thương, và có thể đương số bị họ gài bẫy để thủ tiêu, sui khiến đương số đến đòi họ giúp cho ít tiền nhưng vì đương số phải đổi đi nơi khác không còn ảnh hưởng giúp họ nữa, mà họ từ chối nên đương số ức mà phải hạ sát tên gian thương đó. Số này không phải số ăn cướp mà là số người đứng đắn, có công với Tổ quốc, cần được Tổng thống xét kỹ mà cho cải án
MINH CÔNG
KHHB số 8

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

37. 1001 câu chuyện tử vi: Cung điền trạch tồi tệ, vậy mà biết cách tránh số… (KHHB số 2)

0
KHHB số 2 – Hương Lan
1001 câu chuyện Tử vi

Cung Điền trạch tồi tệ, vậy mà biết cách tránh số,

đổi số vẫn có nhà đàng hoàng như ai

Trần Việt Sơn kể

Cái lẽ cao siêu của Tử vi, nên có những cuộc tìm tòi, thí dụ như tìm xem 108 sao trong Tử Vi ứng vào khoa Thiên văn là những ngôi sao nào, do đấy mà tìm hiểu được thêm. Lại nhiều khi mà cùng một lá số mà cầm đi mấy chuyên gia Tử vi để hỏi xem họ đoán cách nào, thì thấy rằng mỗi người đoán một cách và mỗi người chú trọng về một lối đoán. Có dịp, chúng tôi sẽ trình bày những chuyện này ra để bạn đọc thưởng lãm. Cuối cùng, đành phải kết luận là khoa Tử vi thật là khó. Sách chỉ cho biết những cách chính để đoán, nhưng trong thực tế phải gia giảm thật nhiều. Tử vi không sai, điều khó là có thầy giỏi để đoán đúng.

Tôi biết một ông chỉ coi cho người thân, thật già có 4,5 chục năm kinh nghiệm và tối ngày chỉ nghiên cứu tử vi. Mỗi khi con cháu bà con nội ngoại, bằng hữu có những biến cố nào, ông lại lấy lá số ra chiêm nghiệm. Bằng cách đó, lâu dần ông đoán thật giỏi, có thể nói là đoán đâu trúng đó. Chính vì thế mà tôi tin tử vi, và nghĩ rằng có ai đoán sai là vì người đó còn dở mà thôi.

Có cái lý thú nhất lá có sẳn trong tay lá số của mình, con cháu, bà con để luôn luôn kiểm điểm và so sánh với các biến cố xảy ra mà tìm tòi thêm. Trong khi đi tìm tòi, tôi không ngờ lá số tử vi còn có cái tuyệt diệu, là nó chỉ đường cho con người tìm lành tránh dữ, nó chỉ đường để cải đổi số mạng. Cái cao siêu của Tử vi là nó giúp cho người làm chủ được vận mạng của mình, chứ không phải chỉ để biết một số mạng đã an bài, trong đó giá trị con người mất hẳn.

Cụ Hoàng Hạc luận về cái lẽ cao siêu của Tử Vi

Tôi có cái vinh dự được gặp cụ Hoàng Hạc, hiện là một giáo sư Đại học lão thành được nhiều người kính nể, và từng đóng góp rất nhiều vào văn hóa. Dĩ nhiên Hoàng Hạc chỉ là một cái biệt hiệu.

Cụ cho biết như sau: Có nhiều người đổi số được cho nên ông thầy Tử vi có tài giỏi cách mấy cũng chẳng làm được gì để đoán trúng phong phóc được. Chính mình ý thức rồi chính mình cải đổi vận mạng, được lắm. Vì thế mà sự đoán số không sai chút nào thì thật là ít có, vì mỗi người có thể thêm cái NGHIỆP hay bớt cái NGHIỆP của mình. Bởi thế mà không nên tuyệt đối tin ở lá số. Coi số mà cứ tin tuyệt đối ở số là mình chịu thua trước số mạng. Câu nói của cụ Nguyễn Du thật là đúng: “Có Trời mà cũng có Ta”.

Cụ lại cho biết: Tôi thường tham bác khoa Tử vi với khoa xem tay, xem tướng. Mỗi khi tôi cầm bàn tay ai, tôi nhièn cả hai bàn tay, tay trái và tay mặt. Trái thuộc âm, mặt thuộc dương. Bên trái là số đã an bài theo túc nghiệp, bên phải là số hiện tại do con người tạo nên khi mà bàn tay trái đẹp hơn bàn tay phải là người ấy thụ động, khi đoán tôi không e ngại gì mà không quả quyết.

Trái lại, khi tôi thấy bàn tay mặt đẹp hơn, tôi biết trước mặt tôi là một người quả cảm, dám đổi mạng, tranh quyền tạo hóa. Dĩ nhiên là phải dè dặt, trong lời đoán bao giờ cũng dành một phần nhân lực thắng thiên, chứ không hoàn toàn tin theo thiên lực.

Bàn tay trái mà đẹp thì nghiệp của người ấy nhiều thiện nghiệp dễ sửa đổi. Trái lại, bàn tay trái mà xấu thì nhiều ác nghiệp, khó đổi mạng hơn, nhưng không thể không đổi.

Cái thân và cái Mạng trong số Tử vi

Cụ lại chỉ cho tôi rằng xem số Tử vi, nên cân nhắc cái mạng và cái thân, đem so sách với nhau. Thân cũng như bàn tay mặt, còn Mạng là bàn tay trái. Mạng, tức số mạng đã an bài theo nghiệp sẳn có, còn Thân cũng như bàn tay phải, cho viết người còn có khả năng đổi số mạng không.

Nếu mạng tốt, thân xấu, đó là con người chiều theo số mạng, không biết tu tỉnh, phấn đấu để số mạng đẹp hơn.
Nếu Mạng đẹp, Thân cũng đẹp thì đành là hay, gặp hạn tốt lại càng là hay. Nhưng nếu coi số Tử vi để biết trước những điều đã an bài một cách chắc nịch thì chẳng có gì lý thú.

Nếu Mạng xấu, Thân tốt đó là con người có phấn đấu và tu tỉnh để đổi vận mạng. Chính ta tu tỉnh, cố gắng, thì thể nào cũng tốt hơn.

Những cách để cải đổi số mạng

Sau số báo đầu, chúng tôi có tiếp nhận được của một số bạn đọc tại Sài Gòn hỏi về cái cao siêu của số Tử Vi, là cái sự chỉ đường của lá số, chỉ đường để cải đổi số mạng. Vậy mới biết là quý bạn đọc đều đầy nghị lực để phấn đấu trong ý hướng cải đổi số mạng.

Chúng tôi xin thưa rằng lối đoán đó thật cao siêu, chúng tôi sẽ xin nhờ cậy các vị cao minh hướng dẫn. Thí dụ như câu chuyện sao Lộc Tồn tại mạng của nhân vật mà chúng tôi đã đề cập kỳ trước, đi kèm với Liêm Tham ở Tỵ hợi là số “hình ngục nan đào”. Một ông thầy thường đoán là số tù tội, nhưng giàu có. Nhưng trong thực tế, thì ông thường bị tù nguy hiểm, nhưng được Lộc Tồn giải cứu, vì thế mà Lộc Tồn không còn ảnh hưởng để cho giàu, nhưng hễ nhờ Lộc Tồn mà giàu có, là y như rằng Lộc Tồn hết ảnh hưởng phúc tinh, thế là lại vào tù cho đến khi hết tiền. Như thế, có thể rút tỉa ngay bài học để đi trong trường đời: là cứ ẫn nhẫn sống nghèo là có hạnh phúc khỏi bị tù.

Cải đổi số mạng: số nghèo mà vẫn giữ được của

Sau đây, một câu chuyện khác mà chúng tôi được biết về cụ Hoàng Hạc, nhờ cụ chỉ đường mà một gia đình cải được số và được hạnh phúc.
Số là có một cặp vợ chồng đó làm ăn khấm khá, nhưng mua ngôi nhà nào rồi cũng bị hư, hoặc cháy, hoặc kiện cáo phiền phức phải thôi, hoặc đất không lành, ở không nổi.

Hai vợ chồng bèn đến nhờ một thầy coi dùm, coi có nhà đặng chăng và phải cúng quảy thế nào. Nhưng rồi cũng chẳng xong, có người quen giới thiệu, mới đến quấy rầy cụ Hoàng Hạc.

Hai vợ chồng nói: – Vợ chồng chúng tôi sao cứ lận đận mãi, tiền thì có để mua nhà, nhưng chẳng cái nào ở yên được, nhà nào cũng mua rồi cũng bị lộn xộn.

Cụ Hoàng Hạc mới coi hai lá số vợ chồng, thì thấy cả hai ông bà cung Điền trạch đều quá tệ. Cụ mới hỏi xem các lá số tử vi của con lớn trong nhà, nghiền ngẫm lá số mấy đứa con, rồi cụ bảo: – Để thằng này đứng tên, làm chủ căn nhà, hai ông bà sẽ được bình yên, lý do rất giản dị, là cung Điền trạch của nó tốt lắm.

Ông nọ mới bảo: – Nhưng làm như vậy, mấy đứa kia nó ganh.
– Thì ông bà coi như cho riêng nó căn nhà, còn những đứa khác thì cho chúng sau. Hãy cần căn nhà để ở cho vững đã.
Cụ Hoàng Hạc liền đó bèn gọi các con của ông bà ấy lại. Cụ giải thích rằng hai ông bà khó có cái nhà để ở yên là vì cung Điền trạch xấu, vì thế mà phải mua nhà, đổi tên đứa con có cung Điền trạch tốt. Như thế là để tiện lợi cho cha mẹ và cho cả gia đình. Mấy đứa con cùng bằng lòng. Hai ông bà nọ bèn làm y lời, mua căn nhà và để tên đứa con có Điền Trạch tốt. Quả nhiên, ở ngôi nhà được điều hòa, không rắc rối, làm ăn thịnh vượng. Và như vậy đã gần 20 năm rồi.

Làm như trên là cải số, hay là tránh số. Kết quả cũng có đầy đủ. Chúng tôi sẽ xin thuật thêm những chuyện tương tự về việc cải số mạng bằng lá Tử vi.

Cái lợi của số Tử Vi

Qua vài câu chuyện trên, chúng tôi mới thành thật nghĩ rằng người ta nên biết môn Tử Vi, cái đó có lợi. Biết tử vi chứ không phải là đi nhờ người khác coi giùm. Biết tử vi là để biết rõ mình và biết rõ về con cái, để hướng dẫn mình và hướng dẫn con cái trong trường đời sao cho cuộc đời có hạnh phúc.

Đó mới là cái lợi quan trọng, chứ không phải biết tử vi để đi coi cho người. Biết tử vi là để coi cho mình, là để biết đường nguy mà tránh, đường hay mà theo. Nhất định là như vậy, là vì con người có thể cải được cái số, có thể chuyển được cái họa thành cái phúc, nếu biết bao nhiêu nhà cầm quyền từng hét ra lửa và rồi bị rớt đài một cách thê thảm, đã biết được rõ vận mạng mình theo số tử vi, thì các ông đã biết được cách để sống mà vẫn được trọng vọng.

Nhưng có điều là học tử vi thật khó. Cần phải nghiên cứu nhiều lá số, sau khi thấy triệt các cách đoán, rồi lại phải kiểm điểm luôn luôn, bằng sự việc. Nhiều khi tụ họp các nhà tử vi lại mà bàn tính với nhau, về từng trường hợp, thú vị lắm.

Lại còn có cả những chuyện coi tử vi cứu mạng sống của người nữa, để rồi chúng tôi sẽ xin thuật lại.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số
- Advertisement -