21 C
Hanoi
Thứ Năm, 20 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 17

65. Chế tạo sẵn lá số tử vi rồi lấy thai ra đúng giờ định trước nhưng sinh non tháng thì số có đúng

0

CHẾ TẠO SẴN LÁ SỐ TỬ VI RỒI LẤY THAI RA ĐÚNG GIỜ ĐỊNH TRƯỚC NHƯNG SINH NON THÁNG THÌ SỐ CÓ ĐÚNG KHÔNG ?

Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.

Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.

Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.

Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.

Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.
Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.
Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:

– Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn.
– Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân.
– Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng.
– Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.

Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ  Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.

Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…

Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.

Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.

Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.

Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.

Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%…3 lá số sai 50%… 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.”

Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

64. Lá số và cuộc đời nữ ca sĩ Trang Kim Yến (KHHB số 75-4-a)

0

Lá số và cuộc đời nữ ca sĩ Trang Kim Yến

Sinh năm Tân mão ngày mùng 4 tháng 10 giờ dần
Âm nữ, Mộc mệnh, Hỏa lục cục

Khái luận về mệnh thân và cục

Tuổi Âm, mệnh lập tại cung Dậu thuộc cung Âm là tương hợp, Mộc mệnh mà lập tại cụng Dậu thuộc Kim bị khắc chế, như vậy mọc trên đất sỏi đá cằn cỗi, giờ sinh vào giờ Dần đất còn đượm sương đêm cho nên cây tong bá vẫn tươi mát. Mặc dù Trang Kim Yến sớm xa cha từ năm lên 8, vẫn được sống trong vòng tay âu yếm của mẹ.
Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị không, phùng Nhật Nguyệt chiếu hư không (chi địa và mệnh có Song Lộc ngộ Mã, Quyền, Tả Hữu, hội Quan Phúc quý nhân, Dưỡng, Mộc đã giúp đương số duyên dáng thông minh và gặp may mắn sớm tự tay tạo ra tiền.
Thân cư Quan Lộc lập tại Sửu thuộc cung Thổ là Hỏa cục bị sinh xuất nhờ có Âm Dương đắc địa ngộ Tả Hữu, Mã Quyền Long Phượng và hội Quan Phúc quý nhân” cho nên từ trung vận trở đi, cuộc sống của Trang Kim Yến ngày càng sung túc hơn về mặc vật chất, nhưng trên phương diện tình cảm cà nghệ thuật sẽ gặp nhiều khổ tâm và trở ngại.

Nhìn qua những cung nổi bật

Ngoài hai cung mệnh thân đã khái luận, cung Phúc Đức là cung nổi nhất trong lá số. Cung này lập tại Hợi thuộc Thủysinh phù cho Mộc mệnh có Thiên Đồng là phúc tinh tọa thủ, hội Lộc Mã Long Phượng Cái Hổ và Thanh Long Lưu Hà khiến cho bọn hung tinh Tang Khốc Toái Phục Tuyệt Hỏa có hung hãn phá tán thưở còn sơ sinh cũng chỉ làm cho đương số sớm chịu cảnh song thân đôi ngã, và vẫn được sống đầy đủ trong vòng tay mẹ. Để rồi ngày càng lớn, ảnh hưởng của cát và quý tinh phát tiết ngày càng dồi dào, Trang Kim Yến vẫn sớm tạo ra tiền và tự tạo cho mình một tên tuổi khá quan trọng trong giới ca nhạc.
Cung Thiên Di: lập tại cung Mão thuộc Mộc hợp với Mệnh và sinh phò cho Hỏa cục. Có Cự Cơ miếu vượng ngộ song Lộc, Long Phượng Cái Hổ đã giúp Trang Kim Yến dễ tạo cảm tình với khan thính giả và đi giao tế bên ngoài gặp nhiều cơ hội tốt trong lĩnh vực tiền bạc. Hiềm vì Cung Tài Bạch có Mã ngộ Triệt khiến nên ở lứa tuổi thiếu niên cho đến chớm vào trung vận, trang Kim Yến tuy có tạo ra tiền nhưng vẫn chưa giữ được. Từ 36 tuổi trở đi, tiền bạc tuy sẽ dồi dào nhưng cũng sẽ bị hao tán thất thường vì Mệnh và Thân có Kiếp Không, phải mua sớm bất động sản mới giữ được là nhờ cung Điền Trạch.

Cung Điền Trạch: lập tại cung Tí thuộc Thủy sinh phò cho Mộc Mệnh. Thủy có khắc Hỏa cục nhưng nhờ Vũ Phủ tọa thủ là hai chính tinh rất tốt về sự tạo dựng tiền sản. Và cũng nhờ Vũ Phủ ngộ Hồng Đào, Khoa Hỉ Cáo Phụ Xương Khúc phùng Thiên Nguyệt Phúc Đức cho nên Trang Kim Yến sớm được ở nhà cửa sang trang, và từ 36 tuổi sẽ tự mình tạo được tài sản.

Cung Phu Quân: lập tại Mùi thuộc Thổ bị Mộc mệnh khắc và Hỏa cục bị tiết chế nhưng nhờ có Tuần án ngữ, và cung này vô chính diệu đắc nhất không, hội Nhật Nguyệt chiếu hư không, ngộ Long Phượng Quyền Tả Hữu, và giáp Xương Khúc, thành thử Trang Kim Yến buổi đầu tuy có rắc rối về chuyện tình duyên nhưng liền theo đó gặp một cuộc hôn nhân lý tưởng và đang sống trong hạnh phúc. Tuy nhiên, khi đại vận đổi vào cung Phúc Đức, bọn hung tinh Hỏa Tuyệt Cô Tang Khốc sẽ phá tán trong 5 năm đầu (từ 26 đến 30) nếu không nhẫn nhịn và chịu đựng, con thuyền hạnh phúc sẽ trôi vào vùng bão tố.

Nhìn qua những Đại và Tiểu hạn:

Năm Đinh Mùi (1967): 17 tuổi, tiểu hạn đến cung Mệnh, gốc Đại hạn đã đổi vào cung Phụ Mẫu, lưu Đại hạn đến Tật Ách. Tiểu hạn năm này gặp song Lộc, hội Mã Quyền Khốc Khách Nhật Nguyệt Tả Hữu, Cự Cơ Mộc Dưỡng, Quan Phúc quý nhân. Gốc Đại hạn có Quang Quý phùng Khôi Việt, Lưu đại hạn có Cáo Phụ, Quang Quý, Thai Tọa hội Hồng Đào Hỉ phùng Thiên Nguyệt Phúc Đức, Trang Kim Yến lần đầu tiên xuất hiện trên khung ảnh truyền hình và các sân khấu đại hội trong ban Tạp Lục, Tùng Lâm. Để rồi năm sau (tiểu hạn vào cung Huynh Đệ ngộ Kị Kiếp Không Liêm Đà, lưu Đại hạn vào cung Tài Bạch có Cô Quả ngộ Toái Hỏa Tang Điếu Kiếp Không làm cho Trang Kim Yến bị scandal Tùng Lâm và cuối cùng phải ngưng ca hát và đưa nội vụ ra Tòa. Tiếp theo là năm 19 tuổi (Kỷ dậu 1969), hạn năm này vào cung Phu có Nhật Nguyệt chiếu hư không ngộ Lộc Quyền Tả Hữu hội Tứ Linh: đương số thắng kiện và gặp một cuộc hôn nhân rất tốt đẹp cho đến mãi hôm nay.

Năm Quý Sửu (1973): 23 tuổi, tiểu hạn đến cung Thiên Di có song Lộc ngộ Tứ Linh; lưu Đại hạn đến cung Điền Trạch có Vũ Phủ ngộ Đào Hồng Hỉ Xương Khúc Cáo Phụ và Khôi Khoa, phùng Thiên Nguyệt Phúc Đức, Trang Kim Yến hoạt động ca nhạc trở lại và được khán thính giả vẫn còn ái mộ như trước trong một bài hợp ca với Văn Sơn ở màn ảnh Truyền Hình.

Năm Giáp Dần 1974, 24 tuổi, tiểu hạn đến cung Nô Bộc có Khôi Việt ngộ Khoa Hỉ Xương Khúc Sinh Vượng. Gốc Đại hạn ở Phụ Mẫu có Lộc Mã ngộ Tứ Linh và Thanh Long Lưu Hà: Trang Kim Yến tiếp tục thu lại được tình cảm của khan thính giả ở đài truyền hình và hát cho phòng trà có ban nhạc của Nguyễn Ánh 9. Đồng thời đương số thu băng nhạc cho hang băng nhựa Phượng Hồng ( các bản Xin như làn mây trắng, Cho người tình xa)

Luận đoán tương lai Trang Kim Yến năm Ất Mão (1975):

Năm này 25 tuổi, tiểu hạn đến cung Quan Lộc, lưu và gốc Đại hạn trùng phùng cung Phụ Mẫu.

Tháng Giêng phòng đau ốm và đụng chạm xe cộ. Tháng 2 buồn lo về chồng con. Tháng 3 gặp cơ hội tốt về hoạt động nghệ thuật. Tháng 4 di chuyển bằng xe 2 bánh phải cẩn thận. Tháng 5 đầu tháng phòng đau ốm. Tháng 6 tránh những cuộc tranh luận với chồng, coi chừng chuyện bé xé to. Tháng 7 tốt về danh vọng. Tháng 8 tiếp tục gặp cơ hội tốt trong lĩnh vực nghệ thuật. Tháng 9 phòng đau ốm. Tháng 10 tiền bạc dồi dào, khổ tâm về hạnh phúc gia đình. Tháng 11 có chuyện buồn lo về cha mẹ họ hang. Tháng Chạp tiền bạc dồi dào nhất trong năm. Tốt về danh vọng. Một cái Tết vui.

Sài Gòn tháng Giêng năm Ất Mão 1975

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

63. Lá số cổ nhân: Triều đại nhà tân của Vương Mãng là chính thống hay ngụy quyền? (KHHB số 74c2)

0

Lá số cổ nhân: TRIỀU ĐẠI NHÀ TÂN CỦA VƯƠNG MÃNG LÀ CHÍNH THỐNG HAY NGỤY QUYỀN?

Thiên Lương

Vương Mãng là một quyền thân ngoại thích dưới triều mấy ông vua cuối nhà Tiền Hán, sau khi hạ ngôi Thái Tử Anh, tự xưng là Giả Hoàng Đế lấy quốc hiệu là Tân. Theo lịch sử Trung quốc sau khi Hán Quang Võ lên ngôi thì hết thảy các cây bút phải hạ nhà Tân xuống đất đen. Điều đó ai cũng biết là quyền lực phong kiến không cho phép được nói trái ý nhà vua thì Vương Mãng hẳn là kẻ soán nghịch, cho đến nỗi nhà vua cấm hết thảy người dân nào có số Phá quân ở Thìn Tuất đều không được thi cử gì và không được làm một chức vụ gì dầu lớn hay nhỏ.

Cứ như cổ thư để lại ta thấy có 2 lá số của Vương Mãng. Một cái tuổi Giáp Thân tháng 03 ngày 09 giờ Tí .  một cái tuổi Giáp Dần tháng giêng ngày 27 giờ Tuất, nghĩa là 2 tuổi xa cách nhau 30 năm. Bây giờ chỉ còn cách là phân tích theo thời gian xem cái nào hợp lý.

Theo lá số tuổi Giáp Dần Mệnh có Phá quân ở Thìn là bất nhân một trăm phần trăm không còn gì mà bào chữa nổi. Lấy thời gian vận chuyển các đại viện của số thấy sai lạc không trúng phần nào. Giai đoạn đẹp nhất đời là ở Ngọ, không lẽ 23 tuổi lên làm Phụ Chánh cho 2 đời vua mất 7 năm và ở ngôi vua 15 năm tức là trên 20 năm, thấy không trúng và cũng quá sớm cho một người mới lớn lên không đủ kinh nghiệm lập vây cánh làm chuyện soán nghịch.

Lịch sử nói ông là cháu gọi Hoàng hậu vua Nguyên đế bằng cô. Từ Nguyên đế đến Thái tử Anh là 4 đời vua cộng tất cả là 40 năm, đem so lá số tuổi Giáp Thân thấy đại vận 43 ở cung Thân là đại vận đẹp nhất đời, trước đó còn một đại vận 33 vô chính diệu được Tuần câu móc Nhật Nguyệt chiếu, tức là đương số có đủ thời gian làm chuyện lớn.

Tuổi Giáp Thân có Tử Tướng ở Thìn. Mệnh Thân đồng cung. Nguyên một chi tiết này cũng đáng được gọi là bực anh hùng chánh hiệu có nhãn cầu chứng tại Tòa khỏi phải bàn tán dài dòng. Cái hay của người có số đứng trong tam hợp tuổi là sự thành đạt của mình bao giờ cũng phải là ngoài 40 tuổi là quãng đời có thể đã đầy đủ kinh nghiệm cuộc sống. Người hành Thủy được Thiên Tướng thủ Mệnh với tuổi Giáp được bộ Khoa Quyền Lộc: Thân, Tí Thìn đóng Thân, Tí, Thìn được bộ Long Phượng Hổ Cái, đó là những nét chính, phụ họa thêm có Hữu Bật, Thanh long, Văn Khúc, nhất là Tài Thọ đứng sát với Khoa ở Tí (Vạn năng).

Cứ lấy số mà luận, thật tình không thấy cái bất nhân bất nghĩa ở chỗ nào. Trái lại Vương Mãng còn coi vua là nghịch triều (Phá quân ở Tuất) ăn báo dân hại nước đeo ấn quyền múa rối bất tín nhiệm (Quốc ấn, Hóa quyền, Bệnh phù, Tang, Khốc) thì để làm gì mà không hất đi cho khỏi vướng chân (Thân Tí Thìn: Thủy khắc Dần Ngọ Tuất: Hỏa).

Một người có học vấn (Văn Khúc) có chí lớn (Bạch hổ) tự tin (Thân Mệnh đồng cung) cố vươn mình lên với đời (vị trí Thìn) đủ khả năng cải tạo xã hội là cái biệt tài của Vương Mãng (Khoa, Tài, Thọ ở Tài), chỉ phải cái phần số không được lâu dài khiến cái hại là cung quan Liêm trinh, Thái tuế bị Triệt nên cái thế chính nghĩa bị lu mờ bôi xóa sau 15 năm ở ngôi vua (8 T.L 23 T.L tức là từ năm Mậu Thìn đến năm Quí Mùi) rồi vua Hán Quang Võ đoạt lại.

Cứ như lá số tuổi Giáp Thân này, Mệnh vẫn ở Thìn đem Phá quân thay thế cho Tử Tướng, nghĩa là Mệnh Phá quân cũng không phải là kẻ nghịch thần phản chúa, mặc dầu người mạng Thủy gặp Phá quân là Thủy, vì người tuổi gì đóng trúng tam hợp tuổi của mình không khi nào không vì chánh nghĩa mà hành động tức là luôn luôn hành động có mục đích là chính nghĩa. Dư luận chỉ là thời gian, sự thật vẫn là sự thật.
Nhà Tiền Hán từ đời Nguyên Đế đến Bình Đế 4 đời vua sau cùng đều vô tài khờ dại, bọn hoạn quan chuyên quyền dối vua hại dân, thì một người có tài có chí như Vương Mãng muốn đem lại trật tự cho nước bằng cách giải quyết vấn đề xã hội dân sinh, tức là đầu óc ông đã thấy ánh sáng dân chủ (Dân vi quí). Cái lòng tự hào (Tử Tướng mệnh thân đồng cung) không thể không ra tay quét sạch dơ bẩn. Tiếc thay cung tài Vũ, Phủ, Khoa, Tài, Thọ là cái tài đặc biệt quốc kế dân sinh chỉ vì cung quan Liêm Trinh bị Triệt mà đành hỏng việc.

Sự thật cái chính nghĩa của tuổi Giáp Thân không phải là không có, thì tuổi Giáp Dần đặt ra (tôi xin nói là đặt ra để buộc tội người thua trận) một cái vị trí Thìn của người tuổi Dần cùng thấy cái khó khăn của chính nghĩa rồi (đối cục) huống chi Mệnh Thủy được gán cho Phá quân thì chính cống bất nhân bất nghĩa còn gì để bào chữa cho nổi. Thân cư Tài có Thất sát ngộ Tuần, hành động gì được, có lẽ chỉ lấy miệng khoác lác. (Điếu khách) là đắc cách, đến cung quan Tham lang bị Triệt làm sao làm vua được 15 năm.

Việc cổ nhân cách đây gần hai ngàn năm bằng tuổi này hay tuổi khác rất khó phân biệt thật giả. Cái phần chính yếu là phân biệt kẻ gian người ngay, đấng anh hùng, phường nghịch tặc để biết đâu là triều đại chính thống, đâu là sân khấu ngụy quyền. Tam hợp Thái tuế là cái gì hiên ngang chính đáng chẳng may có bị Phá quân ngự trị ở vị trí dành riêng làm điều phi nghĩa (Thìn Tuất). Thiết tưởng chỉ là hoàn cảnh bó buộc bị mang tiếng với đời chữ thâm tâm vẫn là chính đính. Cái nỗi khổ về tinh thần trí não của người có số không bộc lộ ta được, chỉ còn trông cậy nhờ vào sự minh oan trên phương diện lý số, tưởng các vị Bao công sáng suốt tinh thông huyền bí nên ra tay soi tỏ vén màn u uất như trường hợp triều đại nhà Hồ ở Việt Nam chẳng hạn.

KHHB số 74C2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

 

62. Tử vi danh nhân: Những cái lầm khôn dại của ông Phan Kế Toại (KHHB số 74c2)

0

Tử vi danh nhân: NHỮNG CÁI LẦM KHÔN DẠI CỦA ÔNG PHAN KẾ TOẠI

Thiên Lương

Mới rồi được tin ông Phan Kế Toại qua đời, tôi nhớ lại năm Ất Dậu (1945) có người nhờ tôi coi dùm lá số tuổi Nhâm Thìn sanh ngày 05 tháng giêng giờ Mão.  Lúc khách đứng lên ra về có cho biết lá số của ông Khâm sai Phan Kế Toại.Nhìn vào cung Mệnh thấy đóng ở Hợi có Thiên Cơ, tôi liên tưởng tới nhà học giả Phạm Quỳnh cũng tuổi Nhâm Thìn  cũng Mệnh lập ở Hợi có Thiên Lương, tức là cùng vị trí của lớp người bị thiệt thòi mà phải hy sinh.

Sao thủ Mệnh Cơ cũng như Lương đều là Âm mộc, cái khác nhau là Lương nhân hậu mà Cơ thì tính toán khôn khéo hơn của bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương.

Tôi xin thú thực, lòng tôi luôn luôn vẫn dành một mối cảm tình nồng hậu cho nhà học giả với bộ Tả, Hữu, Khoa, Hồng, Khôi, là cái tài tăng xuất chúng thiên phú, và cũng vì số mà Thượng Chi tiên sinh bị lụy cùng với Lộc tồn Hóa Lộc trong nghịch cảnh, Hà sát mưu đồ, Thiên không lơ lửng xung chiếu. Thật là bụt nhà không thiêng. Long Đức im lặng chắp tay ngồi đó (vị trí thiệt thòi mà phải tu, coi Quyền Lộc là của phù vân), mấy ai là người biết đến để tự khép mình đi trúng đường lối của kiếp nhân sinh ở cảnh éo le nan giải.
Trái với họ Phạm, Thân Mệnh đều ở trong thế Hợi Mão Mùi, ông Phan Kế Toại được nhờ Thân ở Tỵ là cái vị trí của người khôn vặt của tuổi Nhâm Thìn tức là ông biết từ bỏ chức vị Khâm sai, nhưng cái vụng tính của ông (Thiên Cơ hãm) đã làm hại quyền lợi quốc gia nói chung và danh dự ông nói riêng là ông nhượng bước không sáng suốt (Thái Âm đắc Thiên hỉ ngộ Kiếp sát, Thái Dương đắc Đào hoa ngộ Hình) nghĩa là ông thần hồn nát thần xác, quá nhát sợ trước một phong trào không phân biệt đâu là chính nghĩa.

Theo cụ Trần Trọng Kim viết trong “Một cơn gió bụi”: “Giá ở Bắc bộ có một ông Khâm sai cương quyết biết việc tổ chức có thể mau chóng thành đạt hơn, nhưng ông Phan Kế Toại là người làm việc trong thời Pháp thuộc chỉ biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đường chính trị thì không thông thạo và tính lại nhát, ông sợ hãi và chán nản chỉ nói chuyện xin từ chức.”

Còn theo dư luận của một số người biết rõ thời cuộc hồi ấy nói: Ông Phan Kế Toại là người không nhất định, ban đầu thì hứa nhiều lần, nếu Nhật bại trận thì ông nhường chính quyền cho người quốc gia, nhưng sau vì con ông là Phan Kế Bảo làm nội ứng thuyết phục ông, bí mật đưa ông vào làng Mọc (Hà Đông) chiều ngày 18-8-1945 để tránh mặt, dinh Khâm Sai (Bắc bộ phủ) bỏ ngỏ.

Trông vào Mệnh, Thân ông, nòng cốt là Thái Âm, dầu đắc Thiên hỉ vẫn bị Kiếp sát xâm phạm, tức là ông không đúng như cụ Trần Trọng Kim đã viết là ông quá nhát sợ vì Hình Sát cho đến Đồng Cự ở Mùi cũng đủ nghĩa cái tính cách thất thường và dễ nhầm lẫn (trường hợp này có Tuần có nghĩa là đã có sự giảm mức độ đến 30%). Còn nói gì đến Thiên Cơ (hãm) sự vụng tính của ông đưa thân thế thành bại liệt, quốc dân không tín nhiệm (Bệnh). Ông biết cởi cái giây oan nghiệt Hà Sát cho cái kiếp sống của ông bằng sự từ bỏ cái bả Hồng Lộc. Tiếc rằng ông có biết đâu chỉ một năm sau đại vận của ông đã chuyển đến Thìn cung, cái thế chánh nghĩa Quốc Gia (Thái Tuế) sẽ xuất hiện với Liêm trinh, Thiên phủ là cái vinh dự của người được liệt vào hàng Kinh bang tế thế đắc cách cả Tả, Phù, Khoa, Quyền, Lộc, đại tiểu trùng phùng, thì ông đã lỡ bỏ mất rồi.

Còn người đồng hội đồng thuyền với ông Phan Kế Toại là nhà học giả Phạm Quỳnh tự tin ở tài năng (Tả Hữu) và lòng nhân hậu của mình (Thiên Lương) hóa ra cũng bất tín nhiệm (Bệnh) bằng một dư luận kết án không được tốt đẹp, đành rằng Tiên sinh cũng khá sáng suốt (Nhật Nguyệt ở Mùi đắc Tuần, trường hợp này cũng chỉ là 30%) Tiên sinh vẫn bị Không kia không cản nổi lòng Tiên sinh thì làm sao cản nổi Hà sát thi hành sứ mạng. Vậy phải kẻ là ông Phan Kế Toại được nhờ cái Thân (hành động) gỡ rối cho ông khiến ông đi trúng con đường của vị trí Long Đức của Mệnh.

Ngày nay hai ông Phan Kế Toại và Phạm Quỳnh đều đã khuất bóng, tôi chỉ xin nêu ra cái lẽ biết ai là dại biết ai khôn. Đường đời ai chẳng muốn thẳng bước trên chỗ phẳng phiu mát mẻ, có ai là muốn chui luồn bụi dậm, nhưng cuộc thế nhân sinh ta không thể không có lúc phải chui vào bụi dậm cho đỡ nắng rát mặt mà không nên quá tự ái cứ dảo cẳng trên con đường rộng mà cây cao bóng mát không còn.

Phải chăng số là Kim địa bàn chỉ cho người đời biết hướng mà đi.

KHHB số 74C2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

 

61. Lá số và cuộc đời nữ minh tinh Hoài Mỹ (KHHB số 74c2)

0

LÁ SỐ VÀ CUỘC ĐỜI NỮ MINH TINH HOÀI MỸ


Sinh năm Ất Mùi, ngày 24, tháng Chín, giờ Tuất
Âm nữ, Kim Mệnh, Hỏa lục cục

Luận đoán của Lê Thanh Thái

Khái luận Mệnh, Thân và Cục

Tuổi Mùi thuộc Thổ, Kim mệnh lập tại cung Tí thuộc Thủy là bị sinh xuất lại gặp Hồng Đào, ngộ Linh, Kị, Xương hội Cô, Quả khiến nên khó nuôi từ sơ sinh, nếu không nhờ Khôi, Việt Phùng, Thiên, Nguyệt Đức và Quan, Phúc quí nhân tuổi này đã yểu vong vào những năm lên một, lên hai.

Cũng theo cung Mệnh, Hoài Mỹ duyên dáng nhờ Đồng, Âm, Hồng, Đào hội Thiên, Nguyệt đức, Khôi, Việt, Lộc, Quyền. Tuy nhiên, đã mấy lượt thi hoa hậu không chiếm vương miện chỉ vì Linh, Kị, Không, Kiếp, Song hao hiệp nhau phá tán. Vì đang tuổi hoa niên, đương số đi vào gốc đại hạn 16-25 tuổi ở cung Phụ Mẫu gặp Vũ Tham ngộ Kiếp, Không, Tướng, Phục, Liêm, Phá, Hình, Diêu, là sẽ còn gặp nhiều long đong ngang trái trên con đường phục vụ nghệ thuật cũng như tình duyên.

Thân cư Tài bạch tại cung Thân thuộc Kim hợp với Kim mệnh, tuy khắc với Hỏa cục, nhưng là Tích lịch hỏa không tác hại cho Sa trung Kim của Mệnh. Từ năm 36 tuổi trở đi, khởi vào trung vận, ảnh hưởng mạnh cung Thân cư ở Tài Bạch, gốc đại hạn đến cung Điền, có Tướng, Phủ ngộ Lộc hội Tứ linh, Thai, Tọa, bấy giờ sẽ nổi danh tài sắc một thời (Kim mệnh có Đồng, Âm, Hồng, Đào, Khôi, Việt, Cáo, Phụ trẻ dai và càng lớn càng đẹp), và bấy giờ cuộc đời ảnh hưởng vào cung tài bạch, mới hội đủ Hồng, Đào, Khôi, Việt, Quyền, Lộc, Xương, Khúc, Tả, Hữu, Nhật, Nguyệt, Sinh, Hỉ, Tấu. Chẳng những nổi tiếng trên đường nghệ thuật mà còn sống sung mãn về tiền bạc. Duy có điều con đường chồng con sẽ gặp nhiều lận đận chỉ vì Hồng Loan ngộ Kiếp sát, Thiên không hội Cô, Quả, Kình Đà ở cung Tài bạch có Thân cư.

Nhìn qua những cung nổi bật



Cung Thiên Di: Cung này vô chính diệu ngộ Triệt tại Ngọ, khắc Kim mệnh nhưng hợp với Hỏa cục. Đắc sinh vượng phùng “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” và hội Tả Hữu, Xương Khúc, Đào, Hỉ, Ân quang, Long, Nguyệt đức, Thiên khôi, Thiên trù là đương số được nhiều người mến thương giúp đỡ, nhất là được quý nhân nâng đỡ vào phút chót trong những lúc bị tiểu nhân đố kị làm ngăn trở con đường tiến (song Hao ngộ Linh, Kị, Đà). Chỉ vì Thiên Di có Triệt cho nên những bộ quý và cát tinh như Tả Hữu, Xương Khúc, Ân, Khôi, Long, Nguyệt, Sinh, Vượng bị tiết giảm khả năng giao huy tinh lực ở tuổi hoa niên, đồng thời các hung tinh song Hao, Linh, Đà, Kị tuy có phá tán buổi đầu cũng bị triệt giảm. Do đó, Hoài Mỹ tuy được nhiều người mến thương nâng đỡ như trong kỳ thi hoa hậu Tokyo chẳng hạn, vẫn bị đứng hạng 4 và trường hợp đóng phim “Trường tôi” đáng lẽ thủ vai chánh vẫn bị trục trặc để rồi đóng vai thứ sau Tuyết Lan. Từ trung vận trở đi, bọn hung tin đã giảm bớt hung hãn và bấy giờ cát, quí tinh mới phát huy tính dồi dào. Hoài Mỹ sẽ gặp nhiều may mắn hanh thông trên đường phục vụ nghệ thuật cũng như thu phục cảm tình của mọi người trong các lĩnh vực làm ăn khác.
Cung Tài bạch có Thân cư: Lập tại cung Thân thuộc dương Kim, cung này cũng vô chính diệu tọa thủ có Thiếu Dương đắc Nhật Nguyệt chiếu hưu không (Thiên không), hội Tả, Hữu, Đào, Hồng, Hỉ, Xương, Khúc, Lộc, Quyền, Khôi, Việt và Cơ, Lương, Cự Đồng miếu vượng hội Cáo, Phụ Thiên, Nguyệt, Long Phúc đức phùng Quan, Phúc quí nhân. Càng vào trong hậu vận tiền bạc càng dồi dào và sẽ giữ được chứ không còn bị hao tán như lúc thiếu thời. Bước vào đại vận 26 tuổi, tiền bạc đã bắt đầu dồi dào nhưng vẫn còn tụ tán bất thường, đến 36 tuổi trở đi, sẽ được hưởng cuộc đời tiền bạc sung mãn cho đến 66 tuổi vì nhờ cung Điền trạch và cung Quan lộc hợp với Hỏa cục và Kim mệnh, lại có nhiều cát, quí tinh tọa thủ và hội chiếu (Tướng Phủ ngộ Lộc tồn ở Điền, Cơ, Lương ngộ Quyền, Lộc, Khôi, Việt ở Quan đều là Nam đẩu tinh ảnh hưởng mạnh mẽ về trung và hậu vận.

Cung quan lộc: Lập tại Thìn có Cơ, Lương miếu địa ngộ Quang, Quí, Cáo, Phụ là Tứ vinh, hội Lộc, Quyền, Khôi, Việt, Quan, Phúc quí nhân, Thiên, Nguyệt đức, Đào, Hồng, Tấu, Hỉ. Cung quan lập tại tứ mộ là sinh phò Kim mệnh và gặp Tuần thuộc Hỏa hợp với Hỏa cục, nhưng con đường danh vọng của Hoài Mỹ gặp lận đận buổi thiếu thời chỉ vì sự bao vây của Tuần và sự xâm nhiễu của bọn hung tinh Linh, Kị, Cô, Quả, Kiếp, Không, La, Võng.

Cung phu quân: Lập tại Tuất, vô chính diệu tọa thủ, đắc Quang, Quí, Mộ hội Lộc, Quyền, song Hỉ, Sinh, Vượng phùng Cơ, Lương, Cự, Nhật miếu vượng phải muộn lập gia thất mới tránh được sự gãy đổ và phải gặp người lớn hơn ít nhất 10 tuổi, nếu gặp người đã gãy đổ một lần rồi mới hợp số (cung Phu có sao Mộ hội với Đà la, Hữu Bật, Cơ, Lương, Quả tú, Thai phụ). Gặp được người Thổ mệnh, trong các tuổi Dần Ngọ Tuất (chẳng hạn Mậu Dần, Canh Ngọ, Bính Tuất) rất tốt.

Nhìn qua những đại tiểu hạn

Năm lên 7, tiểu hạn nhi đồng vào cung Nô bộc, gốc đại hạn còn nằm ở Mệnh, lưu đại hạn đang ở Thiên Di, hội đủ Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Hồng, Đào, Hỉ, Khôi, Việt. Hoài Mỹ được chọn đóng trong phim Mưa lạnh Hoàng hôn, làm con của tài tử chính là cô Mai Ly.

Năm Nhâm Tí (1972) tiểu hạn 18 tuổi, vào cung Tài bạch, gốc đại hạn đổi lên cung Phụ mẫu, lưu đại hạn đến cung Thiên Di. Cũng hội đủ Khôi, Việt, Lộc, Quyền, tả, Hữu, Xương Khúc, Hồng, Đào, Hỉ, Hoài Mỹ được chọn đóng phim Vĩnh biệt tình hè.

Năm Quí Sửu (1973) tiểu hạn 19 tuổi vào cung Tật Ách, gốc đại hạn vẫn ở cung Phụ mẫu, lưu đại hạn cũng vào cung Tật có Tướng Phủ hội chiếu với Long, Phượng, Cái, Hổ phùng Lộc, Ấn, Thai, Tọa, Khốc, Hư và Tham, Vũ ngộ Hỏa tinh. Những tháng đầu năm, Hoài Mỹ dự thi Hoa hậu Tokyo, được nhiều giới tham quan và dư luận báo chí dành rất nhiều cảm tình, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ đứng hạng 4, chỉ vì bị Triệt án ngữ và Không, Phục, Toái xâm nhiễu. Giữa năm này Hoài Mỹ lại được mời đóng phim Trường Tôi, đáng lẽ thủ vai chính, nhưng lại gặp một vài trục trặc nhỏ, vẫn phải giữ vai thứ nhì sau Tuyết Lan.

Luận đoán tiểu hạn năm Giáp Dần (1974) của Hoài Mỹ

Tiểu hạn năm Giáp Dần đi vào cung Thiên Di, gốc đại hạn ở Phụ mẫu, lưu đại hạn đến cung Tài bạch. Năm này 2 hạn hội Khôi, Việt, Hồng, Đào, Hỉ, Âm, Dương chiếu hội Tả, Hữu, Xương, Khúc phùng Thiên Nguyệt đức, Quan, Phúc quí nhân. Năm này Hoài Mỹ gặp được nhiều may mắn trên lĩnh vực nghệ thuật, nhưng trong lĩnh vực tình cảm phải cẩn thận kẻo gặp một sự lầm lỡ mà ân hận suốt đời vì Âm, Dương, Xương, Khúc ngộ Đào, Linh, Kị, Đà.

Tháng Giêng và tháng 2 cẩn thận về tình cảm. Tháng 3, tháng 4, tháng 5 gặp nhiều may mắn trong lĩnh vực nghệ thuật, nên nắm lấy cơ hội. Tháng 6, phòng mất của và đề phòng trong mọi giao dịch về tình cảm, tránh tiệc tùng về đêm (Khoa, Mã ngộ Hình, Diêu, Không, Kiếp, Hổ, Tang). Tháng 7, gặp may mắn và rất tốt về tiền bạc. Tháng 8 cơ hội tốt trong lĩnh vực nghệ thuật. Tháng 9, phòng đau ốm lặt vặt vào đầu tháng, cuối tháng vẫn tốt về danh vọng. Tháng 10, coi chừng mất trộm, tránh dự tiệc ban đêm. Tháng 11, phòng tai nạn xe cộ dễ gây thương tích nhẹ. Tháng chạp, tốt về tiền bạc lẫn danh vọng, ăn một cái Tết vui vẻ, nhưng vẫn dè dặt trong mọi giao dịch về tình cảm, vẫn còn gặp nhiều giả dối ở lĩnh vực này. Nếu gặp người đứng tuổi (gấp rưỡi trở lên) cầu hôn, may ra mới tránh sự xâm nhiễu phá tán của hung tinh, tác hại con đường phục vụ nghệ thuật.
Saigon tháng Giêng năm Giáp dần (1974)
Lê Thành Thái
KHHB số 74C2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

60. Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số tử vi?

0

Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số tử vi ?



– Cụ Quản Văn Chính, cử nhân Việt Hán –

I.Mối tương quan giữa sao Chính thủ mệnh và cung An Mệnh cùng Bản Mệnh.

1/Sao chính diệu và cung an Mệnh. Thế nào là Miếu địa và hãm địa ?

Tỷ như sao chính thủ Mệnh là sao Tử vi mà đóng tại cung Ngọ thì được gọi là ông vua ở chính ngôi hay TỬ VI MIẾU ĐỊA bởi lẽ Tử vi thuộc hành Thổ đóng tại cung Ngọ thuộc hành hỏa, Hỏa sanh Thổ.

Nhưng thật ra việc ngũ hành sinh khắc ở đây có thể chỉ là việc thứ yếu. Theo nền triết lý của Á đông ta – mà thuyết chính danh, chính vị rất quan trọng, thì cung Ngọ được coi là cung chính yếu, là chỗ cao quý nhất dành cho vị chúa tể ở dưới đất là ông Vua mà ở trên Trời mà là ( Trời hay Vũ trụ Tử vi ) là sao Tử Vi, sao đầu trong hệ thống tinh tú của lá số.

Vì vậy mà theo nguyên tắc “ Song Phương “ Ngọ đối với Tí sao Tử vi đóng ngay cung Tí ( thuộc hành Thủy mà Thủy khắc Thổ cũng được coi là Miếu địa.
Nhưng cũng vì lẽ sinh khắc nên khi dạy đoán số tử vi sách đã phải viết:
– “ Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ “
– “ Mệnh tọa cường cung, tu sái chế đa chi lý “
Câu thứ nhất có nghĩa là, “ Sao đóng ở cung đã được ghi là Miếu Vượng thì phải nhớ, nhưng nếu muốn đóan cho đúng, cần xem kỹ lại để biết sao ấy sinh khắc thế nào với cung an Mệnh.

Đến đây tôi xin được mở một ngoặc lớn để trình bày với quý vị độc giả một nhận xét cá nhân như sau:
– Trang báo SM trước đây một bạn đồng nghiệp của tôi ông Đoàn Đình Quất có chủ trương dùng toàn chữ Việt để giảng giải về khoa Tử vi cho đỡ mất thì giờ của bạn đọc cũng như đỡ tốn giấy, tốn mực và phí công ấn loát. Đành là như thế, nhưng tôi thiết nghĩ việc xài chữ Hán Việt tức là chữ Hán theo mâu tự La Tinh trong việc nghiên cứu về khoa Tử vi rất có lợi.
Thứ nhất, những sách cổ viết về khoa này đều là những sách chữ Hán mà sự trích dịch ra chữ Việt đều bị ít nhiều sai lạc. Một chứng cớ thông thường nhất là trong sách chữ Hán có câu phú:

_ “ Tử Vũ tài năng cự tú Đồng Lương Xung thả hợp “

Hầu hết các sách viết bằng chữ Việt đều giảng là: Người có sao Tử vi và Vũ Khúc hợp với sao Đồng Lương là có tài năng . Thật ra, Tử vi đó là tên ông Tử Vũ chứ không phải Tử vi và Vũ Khúc.

Lại nữa, việc dùng chữ Hán Việt sẽ giúp những ai muốn nghiên cứu thật sâu rộng về khoa Tử vi, có thể làm quen với chữ Hán để một ngày kia đọc thêm những sách do chính Trần Đoàn viết mà Trần Đoàn, vị Tổ Sư của khoa tướng số là một người Trung Quốc sanh vào đời Tống sơ. Thêm vào đó, khi sang Đài Loan vào năm 1964 để nghiên cứu về khoa trắc nghiệm tâm lý, tôi đã có dịp làm quen với mấy nhà tri thức chuyên khảo cứu khoa Tử vi. Họ cho biết rằng:

– Hiện nay ở Đài Loan người ta không còn lập cung mệnh cho những người sanh tháng nhuận một cách máy móc là ngày đầu trong tháng nhuận tính như 15 ngày đầu của tháng chính và 15 ngày sau tính vào tháng tiếp. Nay, người ta căn cứ vào tiết của tháng chính tháng nhuận để quyết định.
Cũng như việc giáp giờ người ta không lấy cả hai lá số để xem giờ nào hợp hơn mà người ta đếm khoáy trên đầu.

Vì mới biết lối mới này có 7, 8 năm nên tôi chưa dám nói lối nào đúng hơn tôi chỉ xin nói để làm tỷ dụ rằng biết đọc chữ Hán lợi lắm cho việc nghiên cứu tử vi, cũng như muốn giỏi về khoa chỉ tay mà không đọc được sách của Cheiro viết bằng tiếng Anh hay sách của Capitaine d’Arpentigny viết bằng tiếng Pháp thì không sao giỏi được.
Vì những lẽ đó mà tôi ưa dùng chữ Hán Việt.

Trở lại mối tương quan, không những Tử vi đóng tại cung Ngọ là miếu địa, mà tại cung Tí hay Dần Thân cũng là Miếu, dù hai hành không tương sinh.

Vì thế Miếu hay Hãm không chỉ căn cứ vào luật Ngũ hành mà quyết định, mà còn căn cứ cả vào học thuyết Chính danh Chính vị nữa ! Thật là phiền phức, cũng như tất cả những điều phiền phức khác mà tôi đã nêu ở trên. Vì thế là con người khá thực tế trong công việc nghiên cứu tôi đã hơn một lần định chỉ học kỹ về khoa xem chỉ tay rồi hiện nay, tôi tránh né những khó khăn của Tử vi bằng khoa xem chỉ tay.

Vì tránh né nên tôi cũng không quá nệ sách, tôi chỉ dùng có 2 trường hợp: sao chính diệu đắc địa hay hãm địa mà thôi.

Đến đây để câu chuyện đỡ khô khan, tuy tôi đã đưa ra rất nhiều nhận xét có thể gọi là mới mẻ và hấp dẫn tôi xin dẫn ít nhiều tỷ dụ cụ thể để chứng minh rằng sao chính diệu đóng tại miếu địa tốt ra sao và hãm địa xấu thế nào ?

Chắc quý vị độc giả còn nhớ lần trước tôi có ghi lá số của tuổi Tân dậu tháng 9 ngày 23 giờ thìn, người thanh niên này nhờ có sao Tử Vi cư Ngọ mà mới chưa đầy 30 tuổi đã công thành danh toại với chức vụ Tri huyện vào năm 1944, tức là mới có 22 tuổi đã xong cử nhân luật trong thời Pháp thuộc tại Hà Nội trong khá nhiều bọn đồng tuế lẹ lắm là đỗ xong tú tài II hay một hai phần cử nhân là nhiều.

Nhưng vì Mệnh của ông ta thuộc hành Mộc, đóng tại cung Ngọ, hành hỏa nên…. ( xin quý vị độc giả viết tiếp cho )

Trái lại ông sau này tuổi Bính Thìn sanh vào tháng 5 ngày 20 giờ Tí thì thật là tốt.
– Mệnh hành Thổ Ngọ cung hành Hỏa sanh Thổ, nên chưa đến 40 tuổi đã làm đến Thượng Thư đúng như câu phú:

– “ Tử vi cư Ngọ, vô sát tấa vị chí công khanh “

Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung ?

Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn I. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia “ cường nhược “ này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là “ về phụ nữ , cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.

Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tí được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:

– Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy: “ Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý “. Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tí hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa ( thay đổi thêm bớt ) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề.

– Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tí và Ngọ ?

Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa , sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tí thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tí là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.

– Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tí, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh ) và xấu ra sao ?

Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÍ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là “ Nhược cung “ mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tỵ Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh ?
– Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.

Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay ( hay Bình hòa ) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.

Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.

Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh ( hãm địa ) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.
– Đinhh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng “ Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu “

Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là “ Cường “ vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tỵ Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh !

Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung “ nhược “ nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi “ trú ngụ “ của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.
Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái “ chế hóa “ để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.

3/ TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:

Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tỵ Hợi,

“ Liêm , Tham, Tỵ , Hợi hình ngục nan đào “ hai chính tinh này đóng ở Tỵ Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội “
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.
a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kị cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kị là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.

b/ Tham Liêm đóng tại cung Tỵ mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kị lại tốt vì tuy Hóa Kị ( thủy ) khắc Liêm ( Hỏa ) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.

(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất )
Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.
Tôi chỉ gặp trường hợp:

– Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn ( dương nam ) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kị.

– Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ ( nữ )

Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

59. Mệnh – viên có chính tinh mà kể như không có chính tinh (KHHB số 14)

0

Mệnh – Viên có chính tinh mà kể như không có chính tinh

 

Nhóm tác giả: Ân Quang
Tạp chí KHHB số: 14

Chúng tôi xin thanh minh rằng khi viết bài này chúng tôi không hề có ý bênh vực riêng cụ BaLa, mà chỉ nhằm nêu lên một quan điểm về Tử vi. Chúng tôi là Ân Quang ở Nha Trang, nghiên cứu Tử vi đã lâu nhưng không có dịp đi lại với cụ BaLa, chúng tôi chỉ được biết về cụ, vì ông ngoại chúng tôi xưa kia từng giao dịch với cụ, từ ngày cụ ở Hà Đông.

Khi nói rằng: “Mệnh có chính tinh mà kể như không có chính tinh”, có lẽ cụ BaLa đã căn cứ vào quan niệm nghiên cứu Tử vi trong thế hệ của Cụ, hoặc những thế hệ trước Cụ.

Chúng tôi xin dẫn chứng như sau:

1. Trong sách “Tử vi chỉ nam” trang 161, tác giả Song An Đỗ văn Lưu có viết:
“Cung Phu có Tham ngộ Đào mà mệnh có chính tinh thì làm vợ cả và chồng tử tế.”
Dĩ nhiên là tác giả phải căn cứ vào một kinh nghiệm, hoặc một tài liệu đã có trước đó để viết như vậy.
2. Trong cuốn “Tử vi đẩu số thực hành” của Lượng Quới Nhơn, mới xuất bản gần đây, có bài đoán Tử Vi của cụ Bảng nhãn Lê quí Đôn có câu:
“Phu Quân có Tham Lang vì
Chính tinh làm cả, bàng thì làm hai”.

3. Lại có câu: “Tham Lang ngộ Phu Quân, Mệnh chính tắc đích, bất chính tắc thiếp”.

Xét kỹ thì thấy rằng hễ cung Phu đã có sao Tham Lang, tất nhiên Mệnh phải ở chính tinh là sao Thiên Tướng. Cung Phu đi xuôi đến cung Huynh rồi đến cung Mệnh. Tham Lang ở cung Phu, đi xuôi đến Cự Môn ở cung Huynh, rồi đi xuôi nữa đến Thiên Tướng ở cung Mệnh. Hễ cung Phu đã có sao Tham Lang thì Mệnh phải có chính tinh Thiên Tướng đứng một mình, hoặc đứng chung với chính tinh khác thành Tử Tướng, Liêm Tướng, Vũ Tướng.

Sao lại nói rằng cung Phu có sao Tham Lang mà Mệnh vô chính diệu thì làm vợ lẽ?
Làm gì có trường hợp cung Phu có sao Tham Lang mà Mệnh vô chính diệu.

Vậy thì chỉ còn hai giả thuyết:
[indent]

  • Một là, chữ “Chính” và chữ “Bất chính” trong câu chữ Hán đã bị suy diễn lầm và dịch ra: “Cung Phu có sao Tham Lang, mà mệnh vô chính diệu thì làm vợ lẽ”. Nếu quả như vậy thì chữ “Chính cần hiểu là chính đinh, đối lại với bất chính.
  • Hai là, không nhất thiết chỉ dựa vào có một câu chữ Hán kể trên, mà các học giả Tử vi thời xưa còn có một quan niệm về chính tinh bị lạc hãm, là bị rơi rớt, bị che lấp đi, trở thành vô uy lực, và do đó bị coi như là vô chính diệu.

[/indent]Nhưng cung Phu có sao Tham Lang, đương nhiên mệnh có sao Thiên Tướng. Nếu sao Thiên Tướng này bị Triệt, thì thật là Tướng chẳng ra Tướng vậy. Nếu nói là có, thì cũng chỉ là vớt vát mà thôi. Nếu nói rằng không, thì cũng gần như là không có vậy.

Vì thế mà cụ Lê quí Đôn đã có câu:
“Phu Quân có Tham Lang vì
Chính tinh làm cả, bàng thì làm hai”
Cho dù câu này không hẳn là của cụ Lê quí Đôn, chúng ta cũng có thể tin là của một vị nào đó, thuộc thế hệ trước đây rất lâu.

Khi nghiên cứu một lá số Tử vi, chúng ta phải làm hai công việc: áp dụng một số công thức, và phải có tinh thần diễn dịch. Việc nghiên cứu Tử vi kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Người nghiên cứu có quan niệm về định mệnh như thế nào thì sẽ tâm niệm rằng Khoa Tử vi giải đáp những thắc mắc của mình theo chiều hướng ấy. Nếu đã quan niệm rằng mỗi sinh hoạt nhỏ hằng ngày như ăn, uống,… đều được an bài từ trước, thì người nghiên cứu Tử vi lại muốn tính đến “Lưu Nhật” xem được ăn món gì trong ngày. Nếu có một nhân sinh quan như vậy thì sẽ nặng tinh thần công thức, máy móc khi nghiên cứu một lá số Tử vi.

Khi đã quan niệm về một định mênh tương đối. Khi đã quan niệm rằng con người có thể nương theo một số quy luật trong vũ trụ để cải thiện phần nào cuộc đời của mình, thì người nghiên cứu Tử vi lại nhẹ tinh thần công thức mà có tinh thần diễn dịch nhiều hơn, chú trọng đến luật tương quan tương đối nhiều hơn,…
Chúng tôi thấy rằng cần phải rút tỉa một nhân sinh quan trung thực của Tử vi Đẩu số, rồi mới làm sáng tỏ được một chiều hướng nghiên cứu. Nếu mỗi người nghiên cứu cứ giữ cái nhân sinh quan riêng của mình, thì khó có thể “Chính Danh” cho các yếu tố trong Tử Vi còn nói gì đến việc làm sáng tỏ một quan niệm nào đó khi nghiên cứu một lá số.

Trở lại với vấn đề “Có chính tinh mà coi như Vô chính diệu”.

Nếu người nghiên cứu nặng tinh thần công thức, không xét đến luật tương đối tương quan thì “Có Chính tinh phải gọi là có Chính tinh”.
Nhưng nếu quá nặng tinh thần công thức, máy móc thì người nghiên cứu Tử vi dễ gặp trường hợp trớ trêu như thấy sao Thái Âm cư Tí, Hồng Đào thủ Mệnh, không gặp hung sát tinh mà đương số vẫn da đen, tóc quăn, hoặc có Tham Lang hay Liêm Trinh miếu vượng thủ Mệnh mà đương số cũng chẳng cao lớn là mấy, vì các đương số chịu ảnh hưởng di truyền, cha mẹ thuộc hàng chủng tộc da đen, lùn,…. Hoặc là áp dụng tinh thần công thức, máy móc, căn cứ vào các vị sao để đoán rằng đương số có sáu người con. Trong khi đó đương số chỉ có ba người con, vì đã áp dụng khoa giải phẫu để cai đẻ.

Đến đây chúng tôi nêu lên một vấn đề là chúng ta có nên hoàn toàn nghiên cứu Tử vi trong tinh thần công thức, máy móc không? Hay là vừa áp dụng tinh thần công thức, vừa áp dụng tinh thần diễn dịch? Nếu áp dụng tinh thần công thức tuyệt đối thì Mệnh có Chính Tinh phải gọi là có chính diệu.

Nếu chỉ nghiên cứu Tử vi trong tinh thần công thức thuần túy thì chúng ta sẽ gặp nhiều trường hợp trớ trêu như đã kể trên.
Tinh thần công thức cũng không thể giải thích được trường hợp cùng ngày giờ sinh như nhau, mà một người thì làm vua, một người kia thì làm nghề nuôi ong; hoặc người này làm quan, người kia làm phù thủy cao tay (đã có giai thoại Tử vi về trường hợp này).
Đó là chuyện xưa. Ngày nay, dù không làm một cuộc thống kê, chúng ta cũng có thể tin chắc rằng có nhiều người sinh ra trong cùng một ngày giờ.
Tinh thần công thức Tử vi không giải thích được hết mọi sự sai biệt.
Nếu như đã dung hòa tinh thần công thức và tinh thần diễn dịch thì cũng có thể quan niệm rằng mệnh có chính tinh mà có trường hợp “ví như” là Vô chính diệu vậy.

Không riêng gì bài đoán Tử vi của cụ Lê quí Đôn, chúng tôi còn gặp trong nhiều sách Tử vi khác nói rằng: “Tham Lang cư Phu Quân, mà Mệnh Vô chính diệu thì làm vợ lẽ”. Cung Phu có sao Tham Lang thì Mệnh bao giờ cũng có chính tinh. Vì áp dụng tinh thần diễn dịch mà “coi như là Vô chính diệu” khi thấy chính tinh thủ Mệnh bị phá, hãm quá nhiều. Thí dụ như Thái Dương cư Hợi là hãm, lại gặp Hóa Kị là bị che lấp đi quá nhiều.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

58. Kinh nghiệm tử vi: Những ưu khuyết điểm và những điều phức tạp về mệnh VCD (KHHB số 74c2)

0

Kinh nghiệm tử vi:
Những ưu khuyết điểm và những điều phức tạp về Mệnh “Vô chính diệu”


Phong Nguyên

Trong nhiều sách Tử Vi, cũng như trên tờ giai phẩm KHHB này đã có nhiều lần bàn về “ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”; nhưng vì đề tài này rất bao la nên tôi tưởng không phải là vô ích khi đưa ra những chi tiết và kinh nghiệm dưới đây để qúy bạn tìm hiểu dễ dàng và chính xác hơn về Mệnh Vô Chính Diệu.
Thực vậy, từ trước đến nay, mỗi khi gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, chúng ta thường thường chỉ biết căn cứ vào những câu phú quen thuộc như:
–Mệnh Vô Chính Diệu phi yểu tắc bàn.
– Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam không nhi phú qúy khả kỳ.
– Tam không độc thủ phú qúy nan toàn.
– Xét xem phú qúy mấy người, Mệnh Vô Chính Diệu trong ngoài tam không …
Chứ làm gì có một hệ thống hoặc tài liệu chi tiết nào về trường hợp trên, đành rằng có những nhà tử-vi rất thông suốt về Mệnh Vô Chính Diệu nhưng rất tiếc các vị đó lại không chịu đem ra cống hiến. Vì vậy tôi mạo muội gom góp những chi tiết đã thâu lượm được và tạm chia làm hai phần:
– Những ưu khuyết điểm về Mệnh Vô Chính Diệu.
– Những điều phức tạp về Mệnh Vô Chính Diệu.

1-NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU


A) Những khuyết điểm

Hầu hết các nhà tử-vi đều không khen những lá số có cách Vô Chính Diệu tại Mệnh vì cho rằng những cách này có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Những khuyết điểm chính như sau:

1) Căn bản không vững
Căn bản ở đây không có nghĩa là khả năng hoặc tài năng mà chỉ có nghĩa là môi trường của mình. Mệnh Vô Chính Diệu (tức là không có chính tinh thủ mạng) bao giờ cũng phải tuỳ thuộc vào chính tinh ở cung xung chiếu, và khi đã phải tuỳ thuộc tức là không có căn bản vững, hoặc nói nôm na là không có gốc. Nếu không được cung xung chiếu có sao tốt lại phải hướng sang hai cung hợp chiếu (Tài và Quan) mà ảnh hưởng sẽ yếu hơn nhiều và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nữa. Vì vậy, dù cho người Mệnh Vô Chính Diệu có tài năng, thông minh (do các yếu tố tử-vi khác cho hưởng) rất dễ bị thăng trầm về sự nghiệp khi gặp Đại tiểu hạn giao động mạnh, không khác gì căn nhà không có cửa bị cơn gió lốc thổi thốc vào làm tan tác cả căn nhà, trừ trường hợp có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hơn nhiều.

2- Khó đóng vai trò chính
Như trên đã nói, Mệnh Vô Chính Diệu không khác gì căn nhà không có cửa dễ bị ảnh hưởng của thời tiết cũng như ngoại cảnh. Do đó người Mệnh Vô Chính Diệu (dù Đắc Tam Không) không thể và không nên giữ vai trò chính trong bất cứ lĩnh vực, cảnh ngộ nào, từ xã hội, gia đình cho đến hôn nhân. Chính cụ Hoàng Hạc cũng đã nêu trên KHHB trước kia là gặp trường hợp này nên cam phận làm “phó” thì yên thân, nếu làm chính dễ bị mất chức. Riêng tôi, tôi còn nói thêm rằng ngay trong gia đình cũng vậy, người Mệnh Vô Chính Diệu cần phải là con thứ hoặc nếu chẳng may là con trưởng thì cần phải là con bà vợ sau của cha mình (tức là bà vợ chính không có con trai). Như thế mới có thể sống lâu hoặc mới có công danh khá được. Thậm chí đến vấn đề hôn nhân, người Mệnh Vô Chính Diệu nên chịu làm “kẻ đến sau” thì cuộc sống dễ thịnh vượng hơn, còn trường hợp vợ mình là chính chuyên thì đương nhiên bị thiệt thòi về sự nghiệp. Đó là một điểm “hận” lớn lao cho người Mệnh Vô Chính Diệu. Kể ra cũng chẳng có gì khó hiểu, vì khi căn nhà trống (vô chính diệu) thì ta cần có một cái vật gì đó che bớt cho khuất gió, tuy hơi trở ngại nhưng đỡ bị tan tác khi có gió mưa lớn. Về người cũng vậy, nếu có người khác “đứng mũi chịu sào” thì khi gặp trách nhiệm lớn lao mình làm phó đâu có chịu lỗi nhiều hoặc gánh vác nhiều, dù cho mình có nhiều khả năng chăng nữa. Còn về hôn nhân tuy không đặt vấn đề trách nhiệm nhưng phải có cái gì đó “án ngữ“ gián tiếp, ví như Tuần, Triệt vậy.

3) Khó phát sớm
Trừ một vài trường hợp đặc biệt, tôi nghiệm thấy các người mệnh vô chính diệu đều không phát khi còn trẻ, không khác gì một cái cây non khi mới nẩy mầm nơi đất xấu, phải trông cậy vào phân bón hoặc mưa nắng thuận hòa mới dần dần vươn cao, có hoa có lá. Vì vậy, nếu qúy bạn có Mệnh Vô Chính Diệu cũng đừng bao giờ qúa thất vọng khi thấy sự nghiệp, công danh của mình phát chậm, miễn là những đại vận từ trung vận trở đi không quá tệ. Nếu qúy bạn nào phát sớm trong trường hợp này tưởng cũng không nên qúa mừng và tự tin vì không khác gì “hoa sớm nở tối tàn” về công danh cũng như về tuổi thọ. Để cho dễ hiểu, tôi xin đơn cử một thí dụ: một đứa bé sơ sinh nếu ra đời non hoặc qúa yếu đuối ngay từ lúc lọt lòng mẹ, nếu cứ cho uống đủ các thứ thuốc bổ để mau mập mạp, khoẻ mạnh không thể đúng cách bằng nuôi nấng một cách điều độ cho khoẻ mạnh lần lần. So với Tử vi cũng vậy, nếu Mệnh Vô Chính Diệu mà gặp ngay Đại Hạn kế tiếp thật tốt rồi những đại hạn sau xấu thì không thể nào hay bằng đại hạn kế kém nhưng những đại hạn sau tốt đẹp, để cho mệnh đủ thời gian hấp thụ các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu, như thế mới đủ khả năng sử dụng các đại hạn tốt một cách vững bền.

4) Nghị lực kém:
Khuyết điểm sau chót của người Vô Chính Diệu tại Mệnh là khó lòng họ có can trường hoặc tinh thần dũng mãnh cương nghị, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng vậy. Điều này cũng rất dể hiểu vì khi mình nhờ vả ai (tức là Mệnh nhờ các cung chiếu) thì mình phải chịu ảnh hưởng của người đó, nếu không muốn nói là lệ thuộc và khi đã ở cảnh ngộ như thế thì làm sao giữ vững được lập trường. Tuy nhiên, nếu Mệnh chịu ảnh hưởng của cung Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ hơn nhiều, vì Tài Quan là các cung của cá nhân mình, thì chỉ ngại cung Thiên Di, nếu có các chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều thì sự lệ thuộc vào ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn vì cung Thiên di tiêu biểu cho giới giao thiệp, bạn bè trong xã hội (Tôi sẽ bàn về cung Thiên Di trong một bài riêng biệt). Vậy quý bạn cần chú ý đến điểm này khi cân nhắc về nghị lực của người Mệnh Vô Chính Diệu.

Những ưu điểm
Chắc qúy bạn nào có Mệnh Vô Chính Diệu sau khi đọc những điểm trên đây đều thất vọng cho số phận của mình, nhưng thực ra con người Mệnh Vô Chình Diệu lại có những điểm độc đáo khác mà những người khác ít khi có.1) Đa năng mẫn tiệp
Khi Mệnh đã “bỏ ngõ” tuy dể bị ảnh hưởng của các sao xấu bên ngoài nhưng cũng tiếp nhận dễ dàng những tinh hoa của các cách tốt chiếu về, nếu có. Do đó, người Mệnh Vô Chính Diệu (khi lớn tuổi) thành công dễ dàng nhưng tuần tự trong mọi lãnh vực do khả năng tìm hiểu, tò mò, kiên nhẫn của mình, mức độ thành công tùy theo các cách tốt trong tử vi. Vì thế, trong nhiều sách như cuốn Tử-Vi Đầu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang đều nói rằng người Mệnh Vô Chính Diệu khôn ngoan sắc sảo là thế. Nếu qúy bạn là Chủ nhân hay Giám đốc thì nên dùng người Mệnh Vô Chính Diệu vì họ rất chịu khó học hỏi, có lương tâm nhà nghề, có óc cầu tiến, nhưng đừng bao giờ dùng họ trong vai trò chủ chốt như đã nói trên để cho họ khỏi bị mất chức. Đến như Khổng Minh kia (cung Mệnh Vô Chính Diệu) tuy tài ba phi-thường như thế mà cũng đành phải chịu làm cố vấn, quân sư cho kẻ khác, chứ đâu có xưng vương đồ bá gì nổi …

2) Ít bị tai nạn
Tôi xin nói ngay là người Mệnh Vô Chính Diệu bớt được nhiều tai nạn chứ không phải là chẳng bao giờ bị tai nạn. Sở dĩ họ được điểm may như vậy là vì Mệnh Vô Chính Diệu khi gặp Đại tiểu hạn Sát Phá Liêm Tham và hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi Mệnh có chính tinh lại không hợp và có khi còn bị nguy hại. Như vậy là Mệnh VCD đã bớt đi một số yếu tố tai hại vì đã quen với hung tinh.
Vì theo nguyên tắc chỉ có hung tinh mới gây ra tai ương nhiều hơn các sao khác, vì các bại tinh chỉ gây thất bại hoặc bịnh hoạn chứ ít khi đem đến tai nạn như hung tinh. Như vậy kể ra cũng công bằng vì người Mệnh Vô Chính Diệu thường hay khổ về tinh thần thì ít ra cũng phải bớt được tai ương nhiều.

3) Dễ thích ứng với hoàn cảnh
Mệnh Vô Chính Diệu chẳng khác gì Mệnh trung lập, gặp đại vận nào cũng thích ứng được không bị cảnh “chéo cẳng ngỗng” như Mệnh có chính tinh, do đó đỡ bị gặp bước đường cùng (Đây tôi không nói về thọ yểu mà chỉ bàn đến công danh, sự nghiệp, vì lẽ tất nhiên gặp hạn xấu qúa thì phải chết). Thí dụ như hạn gặp Tuần, Triệt hoặc Thiên Không đối với Mệnh có chính tinh (nhất là sao Tử-Phủ) thì rất tai hại, bất lợi nhưng đối với Mệnh Vô Chính Diệu lại hay vì không khác gì nhà cửa đang trống trải bị gió thốc vào nay lại được lắp cửa ngõ đàng hoàng (tức là Tuần Triệt, Thiên Không) thì căn nhà yên ổn biết bao. Tôi đã được xem nhiều Lá số vô chính diệu, có người bị thăng trầm luôn luôn nhưng gặp hoàn cảnh nào cũng thích ứng được rồi dần dần ổn định

II- NHỮNG ĐIỂM PHỨC TẠP VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU

Tôi có thâu thập được khá nhiều điểm phức tạp về cách giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu, nhưng chỉ xin nêu ra những điểm chính và quan trọng (tôi không nhắc lại những điểm đã bàn tới trên KHHB) để qúy bạn đỡ bị lúng túng khi quyết đoán:

1) Đắc Tam Không
Thường thường các nhà tử vi đều chê rằng Mệnh Vô chính diệu chỉ tốt khi đắc tam Không (tức là có Tuần, Triệt, Địa không hoặc Thiên không tôi không bàn chứ “Không” ứng cho những sao nào kể trên vì có vị không công nhận Tuần là “Không”, có vị lại bảo rằng Thiên Không mới không phải là “Không” nhưng chưa có ai chứng minh được hợp lý), và cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử vi chỉ nam) có nêu ra thêm là mạng Hỏa và Kim mới hợp với cách này nhất. Điểm này chỉ đúng khi đương số là con một, mà tôi đã bàn trên KHHB rồi. Ngoài ra, quý bạn còn phải phân biệt như sau:
-Nếu mạng có nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ mà có một Không án ngữ và hai Không chiếu về thì đừng nên ham cách “Đắc tam không” nữa vì các trung tinh bị mất hiệu lực. Trong trường hợp này chỉ nên có Tam không ở 3 phương chiếu về là hơn, nếu không thì chẳng cần đủ 3 Không mới khỏi tai hại cho Mệnh.
-Khi nào Mệnh không chính tinh mà chỉ có toàn bại tinh hoặc bàng tinh không quan trọng mới cần có một “Không” án ngữ, nhưng lại có điểm thiệt thòi là các cách hay ở bên ngoài khó bổ túc cho Mệnh vì bị “Không” ngăn trở, thành ra chưa hẳn là hoàn toàn có lợi. Về trường hợp này nhiều vị cho rằng nên có Thiên không hoặc Địa không hơn là Tuần, Triệt vì hai sao Thiên Địa Không không ngăn trở sự xâm nhập hoặc ảnh hưởng của các sao bên ngoài.
2) Không đắc Tam Không
-Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu không đắc Tam Không, tức là chỉ có Nhất, Nhị Không (ít khi không đắc Không nào) chưa hẳn là kém Tam Không và cũng không ngại “phi yểu tắc bần”, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.Chỉ có điểm cần nhất là cung Phúc Đức không được xấu vì Mệnh yếu sẵn rồi phải nhờ vào cung “gốc” là cung Phúc Đức để tránh vấn đề kém thọ trước đã rồi mới tính đến công danh, sự nghiệp qua các cung hợp chiếu và đại hạn. Tôi đã được xem nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu chỉ có đắc Nhất Không mà vẫn phú quý và chẳng hề chết non, nhưng những lá số này không có cái nào có cung Phúc Đức xấu.

3) Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa

Cách này chắc nhiều bạn đã biết và nhiều nhà tử vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều :
– Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (như: Địa Kiếp, Hỏa Linh, Phục Binh…) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình, như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã.
– Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi.
– Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Hư để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiều sâu cho mặt trời, mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được

4) Đại tiểu hạn
Đối với Mệnh Vô chính diệu, việc giải đoán Đại tiểu hạn khác hẳn đối với Mệnh có chính tinh thủ Mệnh. Vì Mệnh vô chính diệu có khả năng hấp thụ đủ mọi cách, từ cách Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng lương cho đến cách Sát Phá Liêm Tham cùng với hung tinh đắc địa, chẳng bao giờ không ”ăn khớp” với các cách này. Tuy nhiên, chỉ ngại đi đến Đại tiểu hạn cũng Vô chính diệu lại không có Không nào thì khác nào một cái nhà trống, không cửa ngõ lại ở trên một khu vực “đồng không mông quạnh”, làm sao chống lại được mưa gió hoặc bị ảnh hưởng của bên ngoài, như thế tức là làm ăn thất bại dễ dàng, sự nghiệp suy sụp mạnh mẽ.
Qua những điểm tôi trình bày trên đây, chắc hẳn qúy bạn đều nhận thấy rằng dù sao người có Mệnh Vô chính diệu vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi, nhất là đối với ai ham công danh, quyền chức lớn, mặc dù họ có nhiều tài năng đôi khi xuất chúng, nhưng tài để phục vụ cho kẻ khác (nhiều khi kém mình) thì tưởng cũng là điều không hấp dẫn.Chỉ đối với ai có đầu óc triết lý, ưa sống về tinh thần, ưa nghiên cứu về lý số, biết an phận thời may ra mới hợp cách Mệnh Vô chính diệu, dù đắc Tam Không hay Không.
KHHB số 74C2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

50. Lá số và cuộc đời nam ca sỹ Elvis Phương (KHHB số 74d1)

0

Lá số và cuộc đời nam ca sỹ ELVIS PHƯƠNG


Sinh năm Giáp Thân
Ngày 19 tháng Chạp, giờ Sửu
Dương Nam, Thủy Mệnh, Thủy Nhị cục

Luận đoán của Lê Thanh Thái

Khái luận về Mệnh, Thân và Cục

Tuổi Dương thủy , lập mệnh tại cung Tí thuộc cung dương thủy và chính tinh thủ Mệnh là Nam đẩu tinh Thất sát thuộc Kim là mệnh được tương sinh, hiềm vì nam đẩu tinh Thất sát chỉ phát huy tinh lực dồi dào vào trung và hậu vận, thành thử tiền vận bị đám hung tinh Kiếp, Phục, Hình, Diêu hiệp nhau phá tán khiến cho dù Sinh, Vượng, Khoa, Quyền, Long, Hổ, Cái (tuy thiếu Phượng đắc Thanh Long cư Thìn hội Long trì tại Mệnh) có sớm đưa Elvis Phương lên đài danh vọng, tên tuổi có chói sáng trên vòm trời ca nhạc, cũng vận lận đận về hạnh phúc gia đình (Hình, Diêu) và hao tán tiền bạc (Kiếp, Phục lôi kéo bản chất là của Thất Sát dễ đưa đương số vào chốn ăn chơi trác táng). Đương số phải chịu đổ vỡ tình duyên và hao tán tiền bạc cho đến hết năm 32 tuổi, mới tạm yên phần nào, vì bấy giờ cuộc đời đã ảnh hưởng nhiều qua cung Thân cư ở Phúc đức.
Thân cư Phúc đức lập tại Dần thuộc cung Dương mộc, đắc Hóa Lộc cư Phúc đức ngộ Mã hội Tham Vũ chiếu là số sống trong tiền bạc, hiềm vì có Liêm Trinh đồng cung thuộc Hỏa khiến cho tiền bạc tuy có vào nhiều, nhưng lại tiêu pha cũng không ít, mà tiêu pha vì bạn gái (Liêm trinh còn là Đào hoa thứ hai, khi sao này miếu vượng, cư Mệnh, Thân). Hóa Lộc còn gặp Lộc Tồn hội Tử, Phủ, Vũ, Tướng miếu vượng, tuy có hưng vượng về trung hậu vận, nhưng đương số là Thủy mệnh thành thử chỉ được ảnh hưởng phần nào thôi. Tuy nhiên suốt đời vẫn sống trong tiền bạc, mặc dầu có đôi lúc chật vật cũng vì bạc tiền nhưng không đáng kể.

Thủy cục, Thân cư Phúc đức tại Dần thuộc Mộc là bị tiết giảm, tính theo vòng Cục, cung Dần lại thuộc Lô Trung Hỏa, khiến nên lúc trẻ tuổi tuy làm rất nhiều tiền (ảnh hưởng Hóa Lộc, nhưng bao nhiêu củi mà chụm cho vừa lửa lò với sức cháy của Liêm trinh) cho nên tiêu ra rất nhiều. Sau 32 tuổi, ảnh hưởng vào trung hậu vận, bấy giờ mới ảnh hưởng vào Lộc Tồn, tuy tiền bạc không vào ồ ạt như Hóa Lộc nhưng vẫn được an hưởng (nhờ Lộc, Mã, Ân quang hội Tử, Phủ, Vũ, Tướng).

Nhìn qua những cung nổi bật

Ngoài 2 cung Mệnh và Phúc đức đã luận qua, cung Quan Lộc nổi bật trong lá số này. Cung Quan lập tại Thìn có Hóa Quyền thuộc Thổ ngộ Long Cái, Hổ, Sinh, Vượng, Đới, Khốc, Quyền hội Thiên tướng, Quốc Ấn, Thiên Quý là danh vọng đến sớm, hiềm vì Phá Quân cư La Võng thành thử Elvis Phương phá ngang con đường học vấn mà đi vào lĩnh vực nghệ thuật theo ảnh hưởng của Diêu, Cái, Hổ, Tang, Sinh, Vượng để rồi ngày càng sáng chói tên tuổi.

Cung Tài bạch lập tại cung Thân thuộc Kim sinh phò cho Thủy Mệnh. Cung này có chính tinh Tham Lang không được sáng sủa hoặc ngộ Triệt đáo Kim cung, hội Lộc Mã Quyền, Quang Quý, Long Phượng Cái Hổ và giáp Hồng Đào là sớm làm ra rất nhiều tiền nhưng tụ tán bất thường, sau 32 tuổi vận hạn ảnh hưởng vào Thủy Cục, bấy giờ Triệt giảm sút khả năng án ngữ, nhưng nhờ có Sinh, Vượng hội Song Lộc, Mã, Quyền, Quang, Quý, tiền bạc không bị hao tán như trước.

Cung Thê Thiếp lập tại Tuất khắc Mệnh và Cục, có Tử Phủ Vũ Tướng hội Khoa, Mã, Quyền, song Lộc. Hiềm vì Thủy mệnh chỉ hợp với Thiên Tướng, lại bị Phá quân hợp với La, Võng Tang Điếu và Địa không, Đẩu quân bao vây làm cho Thiên Tướng bị tiết giảm tinh lực, khiến cho nên đương số lận đận trong vấn đề hạnh phúc gối chăn. Từ năm 27 tuổi vừa chôn người vợ đầu, đến năm 30 tuổi cưới Cát Phương, thì đầu năm 31 tuổi (1974) đã mỗi người mỗi ngả. Với cung Thê thiếp này, Elvis Phương khó gặp được hạnh phúc gia đình, dù được nhiều người đẹp ái mộ, rốt cuộc vẫn sống cảnh gà trống nuôi con, cho đến năm 42 tuổi trở đi, mới gặp duyên muộn, đó là nhờ ảnh hưởng của Tử Tướng Phủ Vũ.


Những đại và tiểu hạn ảnh hưởng tốt về danh vọng

Năm Giáp Thìn (1964), 21 tuổi, gốc đại hạn và lưu đại hạn trùng phùng ở cung Phụ Mẫu, có Khôi Việt Hồng Đào Hỉ hội Xương Khúc Thai Tọa và Quan, Phúc quý nhân ngộ Thiên, Nguyệt đức phùng Nhật, Nguyệt đồng cung ngộ Tuần. Tiểu hạn đi vào cung Thiên di có Phủ, vũ, Liêm, Sát hội Long, Phượng, Mã, Khốc, Khách phùng Khoa, Mã song Lộc, Quang, Quý, Elvis Phương bắt đầu làm quen với ánh đèn mầu và được khán thính giả hoan ngênh cổ võ. Tiếp qua năm 22 tuổi (Ất Tỵ) tiểu hạn đi vào cung Tật Ách, có Nhật Nguyệt ngộ Hồng, Hỉ, Khôi, Việt, Tả, Hữu (tuy có Kị, Đà, Cô, Quả, nhưng về cuối hạn, đám hung tinh này không còn hung hãn nữa). Bấy giờ gốc đại hạn vừa đổi vào cung Phúc đức, có song Lộc hội Mã Khốc Khách, El. Phương ký hợp đồng với các club Mỹ và cũng trong năm này, đương số xuất hiện trên khung ảnh Truyền hình với bài Mộng dưới hoa, rất được các bạn trẻ ái mộ. Và cũng từ năm đó, tên tuổi Elvis Phương bắt đầu trước bạn vào làng ca nhạc, giọng hát Elvis Phương chiếm được nhiều cảm tình với khán thính giả bốn phương qua màn ảnh Truyền hình và băng nhựa. Cho đến nay, qua bao nhiêu nỗi thăng trầm của các nam nữ ca sĩ vì ảnh hưởng tình trạng khó khăn của đất nước, đa số giải nghệ hoặc đổi nghề, riêng tiếng hát Elvis Phương vẫn xuất hiện đều đều trên làn sóng điện và băng nhựa.

Luận đoán tương lai Elvis Phương năm Giáp Dần (1974)

Năm Giáp Dần (1974), 31 tuổi, tiểu hạn vào Quan Lộc, gốc và lưu đại hạn trùng phùng tại cung Phúc Đức. Đây là năm cuối của đại hạn ở Phúc Đức, được hưởng nhiều về tinh lực của bộ Tử Phủ Vũ Tướng phát huy dồi dào, hợp với song Lộc, Mã, Khốc, Khách, Hóa Khoa, Ân quang, Trường sinh (ở đại hạn) và ở tiểu hạn có Long, Cái, Hổ ngộ Sinh, Vượng, Elvis Phương vẫn giữ được địa vị của mình trong lĩnh vực ca nhạc.
Tháng Giêng và tháng 2, tiền bạc và công việc phụng sự nghệ thuật vẫn lai rai, riêng về hạnh phúc gối chăn thì gặp nhiều lục đục. Tháng 3, hao tài vì một người bạn gái hoặc vì những người bạn gái cũ. Tháng 4, một sự gặp gỡ vui vẻ và có thể dính líu dai dài đến hết năm. Tháng 5, tiền bạc dồi dào, cuối tháng gặp chuyện bực mình trong vấn đề hạnh phúc, nhất là với người cũ. Tháng 6, gặp quý nhân và bạn tốt trong lãnh vực hoạt động nghệ thuật, nên ký giao kèo hợp tác với phim ảnh hoặc các hãng băng và đĩa nhựa, rất tốt. Tháng 7, phòng đau ốm và coi chừng mất xe. Tháng 8, có tin vui về tiền bạc và có cơ hội đi xa rất tốt. Tháng 9, có tiền, nhưng phòng tai nạn xe cộ. Tháng 10, trong gia đình có chuyện bực mình. Tháng 11 tốt về danh vọng nhưng lại gặp vài rắc rối trong vấn đề tình duyên. Tháng Chạp, coi chừng bạn gái làm khổ. Và còn chuyện buồn do bạn trai gây ra.

Saigon tháng 2 năm Giáp Dần (1974)
LÊ THÀNH THÁI
KHHB số 74D1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

Thái cực tử vi bí pháp: Khảo luận về thân và mệnh – phần thứ tư

0

Thái Cực Tử vi Bí pháp

Khảo luận về Thân và Mệnh

Phép luận đoán Thân và Mệnh

Trong các phần trước, bạn đọc dễ tìm thấy các nguyên lý và qui tắc về cách định cách cung Thân và Mệnh. Trước khi sang phần luận đoán, xin hãy túm lược các điều nói trên để làm tiêu chí cho mọi phép đoán sau này.
Tóm lược:

1. Do sự phát triển tuần tự của bào thai theo nguyệt kỳ và nhật ký mà Giờ Sanh là một yếu tố quan trọng để xác định vận số.
2. Cung Thân là phương vị qui chiếu trong vũ trụ hữu hình, giúp ta định rõ Ảnh hưởng của vũ trụ hình vào số mệnh con người.
3. Cung Mệnh là vị trí qui chiếu trong thế giới siêu hình giúp ta định rõ phương cách ảnh hưởng của vũ trụ siêu hình và số mệnh.
Nhờ các lý thuyết được trình bày ở trên đây, chúng ta sẽ phân định ảnh hưởng của các chính tinh vào các phi tinh đối với Thân và Mệnh trong khi luận đoán số Tử Vi.Để bạn đọc có thể theo dõi đầy đủ mọi khía cạnh cuả phép đoán Thân và Mệnh, chúng tôi tuần tự trình bày thành ba mục, vừa là ba phép đoán theo ba quan niệm khác nhau, vừa là ba giai đoạn tiệm tiến từ chi tiết đến tổng quát.

A. Luận đoán riếng biệt các phần Thân và Mệnh

Dựa theo phần số 2 tóm lược lý thuyết, cung Thân là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu các ảnh hưởng cảm ứng của Vũ trụ vô hình. Thế cho nên ta dùng cung Thân để luận định về vóc dáng, sức khỏe, bệnh khí và tánh tình con người.
Theo kinh nghiệm và cũng theo yếu quyết tính vận căn bản của của môn phái Vô cực. Thêm chịu ảnh hưởng cảm ứng của hệ thống Thái Tuế là hậu thiên khí vận tuần hoàn và của hệ thống chính tinh: Tử vi, Liêm Trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ (các trường hợp ngoại lệ sẽ được nói đến trong các bài khảo luận về tinh vận)

Tử vi ảnh hưởng trực tiếp vào Thân thì người ta sẽ có sắc da xám đen hay tía.Nếu lại nhị hợp với Thiên cơ thì mặt xanh, uống rượu không say và tính tình thâm trầm sâu sắc.
Liêm Trinh thủ Thân thì tính khắc khỏ và chịu đựng, lại dễ thành ngoan cố và cương nghị nhưng dễ bị câu thúc thân thể hoặc tù đày.
Thiên Đồng đóng ở cung Thân thì được khỏe mạnh, sắc mặt trẻ trung, nếu lại nhị hợp với Vũ Khúc thì sanh ra đã có nốt ruồi kín, thích mạo hiểm, chân tay khéo léo.
Vũ Khúc thủ thân thì có nhiều nốt ruồi, dễ mắc bệnh nan y (ung thư) tính tình vui vẻ, ham đỏ đen, thích nghệ thuật.
Thái Dương đóng ở cung Thân thì rất mạnh khỏe nhưng dễ có bệnh do vượng khí gây ra như mờ mắt, nhức đầu suốt đời khó chũa. Tính tình nóng nảy, uống rượu dễ say.
Thiên Cơ tọa thủ cung Thân dễ bị bệnh phong, rất linh mẫn, sớm hiểu đời, ưa tính toán lợi hại.
Ngoài các chính tinh này, còn có bộ Thái Tuế là vòng hậu thiên khí vận ảnh hưởng vào Thân rất mạnh mẽ.

Khác với cung Thân, cung Mệnh là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu ảnh hưởng cảm ứng của vũ trụ siêu hình. Cho nên người ta căn cứ vào cung Mệnh để đoán về tâm hồn, tình cảm, tài nghệ, học nghiệp và sự thành tựu công danh.
Cung Mệnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các Bộ Chính Tinh: Tử Vi, Thiên Phủ, bộ Lộc Tồn và hầu hết các phi tinh khác.
Bạn đọc có thể tìm thấy dễ dàng trong bất kỳ tại liệu nào về Tử Vi những phép luận đoán riêng cho cung Mệnh. Soạn giả sẽ trở lại vấn đề này sau khi cho in xong các bài về thuyết lý học cục bộ và thuyết lý tính vận.

B. Luận đoán tương đối Thân và Mệnh

Một khi đã xét qua Thân và Mệnh riêng biệt thì người ta có thể xét sự liên hệ tương đối của Thân và Mệnh. Phần trình bày sau đây sẽ giúp bạn đọc theo dõi phép toán tương đối (Không quan trọng).

1. Người nào sinh nhằm giờ Tí và Ngọ hoặc Mão và Dậu ắt phải có Thân cư Mệnh, hoặc Thân cư Thiên Di. Đa số những người này đều lập sự nghiệp nhờ thời vận và mệnh vận.ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC THỜI VẬN
2. Những người nào sanh nhằm các giờ Thìn, Tuất và Sửu, Mùi ắt phải có Thân cư Phúc Đức và Thân cư Tài Bạch. Đa số được tạo tựu công danh nhờ phúc ấm mồ mả tổ tiên. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC PHÚC VẬN
3. Những người nào sanh nhằm vào các giờ Dần, Thân và Tỵ, Hợi ắt phải có Thân cư Quan Lộc và Thân cư Thê Thiếp (hoặc Phu Quân). Đa số những người này được tạo tự sự nghiệp nhờ vào Tài Trí và học thuật hay nghề nghiệp. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC NGHIỆP VẬN.
ĐẮC PHÚC VẬN thì được biền bỉ lâu dài, được xem là tốt hơn cả. ĐẮC THỜI VẬN thì được nhanh chóng nhưng chỉ thích ứng cho thời vận đột biến mà thôi. ĐẮC NGHIỆP VẬN thì phải bôn ba, thăng trầm, lao tâm khổ trí mới tạo được sự nghiệp.

C. Phép luận đoán chú trọng một phần

Các phần luận đoán trên, riêng biệt Thân và Mệnh, chỉ được xem là căn bản khởi đầu mà thôi. Vì lẽ rằng cách luận giải riêng biệt ấy sẽ không đưa tới một kết luận đơn thuần cho số mệnh của một người. Bởi thế, ta cần phải biết lựa chọn một phần Thân hoặc Mệnh mà thôi để đạt đến kết thúc của việc đoán số Tử Vi.
Muốn được như thế, cần phải lý giải vấn đề theo một quan điểm rõ rệt. Ở đây soạn giả đưa ra cách giải quyết vấn đề theo quan điểm của Giải lý Thái Cực Tuần Hoàn. Điều này đã được trình bày đại cương và tổng quát trong bài trước, số mệnh của một tập thể dự phần quyết định trong số mệnh của cá nhân. Chính vì lẽ này mà khoa đoán số Tử Vi cần phải được tham bác với khoa xem Tướng, xem Tượng (điềm-tượng), Địa lý và Dương cơ, Âm phần, thì sự giải đoán mới hợp lý và hiệu nghiệm tốt đẹp. Các khoa này được coi như là bổ túc cho khoa Tử Vi, Khí Vận, nhờ các phép chiêm đoán điềm triệu này ta mới có thể nhận định sự tốt xấu của vận mệnh chung của một tập thể. Giả thuyết rằng điều này đã được nghiệm biết xong, ta hãy xét đến phần phải chú trọng: Thân hay Mệnh.
Có tất cả bốn trường hợp mà ta phải xem xét đến để lần lượt trình bày sau đây.

Trường hợp 1: Thân và Mệnh sáng

Trong trường hợp này, lý đoán chung là tốt đẹp. Nhưng vẫn còn nhiều điểm phải cửu xét đến, vì lẽ theo đạo lý Vô Toàn (thiên đạo học) mặc dù Thân và Mệnh đều được tốt đẹp và sáng sủa, con người vẫn không thể được hoàn hảo về mọi bề. Vậy chúng ta phải căn cứ vào đâu để đoán quyết sự bất toàn. Để đáp ứng, sau đây là phép nghiệm đoán theo lý thuyết của Thái Cực Môn.
Trường hợp Thân và Mệnh đều sáng tốt, nếu sự nghiệm xét các điềm tượng cho thấy rằng cái tập thể của cá nhân này đang diễn tiến trên một ‘Thái Cực tiến trình’ thì chính sự phát khởi tốt đẹp của Mệnh vị mới bao gồm được các vẻ sáng chói của Thái Cực tiến trình vậy. Còn lại những nét bất toàn phần lớn sẽ ảnh hưởng vào Thân. Đây là trường hợp đã xảy ra cho các vị Nguyên thủ quốc gia, các tay kiệt xuất của nhân quần, tuy công danh được hiển phát tột bực và Thân Mệnh đều sáng tốt, thế mà tóc phải sớm bạc, lại thường mang các tâm bệnh hoặc các chứng nan y (như bệnh tim, ung thư v.v.v)
Có người thì đoản thọ, mà phải chết dự như bị tai nạn thảm khốc hoặc bị ám sát.
Đó chính là bất toàn đạo đã hãm vào Thân vậy. Kết luận cho trường hợp này: ‘Mệnh toàn, Thân bất toàn’.
Trường hợp ngược lại, Thân Mệnh đều sáng tốt nhưng lại gặp phải đại vận hạn của tập thể quán ám như trong hồi Thái cực toàn qui hay Thái Cực Thoái trào. Ở đây Mệnh tốt mà trở thành không tốt vì các nét sáng của cung Mệnh thật là không phương pháp hay đến tột đỉnh, ta thường gọi là ‘Sinh bất phùng thời’. Trong trường hợp này ta có thể luận rằng ‘Mệnh bất như Thân và cá nhân này tuy không được tột bậc hiển vinh, nhưng cũng được một đời phong lưu phúc thọ nhờ Thân vậy’

Trường hợp 2: Mệnh sáng mà Thân xấu

Cũng theo thuyết lý của Thái Cực tuần hoàn, người ta chiêm nghiệm vận mệnh của tập thể trước khi luận đoán số hạn cho cá nhân.
Nếu tập thể đang ở trong Thái Cực tiến trình mà tính tượng của cá nhân cũng đang trong lúc doanh phong (khí tượng đang đầy) thì chắc chắn phải được hưởng mọi điều tốt đẹp của cung Mệnh. Chẳng những thế, theo đạo lý Vô Nhất, không phải chỉ một mình Mệnh vận tốt đẹp mà thôi, chính Thân cũng được hưởng cái doanh khí của Mệnh vậy.
Đối với trường hợp này, thể tất cung Mệnh là quan hệ nhất, hiển nhiên là ‘Thân dữ Mệnh đồng’ hay Thân phải theo Mệnh vậy.
Trái lại Mệnh sáng mà Thân xấu lại gặp hồi Thái cực thoái trào hay quốc gia dân tộc đến hồi mạt vận, dù ảnh hưởng của Mệnh có tạo nên một lúc hanh thông, thì cộng nghiệp cũng như tang hải phù vân, bể dâu mây nổi mà thôi.Chẳng những thế đạo lý Vô nhất còn được quyết đoán rằng: Thân xấu lại còn kéo theo Mệnh xấu. Bởi vậy, ta kết luận cho trường hợp này là ‘Thân át phù vân chi Mệnh’.

Trường hợp 3: Mệnh xấu mà Thân tốt

Nếu gặp được vận hạn của tập thể quốc gia dân tộc đến hồi tốt đẹp hay chuyển vận trên một tiến trình, thì ít ra Thân tốt cũng giúp cho cá nhân qua được những cơn Bĩ Cực để còn toàn tiết mà hưởng được hồi Thái Lai. Đây là nhờ Thân tốt mà mệnh cũng tốt theo, vì vậy ta chú trọng đến Thân hơn Mệnh. Phần lớn cách này, hậu vận chẳng bao giờ xấu.
Cũng trong trường hợp này, nếu tập thể đang đến hồi suy bại, thoái hóa,thì cho Thân có tốt đẹp đến đâu cũng không kéo được Mệnh vận. Như thế Mệnh được xem là qua trọng vậy.

Trường hợp 4: Mệnh xấu Thân cũng xấu

Khi gặp trường hợp này, đa số người luận đoán số Tử Vi thường cho rằng, Mệnh vận cố cùng, chỉ còn tìm lời an ủi cho số phận (của thân chủ).
Thật ra đạo trời không đóng cửa đối với một ai bao giờ, đạo Vô Cùng sẽ mở cửa khác vậy.
Khi gặp vận hạn của thập thể đang hồi sáng sủa tốt đẹp thì Mệnh vận của cá nhân dù có xấu đên đâu vẫn chẳng bao giờ đến chỗ cố cùng. Chúng ta hẳn đồng ý rằng ở tại các nước mà mệnh vận đang tốt đẹp, dân tộc phú cường thì chẳng có ai là đến mức cố cùng, hạng người thấp kém nhất trong xã hôi ấy hẳn là ‘chẳng được phú quí nhưng vẫn được một đời sống bình ổn và dễ thở. Lúc bấy giờ người ta chỉ còn lo ngại cho ‘Thân bất thương toàn’ mà thôi. Nói như vậy trong trường hợp này cung THÂN ĐÁNG ĐƯỢC CHÚ TRỌNG hơn cả.
Cũng thuộc vào trường hợp này, Thân Mệnh cố cùng nếu lại gặp hồi mạt vận của tập thể đang trên đà tán vong thì quả thật là Thân không còn phương giải cứu. Tuy nhiên đất trời dễ có đạo Vô Cùng mà cũng có dành sẵn một con đường, ít nhất là một con đường giải phóng cho mệnh vận.Trong trường hợp này, chúng ta PHẢI CHÚ TRỌNG ĐẾN CUNG MỆNH, những cách cứu giải của phi tinh hội chiếu cho cung này: đặc biệt nhất là phép CỨU GIẢI của THÁI CỰC ở trung đạo tứ môn.

Đến đây là kết thúc phần luận đoán về Thân Mệnh, mà trong khuôn khổ của bài này, soạn giả chú trọng đến thuyết ý và phương pháp nhiều hơn là chi tiết luận giải theo tinh vận.

Tổng kết: Đạo lý và khoa học số mệnh

Cùng bạn đọc thân mến, chắc quí vị cũng đã nhận thấy, qua các phần trình bày trên đây, rằng chúng tôi đã trình tự các phép luận về Thân mệnh mặc dù phải gò bó trong khuôn khổ hình thức, vẫn luôn luôn không rời xa đạo lý, nhất là Thiên đạo. Chúng tôi tự xét thấy có trách vụ phải bàn thêm về điều này.
Khoa đoán số mệnh phải được xây dựng trên căn bản lý thuyết mà chủ yếu là:
• Con người có số mệnh tiền định có nghĩa là phải tuân theo luật định của thiên nhiên.
Như thế tìm hiểu được các định luật của thiên nhiên (tạo hóa, đất trời, vạn vật) người ta có thể biết được số mệnh. Đây hẳn là tiền đồ của khoa học về số mệnh, nếu có thể gọi là khoa học.
Hơn nữa dù thế nào thì khoa học cũng không thể xa rời đạo lý nếu không muốn nói rằng số bắt nguồn từ đạo lý. Khoa học mà không có đạo lý chỉ là khoa học của ma quỷ mà thôi. ‘Science sans conscience, n’est que ruine l’âme’
Ngoài ra, trở lại lý thuyết tiền định, nếu ta quan niệm một cách cứng nhắc, thì số mệnh của con người là bất di bất dịch, không thay đổi được vậy chẳng hóa ra mọi cố gắng của con người hướng đến Chân lý đều là vô ích cả hay sao?
Câu trả lời là : không. Vì lẽ Thiên đạo vốn là vô thường và vô duy, vô nhất thì số mệnh của mọi vật cũng không phải là không thể đổi thay. Tuy nhiên, việc dời đổi số mệnh không phải dễ dàng. Cần phải biết đến học thuật của đaọ, dồng hóa được ĐẠO VỚI TÂM thì mới hiểu được là DI TÂM DỊCH MỆNH. Nói cách khác thiên đạo vẫn luôn luôn dành sẵn một CÁNH CỬA TỰ DO, và CÁI TÂM là có thể thoát ra ngoài lẽ thường. TÂM chính là chìa khóa để mở cánh cửa này.
Một khi con người biết DI TÂM KHỞI NGHIỆP thì tâm nghiệp TÙY DUYÊN MÀ TẠO PHÚC và cảm ứng vào số mệnh. Tâm đạo là cánh cửa tự do trong Thiên đạo vậy.
Để kết luận cho bài này, chúng tôi kính mời bạn đọc cùng thưởng thức hai câu tiêu đề của đạo gia học thuật:
‘Thân mệnh tổng giai hư
Duy Tâm chân tự tại’

Khoa học huyền bí- số 13

- Advertisement -