13 C
Hanoi
Thứ Tư, 26 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 42

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 28

0

Chương 9

THÂN MỆNH

身 命

(Tuvivietnam – siêu tầm)


1.乾 坤 定 位 人 物 肇 生
感 陰 陽 而 化 育分 智 愚 于 濁 清
既富 且 壽 世 爻 旺 相 更 無 傷
非 夭 必 貧 身 位 休 囚 兼 受 制
Càn Khôn định vị, nhân vật triệu sinh,
Cảm âm dương nhi hoá dục, phân trí ngu vu trọc thanh.
Ký phú thả thọ, Thế hào vượng tướng cánh vô thương,
Phi yểu tất bần, Thân vị hưu tù kiêm thụ chế.
Càn Khôn định vị, người vật bắt đầu sinh
Chịu âm dương để biến đổi nuôi nấng – Phân trí ngu tuỳ ở trọc hay thanh
Đã giàu lại thọ vì Thế hào vượng tướng chẳng bị thương,
Chẳng yểu thì nghèo vì Thân vị hưu tù cùng bị thụ chế
Người sinh ra ở đời, muốn biết thuộc hạng nào, quí hay tiện cao hay thấp đều lấy Thế hào làm chủ. Vượng tướng lại được Nhật thần, động hào sinh hợp, tất chủ người này giàu sang, phúc thọ. Nếu hưu tù vô khí mà bị Nhật thần, động hào khắc chế thì người này không nghèo cũng yểu.

2. 世 居 空 地 終 身 作 事 無 成
身 入 墓 爻 到 老 求 謀 多 戾
Thế cư Không địa, chung thân tác sự vô thành,
Thân nhập Mộ hào, đáo lão cầu mưu đa lệ.
Thế lâm Không, suốt đời làm việc chẳng thành
Thân nhập Mộ, đến già mưu sự vẫn ngang trái
Phàm xem Thân mệnh, đại kị Thế Thân lâm Không, chủ suốt đời làm việc chẳng thành. Nếu Thế Thân nhập Mộ , chủ người này như say như mê, không lanh lợi, mọi mưu tính ít thành tựu.

3. 卦 中 衰弱 根 基 淺
爻 象 豐 隆 命 運 高
Quái cung suy nhược căn cơ thiển,
Hào tượng phong long mệnh vận cao.
Quẻ suy nhược thì căn cơ kém
Hào tượng vượng thì mệnh vận tốt

Vốn căn nguyên của người ta liên hệ ở quẻ, hung cát của mệnh dựa vào hào. Cho nên quẻ vô khí thì căn cơ kém, tào tượng được thời thì mệnh vận cao.

4. 若 問 成 家 嫌 六 冲 為 卦
要 知 創 業 喜 六 合 之 成 爻
Nhược vấn thành gia hiềm Lục xung vi quái
Yếu tri sáng nghiệp hỉ Lục hợp chi thành hào.
Nếu hỏi việc thành gia nghiệp, ngại gặp quẻ Lục xung.
Cần biết sáng tạo sự nghiệp, mừng được quẻ Lục hợp
Gặp quẻ Lục xung tất chủ công việc có đầu không đuôi; được quẻ Lục hợp là người từng trải, mở mang được cơ nghiệp. Gặp xung trung phùng hợp thì về sau mới thành tựu, hợp xứ phùng xung thì về sau thất bại.

5. 動 身 自 旺 獨 力 撑 持
衰 世 遇 扶 人 人 創 立
Động Thân tự vượng, độc lực sanh trì
Suy Thế ngộ phù, nhân nhân sáng nghiệp
Thân động tự vượng, thì một mình gắng sức gây dựng,
Thế suy được phù, nhờ người tạo nghiệp
Thế hào không đựơc sinh phò mà tự cường vượng phát động tức tay trắng tạo được cơ nghiệp, không ai giúp đỡ. Nếu vô khí mà được Nhật Nguyệt ,động hào sinh phò, tất được người nâng đỡ mà tạo được sự nghiệp.

6. 日 時 合 助 一 生 偏 得 小 人 心
歲 月 剋 冲 半 世 未 沾 君 子 德
Nhật thời hợp trợ, nhất sinh thiên đắc tiểu nhân tâm
Tuế Nguyệt khắc xung, bán thế vị triêm quân tử đức.
Ngày, giờ hợp trợ suốt đời được lòng tiểu nhân
Tuế Nguyệt khắc xung, hết nửa đời chưa được hưởng đức quân tử
Thế hào gặp Niên, Nguyệt, Nhật sinh hợp tất được quí nhân thân ái, tiểu nhân kính cẩn. Nếu bị xung khắc, khó tránh được khinh thường. Như hào Phụ hợp tất được phụ ấm, hào Huynh khắc tất chịu rắc rối về anh em.

7. 遇 龍 子 而 無 氣 縱 清 高 亦 是 寒 儒
Ngộ Long Tử nhi vô khí, túng thanh cao diệc thị hàn nho
Tử gặp Thanh Long mà vô khí thì cũng chỉ là hàn nho thanh cao
Tử Tôn có Thanh Long mà trì Thế tất có chí cao xa, không thích công danh phú quí. Như Thiệu Khang Tiết , Đào Uyên Minh… Tử Tôn vô khí là kẻ sĩ siêu quần sống xa đời.

8. 逢 虎 妻 而 旺 強 雖 鄙 俗 偏 為 富 客
Phùng Hổ Thê nhi vượng cường, tuy bỉ tục thiên vi phú khách
Hổ ở Thê mà cường vượng, tuy hủ lậu nhưng là kẻ giàu có
Bạch Hổ lâm ở Tài vượng mà trì Thế , người này tuy không biết lễ nghĩa, nhưng nhà đầy đủ như bọn Lý Trừng, Tiêu Sùng. Tài vượng mà bị chế hoặc phục cũng chẳng thông văn chương.

9. 父 母 持 身 辛 勤 勞 碌
鬼 爻 持 世 疾 病纏 綿
遇 兄 則 財 莫 能 聚
遇 子 則 身 不 犯 刑
Phụ Mẫu trì Thân, tân cần lao lục
Quỷ hào trì Thế, bệnh tất triền miên
Ngộ Huynh tắc tài mạc năng tụ
Ngộ Tử tắc thân bất phạm hình.
Phụ Mẫu trì Thân, chăm lo vất vả
Hào Quỷ trì Thế, tật bệnh triền miên
Gặp Huynh thì tiền bạc chẳng tụ
Gặp Tử thì thân chẳng hình tội
Phụ Mẫu trì Thế chủ thân vvất vả chăm lo, động thì khắc thương Tử Tôn. Quan là tai hoạ, gặp phải là chủ mang tật bệnh hoặc rước quan tụng. Nếu có Quí Nhân cùng lâm tất tốt. Huynh là thần phá tài, khắc thê ,lắm việc phá hao, suốt đời khó tụ tài. Gặp Tử Tôn không thể cầu danh, suốt đời chẳng phạm hình tội, an nhàn tự tại, y thực đầy đủ, rất sợ Tử Tôn hưu tù.

10. 祿 薄 而 遇 煞 冲 奔 走 於 東 西 道 路
Lộc bạc nhi ngộ sát xung, bôn tẩu ư đông tây đạo lộ
Lộc kém mà gặp sát xung, bôn tẩu khắp đông tây
Lấy Tài làm lộc. Nếu hào Tài lâm Tử Tuyệt vô khí tắc lộc kém, mà hào Thế lại bị ác thần xung động, không có cát thần cứu trợ, là mệnh vận hết sức thấp kém.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 27

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

27. 欲知天變於何方須究地支而分野
Dục tri thiên biến ư hà phương, tu cứu địa chi nhi phân dã
Muốn biết trời biến đổi ở phương nào, phải xem Địa chi mà phân vùng.
Phàm gặp tượng biến đổi lạ thường, cần xem hiện ở phương nào, để biết phương nào bị hại mà định. Như Tí là vùngTề, Sửu là vùng Ngô, Dần là vùng Yên…

28. 身持福德其年必獲休祥
Thân trì Phúc Đức, kỳ niên tất hoạch hưu tường
Thân ở Phúc Đức thì năm đó tất được tốt lành.
Tử Tôn là Phúc Đức sinh Tài khắc Quỷ, nếu vượng động thì năm được mùa, nước yên dân vui, thái bình quan thanh liêm, vạn vật hanh thông.

29. 世受刑傷此歲多遭驚怪
Thế thụ hình thương, thử tuế đa tao kinh quái
Thế chịu hình thương, năm đó gặp nhiều quái sợ.
Thế là hào chủ của niên thời, trăm họ, cày cấy, ngũ cốc, lục súc đều dựa vào nơi đó. Nếu Thế lâm Tài Phúc vượng tướng thì vừa lòng. Nếu bị Tuế, Nguyệt, Nhật cùng động hào khắc thì nhiều kinh hiểm.

30. 年豐歲稔財福生旺而無傷
Niên phong tuế nẫm, Tài Phúc sinh vượng nhi vô thương
Năm được dồi dào vì Tài Phúc vượng mà không bị hình thương.
Tử Tôn đắc địa, Tài hào hữu khí chẳng lam Không, Huynh Quỷ đều suy tĩnh thì ắt năm được mùa dồi dào.

31. 冬暖夏凉水火休囚而莫助
Đông noãn Hạ lương, Thuỷ Hoả hưu tù nhi mạc trợ
Đông ấm, Hạ mát bì Thuỷ, Hoả hưu tù mà chẳng được trợ giúp.
Dùng Tài, Phụ để xem hạn và lụt, hào Thuỷ, Hoả để xem lạnh nóng. Nếu Thủy lâm Không thì Đông tất ấm, Hoả ở Tử Tuyệt thì Hạ tất mát. Nếu vượng động khắc Thế thì cực nóng hoặc cực lạnh.

32. 他宮傷剋外番侵凌
Tha cung thương khắc ngoại phiên xâm lăng
Cung khác mà khắc hại thì nước bên ngoài xâm lấn.
Tha cung là nước bên ngoài, không có tha cung thì xem ngoại quái. Nếu khắc thương khắc bản cung thì nước ngoài đến xâm phạm. Ngoại sinh nội thì tiến cống nhiều.

33. 本卦休囚國家衰替
Bản quái hưu tù, quốc gia suy thế
Quẻ gốc hưu tù thì nước nhà suy tàn.
Bản quái là nước nhà, không có bản cung thì xem nội quái. Nếu vượng tướng thì quốc gia cường thịnh, vô khí thì nước nhà suy tàn.

34. 陰陽相合定然雨順風調
Âm Dương tương hợp định nhiên vũ thuận phong điều
Âm Dương hợp nhau thì mưa thuận gió hoà.
Phàn gặp Thế Ứng tương sinh, lục hào tương hợpnăm đó chủ mưa thuận gió hoà, lại được an tĩnh. Tài Phúc chẳng Không thì năm được mùa.

35. 兄鬼皆亡必主國泰民安
Huynh Quỷ giai vong, tất chủ dân an quốc thái
Huynh Quỷ đều Không tất chủ quốc thái dân an.
Huynh Đệ là thần bóc lột, phá bại, Quan Quỷ chủ hoạ hoạn tai ương. Huynh và Quỷ đều Không vong hoặc không có trong quẻ thì chủ quốc thái dân an,

36. 推 明天道能知萬象之森羅
識透玄機奚啻一年之休咎
Suy minh Thiên đạo, năng tri vạn tượng chi sâm la
Thức thấu huyền cơ, hề thí nhất niên chi hưu cựu
Suy rõ Thiên đạo thì có thể biết vạn vật bao la,
Thấu rõ huyền vi, sao chẳng rõ tốt xấu trong năm.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 26

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

14. 遇勾陳而加世位足興則饑饉相仍
Ngộ Câu Trần nhi gia Thế vị, túc hưng tắc cơ cận tương nhưng
Gặp Câu Trần lại ở Thế hào mà hưng động thì đói kém vô cùng.
Câu Trần chuyên chỉ điền thổ, Quan Quỷ gặp phải thì không phải là năm đầy đủ. Trì Thế, khắc Thế là năm thu hoạch kém. Tài hoá Huynh mà Quỷ cũng động tất đói kém vô cùng.

15. 莽興盜起由玄武之當官
Mãng hưng đạo khởi do Huyền Vũ chi đương Quan
Giặc cướp nổi lên do Huyền Vũ ở cung Quan.
Quan Quỷ có Huyền Vũ động khắc hào Thế, năm đó tất nhiều giặc cướp. Nếu thuộc Kim xung khắc Tuế quân hoặc hào Ngũ, động chuyện binh đao rối loạn khắp nơi để chống đối với triều đình.

16. 災沴異多因螣蛇之御世
Tai lệ dị đa nhân Đằng Xà chi ngự Thế
Nhiều tai ương nhân vì Đằng Xà ở Thế.
Đằng Xà là thần quái dị, ở hào Lục động tuy không phải Quan Quỷ cũng chủ có biến đổi lạ thường. Nếu Quan Quỷ ở hào lục động tuy không có Đằng Xà cũng chủ biến đổi lạ lùng.

17, 若在乾宮天鼓兩鳴於元末
Nhược tại Càn cung, thiên cổ lưỡng minh ư Nguyên mạt
Nếu ở cung Càn, trống trời trổi lên cuối triều Nguyên.
Đằng Xà ở Quan hào động, nếu ở cung Càn , chủ có trống trời nổi lên lạ thường. Dùng ngũ hành để phân biệt, như hào Kim là Tử Tôn hoặc hoá thành quẻ đoài thì có lạ tường về tinh tú. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.

18. 如 當震卦雷霆獨異於國初
Như đương Chấn quái, lôi đình độc dị ư quốc sơ
Nếu ở quẻ Chấn, sấm sét lạ thường buổi dựng nước.
Đằng Xà là Quan Quỷ động thuộc cung Chấn, thì có sấm sét lạ thường. Nếu vào mùa hè thu không có mây mà sấm sét. Quẻ Chấn là rồng, nếu ở Thìn hoặc hoá Thìn chủ có rồng xuất hiện.

19. 艮主山崩臨應則宋都有五石之隕
Cấn chủ sơn băng, lâm Ứng tắc Tống đô hữu ngũ thạch chi vẫn
Cấn chủ núi đổ, lâm Ứng tất như kinh đô nhà Tống có vẫn thạch rơi xuống.
Đằng Xà là Quan Quỷ ở cung Cấn động, chủ có núi sụp đổ, như vào niên hiệu Nguyên Thống[1] núi sập thành bình địa chẳng hạn.

[1] Niên hiệu vào đời Thuận Đế nhà Nguyên.

20. 坤為地震帶刑則懷仁有二所之崩
Khôn vi địa chấn, đới hình tắc Hoài Nhân hữu nhị sở chi băng
Khôn là địa chấn, bị hình tất Hoài Nhân[2] có hai núi bị sập.
Đằng Xà Quỷ thuộc cung Khôn mà động chủ có địa chấn, thuộc Kim thì có tiếng vang, bị Hình thì đất nức. Khôn là trâu, Quỷ lâm Sửu động tất trâu lạ thường. Hai quẻ Càn Khôn là việc lạ của người không phải của vật, như đàn bà mọc râu, đàn ông mang thai, cuối đời Nguyên có những việc lạ thường này.

[2] Hoài Nhânlà tên phủ thuộc tỉnh Sơn Tây Trung Quốc.

21. 坎化父爻雨血雨毛兼雨土
Khảm hoá Phụ hào, vũ huyết vũ mao kiêm vũ thổ
Khảm hoá Phụ thì mưa máu, mưa lông cùng mưa đất.
Quan Quỷ mang Đằng Xà thuộc quẻ Khảm động hoá Phụ đều đoán mưa. Mưa máu, mưa lông cùng mưa đất đều là chuyện lạ cuỗi đời Nguyên.

22. 巽連兄弟風紅風黑及風旋
Tốn liên Huynh Đệ, phong hồng, phong hắc cập phong toàn
Tốn dính với Huynh Đệ thì gió đỏ, gió đen cùng gió xoáy.
Quan quỷ có Đằng Xà thuộc cung Tốn, động hoá Huynh Đệ chủ có gió lạ thường. Thời Nguyên Đế có gió đen. Nếu không hoá Huynh chớ đoán là gió, mà là lạ thường về thảo mộc cầm thú. Thời Xuân thu, chim nghịch bay lui; trong kho đời Đường tiền hoá thành bướm.

23. 日生黑子宋恭驚離象之反常
Nhật sinh hắc tử, Tống Cung kinh Li tượng chi phản thường
Đời Cung Đế đời Tống, mặt trời sinh vết đen, lạ thường thuộc cung Li.
Đằng Xà Quan Quỷ thuộc cung Ly động, chủ có lạ thường về mặt trời. Như thời Cung Đế nhà Tống mặt trời sinh vết đen. Nếu lâm Ngọ thì có lửa lạ thường. Như vào niên hiệu Đại Đức lửa từ trên không xuống thiêu cháy lúa má.

24. 沼起白龍唐玄遭兌金之變異
Chiểu khởi bạch long, Đường Huyền tao Đoài kim chi biến dị
Gặp cung Đoài thuộc Kim thì biến đổi lạ lùng như thời Huyền Tông nhà Đường có rồng trắng từ ao nổi lên.
Đoài là đầm, chủ giếng, ao. Nếu Đằng Xà ở Quỷ thuộc cung Đoài động thì như thời Đường Huyền Tông có rồng trắng trong ao bay lên không trung; trong giếng sau điện của thái tử của vua Thuận Đế nhà Nguyên, trong giếng mới có rồng xuất hiện, phát ánh sáng biến ảo khôn lường, cung nhân nhìn thấy chẳng ai không khiếp sợ.

25. 發動空亡乃驗天書之詐
Phát động Không vong nãi nghiệm thiên thư chi trá
Phát động mà lâm Không là như chuyện giả trá của thiên thư.
Đằng Xà ở trên đã phát động mà không lâm Không, hoá Không thì quái dị có thể có, nhưng nếu gặp xung gặp Không thì giả trá, nói không thực, như chuyện đời Tống Chân Tông có thiên thư từ trên trời giáng xuống.

26. 居臨內卦定成黑眚之妖
Cư lâm nội quái định thành hắc sảnh chi yêu
Ở nội quái thì thành yêu nghiệt màu đen.
Đằng Xà Quỷ tại nội quái của bản cung, yêu quái hiện trong nhà, như thời Tống Chân Tông có yêu quái đen hiện ở góc sân,

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 25

0

NIÊN THỜI

年時

(VIỆC TRONG NĂM)

(Tuvivietnam – siêu tầm)

1.陰晴寒暑天道之常
水旱兵災年時之變
欲決禍福於一年
須審吉凶於八卦
Âm tình hàn thử Thiên đạo chi thường
Thuỷ hạn binh tai niên thời chi biến.
Dục quyết hoạ phúc ư nhất niên
Tu thẩm cát hung ư bát quái.
Nắmg mưa lạnh nóng việc bình thường của Thiên đạo,
Lụt hạn binh đao là những biến cố trong năm
Muốn định hoạ phúc trong một năm
Cần xét cát hung nơi bát quái.
Niên thời là sự việc trong bốn mùa của một năm. Việc quốc gia, quan lại, thời tiết, nhân vật đều ở trong 6 hào của quẻ.

2.初觀萬物 莫居死絕之鄉
次察群黎喜在旺生之地
Sơ quan vạn vật, mạc cư Tử Tuyệt chi hương
Thứ sát quần lê, hỉ tại vượng sinh chi địa
Hào sơ để xem vạn vật, chớ trị ở nơi Tử Tuyệt,
Hào tiếp xét lê dân, mừng tại chỗ Vượng Sinh.
Vạn vật thuộc hào Sơ, ở Tài Phúc thì cát, lâm Quan Quỷ thì hung. Hào hai là vị trí của nhân dân, gặp Tử Tôn bốn mùa an lạc, gặp Quan Quỷ trong năm nhiều tai hoạ.

3.三言府縣官僚兄動則徵 科必追
四論九卿宰相冲身則巡察無私
Tam ngôn phủ huyện quan liêu, Huynh động tất chinh khoa tất truy
Tứ luận cửu khanh tể tướng, xung Thân tất tuần sát vô tư.
Hào tam nói về quan lại phủ huyện, nếu Huynh động thì truy thu thuế .
Hào tứ luận về Tể tướng và cửu khanh[1], nêu xung Thân thì việc tuần sát vô tư.
Hào tam đoán quan lại có trách nhiệm, sinh hợp Thế hào thì có lòng thương người mến vật. Nếu lâm Tử Tôn thì thanh liêm chính trực, lâm Quan Quỷ bất nhân tàn bạo, lâm Huynh Đệ phát động khắc Thế thì bức bách thu thuế.
Nếu xem cử khanh và tể tướng thì xét hào tứ, lâm Tử Tôn sinh hợp Thế Thân thì cai trị lo lắng cho dân, chính trực vô tư.

[1] Chỉ các hạng quan lớn. Tuỳ triều đại mà thay đổi, như triều Minh ở Trung Quốc gọi Thượng thư của lục Bộ, Đô ngự sử ở Đô Sát viện, Thông Chính Ty sứ, Đại Lý tự khanh là cửu khanh.

4.五為君上之爻
六為昊 天之位
Ngũ vi Quân thượng chi hào,
Lục vi hạo thiên chi vị.
Hào ngũ là vị của vua
Hào lục là vị của Trời.
Hào ngũ là vị trí của vua, không nên động khắc hào Thế, vì như thế thì năm đó chịu bóc lột của triều đình. Nếu lâm Tài Phúc sinh hợp hào Thế tất được ân của vua, hoá ra Phụ Mẫu thường có ân xá, lâm Không động tất có danh mà không thực. Hào lục là Trời, nếu lâm Không năm ấy tất nhiều việc quái dị, vì vốn Trời không có lý xuất Không, nên chủ sự biến đổi lạ thường.

5.應亦為天剋世則天心不順
世還為地逢空則人物多災[/indent]
Ứng diệc vi Thiên, khắc Thế tắc Thiên tâm bất thuận;
Thế hoàn vi Địa, phùng không tắc nhân vật đa tai
Ứng cũng là Trời, khắc Thế thì lòng Trời không thuận
Thế còn là Đất, gặp Không thì người vật nhiều tai ương.
Ứng hào lại là những quân bên ngoài Kinh, Thế hào lại là bản địa (chỉ vùng người xem đang ở)

6. 太歲逢凶乘旺有溫州之大颶
Thái Tuế phùng hung thừa vượng, hữu Ôn châu chi đại cụ
Thái Tuế gặp hung mà vượng có gió lớn ở Ôn châu[1].
Thái Tuế là chủ tinh của một năm, duy gặp Tử Tôn, Thê Tài là cát, lâm những nơi khác đều bất lợi. Như lâm Huynh động thì năm đó nhiều gió, khắc Thế thì tai hoạ về gió bão.

[1] Tên phủ ở Triết Giang Trung quốc, đây dùng để chỉ miền đất đang ở. Dung từ Ôn châu để đối với Hán tẩm ở vế sau (câu 7).

7. 流年直鬼帶刑成漢寢之轟雷
Lưu niên trị Quỷ đới hình, thành Hán tẩm chi oanh lôi.
Lưu niên gặp Quan quỷ nên sấm sét trên đất Hán.
Thái Tuế lâm Quan Quỷ động , nhiều sấm sét tai hoạ. Sáu hào không có Quan, niên nguyệt không trị Quan , hoặc Quan suy tuyệt đều tốt.

8. 發動妻財旱若成湯之日
交重父母潦如堯帝之時
Phát động Thê Tài, hạn nhược Thành Thang chi nhật
Giao trùng Phụ Mẫu, lạo như Nghiêu đế chi thì.
Thê Tài phát động thì trời hạn như thời vua Thành Thang
Phụ Mẫu động thì lụt như thời vua Nghiêu.
Thê Tài lâm Thái Tuế phát động mà hào Phụ suy nhược, tất chủ khô hạn. Nêu Phụ trì Thái Tuế phát động, Tử Tôn suy nhược chủ nước lớn.

9. 猛烈火官回祿興災於照應
Mãnh liệt hoả Quan hồi lộc hưng tai ư chiếu ứng
(Quan Quỷ thuộc Hoả vượng động thì ứng việc có hoả tai)
Quan Quỷ thuộc Hoả phát động chủ có hoả tai.
Hoả Quỷ phát động chủ có hoả tai, nếu với hào Thế vô can mà trở ngại, với hào Ứng thì hàng xóm bị hoả tai. Dùng nội ngoại quái mà luận xa hay gần.

10. 汪洋水鬼玄冥作禍於江淮
Uông dương thuỷ Quỷ, Huyền Minh tác hoạ ư giang hoài
Thuỷ Quỷ thì nước mênh mông, Huyền Minh[1] gây hoạ nơi sông lớn.
Thuỷ Quỷ phát động chủ có thuỷ tai, tại ngoại quái động thì ngập chìm ở nơi khác, ở nội quái động thì nước sông tràn ngập ở nơi gần, nếu không khắc Thế thì tuy ngập cũng vô sự.

11. 尤怕屬金四海干戈如鼎沸
Vưu phạ thuộc kim, tứ hải can qua giai đỉnh phất
Càng sợ nếu thuộc kim, bốn biển chiến tranh sùng sục.
Kim Quỷ phát động sợ có binh đao, xung khắc Ứng hào, sinh hợp với hào ngũthì triều đình chinh phạt, như ở ngoại quái lại thuộc cung khác, khắc hào ngũ hoặc khắc Thái Tuếthì ở ngoài xâm phạm đất nước. Hoặc lưỡng Quỷ đều động thì chẳng phải một nơi làm loạn, hoặc hoá hồi đầu khắc, nhưng Nhật thần Nguyệt kiến động hào khắc chế thì tuy có phản loạn mà chẳng hại. Nếu Quan hưu tù động thì là giặc cứơp.

12. 更嫌值土千門疫厲苦 符同
Cánh hiềm trị Thổ, thiên môn dịch lệ khổ phù đồng
Lại hiềm ở Thổ, khổ vì tai hoạ ôn dịch khắp ngàn nhà.
Thổ Quỷ phát động lại lâm Bạch Hổ đều chủ ôn dịch, nếu khắc Thế thì người mắc bệnh chết nhiều, có chế thì chẳng hại gì.

13. 逢朱雀而化福爻財動則旱蝗 相繼
Phùng Chu Tước nhi hoá Phúc hào, Tài động tắc hạn hoàng tương kế
Gặp Chu Tước mà hoá Phúc Đức, Tài động thì hạn và sâu bọ kế tiếp nhau.
(Quỷ lâm Chu Tước động,hình khắc Thế Thân chủ có tai hoạ sâu bọ, vì vốn Chu Tước (chim sẻ đỏ) có thể bay được.

[1] tên thuỷ thần.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 24

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

31.爻 逢 合 住 縱 動 無 功
Hào phùng hợp trú, túng động vô công
Hào nếu gặp hợp, dù động cũng vô ích.
Phụ động thì mưa, Tài động thì tạnh, là lẽ đương nhiên. Nhếu bị Nhật thần hợp, tuy động cũng như tĩnh, đợi Nhật thần xung Phụ hào có thể mưa, xung Tài hào có thể tạnh.

32.合 父 鬼 冲 開 有 雷 則 雨 – 合 財 剋 破 無 風 不 晴
Hợp Phụ, Quỷ xung khai, hữu lôi tắc vũ,
Hợp Tài, Huynh khắc phá, vô phong bất tình
Hợp với Phụ, Quỷ xung khai, có sấm sẽ mưa;
Hợp với Tài, Huynh khắc phá không gió không tạnh.
Như động hào hợp với Phụ hào, được Quan quỷ khử xung động hào, trước sấm sau mưa. Tài bị động hào hợp, được Huynh Đệ khắc phá động hào, không gió thì không tạnh.

33.坎 巽 互 交 此 日 雪 花 飛 六 出
Khảm Tốn hỗ giao, thử nhật tuyết hoa phi lục xuất
(Khảm Tốn cùng động thì ngày đó hoa tuyết bay)
Khảm Tôn là nói đến Phụ và Huynh đều động. Xem vào mùa đông, có tượng gió tuyết tung bay.

34.陰 陽 各 半 今 朝 霖 雨 慰 三 農
Âm dương các bán, kim triêu lâm vũ uý tam nông
Âm dương mỗi thứ một nửa thì hôm đó mưa dầm, an uý nhà nông.
Âm và tình là nói đến 2 hào Quan và Phụ. Như ccầu mưa mà thấy Quan và Phụ đều vượng động mà không có xung hợp thương tổn thì ngày đó có mưa.

35.兄 弟 木 興 係 巽 風 而 馮 夷 何 其 肆 虐
Huynh Đệ mộc hưng hệ Tốn phong, nhi Phùng Di hà kỳ tứ ngược
Huynh Đệ thuộc mộc động liên quan cung Tốn, để Thần gió sao quá bạo ngược.
Gặp Huynh Đệ thuộc mộc ở cung Tốn, vượng động hình khắc hào Thế thì lo có gió lếu Phụ cũng vượng động chủ gió mưa hoà lẫn.

36.妻 財 發 動 屬 乾 陽 而 旱 魃 乎 爾 行 凶
Thê Tài phát động thuộc Càn dương nhi hạn bạt hồ nhĩ hành hung
Thê Tài động thuộc cung Càn dương sao mà Thần hạn quá hành hung.
Tài hào phát động, hoặc biến nhập quẻ Càn, lại gặp Nguyệt kiến Nhật thần sinh phù hợp trợ tất chủ đại hạn.

37.六 龍 御 天 祇 為 蛇 興 震 卦
Lục long ngự thiên chỉ vi Xà hưng Chấn quái
Lục long hiện ở trời chỉ vì Đằng Xà động ở cung Chấn.
Chấn có tượng rồng, nếu thấy Thanh Long hoặc hào Thìn tại cung Chấn vượng động, tất có rồng hiện. Nếu Phụ hoá Thìn thì trước mưa sau có rồng. Nếu Thìn hoá Phụ thì trước thấy rồng sau có mưa. Phụ hào an tĩnh hoặc Không phục, rồng tuy hiện mà không mưa, hoá Tài cũng thế.

38.五 雷 驅 電 蓋 緣 鬼 發 離 宮
Ngũ lôi khu điện cái duyên Quỷ phát Li cung
Sấm xua chớp vốn do Quỷ động ở cung Li.
Có tiếng là sấm, không tiếng là chớp. Nếu Quỷ ở cung Ly động nên đoán là sấm động xua chớp. Vốn quẻ Li tượng có màu sắc. Quỷ thuộc hoả cũng thế.

39.土 星 依 父 雲 行 雨 施 於 天-木 德 扶 身 而 日 暖 風 和 之 景
Thổ tinh y Phụ, vân hành vũ thí ư thiên
Mộc Đức phù thân, nhật noãn phong hoà chi cảnh
Phụ có hành Thổ, trời chuyển mây mưa,
Phúc Đức thuộc Mộc trợ Thân, tượng nắng ấm gió dịu.
Thổ chủ mây, Phụ chủ mưa, cho nên Thổ lâm Phụ động thì tượng mây chuyển trời mưa. Mộc chủ gió, Tài chủ tạnh. cho nên Mộc lâm Tài động có nắng ấm gió dịu.

40. 半 晴 半 雨 卦 中 財 父 動 興
Bán tình bán vũ, quái trung Tài Phụ đồng hưng
Nửa mưa nửa tạnh, trong quẻ Tài Phụ cùng động.
Thê Tài, Phụ Mẫu đều động tất nhiên nửa mưa nửa tạnh.vượng tạnh nhiều mưa ít, Phụ vượng Tài suy thì mưa nhiều tạnh ít.

41.多 霧 多 煙 爻 象 財 官 皆 動
Đa vụ đa yên, hào tượng Tài Quan giai động
Nhiều sương nhiều khói, trong quẻ Tài Quan đều động.
Tài động chủ tạnh, Quỷ động chủ âm u. Quan vượng Tài suy thì sương nặng hạt như mưa phùn. Quỷ suy Tài vượng thì khói mờ chốt lát rồi sáng tỏ.

42.身 值 同 人 雖 晴 而 日輪 含 曜
世 持 福 德 縱 雨 而 雷 鼓 藏 聲
Thân trị đồng nhân, tuy tình nhi nhật luân hàm diệu
Thế trì Phúc Đức, túng vũ nhi lôi cổ tàng thanh.
Thân ở cùng người, tuy tạnh mà trời cũng không sáng
Thế ở Phúc Đức nếu mưa cũng không có tiếng sấm.
Phàm Huynh Đệ trì Thế, động thì khắc Tài, Tài nếu vượng tướng trời cũng không trong sáng. Tử Tôn trì Thế nếu động thì khắc Quan, Quan nếu động tuy mưa cũng không có tiếng sấm.

43.父 空 財 伏 須 救 輔 爻
剋 日 取 期 當 明 占 法
Phụ Không, Tài phục tu cứu phụ hào
Khắc nhật thủ kỳ, đương minh chiêm pháp.
Phụ lâm Không, Tài phục nên xét Nguyên thần
Chon ngày ứng việc, cần rõ phép xem.
Phụ[1] hào là Nguyên thần. Xem mưa lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần, lấy hào Quan quỷ làm Nguyên thần; xem tạnh ráo lấy Tài hào làm dung thần, lấy Tử Tôn làm Nguyên thần. Nếu Dụng thần Không phục, suy vượng, động tĩnh, xuất hiện, Mộ Tuyệt, hợp xung, Nguyệt phá thì phải dúng phép định bệnh trên các hào mà quyết đoán ngày ứng việc.
Nay lấy Dụng thần làm phép tắc mà định lúc ứng việc như sau:
– Dụng thần phục tàng chờ ngày Dụng thần xuất lộ thì ứng việc; như Dụng thần an tĩnh chờ ngày xung tĩnh thì ứng việc; như Dụng thần Tuần không an tĩnh, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp xung, gọi là xung khởi, chờ xuất Tuần gặp ngày hợp sẽ ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp chờ, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần phát động mà không bị gì khác, chờ gặp ngày hợp ứng việc; như Dụng thần Tuần không phát động gặp xung ,gọi là xung thực, thì ứng việc vào ngày này. Như Dụng thần phát động gặp hợp, động Không gặp hợp cũng tĩnh mà gặp hợp, đều chờ ngày xung mà ứng việc; như Dụng thần nhập Mộ ở Nhật thần, chờ ngày xung Dụng thần sẽ ứng việc; như Dụng thần tự hoá nhập Mộ, chờ ngày xung khai Mộ khố sẽ ứng việc; như Dụng thần bị hào khác động hợp, hay tự đống hoá hợp chờ ngày xung khai hào hợp với Dụng thần thì ứng việc. Như Dụng thần bị Nguyệt phá chờ ra khỏi tháng gặp ngày trị hoặc ngày hợp thì ứng việc; như Dụng thần Tuyệt ở Nhật thần hoặc hoá Tuyệt ở hào , chờ ngày Trường Sinh sẽ ứng việc;
Như Nguyên thần hợp cục khắc mà Dụng thàn phục tàng, chờ ngày xuất lộ ứng việc; như Tuần không thì chờ ngày xuất Tuần ứng việc.
Cho nên thep phép thì hợp thì chờ xung, xung thì chờ hợp; Tuyệt thì đợi Sinh, Mộ thì đợi mở; Phá thì đợi bổ, Không thì xuất Tuần, Suy thì đợi vượng. Việc xa thì đoán vào tháng ngày, việc gần thì đoán ngày giờ. Cho nên bảo: “Chọn ngày ứng việc nên rõ phép xem” .
Mưa thì nên xét hào Phụ Không mà bất Không; tạnh thì nên xét hào Tài tuy phục mà không phục.Đã biết Dụng thần, còn nên xét thêm Nguyên thần. Cho nên bảo:” Phụ Không Tài phục nên xét Nguyên Thần”. Chữ “tu” nên có nghĩa là “kiêm” (kèm thêm), mà xưa chú thích nghi là xem mưa mà hào Phụ lâm Không, bất tất phải theo hào Phụ, nên lấy Nguyên thần mà suy; xem tạnh mà Tài hào phục, bất tất phải theo hào Phụ mà lấy Nguyên thần để đoán, lấy từ mà đoán nghĩa, cho nên ta phải trình bày cặn kẻ.

44.要 知 其 詳 別 陰 陽 可 推 晴 雨
欲 知 其 細 明 衰 旺 以 決 重 輕
Yếu tri kỳ tường, biệt âm dương khả suy tình vũ
Dục tri kỳ tế, minh suy vượng dĩ quyết trọng khinh
Muốn biết rõ, phân âm dương để suy tạnh hay mưa,
Muốn biết cặn kẽ, ró suy vượng để quyết nặng nhẹ.
Câu này ý nói đại lược mà thôi. Âm dương, động biến là quan trọng lớn lao (định mưa hay tạnh), còn nhỏ bé và ít oi là bởi vượng suy. Như vậy có thể đoán định được mưa to hay nhỏ.

[1] Phụ ở đây có nghĩa là “trợ giúp”

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 23

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

16.五 鄉 連 父 求 晴 怪 殺 臨 空
Ngũ hương liên Phụ, cầu tình quái sát lâm Không.
Phụ dù có hành gì trong ngũ hành, cầu nắng thì Sát chớ lâm Không)
Ngũ hương là ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ . Chỉ có hào Phụ là mưa. Tài hào là kị sát. Nếu cầu tạnh đừng để Tài hào lâm Tuần Không.

17.財 化 鬼 陰 晴 未 定
Tài hoá Quỷ âm tình vị định
Tài hào hoá Quan Quỷ nắng ráo hay u ám chưa định được.
Tài chủ tạnh nắng, Quỷ chủ u ám. Như gặp Tài và Quỷ biến đổi lẫn nhau, hoặc Quỷ Tài đều động tất chủ nắng ráo hay u ám chưa định được.

18.父 化 兄 風 雨 靡 常
Phụ hoá Huynh phong vũ mỹ thường
Phụ hoá Huynh gió mưa không thường,
Phụ chủ mưa, Huynh chủ gió. Hai hào này hoá lẫn nhau hoặc đều động chủ gió mưa xen lẫn. Phàm luận thứ tự thì động xảy ra trước, biến xảy ra sau. Nếu đều động cả thì vượng chiếm trước, mà suy thì sau.

19.父 化 子 孫 雨 後 長 虹 垂 螮 蝀
弟 連 福 德 雲 中 日 月 出 蟾 蛛
Phụ hoá Tử Tôn, vũ hậu trường hồng thuỳ đế đống
Đệ liên Phúc Đức, vân trung nhật nguyệt xuất thiềm thù.
Phụ hoá Tử Tôn, sau mưa có cầu vồng dài vắt ngang
Huynh Đệ cùng Phúc Đức, trong mây hiện ra nhật nguyệt.
Nhật Nguyệt, cầu vồng đều thuộc Tử Tôn. Nếu Phụ hào hoá ra Tử Tôn tất sau cơn mưa có cầu vồng, nếu Huynh hào hoá Tử Tôn thì trong mây có mặt trời.

20. 父 持 月 建 必 然 陰 雨 連 旬
Phụ trì Nguyệt kiến tất nhiên âm vũ liên tuần
Phụ trì Nguyệt kiến thì ắt mưa mù suốt tuần.
Như cầu tạnh nắng há lại Phụ trì Nguyệt kiến. Nếu không có Tử Tôn cùng Thê Tài động thì tất mưa mù trọn tuần.

21.兄 坐 長 生 擬 定 狂 風 累 日
Huynh toạ Trường Sinh, nghĩ định cuồng phong luỹ nhật
Huynh ở Trường Sinh, đoán định gió lớn nhiều ngày.
Với Trường Sinh mà mầm mống của mọi sự việc. Nếu Hào Phụ gặp tất mưa nhiều ngày; hào Huynh gặp thì gió nhiều ngày; hào Quan gặp thì mây mù không tan; hào Tài gặp thì không mong có mưa. Đợi đến ngày Mộ Tuyệt thì mưa mới hết, gió mới ngừng, mới hết mây mù…

22.父 財 無 助 旱 潦 有 常
Phụ Tài vô trợ hạn lạo hữu thường
Phụ và Tài không được phù trợ, thường có hạn lụt.
Quan hào và Phụ Mẫu vô khí mà Tài hào vượng động tất hạn. Tử Tôn, Thê Tài vô khí mà Phụ Mẫu vượng động tất lụt. Gặp như vậy sợ nhất là Nhật Nguyệt động mà sinh phù thì lụt ngập hết, hạn thì khô cằn. Nếu hai hào Phụ Tài tuy vượng động nhưng bị chế phục, lại không được phù trợ, nếu hạn thì cũng có lúc, mà mưa cũng có chừng.

23.福 德 帶 刑 日 月 必 蝕
Phúc Đức đới Hình, Nhật Nguyệt tất thực
Phúc Đức mà bị Hình, tất có Nhật Nguyệt thực.
Tử Tôn bị Hình hoá Quan Quỷ, hoặc Quan Quỷ động mà hình hại, hoặc Phụ có Đằng Xà mà khắc Tử, đều chủ có Nhật Nguyệt thực. Hào Dương thì Nhật thực, hào Âm thi Nguyệt thực.

24.雨 h嫌 妻 位 之 逢 冲
Vũ hiềm Thê vị chi phùng xung
Xem mưa thì ngại hào Thê gặp xung.
Xem mưa nếu Tài hào ám động, thì Phụ Mẫu ngầm bị thương, không hi vọng có mưa.

25.晴 利 父 爻 之 入 m墓
Tình lợi Phụ hào chi nhập Mộ
Xem nắng thì lợi khi hào Phụ nhập Mộ
Hào Phụ phát động nhập Mộ, mà không có Nhật thần, động hào xung khai Mộ khố thì mưa ngưng.

26.子 伏 財 飛 檐 下 暴 夫 猶 抑 鬱
Tử phục Tài phi, thiềm hạ bộc phu do ức uất
Tử phục Tài Phi, người dưới thềm còn chịu oi bức.
Hào Tài chủ tạnh mà không chủ có mặt trời. Nếu Tử Tôn xuất hiện, phát động vượng tướng thì sau sẽ có mặt trời.Nếu không có Tử Tôn thì hào Tài không gốc rễ, Quan Quỷ ắt chuyên quyền, điềm tạnh không lâu được.

27.父 衰 官 旺 門 前 行 客尚 趑 趄
Phụ suy Quan vượng, môn tiền hành khách thượng tư thư
Phụ suy Quan vượng, trước cổng người đi còn chùn bước.
Mưa lấy hào Phụ làm chủ, được hào Quan vượng động thì có mưa. Nếu hào Phụ lâm Không thì không có mưa, tượng mây dày đặc không tan. Đợi hào Phụ xuất Tuần gặp xung tất mưa.

28. 福 合 應 爻 木 動 交 而 游 絲 漫 野
Phúc hợp Ứng hào mộc động giao nhi du ti mạn dã
Phúc hợp với hào Ứng, thuộc mộc mà động thì mưa bay tràn đồng.
Tử Tôn là thần khoáng đạt, nếu ở hạo Mộc động mà hợp với Ứng, hoặc ở hào Ứng mà sinh hợp với Thế thân, tất thì gió dịu nắng ấm, trời lộng gió mưa bay.

29.鬼 冲 身 位 金 星 會 而 陰 霧 迷 空
Quỷ xung Thân vị Kim tinh hội nhi âm vụ mê không
Quỷ xung Thân, thuộc Kim thì sương mù mờ mịt.
Quỷ lâm hào Kim động mà xung khắc Thế thân, hoặc xung khắc Ứng hào, hợc lâm Ứng mà động, đều chủ khói mù mờ mịt khắp đồng.

30.卦 值 暗 冲 雖 空 有 望
Quái trị ám xung, tuy Không hữu vọng
Quẻ gặp ám xung, tuy Không cũng có hi vọng.
Như xem mưa mà Phụ hào lâm Không, xem tạnh ráo mà Tài hào lâm Không, nếu được Nhật thần xung, tất xung Không mà nên chẳng phải là Không. Muốn định nhật kỳ, phải xuất Tuần mới hi vọng được.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 22

0

Chương 7

THIÊN THỜI

天 時

(Tuvivietnam – siêu tầm)


1.天 道 杳冥 豈 可 度 斯 夫 旱 潦
易 爻 微 妙 自 能 驗 彼 之 陰 晴
當 究 父 財 – 勿 憑 水 火
Thiên đạo yểu minh, khởi khả đạc tư phù hạn lạo
Dịch hào vi diệu, tự năng nghiệm bỉ chi âm tình.
Đương cứu Phụ Tài – Vật bằng thuỷ hoả.
Đạo trời u minh há lượng được hạn lụt thế sao
Hào dịch vi diệu tự nghiệm được nắng mưa đấy
Phải xét Phụ, Tài – Chớ nhờ Thuỷ Hoả.

Thiên Huyền phú và Dịch Lâm Bổ Di đều dùng Thuỷ Hoả làm chủ nắng mưa, mà không xét Lục thân chế hoá. Vốn cố chấp mà không thông biến. Vả lại như hào Thuỷ là mưa, tất bảo vượng động sẽ mưa như trút, hưu tù thì mưa bay bay. Nhưng Thuỷ ở mùa đông vượng tất mưa. Mưa há chỉ to vào thu đông mà nhỏ vào xuân hạ sao ? Biết như thế mà không tự phá bỏ sao ? Phàm xem thiên thời nên xem Phụ và Tài, chớ luận Thuỷ và Hoả.

2.妻 財 發 動 八 方 咸 仰 晴 光
父 母 興 隆 四 海 盡 霑 雨 澤
Thê Tài phát động bát phương hàm ngưỡng tình quang
Phụ Mẫu hưng long tứ hải tận triêm vũ trạch.
Thê Tài phát động tám phương đều thấy nắng ráo
Phụ Mẫu vượng hưng bốn bể đều thấm ướt mưa.
Dùng hào Phụ Mẫu làm mưa, Tài động thì khắc chế thần mưa, cho nên chủ tạnh.

3.應 乃 太 虛 逢 空 則 雨 晴 難 擬
Ứng nãi thái hư, phùng Không tắc vũ tình nan nghĩ
Ứng là bầu trời, gặp Không thì nắng mưa khó định.
Xem Thiên thời , Ứng lâm Không thì nắng mưa khó định, phải dựa vào Phụ, Tài và Nhật thần để đoán.

4.世 為 大 塊 受 剋 則 天 變 非 常
Thế vi đại khối, thụ khắc tắc thiên biến phi thường.
Thế là đất lớn, chịu khắc thì trời biến đổi phi thường.
Ứng là Trời, thể của muôn vật. Thế là Đất, chủ muôn vật. Nếu Thế bị động hào hình khắc tất thời tiết thay đổi phi thường.

5. 日 辰 主 一 日 之 陰 晴
Nhật thần chủ nhất nhật chi âm tình
Nhật thần chủ mưa nắng trong ngày.
Như hào Phụ Mẫu động bị Nhật thần khắc chế thì không mưa. Nếu hào Phụ Mẫu động được Nhật thần sinh phù chủ mưa to. Nếu Tài hào động được Nhật thần sinh phù chủ nắng bức. Nhật thần là chúa tể.

6.子 孫 管 九 天 之 日 月
Tử Tôn quản cửu thiên chi nhật nguyệt
Tử Tôn cai quản tháng ngày trong bốn phương.
Tử Tôn dương là ngày, Tử Tôn âm là tháng. Vượng tất trời trong sáng, suy thì trời ảm đạm, Không phục thì mây che, mộ tuyệt thì u ám. Mộ thì nên gặp xung, Tuyệt nên gặp sinh.

7.若 論 風 雲 全 憑 兄 弟
Nhược luận phong vân toàn bằng Huynh Đệ
Nếu luận gió mây toàn dựa vào Huynh Đệ.
Gió mây nên xem hào Huynh Đệ , dùng vượng động suy tĩnh để luận gió mây lớn nhỏ dày mõng. Nếu luận về thuận phong hay nghịch phong thì không dùng Huynh Đệ. Lấy Tử Tôn làm thuận phong, dùng Quan quỷ làm nghịch phong.

8.要 知 雷 電 但 看 官 爻
Yếu tri lôi điện đản khán Quan hào
Muốn biết sấm chớp chỉ xem hào Quan.
Quan Quỷ ở cung Chấn động là Sấm, vượng tướng là sét, hoá Tiến thần cũng thế. Hoặc quẻ không có Phụ Mẫu, tuy sấm cũng không mưa, Phụ Mẫu trị nhật mới mưa.

9.更 隨 四 季 推 詳
Cánh tuỳ tứ quý suy tường
Lại tuỳ bốn mùa để suy rõ.
Câu này nối tiếp với cau trên, gặp mùa đông thì không thể đoán sấm.

10.須 配 五 行 參 決
Tu phối ngũ hành tham quyết
Nên phối hợp với ngũ hành mà quyết đoán.
Ngũ hành tuỳ thời mà vượng. Xuân Đông nhiều sương tuyết băng đá, Hạ Thu sấm chớp sương móc buổi sớm.

11.晴 或 逢 官 為 烟 為 霧
Tình hoặc phùng Quan vi yên vi vụ
Tạnh gặp quan Quỷ là khói là sương.
Quẻ được trời tạnh, nếu Quan Quỷ động thì có khói mù dày đặc, lắm sương, gió độc tối mù. Đông thì quá lạnh, hạ thì quá nóng.

12.雨 而 遇 福 為 電 為 虹
Vũ nhi ngộ Phúc vi điện vi hông
Mưa mà gặp Phúc Đức là chớp là mống.
Quẻ xem xó mưa, nếu Tử Tôn động thì có chớp có cầu vồng. Tử Tôn chủ có màu sắc, cầu vồng và chớp đều có hình ảnh đó, cho nên dựa đó mà suy.

13.應 臨 子 孫 碧 落 無 瑕 疵 之 半 點
Ứng lâm Tử Tôn, bích lạc vô hà tì chi bán điểm
Ứng ở Tử Tôn thì bầu trời xanh không có chút mây.
Phàm Ứng lâm Tử Tôn động, mặt trời sáng tỏ. Hoặc Tài lâm Ứng động hoá Phúc Đức cũng thế.

14.世 l臨 土 鬼 黃 沙 多 漫 散 於 千 村
Thế lâm Thổ Quỷ, hoàng sa đa mạn tán ư thiên thôn
Thế ở Quỷ thổ thì trời vàng như cát rải rác cả ngàn thôn.
Hợc hào Phụ Mẫu Không phục, lâm Quỷ thổ phát động thì trời vàng, đợi hào Phụ xuất Không, đến ngày xung thì có mưa.

15.三 合 成 財 問 雨 那 堪 八 卦
Tam hợp thành Tài, vấn vũ na kham bát quái.
Tam hợp thành Tài cục, hỏi mưa thì chẳng quẻ nào được.
Quẻ có Tam hợp thành Tài cục thì ráng rực rỡ mà không mưa. Tam hợp thành Phụ cục thì có mưa.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 21

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

60.父 亡 而 事 無 頭 緒
福 隱 而 事 不 稱 情
Phụ vong nhi sự vô đầu tự
Phúc ẩn nhi sự bất xứng tình
Phụ lâm Không thì việc không đầu mối
Phúc phục thì việc không vừa lòng.
Câu này chỉ nói đến việc công. Xem văn thư thì hào Phụ Mẫu là văn thư. Phàm xem công danh thì việc công, cơ quan đều dùng hào Phụ Mẫu làm đầu mối. Đầu tiên là dựa vào văn thư, tiếp đến mới theo Quan Quỷ, nếu hào văn thư gặp Không vong, sợ việc chưa xác đáng. Cho nên mới bảo : “Phụ Không vong thì việc không có đầu mối”.
Phàm xem việc tư lấy hào Tử Tôn làm thần giải ưu, lại dùng hào Tài làm căn nguyên. Há Tử Tôn phục mà không hiện sao. Cho nên mới bảo:” Phúc Đức ẩn mà việc chẳng vừa lòng”..

61. 鬼 雖 禍 災 伏 猶 無 氣
Quỷ tuy hoạ tai, phục do vô khí
Quỷ tuy là tai hoạ, phục thì vô khí.
Hào Quan Quỷ tuy bảo là thần sát về tai hoạ, nhưng trong sáu hào của quẻ không thể không có, nên xuất hiện mà an tĩnh, không nên phục tàng. Nếu phục thì trong quẻ vô khí. Vả lại hào Quan đó cũng là nơi dựa khi xem mọi chuyện, tức cũng cần. Như xem về quan chức thì Quan là Dụng thần; xem văn thư thì Quan là Nguyên thần; xem kiện tụng thì Quan là quan lại; xem bệnh tật thì Quan là bệnh; xem trộm cướp thì Quan là trộm cướp; xem việc quái dị thì Quan là quái dị; xem về tiền bạc nếu không có hào Quan sợ Huynh Đệ nắm quyền khó tránh tổn hại.

62. 子 雖 福 德 多 反 無 功
Tử tuy phúc đức , đa phản vô công
Tử tuy là phúc đức, bị khắc nhiều thì vô ích.
“Đa”” là xuất hiện nhiều, “Phản” là chịu khắc. Chỉ xem công danh thì Tử Tôn là ác sát. Ngoài ra đều lấy Tử Tôn làm thần phúc đức. Như xem thuốc men đều lấy Tử Tôn làm Dụng thần, nếu trong quẻ xuất hiện nhiều hào Tử Tôn thì dùng thuốc lộn xộn, có uống cũng vô ích. Như xem cầu tài gặp hào Tử Tôn bị tương, không chỉ không lợi sợ còn bị hao vốn.

63. 究 夫 母 推 為 體 統
論 官 鬼 斷 作 禍 殃
財 乃 祿 神 ,子 為 福 德
兄 弟 交 重 必 至 ,凡 謀 多 阻 滯
Cứu Phụ Mẫu suy vi thể thống
Luận Quan Quỷ đoán tác hoạ ương
Tài nãi lộc thần, Tử vi phúc đức
Huynh Đệ giao trùng tất chí, phàm mưu đa trở trệ.
Xét Phụ Mẫu suy được thể thống
Luận Quan Quỷ đoán được hoa tai.
Tài là lộc thần , Tử là phúc đức
Huynh Đệ động tất mưu sự nhiều trở ngạ.)
Ở đây tuy nói đại lược về năm loại[1], nhưng cũng có phân ra để mà dùng. Giả như xem chung thân, lấy hào Phụ Mẫu để luận xuất thân, nếu gặp Quý Nhân mà có sát, tức hậu duệ của nhà quan lại, nếu bị hình hại vô khí là con nhà nghèo hèn. Giả như xem về tai hoạ nên xem Quan Quỷ lâm vào loại thú nào, nếu ở Huyền vũ thì hoạ về đạo tặc. Tài là thực lộc của người ta, cho nên gọi là lộc thần; Tử Tôn có thể giải ưu khắc Quan Quỷ cho nêngọi là phúc đức. Huynh Đệ là ngang hàng với ta mà lấn Tài, động thì khắc Tài mà tranh đoạt , cho nên mới bảo :”mưu sự nhiều trở ngại”.

64.卦 摊 重 疊 須 知 事 體 兩 交 關
Quái thân trùng điệp, tu tri sự thể lưỡng giao quan
Quái thân trùng điệp, nên biết sự việc có liên quan đến hai nơi.
Quái thân là Nguyệt quái thân, phép khởi là “Thế dương khởi từ tháng Tí, Thế âm khởi từ tháng Ngọ” Cần phải luận rõ câu này. Phàm hào Quái thân là thể của sự việc cần xem. Nếu trong quẻ có đến hai hào xuất hiện, tức là việc có kết hợp, hoặc sự việc liên quan đến hai nơi. Nếu ở Huynh Đệ tất cùng mưu sự với người, Huynh Đệ khắc Thế, hoặc lâm Quan Quỷ phát động tất có người tranh giành việc này.
Trong quẻ không xuất hiện Quái thân, việc chưa định hướng; xuất hiện sinh Thế, trì Thế, hợp Thế thì sự việc đã định. Quái thân nên xuất hiện mà không nên động, động thì phòng có biến đổi, nếu biến hoại thì việc sẽ biến hoại. Nếu trì Thế thì biết việc này mình có thể điều động. Nếu Quái thân lâm Ứng thì việc này quyền bính ở người, hoặc do hào khác động biến thành tức biết người liên quan hào này cũng thuộc vào việc đó. Như Tử Tôn là tăng đạo hoặc bọn cháu chắt chẳng hạn, hoặc phục ở dưới hào khác cũng như theo vậy mà suy đoán.
Nếu sáu hào cùng Phi hào, Biến hào, Phục thần đều không có Quái thân, thì việc ấy chưa chắc, ở Không vong, Mộ, Tuyệt thì việc khó thành. Đại để Quái thân dùng để xem sự thể, không thể lầm là để xem thân mệnh, như xem tướng mạo xấu đẹp thì xem Quái thân có thể biết.
Phàm gặp Thân khắc Thế thì sự việc tìm tới ta là tốt, Thế khắc Thân thì hung. Nếu được hào Thân sinh hợp hào Thế lại càng tốt.

65. 虎 興 而 遇 吉 神 不 害 其 為 吉
龍 動 而 逢 凶 曜 難 掩 其 為 凶
玄 武 主 道 賊 之 事 亦 必 官 爻
朱 雀 本 口 舌 之 神 然 須 兄 弟
疾 病 大 宜 天 喜 若 臨 凶 煞 必 生 悲
出 行 最 怕 往 亡 如 係 吉 神 終 獲 利
是 故 吉 凶 神 煞 之 多 端 何 如 生 剋 制 化 之 一 理
Hổ hưng nhi ngộ cát thần bất hại, kỳ vi cát.
Long động nhi phùng hung diệu nan yểm, kỳ vi hung.
Huyền Vũ chủ đạo tặc chi sự. diệc tất Quan hào.
Chu Tước bổn khẩu thiệt chi thần, nhiên tu Huynh Đệ
Tật bệnh đại nghi Thiên Hỷ, nhược lâm hung sát tất sinh bi.
Xuất hành tối phạ Vãng vong, như hệ cát thần chung hoạch lợi
Thị cố cát hung thần sát chi đa đoan, hà như sinh khắc chế hoá chi nhât lý.
Hổ động mà gặp cát thần chẳng hại, mà là tốt
Long động mà gặp sao hung khó tránh, ấy là hung.
Huyền Vũ chủ việ đạo tặc không nên ở hào Quan,
Chu Tước vốn thần khẩu thiệt nhưng không nên ở Huynh Đệ
Tật bệnh rất nên có Thiên Hỷ, nếu lâm hung sát tất sinh đau buồn.
Xuất hành rất sợ Vãng Vong , nếu gặp cát thần cuối cùng được lợi.
Cho nênThần sát cát hoặc hung tuy quá nhiều, đâu bằng một lý sinh khắc chế hoá.
Đại để Bốc dịch nên đinh Ngũ hành của Lục thân , không thể dùng thần sát lộn xộn để đoán. Vốn Thần sát ở sách xưa đến lúc Kinh Phòng tiên sinh làm Dịch, để lại quá nhiều sao hung cát làm mê hoặc người học về sau, đại loại như Thiên Hỷ, Vãng Vong, Đại Sát, Đại Bạch Hổ. Nay người đời lấy làm tông chỉ, không gì là không tin. Nhưng thần sát quá nhiều, há có thể dùng được sao. Với phép dùng Lục thú mà nói, chẳng ai không lấy Thanh Long làm tốt, Bạch Hổ làm hung, thấy Chu Tước cho là khẩu thiệt, thấy Huyền Vũ cho là đạo tặc, không phân biệt lầm trì Dụng thần, Nguyên thần, Kị thần hay Cừu thần, đại khái lấy tinh chất của Lục thú để đoán mà thôi , làm mất diệu chỉ của tiên thiên. Chẳng lẽ Bạch Hổ động chắc chắn là hung, nếu lâm vào hào thích ứng để sinh phù củng hợp với Thế thân , thì có gì hại đến ta, cho nên bảo là hung mà chẳng hại, ấy là tốt.
Thanh Long động vốn là tốt, nếu lâm vào hào kị, hình xung khắc hại Dụng thàn, thì có ích gì cho việc. Cho nên bảo là tốt mà chẳng ngăn được hung.
Chu Tước tuy chủ khẩu thiệt nhưng chẳng phải Huynh Đệ tính lâm, tất không thể thành khẩu thiệt.
Huyền Vũ tuy chủ đọ tặc, nếu không phải là hào Quan tính lâm, thì không gọi là đạo tặc.
Vốn Lục thù dựa vào sinh khắc ngũ hành của Lục thân.
Lại như Thiên Hỷ là cát tinh, xem bệnh mà gặp, tuy đại lợi nhưng hung hiểm, lại không đoán chết , là cớ nhớ Thiên Hỷ; nếu lâm vào Kị thàn, thì ta lấy làm buồn mà chẳng lấy làm vui. Vãng Vong là hung sát, xuất hành mà gặp tuy đại tượng cát lợi, lại đoán hung , vì cớ là thần chết.
Nếu lâm vào hào ưa thích động mà sinh phù củng hợp với Thế thân Dụng thần, ta tất lấy làm lợi mà không cho là hại. Vì quyền của Thần sát là nhẹ mà quyền của Ngũ hành là nặng. Do vậy mà xem, gặp cát thì cát, gặp hung thì hung, do ở Ngũ hành mà không do ở Thần sát, nghiệm ở lý mà không nghiệm ở sát, hà tất phải theo thuyết ảo vọng đó. Nếu không thi ta quá lẫn lộn, đã hại lý lẽ mà loạn nhân tâm, há làm sao có thể chắc đúng được.
Thần sát vốn không bằng chứng,chỉ khiến việc đoán dịch rẽ ra nhiều lối, mà khônoáonr thoả bằng lẽ sinh khắc chế hoá, đã sáng tỏ lý lẽ mà linh động, rành mạch mà chẳng mê hoặc. Lục thân là cái gốc, Lục thú là cái ngọn. Đến nhưấcc cát thân hung sát như Thiên Hỷ, Thiên Y, Tang xa đều là từ ngọn này đến ngọn khác, muốn dùng thì chỉ có Lục Thú là được. Tức trọng ở gốc mà nhẹ ở ngọn vậy. Nhưng Lục thú chỉ có thể suy tính tình, hình trạng, còn như cát hung đắc thất, lấy sinh khắc của Lục thân làm chủ. Học như vậy thì gốc ngọn đều đầy đủkhông mất diệu chỉ, mà từ một lẽ có thể thông suốt hết.

66. 嗚 呼 卜 易 者 知 前 則 易
Ô hô ! Bốc dịch giả tri tiền tắc dịch
Than ôi ! Người bói dịch trước hết phải biết thông biến.
Người đời bói dịch đều câu nệ vào cổ pháp, người biết biến thông hiếm có. Cho nên gặp Long, Hổ thì đoán vui buồn, thuỷ hoả thì đoán mưa tạnh, Không vong thì cho là hung, Nguyệt phá thì bảo vô dụng, Thân thì cho là mình, Ứng hào thì cho là người. Phàm loại như thế khó nêu lên cho hết. Lưu Bá Ôn tiên sinh viết sách này, dùng cái hay của lý lẽ mà bỏ cái hẹp hòi của ý nghĩa, tỏ rõ cái tối tăm xưa , định lại cho đúng sai lầm ngày nay. Người đời chấp mê vào cổ pháp chẳng ai là không lấy đó mà lý giải. Người có chí với thuật này nên xét những điều nói trên, thì tự biết linh động.

67.求 占 者 鑑 後 則 靈
Cầu chiêm giả giám hậu tắc linh
(Người cầu bói phải xem xét sau đó mới linh)
Người đoán dịch đương nhiên phải thông biến, mà người cầu bói cũng không thể không biết đạo về bói. Đấy là thành tâm.

68. 筮 必 誠 心
Phệ tất thành tâm
(Bói phệ phải thành tâm)
Thánh nhân làm Dịch ca ngợi thần minh, vì đem đạo hợp với trời đất. Cho nên phàm bói Dịch, tất cần chân thành kính cẩn, hết lòng mà cầu, tất cát hung hoạ phúc không gì là không nghiệm. Ngày nay người cầu bói đông, mà cử chỉ chẳng nghiêm trang, ăn mặc bê bối, thậm chí có người chẳng thắp nhang, chẳng rửa tay. Lại có người giàu có tự kiêu, sai gia nhân xem bói thay mình, hoặc nhờ thân hữu đi coi giúp, mà không biết mình tuy phát tâm xem mà người đi thay tâm chưa kính. Cẩu thả như thế mà muốn cầu thần minh cảm ứng sao, há không thân trọng ư ?

69.何 妨 子 日
Hà phương Tí nhật
Ngày Tí có hại gì.
Trong sách lịch âm dương có câu “Tí bất vấn quái” (Tí chẳng xem bói). Cho nên người đời nay phần lớn kị ngày Tí. Lưu quốc sư nói : Việc ứng hung cát đều do cảm của thần minh. Thần minh không lúc nào không có, không lúc nào không cảm. Cảm được với thần minh thì không lúc nào không nghiệm. Cho nên phàm bói Dịch do ltại người có lòng thành hay không, chẳng do tại ngày Tí hay không phải ngày Tí.

Toàn chương trên đây trình bày chung phép đoán Dịch, là chương nói nhứng nét chính yếu. Không theo như thế thì mọi việc khó quyết. Người có chí trước hết đọc chương này, nêu có thể suy đi nghĩ lại mãi, đọc kỹ chú thích tất rõ lý lẽ, thì mọi điều mọi việc xảy ra đều có thể lý giải. Nào có gì hơn được Bốc dịch .

[1] Tức lục thân gồm 5 loại Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Tử Tôn, Thê Tài, Huynh Đệ, nếu thêm Ta vào thì thành 6.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 21

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

51. 事 阻 隔 兮 間 發
心 退 悔 兮 世 空

Sự trở cách hề gian phát
Tâm thoái hối hề Thế Không.
Việc ngăn cản vì gian hào động
Lòng dùng dằng vì Thê lâm Không.
Gian hào là hai hào ở giữ Thế và Ứng . Vốn hai hào ở giữa Thế Ứng này ngăn cách đường giữa ta và người. Gian hào động là có người cản trở. Muốn biết ai ngăn trở cứ lấy Lục thân mà suy. Như Phụ Mẫu động là bậc tôn trưởngchẳng hạn.
Phàm Thế hào gặp Tuần Không, thì trong lòng uể oải không muốn thăng tiến để thành tựu công việc. Cho nên bảo :”Tâm dùng dằng vì Thế lâm Không”.

52. 卦 爻 發 動 須 看 交 重
動 變 比 和 當 明 進 退

Quái hào phát động tu khán giao trùng
Động biến tỉ hoà đương minh tiến thoái
Hào trong quẻ phát đông cần xem giao hay trùng
Động biến thành cùng hành xem rõ Tiến hay Thoái.
Phàm hào phát động trong quẻ, giao thì chủ tương lai, trùng thì chủ quá khứ. Như xem về Đào vong (bỏ trốn) thấy Phụ Mẫu Chu Tước phát động, nếu hào này là giao, còn có người đến báo tin; nếu là trùng thì tin đã biết trước rồi. Các chuyện khác cứ phỏng theo như thế.
Động biến thành cùng hành , là chỉ đến Tiến thần và Thoái thần. Như Dần mộc hoá Mão mộc là Tiến Thần, Mão biến thành Dần là thoái thần. Tiến chủ đi lên phía trước, Thoái chủ lùi ra sau.

53.煞 生 身 莫 將 吉 斷
用 剋 世 勿 作 凶 看
蓋 生 中 有 刑 害 之 兩 防
合 處 有 剋 傷 之 一 慮

Sát sinh Thân mạc tương cát đoán,
Dụng khắc Thế vật tác hung khan
Cái : Sinh trung hữu Hình hại chi lưỡng phòng
Hợp xứ hữu khắc thương chi nhất lự.
Sát sinh Thân chớ đoán là tốt
Dụng khắc Thế chớ xem là hung.
Vốn được sinh cũng phòng hai điều Hình và hại.
Được hợp cũng có lo về khắc thương.
Sát là Kị thần. Sinh là hợp vậy. Thân là như tự xem thì lấy hào Thế . Nếu trong quẻ Kị thàn phát động, tất thương khắc Dụng thần, như vậy dù đã sinh hợp với ta thì cũng chẳng ích gì. Huống gì trong sinh hợp có hình, có hại, có khắc. Như Kị thần sinh Thế kèm có Hình khắc, không những chỉ mưu sự không thành, điều mong cầu chẳng được, còn sợ vì mưu sự mà gặp xấu. Như một người đi thi Hương vào ngày Quí Dậu thàng Thìn bói được quẻ Tiết biến Khảm, Thế hào Tỵ hoả hoá Kị thần là Dần mộc, trong sinh có Hình. lại có Mão mộc Kị thần ám động sinh Thế. Về sau vào trường bị bệnh. Đấy là Kị sinh Thân, trong sinh có mang Hình, về hại cũng tương tự, còn khắc thì nặng hơn.
Lại như Dụng thần động khắc Thế, đó là “vật”[1] đến tìm ta, phàm mưu sự dễ thành, chớ thấy ngắc ta mà cho là hung, được Dụng thần khắc Thế vốn là cát. Nhưng không nên đi sinh hợp với Ứng hào. Đó là hậu với người mà bạc với ta, thì tuy Dụng thần khắc Thế cũng xem là hung, không thể không biết đến.

54. 刑 害 八 宜 臨 用
死 絕 豈 可 持 身

Hình hai bất nghi lâm Dụng
Tử Tuyệt khởi khả trì Thân
Hình hại chẳng nên lâm Dụng
Tử Tuyệt há lại trì Thân.
Phàm Dụng thần, Thân,Thế gặp Nhật thần tương hình, tất chủ bất lợi, xem việc thì chẳng thành. Xem vật thì không tốt, xem bệnh thì trầm trọng, xem người thì có bệnh, xem đàn bà thì bất trinh, xem văn thư thì sơ hở, xem kiện tụng thì hình. Hại thì không đến nỗi hư việc, đại khái cũng phỏng thế, mà hoá Hình hại cũng thế. Cần xem suy vượng sinh khắc, phân định nặng nhẹ kỹ càng. Hào Tử Tuyệt tại Nhật thần mà trì Thế Thân, Dụng thần xem mọi việc đều bất lợi. Biến động mà hoá Tử Tuyệt cũng vậy, nhưng có “Tuyệt xứ phùng sinh” người học cần nên biết.

55. 動 逢 冲 而 事 散
Động phùng xung nhi sự tán
Động gặp xung thì việc tan.
Vốn hào xung không phải theo một lệ mà đoán. Như hào Tuấn không an tĩnh gặp xung thì gọi là khởi; hào Tuần không phát động gặp xung gọi là thực; hào an tĩnh bất Không gặp xung gọi là ám động; hào phát động bất Không gặp xung gọi là tán, lại gọi là xung thoát. Phàm động hào mà găph xung tán thoát, cát chẳng thành cát, hung không thành hung.

56. 絕 逢 生 而 事 成
Tuyệt phùng sinh nhi sự thành
Tuyệt mà gặp sinh thì việc thành.
Phàm Dụng thần ở Tuyệt địa, không thể câu chấp mà luận là phải Tuyệt tại Nhật thần. Dụng thần hoá Tuyệt cũng thế. Nếu gặp sinh phù là trong hung có cát, điềm đại tốt, gọi là “Tuyệt xứ phùng sinh”

57. 如 逢 合 住 須 冲 破 以 成 功
Như phùng hợp trú, tu xung phá dĩ thành công
Nếu gặp hợp, nên xung phá để thành công.
Trong quẻ Dụng thần, Kị thần gặp Nhật thần hợp, hoặc tự hoá thành hợp, hoặc có động hào đến hợp. Không kể là hung hay cát đều không có kết quả, phải chờ đến lúc xung phá thì việc cát hung mới ứng. Giả như Dụng hào động sinh Thế, việc dễ thành, nếu gặp hợp, tất lại ngăn trở, cần đợi ngày xung thì việc mới thành.Ở câu sau là phép đoán nhật kỳ.

58. 若 遇 休 囚 必 生 旺 而 成 事
Nhược ngộ hưu tù tất sinh vượng nhi thành sự
Nếu gặp hưu tù tất chờ lúc sinh vượng mới thành việc.
Phép đoán Nhật kỳ không thể chấp nhất, phải linh động mà suy đoán để không nhầm lẫn. Như:
– Dụng hào hợp trú thì dùng nhật kỳ xung để đoán.
– Dụng hào hưu tù tất lúc sinh vượng mới thành việc. Cho nên vô khí thì phải dùng tháng ngày vượng tướng mà đoán
– Dụng hào vượng tướng bất động thì dùng ngày tháng xung động mà đoán.
– Dụng hào hữu khí phát động thì lấy ngày hợp mà đoán. Hoặc hữu khí mà động mà hợp Nhật thần, hoặc Nhật thần lâmmà động sinh hợp Thế thân, tức lấy ngày đó mà đoán.
– Dụng hào bị thụ chế tất lấy tháng ngày chế sát mà đoán
– Dụng hào được thời vượng động mà lại được sinh phù, đấy là quá vượng, nên dụng tháng ngày Mộ khố để đoán.
– Dụng hào vô khí phát động mà được sinh phù tức lấy ngày tháng sinh phù mà đoán.
– Dụng hào nhập Mộ thì dùng ngày tháng xung Mộ mà đoán.
– Dụng hào Tuấn không an tĩnh, tất lấy ngày xuất Tuần gặp xung mà đoán.
– Dụng hào Tuần không phát động, tức dùng ngày trị[2] lúc xuất Tuần để đoán.
– Dụng hào phát động Tuần không mà bị hợp tức dùng ngày xung khi ra khỏi Tuần mà đoán.
– Dụng hào Tuần không phát động mà gặp xung, tức là xung thực, tất lấy ngày đó mà đoán
Trên đây là phép đoán tổng quát, trong đó lý lẽ vi diệu, học giả phải thông suốt, linh động phân ra nặng nhẹ , Phân định rõ Dụng và Kị thì đoán chẳng sai.

59. 速 則 動 而 剋 世
緩 則 靜 而 生 身

Tốc tắc động nhi khắc Thế
Hoãn tắc tĩnh nhi sinh Thân.
Nhanh thì động mà khắc Thế
Chậm thì tĩnh mà sinh Thân.
Đây cũng là phép đoán nhật kỳ, để định ứng nhanh hay chậm. Nếu Dụng thần động mà khắc Thế thì việc đến nhanh, nếu động mà sinh Thế thì ứng chậm. Nếu tĩnh mà sinh Thế lại trì trệ. Lại dùng suy vượng động tĩnh mà suy nghiệm, tất vạn điều chẳng lầm. Như suy mà phát động khắc Thế so với vượng động mà khắc Thế thì xảy ra chậm hơn. Ngoài ra cứ phỏng thế.

[1] Dùng thuật ngữ ở câu 32. Vật ở đây chỉ hào động

[2] Trị nhật ngày mang địa chi của hào. Như hào Dần lâm Không thì đợi hết tuấn sang đến ngày Dần.

TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG – Phần 20

0

(Tuvivietnam – siêu tầm)

41.卦 遇 凶 星 避 之 則 吉
Quái ngộ hung tinh, Tỵ chi tắc cát
Quẻ gặp hung tinh, tránh đi tất cát.
Hung tinh ấy là Kị thần. Phàm Dụng thần bị Nhật thần, Nguyệt kiến khắc thương, bất luận Không hay Phục, trước sau cũng bị thụ chế, không có nơi để tránh. Nếu không bị Nhật Nguyệt thương khắc, chỉ gặp Kị thần trong quẻ động khắc. Nếu Dụng hào lâm Tuần không, phục tàng thì không chịu khắc, gọi là tránh. Đợi ngày xung khắc Kị thần, thì hung tự tiêu tan. Nếu Dụng thần xuất hiện mà không lâm Không thì bị hại, khó tránh được thương khắc. Cho nên bảo “tránh đi thì cát”.

42. 爻 逢 忌 殺 敵 之 無 傷
Hào phùng kị sát, địch chi vô thương
Hào gặp kị sát, được cứu thì khỏi bị hại.
Hào là Dụng hào, như cầu tài lấy hào Tài làm Dụng thần chẳng hạn. Địch có nghĩa là cứu giúp. Ví như cầu tài, trong quẻ hào Tài thuộc Mộc, nếu có hào Kim động khắc Tài là hung, hoặc được hào Hoả phát động khắc Kim tức hào Kim tự chống không nỗi, làm sao có thể khắc Mộc được, hào Mộc khỏi lo. Cho nên bảo “được cứu thì không bị hại”.

43. 主 象 休 囚 怕 見 刑 冲 剋 害
用 爻 變 動 忌 遭 死墓 絕 空
Chủ tượng hưu tù, phạ kiến hình xung khắc hại
Dụng hào biến động, kị tao Tử Mộ Tuyệt Không.
Chủ tượng hưu tù, sợ gặp hình xung khắc hại
Dụng hào biến động kị gặp Tử Mộ Tuyệt Không.
Chủ tượng cũng chỉ Dụng thần. Nếu hưu tù đã không thành việc, há lại bị hình khắc sao ? Nếu Dụng thần phát động, như người mạnh mẽ tiến tới trước, há có thể hoá Mộ Tuyệt sao ?

44. 用 化 用 有 用 無 用
空 化 空 雖 空 不 空
Dụng hoá Dụng hữu dụng vô dụng
Không hoá Không tuy Không bất Không
Dụng hoá Dụng có lúc hữu dụng, có lúc vô dụng
Không hoá Không tuy là không mà chẳng không.
Dụng thần hoá Dụng thần có Dụng thần hữu dụng, có Dụng thần vô dụng. Hữu dụng là Dụng thần hoá Tiến thần. Vô dụng là Dụng thần hoá Thoái thần, cùng quẻ Phục ngâm. Cho nên mới phân biệt “hữu dụng” và “vô dụng”.
Hào lâm Không an tĩnh tất không thể hoá thành Không, chỉ hào phát động mới có thể biến thành. Đã phát động thì không phải là Không. Hoá thành Không cũng do động mà biến thành. Phàm hào động lâm Không hoặc hào động biến Không đều không thể luận là thực sự là Không, vì ra khỏi Tuần thì hữu dụng.

45.養 主 狐 疑 – 墓 多 暗 昧
化 病 兮 傷 損 – 化 胎 兮 勾 連
Dưỡng chủ hồ nghi – Mộ đa ám muội.
Hoá Bệnh hề thương tổn – Hoá Thai hề câu liên.
Dưỡng chủ nghi ngờ – Mộ nhiều ám muội
Hoá Bệnh thì tổn hại – Hoá Thai thì khó khăn.
Trường Sinh, Mộc Dục, quan đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bênh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai , Dưỡng là 12 Thần[1]. Trong quẻ chỉ ba giai đoạn Trường Sinh, Mộ, Tuyệt là cần xem xét ở mọi quẻ, mọi hào. Còn các giai đoạn khác như Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Thai, Dưỡng mỗi cái đều luận thành sinh khắc xung hợp, Tiến Thoái thần, Phục ngâm, Phản ngâm. Không thể câu chấp Dưỡng là nghi ngờ, Bệnh chủ tổn thương, Thai chủ khó khăn.

46. 凶 化 長 生 熾 而 未 散
Hung hoá Trường Sinh, sí nhi vị tán
Hung hoá Trường Sinh, mạnh mẽ mà chưa tan.
Dụng thần hoá thành Trường Sinh là tốt. Nếu Hung thần hoá Trường Sinh thì căn hoạ đã manh nha, ngày tăng trưởng dần, tất đợi ngày Mộ, Tuyệt mới giảm bớt cái thế của hung thần được.

47. 吉 連 沐 浴 敗 而 不 成
Cát liên Mộc Dục, bại nhi bất thành
Cát hợp Mộc Dục, bại mà không thành.
Mộc Dục có tên là Bại thần, lại gọi là Mộc Dục Sát, là thần vô liêm sỉ, tính tình dâm bại, nhưng có phân ra nặng hay nhẹ. Tức như Kim bại ở Ngọ, trong bại có khắc; Dần mộc bại ở Tí, trong bại có sinh; Mão mộc bại ở Tí, trong bại có hình; Thuỷ bại ở Dậu, trong bại có sinh; Thổ bại ở Dậu, trong bại có tiết khí. Hoả bại ở Mão, trong bại có sinh. Chỉ xem hôn nhân là hết sức kị.
Nếu xem chọn vợ mà được hào Tài hoá Mộc Dục kèm sinh, tất bại gia phong; kèm khắc thì vì gian mà sát thân. Còn xem chuyện khác, nếu hào Thế hoá Mộc Dục, nếu kèm sinh thì vì sắc mà hại danh; kèm khắc thì vì gian mà táng thân. Được cứu thì trong chỗ hiểm có đường sống. Cho nên mới bảo : “Cát thần không nên hoá Mộc Dục”

48. 戒 回 頭之 剋 我
勿 反 德以 扶 人
Giới hồi đầu chi khắc ngã
Vật phản đức dĩ phù nhân
Ngăn hồi đầu mà khắc ta
Chớ trái đức mà giúp người.
Hồi đầu khắc là Dụng thần tự hoá Kị thần. Như hào Hoả hoá Thuỷ chẳng hạn. Xem mọi chuyện mà Thế hào, Thân hào, Dụng hào gặp thế đều không tốt. Phàm Dụng thần động sinh hợp Thế thì là có tình với ta, mưu sự dễ thành. Hoặc Dụng thần động không sinh hợp Thế Thân, mà ngược lại sinh hợp với hào Ứng cùng hào khác đều gọi là “trái đức giúp người”. Phàm xem mà gặp thế mọi mưu sự khó khăn, vì tượng lợi người hại mình.

49.惡 曜 孤 寒 怕 日 辰 之 併 起
Ác diệu cô hàn, phạ Nhật thần chi tính khởi
Ác diệu mà cô hàn, thì chỉ sợ Nhật thần lâm ở đó.
Ác diệu là chỉ Kị thần; Cô là một mình không được sinh phù củng hợp; Hàn là suy nhược vô khí. Phàm xem quẻ gặp Kị thần cô hàn thì vĩnh viến không tổn hại được ta. Chỉ sợ Nhật thần lâm khởi ở đó, thì cô hàn mà được thế, cuối cùng không tránh được tổn hại. Nếu trị Nguyệt kiến cũng thật đáng sợ.

50. 用爻 重 疊 以 墓 庫 之 收 藏
Dụng hào trùng điệp dĩ Mộ khố chi thu tàng
Dụng hào trùng điệp thì nhờ Mộ khố để cất chứa.
Như trong quẻ Dụng thần trùng điệp thái quá, thích nhật là Mộ của Dụng thần lâm Thân Thế, ấy là qui về cất chứa ở ta.[2]

[1] Từ này dùng rất phổ biến trong các môn Thuật số, có thể dùng để chỉ các tinh tú, can chi, ngày tháng, các hào trong quẻ…. ở đây nói đến 12 giai đoạn của ngũ hành.

[2] Câu này giảng không rõ. Khi Dụng thần trùng điệp tức xuát hiện quá nhiều trong quẻ. Như Dụng thần thuộc Thuỷ, mà trong quẻ có quá nhiều hào Thuỷ. Muốn Dụng thần có tác dụng thì phải đợi đến lúc Dụng thần nhập Mộ. Nếu là Dụng thần thuộc Thuỷ như trên thì phải đợi đến Thìn là Mộ khố của Thuỷ.

- Advertisement -