(Tuvivietnam – siêu tầm)
60.父 亡 而 事 無 頭 緒
福 隱 而 事 不 稱 情
Phụ vong nhi sự vô đầu tự
Phúc ẩn nhi sự bất xứng tình
Phụ lâm Không thì việc không đầu mối
Phúc phục thì việc không vừa lòng.
Câu này chỉ nói đến việc công. Xem văn thư thì hào Phụ Mẫu là văn thư. Phàm xem công danh thì việc công, cơ quan đều dùng hào Phụ Mẫu làm đầu mối. Đầu tiên là dựa vào văn thư, tiếp đến mới theo Quan Quỷ, nếu hào văn thư gặp Không vong, sợ việc chưa xác đáng. Cho nên mới bảo : “Phụ Không vong thì việc không có đầu mối”.
Phàm xem việc tư lấy hào Tử Tôn làm thần giải ưu, lại dùng hào Tài làm căn nguyên. Há Tử Tôn phục mà không hiện sao. Cho nên mới bảo:” Phúc Đức ẩn mà việc chẳng vừa lòng”..
61. 鬼 雖 禍 災 伏 猶 無 氣
Quỷ tuy hoạ tai, phục do vô khí
Quỷ tuy là tai hoạ, phục thì vô khí.
Hào Quan Quỷ tuy bảo là thần sát về tai hoạ, nhưng trong sáu hào của quẻ không thể không có, nên xuất hiện mà an tĩnh, không nên phục tàng. Nếu phục thì trong quẻ vô khí. Vả lại hào Quan đó cũng là nơi dựa khi xem mọi chuyện, tức cũng cần. Như xem về quan chức thì Quan là Dụng thần; xem văn thư thì Quan là Nguyên thần; xem kiện tụng thì Quan là quan lại; xem bệnh tật thì Quan là bệnh; xem trộm cướp thì Quan là trộm cướp; xem việc quái dị thì Quan là quái dị; xem về tiền bạc nếu không có hào Quan sợ Huynh Đệ nắm quyền khó tránh tổn hại.
62. 子 雖 福 德 多 反 無 功
Tử tuy phúc đức , đa phản vô công
Tử tuy là phúc đức, bị khắc nhiều thì vô ích.
“Đa”” là xuất hiện nhiều, “Phản” là chịu khắc. Chỉ xem công danh thì Tử Tôn là ác sát. Ngoài ra đều lấy Tử Tôn làm thần phúc đức. Như xem thuốc men đều lấy Tử Tôn làm Dụng thần, nếu trong quẻ xuất hiện nhiều hào Tử Tôn thì dùng thuốc lộn xộn, có uống cũng vô ích. Như xem cầu tài gặp hào Tử Tôn bị tương, không chỉ không lợi sợ còn bị hao vốn.
63. 究 夫 母 推 為 體 統
論 官 鬼 斷 作 禍 殃
財 乃 祿 神 ,子 為 福 德
兄 弟 交 重 必 至 ,凡 謀 多 阻 滯
Cứu Phụ Mẫu suy vi thể thống
Luận Quan Quỷ đoán tác hoạ ương
Tài nãi lộc thần, Tử vi phúc đức
Huynh Đệ giao trùng tất chí, phàm mưu đa trở trệ.
Xét Phụ Mẫu suy được thể thống
Luận Quan Quỷ đoán được hoa tai.
Tài là lộc thần , Tử là phúc đức
Huynh Đệ động tất mưu sự nhiều trở ngạ.)
Ở đây tuy nói đại lược về năm loại[1], nhưng cũng có phân ra để mà dùng. Giả như xem chung thân, lấy hào Phụ Mẫu để luận xuất thân, nếu gặp Quý Nhân mà có sát, tức hậu duệ của nhà quan lại, nếu bị hình hại vô khí là con nhà nghèo hèn. Giả như xem về tai hoạ nên xem Quan Quỷ lâm vào loại thú nào, nếu ở Huyền vũ thì hoạ về đạo tặc. Tài là thực lộc của người ta, cho nên gọi là lộc thần; Tử Tôn có thể giải ưu khắc Quan Quỷ cho nêngọi là phúc đức. Huynh Đệ là ngang hàng với ta mà lấn Tài, động thì khắc Tài mà tranh đoạt , cho nên mới bảo :”mưu sự nhiều trở ngại”.
64.卦 摊 重 疊 須 知 事 體 兩 交 關
Quái thân trùng điệp, tu tri sự thể lưỡng giao quan
Quái thân trùng điệp, nên biết sự việc có liên quan đến hai nơi.
Quái thân là Nguyệt quái thân, phép khởi là “Thế dương khởi từ tháng Tí, Thế âm khởi từ tháng Ngọ” Cần phải luận rõ câu này. Phàm hào Quái thân là thể của sự việc cần xem. Nếu trong quẻ có đến hai hào xuất hiện, tức là việc có kết hợp, hoặc sự việc liên quan đến hai nơi. Nếu ở Huynh Đệ tất cùng mưu sự với người, Huynh Đệ khắc Thế, hoặc lâm Quan Quỷ phát động tất có người tranh giành việc này.
Trong quẻ không xuất hiện Quái thân, việc chưa định hướng; xuất hiện sinh Thế, trì Thế, hợp Thế thì sự việc đã định. Quái thân nên xuất hiện mà không nên động, động thì phòng có biến đổi, nếu biến hoại thì việc sẽ biến hoại. Nếu trì Thế thì biết việc này mình có thể điều động. Nếu Quái thân lâm Ứng thì việc này quyền bính ở người, hoặc do hào khác động biến thành tức biết người liên quan hào này cũng thuộc vào việc đó. Như Tử Tôn là tăng đạo hoặc bọn cháu chắt chẳng hạn, hoặc phục ở dưới hào khác cũng như theo vậy mà suy đoán.
Nếu sáu hào cùng Phi hào, Biến hào, Phục thần đều không có Quái thân, thì việc ấy chưa chắc, ở Không vong, Mộ, Tuyệt thì việc khó thành. Đại để Quái thân dùng để xem sự thể, không thể lầm là để xem thân mệnh, như xem tướng mạo xấu đẹp thì xem Quái thân có thể biết.
Phàm gặp Thân khắc Thế thì sự việc tìm tới ta là tốt, Thế khắc Thân thì hung. Nếu được hào Thân sinh hợp hào Thế lại càng tốt.
65. 虎 興 而 遇 吉 神 不 害 其 為 吉
龍 動 而 逢 凶 曜 難 掩 其 為 凶
玄 武 主 道 賊 之 事 亦 必 官 爻
朱 雀 本 口 舌 之 神 然 須 兄 弟
疾 病 大 宜 天 喜 若 臨 凶 煞 必 生 悲
出 行 最 怕 往 亡 如 係 吉 神 終 獲 利
是 故 吉 凶 神 煞 之 多 端 何 如 生 剋 制 化 之 一 理
Hổ hưng nhi ngộ cát thần bất hại, kỳ vi cát.
Long động nhi phùng hung diệu nan yểm, kỳ vi hung.
Huyền Vũ chủ đạo tặc chi sự. diệc tất Quan hào.
Chu Tước bổn khẩu thiệt chi thần, nhiên tu Huynh Đệ
Tật bệnh đại nghi Thiên Hỷ, nhược lâm hung sát tất sinh bi.
Xuất hành tối phạ Vãng vong, như hệ cát thần chung hoạch lợi
Thị cố cát hung thần sát chi đa đoan, hà như sinh khắc chế hoá chi nhât lý.
Hổ động mà gặp cát thần chẳng hại, mà là tốt
Long động mà gặp sao hung khó tránh, ấy là hung.
Huyền Vũ chủ việ đạo tặc không nên ở hào Quan,
Chu Tước vốn thần khẩu thiệt nhưng không nên ở Huynh Đệ
Tật bệnh rất nên có Thiên Hỷ, nếu lâm hung sát tất sinh đau buồn.
Xuất hành rất sợ Vãng Vong , nếu gặp cát thần cuối cùng được lợi.
Cho nênThần sát cát hoặc hung tuy quá nhiều, đâu bằng một lý sinh khắc chế hoá.
Đại để Bốc dịch nên đinh Ngũ hành của Lục thân , không thể dùng thần sát lộn xộn để đoán. Vốn Thần sát ở sách xưa đến lúc Kinh Phòng tiên sinh làm Dịch, để lại quá nhiều sao hung cát làm mê hoặc người học về sau, đại loại như Thiên Hỷ, Vãng Vong, Đại Sát, Đại Bạch Hổ. Nay người đời lấy làm tông chỉ, không gì là không tin. Nhưng thần sát quá nhiều, há có thể dùng được sao. Với phép dùng Lục thú mà nói, chẳng ai không lấy Thanh Long làm tốt, Bạch Hổ làm hung, thấy Chu Tước cho là khẩu thiệt, thấy Huyền Vũ cho là đạo tặc, không phân biệt lầm trì Dụng thần, Nguyên thần, Kị thần hay Cừu thần, đại khái lấy tinh chất của Lục thú để đoán mà thôi , làm mất diệu chỉ của tiên thiên. Chẳng lẽ Bạch Hổ động chắc chắn là hung, nếu lâm vào hào thích ứng để sinh phù củng hợp với Thế thân , thì có gì hại đến ta, cho nên bảo là hung mà chẳng hại, ấy là tốt.
Thanh Long động vốn là tốt, nếu lâm vào hào kị, hình xung khắc hại Dụng thàn, thì có ích gì cho việc. Cho nên bảo là tốt mà chẳng ngăn được hung.
Chu Tước tuy chủ khẩu thiệt nhưng chẳng phải Huynh Đệ tính lâm, tất không thể thành khẩu thiệt.
Huyền Vũ tuy chủ đọ tặc, nếu không phải là hào Quan tính lâm, thì không gọi là đạo tặc.
Vốn Lục thù dựa vào sinh khắc ngũ hành của Lục thân.
Lại như Thiên Hỷ là cát tinh, xem bệnh mà gặp, tuy đại lợi nhưng hung hiểm, lại không đoán chết , là cớ nhớ Thiên Hỷ; nếu lâm vào Kị thàn, thì ta lấy làm buồn mà chẳng lấy làm vui. Vãng Vong là hung sát, xuất hành mà gặp tuy đại tượng cát lợi, lại đoán hung , vì cớ là thần chết.
Nếu lâm vào hào ưa thích động mà sinh phù củng hợp với Thế thân Dụng thần, ta tất lấy làm lợi mà không cho là hại. Vì quyền của Thần sát là nhẹ mà quyền của Ngũ hành là nặng. Do vậy mà xem, gặp cát thì cát, gặp hung thì hung, do ở Ngũ hành mà không do ở Thần sát, nghiệm ở lý mà không nghiệm ở sát, hà tất phải theo thuyết ảo vọng đó. Nếu không thi ta quá lẫn lộn, đã hại lý lẽ mà loạn nhân tâm, há làm sao có thể chắc đúng được.
Thần sát vốn không bằng chứng,chỉ khiến việc đoán dịch rẽ ra nhiều lối, mà khônoáonr thoả bằng lẽ sinh khắc chế hoá, đã sáng tỏ lý lẽ mà linh động, rành mạch mà chẳng mê hoặc. Lục thân là cái gốc, Lục thú là cái ngọn. Đến nhưấcc cát thân hung sát như Thiên Hỷ, Thiên Y, Tang xa đều là từ ngọn này đến ngọn khác, muốn dùng thì chỉ có Lục Thú là được. Tức trọng ở gốc mà nhẹ ở ngọn vậy. Nhưng Lục thú chỉ có thể suy tính tình, hình trạng, còn như cát hung đắc thất, lấy sinh khắc của Lục thân làm chủ. Học như vậy thì gốc ngọn đều đầy đủkhông mất diệu chỉ, mà từ một lẽ có thể thông suốt hết.
66. 嗚 呼 卜 易 者 知 前 則 易
Ô hô ! Bốc dịch giả tri tiền tắc dịch
Than ôi ! Người bói dịch trước hết phải biết thông biến.
Người đời bói dịch đều câu nệ vào cổ pháp, người biết biến thông hiếm có. Cho nên gặp Long, Hổ thì đoán vui buồn, thuỷ hoả thì đoán mưa tạnh, Không vong thì cho là hung, Nguyệt phá thì bảo vô dụng, Thân thì cho là mình, Ứng hào thì cho là người. Phàm loại như thế khó nêu lên cho hết. Lưu Bá Ôn tiên sinh viết sách này, dùng cái hay của lý lẽ mà bỏ cái hẹp hòi của ý nghĩa, tỏ rõ cái tối tăm xưa , định lại cho đúng sai lầm ngày nay. Người đời chấp mê vào cổ pháp chẳng ai là không lấy đó mà lý giải. Người có chí với thuật này nên xét những điều nói trên, thì tự biết linh động.
67.求 占 者 鑑 後 則 靈
Cầu chiêm giả giám hậu tắc linh
(Người cầu bói phải xem xét sau đó mới linh)
Người đoán dịch đương nhiên phải thông biến, mà người cầu bói cũng không thể không biết đạo về bói. Đấy là thành tâm.
68. 筮 必 誠 心
Phệ tất thành tâm
(Bói phệ phải thành tâm)
Thánh nhân làm Dịch ca ngợi thần minh, vì đem đạo hợp với trời đất. Cho nên phàm bói Dịch, tất cần chân thành kính cẩn, hết lòng mà cầu, tất cát hung hoạ phúc không gì là không nghiệm. Ngày nay người cầu bói đông, mà cử chỉ chẳng nghiêm trang, ăn mặc bê bối, thậm chí có người chẳng thắp nhang, chẳng rửa tay. Lại có người giàu có tự kiêu, sai gia nhân xem bói thay mình, hoặc nhờ thân hữu đi coi giúp, mà không biết mình tuy phát tâm xem mà người đi thay tâm chưa kính. Cẩu thả như thế mà muốn cầu thần minh cảm ứng sao, há không thân trọng ư ?
69.何 妨 子 日
Hà phương Tí nhật
Ngày Tí có hại gì.
Trong sách lịch âm dương có câu “Tí bất vấn quái” (Tí chẳng xem bói). Cho nên người đời nay phần lớn kị ngày Tí. Lưu quốc sư nói : Việc ứng hung cát đều do cảm của thần minh. Thần minh không lúc nào không có, không lúc nào không cảm. Cảm được với thần minh thì không lúc nào không nghiệm. Cho nên phàm bói Dịch do ltại người có lòng thành hay không, chẳng do tại ngày Tí hay không phải ngày Tí.
Toàn chương trên đây trình bày chung phép đoán Dịch, là chương nói nhứng nét chính yếu. Không theo như thế thì mọi việc khó quyết. Người có chí trước hết đọc chương này, nêu có thể suy đi nghĩ lại mãi, đọc kỹ chú thích tất rõ lý lẽ, thì mọi điều mọi việc xảy ra đều có thể lý giải. Nào có gì hơn được Bốc dịch .
[1] Tức lục thân gồm 5 loại Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Tử Tôn, Thê Tài, Huynh Đệ, nếu thêm Ta vào thì thành 6.