15 C
Hanoi
Thứ Tư, 19 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 18

55. Nỗi lòng cụ Phan Thanh Giản (KHHB số 74d1)

0

Cụ Phan Thanh giản là một nhân vật của lịch sử.

Cuộc đời cụ từ lúc tay buông suôi cho đến nay đã có nhiều nhận xét tùy theo thời cuộc, công luận ca ngợi cũng lắm và chê bai không phải là không có.

Giữa lúc con cháu xúm quanh linh sàng mà than khóc lại chính là lúc ở giữa triều đình nhà Nguyễn nghị luận về tội trạng của người để mất 3 tỉnh miền Tây Nam phần Việt Nam bằng cái án không được tốt đẹp: tước bỏ chức vị, đục bỏ tên trong bia hàng Tiến sỹ (1867). Rồi 19 năm sau (1886) vua Đồng Khánh lên ngôi lại cùng triều thần xét lại cho cụ là không tội, phục chức cũ và dựng lại bia tiến sỹ. Đến nay biết bao cuộc biến đổi mà nghệ thuật phê bình cũng lắm đổi thay.

Đứng trước một vụ án danh dự, thiết tưởng bản số của cụ là chiếc phóng ảnh trong hay đục là trách vụ của những ai thông đạt nên đem ra phân tách giúp lịch sử rộng đường phán quyết.

Mới đây có vị đọc giả KHHB ở Vĩnh Long cho biết cụ Phan Thanh Giản sanh năm Bính Thìn (1796) ngày 12 tháng 10 giờ Tỵ. Ông mong rằng số có thể soi tỏ nỗi lòng của người đã khuất cách đây trên khoảng một trăm năm. Vì là vụ án lịch sử, không giám từ nan cũng xin mạo muội gọi là tiếp tay cùng vị nào đó.

Nhận thấy Mệnh ở Ngọ và Thân ở Thìn là hai vị trí có thể nói là tương phản, nỗi lòng của người yêu nước, lo dân mà phải bó tay trước định mệnh. Thất Sát (mệnh) ở Ngọ là hung tinh đắc địa có bầy tôi trung thành là Thiên Hình kề cận, bộc lộ tính cách một danh nhân không bao giờ từ nan một sự khó khăn, giám cản ngăn, giám can thiệp mọi sự việc trên bước đường đời nhất là quốc kế dân sinh có hại cho công ích. Tử, Tướng (thân) bị Triệt là cách của Tử vi chiến đấu bị thất bại. Nhưng ở đây lại khác, Tử Tướng mắc La Võng Đà la phải có triệt tháo gỡ cố chiến đấu cũng chỉ là vô vọng (Tử tướng vẫn ở thế bị Triệt) chỉ được tiếng là người làm việc cho chính nghĩa (Thái Tuế).
Từ bộ Sát Phá Tham đắc địa được sát sinh phò trợ đến bộ Tử Phủ Vũ Tướng bị cả Triệt lẫn Tuần đủ nghĩa là định mệnh chỉ cho phép cụ thành danh gánh vác việc đời mà không cho phép cụ được hài lòng (Tang môn) với chính nghĩa mình phục vụ ở đây Mệnh được tinh đẩu, mất vị trí, Thân được vị trí, hỏng tinh đẩu. Thật là định mệnh khắt khe, chứ bản tâm là người có thừa thiện chí với trách nhiệm nghĩa vụ thì hiển nhiên không thể căn cứ thành quả mà kết án được. Tại sao cả một nước yếu kém không kinh chống nổi cuộc xâm lăng, lại đi buộc tội một ông già chân yếu tay mềm để mất đất?

Cái thế tam hợp Mệnh là cái thế của người lo toan triền miên (Tang Môn) với Thất sát, Thiên hình anh hùng bao nhiêu thì Kình Lực đem lại hậu quả vô vọng bấy nhiêu; Tham lang, Đại hao (đắc địa) càng trổ tài thu vén bao nhiêu thì Mã, Khốc, Khách, Tuyệt càng đầy ải thân thế bấy nhiêu; đến cung Quan lưỡng Phá (Phá quân, Tuế phá) biết bao là cứng cổ ngang tàng cũng không phải là lý do để mấy ông mão cao bào tía ngồi thảnh thơi tán láo bẻ hành bẻ tỏi cho là phản trắc, tự ý nhượng đất cho quân cướp nước. Thử hỏi người Thổ mệnh, Thân lại đóng ở Thái Tuế có thể nào có hành động của Phá Quân ở Tuất? Huống chi Phá Quân ở đây đã bị Thiên Tài lột xác hoán cải mất rồi, có chăng chỉ bị tiếng oan, chung quy là oan nghiệp (Hình Riêu Không Kiếp) cụ vương phải nên đành phải hứng chịu.

Cụ Phan Thanh Giản được hai giai đoạn (24-33 và 64-73) ở hai cung Thân và Tí.

Đậu tiến sĩ độc nhất làm danh dự cho miền Nam năm cụ 29 tuổi, rồi 5 năm sau chìm nổi trong biển hoạn, thăng giáng thất thường xét ra chỉ vì Thất Sát Thiên Hình là bản tính của người cương nghị, không thể làm ngơ, không lời ngăn cản ngay cả với vị Chúa tể quốc gia, như trường hợp ngăn cản vua Minh Mạng năm 1836 muốn tuần du Ngũ hành sơn lúc dân chúng đang lo bận rộn về cày cấy, đem lại cho cụ sau này bị biếm chức thành một thuộc viên chuyên công việc quét dọn bàn ghế ở công đường ngay chỗ cụ đang nhậm chức. Đời cụ tính ra có đến 4 lần bị giáng chức chỉ vì Sát Hình, giám nói năng, giám can thiệp bất cứ việc gì ngang trái, bất kể là đối chọi với ai; và cũng vì Kình Lực mà công lao đến đâu cũng hầu như không được nhắc đến; và cũng vì Tử, Tướng bị Triệt cuộc đời lao đao thăng giáng như người bại trận.

Đáo vận 64-73 là giai đoạn chót cuộc đời, người tuổi Thìn đi đến Tí là một điều hay. Thân bị Triệt đến đây đắc Tuần là cách mở lối dương danh tuần tự tiến bước, hết Thượng Thơ bộ hình sung Cơ Mật viện, rồi Toàn quyền Phó sử Kinh Lược miền Nam, đến Tổng đốc Gia Định, rồi Vĩnh Long cho đến ngày về Thần.
Là người của lịch sử trải qua 3 đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cụ Phan Thanh Giản dĩ nhiên thấu đáo những gì từ cái yếu kém của tổ quốc đến cái hùng mạnh của kẻ xâm lăng; từ cái lo cho dân được ấm no đến cái mềm dẻo ngoại giao để đất nước đỡ tàn hại vì chiến bại; thiết tưởng người cầm cân về quyền uy cũng như người cầm bút phẩm bình phải có công tâm thấu hiểu những ngõ bí của bị can. Công tố viện phải là người có một nghệ thuật sâu rộng, một tâm hồn trong sạch, một cái vốn khá đầy đủ về sử học biết đặt địa vị mình trong hoàn cảnh lịch sử. Đổ tội cho một ông già đáng lẽ được hưởng cảnh điền viên chờ ngày xuống lỗ, mà phải cáng đáng việc lấp biển vá trời.

Huống vì trách vụ phải đảm nhiệm, đảm nhiệm để mà chết thì còn gì cao đẹp hy sinh hơn, cảm động thiết tha hơn nữa. Trước khi chết còn trối trăng con cháu sau này không được hưởng thu một đặc ân gì của quân cướp nước mà vẫn giữ được hòa khí với họ cho dân đỡ lầm than, cho nước có thời gian tính toán liệu thế ngăn cản ngoại xâm.

Ta thấy rõ cái chết cụ Phan để tỏ lòng trung với nước, vẫn được người Pháp kính trọng là cái thế kẹt của Tử Tướng bị Triệt ở La Võng, mà không từ chối nhiệm vụ gánh vác là Sát hình của người nặng lo (Tang môn) để rồi kết liễu cuộc đời can đảm bằng chén thuốc độc (Hóa Kị đặc biệt khắc tuổi Bính Đinh) Nó hãnh diện hiển hách vạn lần tấm kim khánh khắc 4 chữ “Liêm, Bình, Cần Cán” của vua Tự Đức ban khen lúc trấn nhậm.

Vậy người của Lịch sử phải hứng chịu búa dìu lịch sử đẽo gọt là lý đương nhiên, nhưng thấu triệt được uẩn khúc, tư cách can nhân và tình trạng thời cuộc nêu ra theo cán cân thẳng bằng đó mới là lời vàng nét ngọc đáng ghi vào Sử học.

KHHB số 74D1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

54. Luật thừa trừ của định mệnh (KHHB số 74d1)

0

Lá số danh nhân
Luật thừa trừ của định mệnh


Thiên Lương

Tuần trước tôi có việc vắng nhà, lúc trở về thấy một lá số lập thành tuổi Mậu Thìn sanh ngày 16 tháng 8 giờ Thìn kèm theo bức thư “ … trân trọng yêu cầu xin chỉ vạch cho đường đi nước bước … “.

Lá thơ rất khiêm tốn khiến tôi tự hỏi có tài cán gì đâu, chẳng qua mạo muội góp một vài ý kiến hầu mong được học hỏi thêm, đâu giám mang danh hiệu lương y, lấy tài bác sĩ chẩn mạch cho đời. Biết rằng đã phụ lòng qúy vị chiếu cố vì thơ qúa nhiều, phần sức khỏe yếu kém thời giờ eo hẹp nên chỉ đền đáp được trong muôn một trường hợp thông thường hạp với khả năng mà thôi.

Với lá số này, tôi có ý ngờ vị nào đến hỏi chắc là một thân hữu của người có số, chứ đương số đang lúc này gặp nhiều may mắn và lại là người cương qủa khó tánh không mấy khi chịu tin ở định mệnh. Tôi thấy số khá đặc biệt xin tóm tắt trình bày:

Người tuổi Mậu Thìn, Mệnh đóng ở Tỵ là cả một sự thử thách là người chiếm được vị trí trời đặt ở chỗ sáng nước, khôn vặt. Chính Tham-Lang ở Dậu mới là mình, ôm một hoài bão mà yếm thế (xung khắc không cho phép kèm chế Tử-vi) vậy hai sao Vũ Khúc, Phá Quân gián tiếp chỉ huy làm nòng cốt. Nhìn vào cung Mệnh thấy như mất thăng bằng (Vũ-Phá bị Cô Thần dồn ép khiến Kiếp sát dễ thực hiện cáu kỉnh), chỉ một lúc rồi được Lộc, Hỉ tiết chế lại, nhưng không hẳn lấy được bình tĩnh (Mệnh Mộc, cung Hỏa, Vũ Khúc hành Kim, Phá Quân hành Thủy, Lộc Tồn Thổ). Tuy là đủ ngũ hành ngay ở Mệnh để lấy thăng bằng, cái thăng bằng này chỉ là độ lượng phân chất chứ nó không xuôi chiều như giòng nước chảy (Cung sinh Sao, Sao sinh Mệnh, trái lại Cung khắc Sao, Sao sinh Mệnh, Mệnh khắc Lộc). Vậy kết quả là có đầy đủ ngũ hành vẫn thấy không được thăng bằng thì người này hẳn không được hài lòng về một điều gì nên dễ mất bình tĩnh thành ra cương quyết khi mình đã nhất định tỏ một thái độ gì hầu như độc đoán cố mà giữ, được cái ác tâm chưa hẳn là chủ định.
Dầu sao vị trí Tỵ của tuổi Thìn (Thiếu Dương được Hồng Loan, Thiên Không) vẫn là sáng nước biết xử thế để là tu tỉnh. Đương số hẳn là ở tình trạng cô quạnh (Vũ-Phá, Cô Thần ở Mệnh, Quả Tú, Đẩu Quân ở Thân). Nói đến gia đình thấy tựa xa xăm : Cung Phụ Mẫu có Thái Dương ngộ Thai, Kình, Linh, Hỏa; Cung Huynh Đệ có Thiên Đồng hãm địa ngộ Đà, Hình, Kị ; còn cung Thê, Tử thật là vắng tanh tức là người này vô gia đình, không cha mẹ, không anh em, không vợ, không con và còn .. nhiều cái Không nữa.

Thấy cái Mệnh này mà sợ, cái gì cũng là cô độc : Vũ Khúc chủ cô; Phá Quân cũng cô, Lộc Tồn cũng cô, Kiếp Sát, Lưu Hà, Cô Thần đều là khắc nghiệp cô đơn. Trái lại Thiên Không ở đây lại là con đường độc nhất để đương số thấy lối mà đi, nghĩa là Thiên Không đứng với Hồng Loan hợp thế của Tử-Tham ở cung Quan (Dậu) yếm thế, tỉnh giấc mộng đời tìm cái lẽ sống nhân thế ở trong cái lẽ “Không”.

Người này đang đắc ý, từ năm 35 tuổi bước đến đại vận cung Thân, tuổi Thân, Tí, Thìn đáo hạn Thân, Tí, Thìn đến Trời cũng phải thuận theo ý mình. Bước sang Đại vận 45 ở Dậu, Tử-Tham, Tướng, Ấn, Song Lộc, gặp thế sinh nhập. Mệnh Mộc đáo cung Kim, Song Lộc, Đào, Hỉ là một miếng mồi câu thơm ngon to lớn, có biết đâu ở trong đã ẩn náu lưỡi câu bén nhọn (Lưu Hà, Kiếp Sát) dấu kín chỉ chờ mặt nước giao động tức là cá đã nuốt trọn miếng mối là cành câu nhấc bổng.

Lộc tồn của tuổi Mậu kể như nghịch cảnh, cái may của tuổi Thìn là Thiên Không đứng sát nách, trực chiếu có Hồng Loan nên coi là của phù vân. Ấy là định mệnh đặt ở vị trí sáng hóm hỉnh (Thiếu Dương) biết để mà tránh, cá kia chịu khó ăn rêu ăn cỏ chẳng được ngon ngọt cũng được thảnh thơi bơi lội thong dong ngày tháng. Nhất quyết ham mồi phú qúy, lưỡi câu bén nhọn có ngày móc họng lôi kéo cả thể xác để trả giá miếng mồi, tưởng lúc đó có hối tiếc cũng đã rồi.

Người này, nếu là một nhà kinh doanh trong thương trường thì mười năm (ở Đại hạn cung Thân – cung Điền Trạch), cũng đã lập được sự nghiệp khá lớn, nếu là nhà chính trị thì cũng thỏa chí của quyền uy tạo cho mình một chỗ đứng khá quan trọng, nếu là một công chức thì cũng mãn nguyện của đời công bộc quốc gia với chức vụ khá lớn lao vững chãi. Số thường có những cảnh éo le, tuổi Mậu có khác gì tuổi Nhâm đã có những người cậy tài ôm lộc mà chết, có người từ khước lộc để cầu lấy cái sống. Đến như tuổi Canh Tuất, Mệnh đóng ở Thìn được Lộc, Mã, Khốc, Khách ở cung Thân chiếu dĩ nhiên là đương số phải thành công vì Mã này là Mã của họ (Kim Mệnh; Mã ở Kim cung) nhưng cái Lộc này là Lộc của người Thân, Tí, Thìn đâu có phải của người Dần, Ngọ, Tuất. Nếu chấp nhận Lộc này thì chắc chắn là có dấu hỏi (?) hoặc là gian manh hay phi nghĩa, trường hợp số đẹp không xung sát hưởng Lộc này có khác gì ngậm đắng nuốt cay bia miệng ngàn năm khó bôi xóa.
Tôi đồng ý số này, nếu là người làm việc có tính cách thương mại kinh doanh công kỹ nghệ thì thuận lý (Vũ-Phá), vì dầu sao cũng là người không nắm quyền uy thì sự trả vay thừa trừ của định luật công bằng thiên nhiên cũng đỡ tai hại. Thân được ở vị trí của người sáng suốt có đức tin ở thần quyền (Phúc-Đức) biết trọng nhân từ ôn hậu, bởi thế bộ Liêm-Sát Phá, Toái, Kiếp Sát, Song Lộc, Tướng-Ấn mới được TRIỆT giảm độ số hung hãn thì mình phải biết mà đi lần bước.

Nhưng sự thừa trừ của định mệnh như có sự ăn khớp, có lớp lang xếp đặt hoàn hảo, đương số có khắc nghiệt khó tánh chẳng qua ở thế mất thăng bằng ở Mệnh. Bản chất Vũ-Phá được Lộc, Hỉ không hẳn ác tâm nhờ ở hai vị trí (Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không) ở Mệnh và Phúc Đức ở Thân để phân biệt cửa sanh cửa tử của Luật thừa trừ định mệnh.

KHHB số 74D1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

53. Số mệnh là số mệnh hay “đức năng thắng số”? (KHHB số 74c2)

0

Số mệnh là số mệnh hay “Đức năng thắng số”?

Số mệnh con người do đâu? Nghiệp và Nhân quả. Cải số mệnh được không? Muốn cải số mệnh phải làm sao? Vài trường hợp cải được và không cải được.

Huyền Linh

Người xưa bảo: “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền điện” (Ăn uống, cử động đều đã định trước), “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên” (Mưu tính nơi người mà thành bại do Trời).
Người xưa lại bảo “Đức năng thắng số” (Phúc đức có thể thắng số mệnh) “Nhân lực thắng Thiên” (Khả năng con người có thể cải số Trời)…
Hai lập luận trên đây tương đối mâu thuẫn, mà từ lâu chúng ta còn phân vân, không rõ luận thuyết nào đúng hơn, vì mỗi luận thuyết đều có những sự tích chứng minh.
Như bảo số mệnh do Trời thì có những người số chết đói, chết đuối dù có né tránh, rốt cuộc vẫn chết đói, chết đuối.
Còn bảo Đức năng thắng số thì cũng có những trường hợp đáng lẽ phải chết đói, chết yểu, mà nhờ biết tu tỉnh, làm nhiều âm đức, được thoát chết, sống lâu, lại khá giả chẳng hạn.
Vậy luận thuyết nào đúng hơn? Chúng tôi xin có đôi lời góp ý cùng quý bạn.

Số mệnh con người, do đâu?

Con người được hình thành bởi hai phần chính: thể xác do cha mẹ sinh ra và linh hồn tiếp nhận nơi Tạo hóa, và linh hồn là Tiểu Linh-Quang trong khối Đại Linh Quang của Tạo hóa. Vậy con người là một Tiểu Thiên địa, hay một Tiểu Vũ trụ.

Nhưng phải chăng Tạo hóa bất công, khiến con người có kẻ giàu sang, sung sướng, người lại nghèo hèn, khốn khổ, dù cùng sinh ra trên một dãy đất, trong một gia đình, hoặc cùng một năm, tháng, ngày, giờ với nhau?
-Chắc hẳn không phải thế.
Các tôn giáo và hầu hết loài người đều tin rằng có Thượng Đế, Chúa tể Càn Khôn, cầm quyền thưởng phạt muôn loài.
Nhưng tôi trộm nghĩ, tuy Thượng Đế là đấng Chí tôn, quyền năng vô tận, nhưng cạnh Ngài còn có một cái “Luật” mà Lão Tử tạm dùng chữ “ĐẠO” để gọi, đó là luật Trời, hay Thiên lý, mà Thượng Đế tùng theo, để điều hành vũ trụ (cũng như một Quốc gia, tuy vị Nguyên thủ là trên cao nhưng vẫn phải tuân hành Hiến pháp).
Do đó, sở dĩ có kẻ sướng người khổ là do số mệnh an bài, nhưng số mệnh chẳng phải do “ông Trời” hay các vị Thánh Thần sắp đặt, cho người này giàu, bắt người kia nghèo mà là do “NGHIỆP” (Karma) của chính con người, tức luật Nhân quả.

Nghiệp và luật Nhân Quả

Không ai có thể biết được con người có từ bao giờ, trải qua bao nhiêu kiếp, nhưng theo thuyết luân hồi thì hẳn đã quá nhiều!
Mỗi kiếp, con người đã làm bao nhiêu điều lành lẫn điều dữ, phước có, tội có năm này tháng nọ chất chồng, có khi chưa chịu thưởng phạt đúng mức đã mãn số, lại luân hồi kiếp mới để “trả đũa” cũ và lại tạo thêm “Nhân” mới.

Bởi thế mà trong lá số Tử Vi của một người, có những sao tốt, sao xấu lẫn lộn, cung này cung nọ liên quan chằng chịt nhau, biểu hiện cái “Nghiệp” của người ấy, trông cây gì được quả nấy, như bóng với hình, mà trong đó Vận hạn là con đường bắt buộc cá nhân phải trải qua để trả Nghiệp cũ (thưởng lẫn phạt), đồng thời tạo Nghiệp mới.

Nghiệp có lành có dữ thì Vận số có tốt có xấu. Vận tốt thì được thụ hưởng giàu sang sung sướng, vận xấu thì chịu nghèo hèn, hoạn nạn nhưng cán cân nghiệp lành, nghiệp dữ không đều, thì vận số cũng không đều nhau, do đó Họa và Phúc lẫn lộn hoặc nhiều hoặc ít, chẳng hạn tuy giàu sang mà đau ốm, vợ chồng căn đắng, con cái hư hỏng, hay ngược lại tuy nghèo hèn mà ít nạn tai, vợ chồng hòa thuận, con cháu hiếu thảo….

Cải số mệnh được không?

Như đa trình bày ở trên, thì số mệnh đã an bài do nghiệp của nhiều tiền kiếp, hễ vay ắt phải trả, cho nên số mệnh con người như đã được lồng vào một cái khung và vận hạn ví như một con đường duy nhất, bắt buộc con người phải đi qua, một lộ trình vạch sẵn.

Bởi vậy trên nguyên tắc, số mệnh là số mệnh, khó mà cải đổi được cái căn bản, tức cái khung của số mệnh, hay là những “nghiệp lớn”.
Nghĩa là nghiệp cũ phải trả, dù thụ hưởng hay bị hình phạt. Do đó chúng ta thấy có những người hung ác mà vẫn giàu sang, phè phỡn, còn người hiền lương, tu niệm, làm phúc lại cứ gặp hoạn nạn, là vì nghiệp cũ chưa “thanh toán” xong, mà “Nhân” mới chưa kịp có “hiệu lực”.

Tuy nhiên, con người có thể cải được một phần số mệnh vận hạn của mình, nhưng rất ít, hơn nữa, chẳng phải ai cũng có khả năng hoán cải, dù có cải cũng chỉ cải được vận số nhỏ, tức các nghiệp nhỏ thôi. Cũng ví như “cái khung” vẫn y nguyên, mà “cái cảnh” có thể thêm hoặc bớt. Đó là tạo “nhân” (tốt xấu) mới để bù đắp “quả” (xấu tốt) cũ.

Tôi xin đơn cử vài ví dụ, nếu dễ cải được số thì thuở xưa Văn Vương đã chẳng bị giam cầm 7 năm nơi Dũ Lý, Khương Tử Nha chẳng đợi đến 70 tuổi mới đặng công hầu. Tôn Tẫn khỏi bị chặt chưn và bảo vệ nước Yên khỏi bị Tần thôn tính. Khổng Minh thống nhất được giang sơn thời Hớn mạt. Hạng Võ và Hàn Tín đều anh hùng. Hạn xấu đến, đều chết thảm; lại như Lương Võ Đế cất 72 ngôi chùa mong cải số, rốt cuộc vẫn chết đói ở Đái Thành.
Ngay thế kỷ hiện tại, những nhân vật muốn xoay thời tạo thế, đem tài trí đấu tranh, mà không thuận với cơ trời rồi ra vẫn thất bại.

Chính tôi, sau gần 20 năm xem tướng số đã được chứng kiến nhiều trường hợp, có những người, sau khi đoán là vận hạn xấu, tôi khuyên nên an phận, chớ mưu sự to, liều lĩnh mà thất bại hoặc gặp nạn. Mặc dù tin số mạng song họ tự tin, cố đem tài sức, mưu trí (xin lưu ý là tài sức chứ không phải Đức) chống lại số mệnh, mà càng hoạt động to lớn, càng sa lầy hơn.

Lại có những trường hợp, khách xem về các sự việc bình thường hằng ngày, để biết thành bại, đắc thất, sau khi gieo quẻ Dịch, quẻ ứng xấu, tôi bảo thẳng với khách là không hy vọng gì… khách buồn bã ra về, dùng mọi phương tiện, mưu mẹo, kể cả tiền bạc, cố xoay sở, nhưng rồi vẫn không kết quả, (vì hoàn cảnh không thuận lợi, được cái này hỏng cái kia, như định mệnh khiến xui như vậy) rốt lại số vẫn là số!

Cải số bằng cách nào?

Theo thiển ý riêng tôi thì có thể tạm chia thành 2 phương thức: “tiêu cực” và “tích cực”
-Về “tiêu cực” thì tương đối đơn giản hơn, có nghĩa ăn ở và hành động thuận theo số mệnh và Thiên Lý. Không gieo gió thì khỏi gặt bão. Khi gặp vận tốt thì nương đó tiến lên để thành đạt. Lúc gặp vận xấu thì chớ liều lĩnh, làm bạo, thấy hao tài thì chớ cho vay mượn, thấy đau ốm thì gìn giữ sức khỏe, thấy nạn tai thì tránh xe cộ, sông nước, thấy thị phi quan sự thì nên nhẫn nhịn, tránh phạm pháp…Tuy đến Năm, Tháng, Ngày, Giờ đó, vẫn bị hạn, song có thể nhẹ bớt ít nhiều.

Như có một tuổi Tân Mùi, thường nhờ tôi đoán số, đầu tháng 4 năm rồi, tôi có xem cho ông và đoán rằng khoảng giữa tháng ông có tai nạn nhẹ, độ hơn tuần lễ sau, ông đến nhà tôi với mấy vết băng ở mặt và tay chân. Hỏi ra mới biết ông vừa ngộ nạn vì xem Lam lật, bị xây xát cả người.

Ông nhờ tôi xem tiếp coi còn xui rủi nữa không? Tôi gieo quẻ Dịch, lần này quẻ ứng bổn mạng cũng xấu, e còn tai nạn nữa. Ông nhờ tôi đoán kỹ xem ứng vào ngày x tháng x…sau đó ít lâu ông lại đến, khen tôi đoán rất đúng và thuật rằng: “Chính cái ngày ấy, ông cố ở nhà suốt ngày, không ra khỏi cửa, 8 giờ tối ông giăng mùng đọc báo, kể như yên ổn. Nhưng đến 10 giờ đêm, trước khi ngủ, ông xuống nhà sau đi tiểu, bất ngờ trợt chân ngã té nằm sóng sượt bất tỉnh dưới đất, may người nhà hay kip đỡ lên xoa bóp, mấy phút sau mới tỉnh.

Ông kết luận “tưởng ở nhà yên thân, té ra cũng bị! Nhưng may là ở trong nhà chỉ bị xoàng, chứ nếu ngoài đường sá, chắc nặng hơn, chưa biết tới đâu”. Còn nhiều trường hợp tương tự, kể ra e chán ngấy.

-Về phương diện “tích cực” phức tạp hơn, nhưng tựu trung là cố gắng làm nhiều việc “Âm đức” để hóa giải các nghiệp nặng. Nhưng phải thật thành tâm, đầy thiện ý, hành động một cách tự nhiên theo lương tâm không tính không vụ lợi, không cầu danh, thì việc làm tuy nhỏ mà có khi Âm đức lại to.

Chớ không phải ỷ có nhiều tiền, vung tiền của phi nghĩa ra, gọi là bố thí, làm phước, để được khen ngợi, ca tụng, hoặc giả làm lấy có, lấy lệ, cúng chùa, lễ Phật, giải sao hạn…tuy là những việc làm có tánh cách từ thiện, cũng hay, cũng là những “Nhân” lành, song chưa thể gọi là “Âm đức” được. Vì Tạo hóa chí công vô tư, hẳn không vì nhiều tiền mà cho nhiều phúc, còn ít tiền lại cho ít phúc hay sao?

Tôi xin đơn cử vài việc làm có tánh cách Âm đức. Như thấy vợ chồng người ta xích mích, định lìa bỏ nhau, mình cố công khuyên bảo, trợ giúp cho họ hòa hiệp, sống chung lại; Thấy người chết đuối, mình chẳng ngại nguy hiểm, cứu vớt người ta sống lại; Thấy người nguy ngặt, động lòng trắc ẩn, mình tận tâm giúp đỡ, có bao nhiêu giúp bấy nhiêu, mà không nghĩ đến sự đền bồi, hay được người ca tụng…như thế mới gọi là “Âm đức”, có tác động mạnh đến “Nghiệp”, cảm động lòng trời, mới có ảnh hưởng ngay vào số mệnh và vận hạn (Như tích ông Lê Bùi Độ đời Đường trả đai ngọc cho người, chuộc mạng cha, chẳng hạn).

Một vài phương thức khác

-Nhờ Đức tin và lòng thành, tức những người tiền căn, hiện kiếp có sự liên quan, giao cảm với cõi Trung giới hay cõi Âm, nay vận hạn tuy xấu, gặp hoạn nạn, nhưng ăn ở hiền lương, ngay thật, lại có đức tín và lòng thành khắc được Thánh Thần và các vong linh quá vãng phù trợ, thấy dữ hóa lành.
-Mồ mả tổ tiên, phúc đức hay tội lỗi của ông bà cha mẹ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến vận số con người. Ví dụ: vận hạn đang xấu, có ông cha quá vãng mà an táng nơi đất kết phát thì có ảnh hưởng tốt. Hoặc biết con cái số phải long đong mà cha mẹ biết làm phúc chứa đức thì con cái được nhờ, sớm thì hiện tại, chậm thì tương lai.
-Ngoài ra, vấn đề chỗ ở, nhà cửa, bếp núc cũng có ảnh hưởng một phần vào vận số con người. Chẳng hạn như số mệnh đã tốt mà chỗ ở được vùng đất tốt, nhà cửa bếp núc day đúng phương hướng với mạng, thì sự tốt tăng thêm. Nếu vận hạn xấu mà dời chỗ ở cho hạp phong thổ, nhà, bếp day hướng tốt hạp với cung Mạng của mình thì cũng đỡ được khá nhiều.
Để tạm kết luận bài này, tôi xin thưa cùng quý bạn rằng: Chúng ta nằm trong “quỹ đạo” của Nghiệp, chi phối bởi số mệnh, cho nên số – mệnh vẫn là số mệnh. Chúng ta tìm hiểu số mệnh để ăn ở, hành động hợp với số mệnh hay Thiên lý, để lánh dữ tìm lành.
Chúng ta đừng tự phụ bảo rằng cải được số mệnh bằng tài sắc và mưu trí, đã vô ích mà còn nặng nghiệp hơn đấy!

Nếu chúng ta có một định số kém sáng sủa, chúng ta cũng chớ quá bi quan, phó mặc Hóa công, tới đau hay đó, rồi cái gì cũng Số, cái gì cũng Mệnh! Không làm gì cả, cũng vô ích. Mà chúng ta phải cố công bồi tu Âm đức để hóa giải Nghiệp cũ (tùy theo cán cân Đức và Số).
Ví dụ phúc đức tạo ra chưa đủ đền bù Nghiệp cũ quá nặng, chúng ta có thể hãnh diện rằng đã giep được “Nhân” lành, mà khi Nghiệp cũ trả xong chắc chăn “Quả” lành sẽ đến.

Cũng xin lưu ý quý bạn là chính ta mới có thể tự cải số chung ta mà thôi. Ngoài ta ra không ai cải số giùm ta được, kể cả các đấng vô hình.
Vậy quý bạn hãy suy ngẫm kỹ về cúng kiến, lễ bái, cầu đồng cốt hay dùng bùa phép. Có dịp, tôi xin trở lại với những đề tài mới
KHHB số 74C2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

52. Lá số và cuộc đời nghệ sĩ: Nữ ca sĩ Ngọc Anh (KHHB số 13)

0

Lá số và cuộc đời nghệ sĩ: Nữ ca sĩ Ngọc Anh

Sanh năm Canh Dần, tháng 4 ngày 24 giờ Ngọ Dương Nữ
Mộc Mệnh- Thổ lục cục

Lê Thanh Hải và tập đòan phóng viên Khoa Học Huyền Bí phụ trách

Mệnh lập tại Hợi có Thiên Phủ tọa thủ. Chính tinh thuộc Thổ thụ Mệnh tại cung Hợi (thuộc Thủy) là khắc Kị nhưng nhờ tuổi Canh theo vòng Cục thì cung này là Thổ. Vì có song Hao cho nên đất này chỉ là một hòn đảo, đủ cho Mộc mệnh nương tựa mà thôi. Nhờ vậy cho nên số này khỏi yểu vong từ lúc sơ sinh. Cung Thiên Di được Tử Vi (Thuộc Thổ), Thất Sát (thuộc Kim) xung chiếu. Thứ đất quặng mỏ này đã bồi đắp cho hòn đảo.
Thân (thuộc Thổ), Mệnh (thuộc Mộc) trở thành một quần đảo khả dĩ không bị sóng biển cuốn hút nhấn chìm mất tích. Lại được ‘Thiên Tướng lai triều hội Tả, Hữu phùng Mộc. Hỉ, Tấu, Đào, Thiên quan, Thiên Đức, Phúc-Đức, Nguyệt-Đức. Quần đảo trở thành một vùng có nước ngọt trái ngon và nhiều kỳ hoa dị thảo khiến cho du khách hiếu kỳ muốn neo thuyền ghé bến. Đó là cách của một ca sĩ nhạc trẻ Ngọc Anh, do những lần đi chơi với bạn bè, lén hát thử, thấy có nhiều người bạn ở ban nhạc Teen Sound đề nghị cộng tác, và cô Phạm Thị Ngọc Anh đã trở thành ca sĩ từ năm 16 tuổi, khi tiểu hạn đến cung Phúc Đức, có Tham, Vũ, Hóa-Quyền, Hồng Loan, Hỉ Thần phùng Tả, Hữu, Mộc, Hỉ, Nguyệt-Đức và Đà La (tính chất của Đà thích la cà, nhờ đắc địa nên gặp hên). Gốc đại hạn năm đó ở Huynh Đệ, có Xương, Khúc, Khôi, Việt, Lộc, Long, Hổ, Cái, Tướng, Ấn hội Cơ, Lương, Cự, Nhật miếu vượng đã giúp cho đương số bước vào lĩnh vực ca nhạc trong trường hợp hi hữu.

Ngọc Anh đi hát vì hạn chứ không vì mệnh:

Nhìn kỹ số của Ngọc Anh chỉ vì gặp hạn 13-24, có Cơ, Lương miếu vượng ở Thìn xung chiếu hội Long, Hổ, Quan, Lộc, Khôi, Việt, Xương, Khúc, Diêu, Cái mà trở thành ca sĩ và nổi tiếng gần mười năm nay. Đến đại hạn sau vào Phu Quân có Sát, Phá, Liêm, Tham, Vũ, Tướng hội Quyền, Tấu, Hồng, Đào. Ngọc Anh cũng còn ca hát lai rai, nhưng nghề tay phải sẽ là buôn bán. Vì trong đại đạnh 10 năm đó cô ca sỹ nhạc trẻ duyên dáng này sẽ gặp một đức lang quân là vì quan cao cấp (hạn đến cung Phu gặp Sát, Phá, Liêm, Tham; Tử, Tướng, Hóa Quyền) sẽ hợp với cô tạo một cơ sở kinh doanh thương mại khiến cho cô bận bịu suốt ngày không còn hơi mà ca hát nữa.

Nhìn qua các Tiểu Hạn:

Ngọc Anh lúc mở mắt chào đời đã chịu ảnh hưởng của mẹ vì cung Phụ Mẫu có nhiều Âm hơn Dương. Hơn nữa, Thái Âm cư Tí là Nguyệt sinh Thương hải, ngộ Kị thành ra rực rỡ. Do đó số này phải có một người mẹ đã từng nổi tiếng xuân sắc một thời (Đồng, Âm ngộ Khoa, Kị tại Tí). Vì cung Phụ Mẫu có Khốc, Hư, Tang, Điếu, Hình, Kị đương số lại sinh ban ngày cho nên khắc cha từ thủa lên 3. Đương số sống trong vòng tay yêu thương của mẹ, và nhờ sự chu toàn của mẹ mà Ngọc Anh không bao giờ cảm thấy thiếu thốn tình thương và sự che chở của cha.
Số của Ngọc Anh học hành rất thông minh, nhờ có Tướng, Phủ ngộ Thiếu âm, Thiếu dương, Tả, Hữu, Tấu, Đào. Nhưng không lên Đại học được vì thiếu Xương, Khúc, Khoa, Khôi. Đành phải bỏ dang dở nửa chừng con đường học vấn.
Năm 15 tuổi, Tiểu Hạn vào cung Điền Trạch: Hạn gặp Cự, Nhật phùng Lộc, Mã, Khôi, Việt, Cái, Hổ, Thai, Phục và bắt đầu cô bé Ngọc Anh trổ mã ở tuổi dậy thì, đã thích la cà hơn là chịu bó buộc trong khuôn khổ chật hẹp của gia đình. Cũng năm này cô có mối tình đầu rất thơ mộng nhưng cuối cùng là một sự lỡ lầm của tuổi mới vào đời.
Năm 16 tuổi, Tiểu Hạn vào Phúc Đức: Năm này nhân một dịp may mắn tình cờ, Ngọc Anh trở thành ca sĩ từ đó. Và cũng trong năm này, cô ca sĩ duyen dáng có đôi đùi đẹp nhất trong giới ca sĩ Thủ đô mới thực sự nếm hương vị của tình yêu.

Năm 17 tuổi, Hạn vào Phụ Mẫu: Có Thiên Đồng ngộ Thiên Mã, Thái Âm ngộ Kị thế là Ngọc Anh thoát ly gia đình đi theo tiếng gọi của nghệ thuật. Đây là lần xa cha mẹ đầu tiên trong đời Ngọc Anh để được tự do theo đuuổi nghệ thuật ca hát và cũng để sống trọn vẹn với tình yêu.

Năm 18 tuổi, Hạn vào Mệnh Viên: Năm này Ngọc Anh sinh con trai đầu lòng, đáng lẽ là hữu sinh vô dưỡng hoặc sẩy thai vì Kiếp-Sát ngộ Không Kiếp. Nhưng nhờ có song Hao, Thiên Giải và một điều may mắn nữa là hành niên của năm Đinh Mão thuộc Thủy (Thiên Hà Thủy) là nước mưa cho nên cây cỏ ở quần đảo (như đã nói ở trên) được thấm nhuần tươi tốt. Một đứa bé rất khôi ngô (Lộc, Mã, Phượng) và thông minh (Khoa, Lộc).

Năm 20 tuổi, Hạn vào Phu Quân: Hạn có lưỡng Phá ngộ Kình, lưỡng Không ngộ Cô, Quả. Thành thử Ngọc Anh phải gẫy đổ với người chồng trước, và sau đó gặp người khác trong giới sĩ quan (Tử, Tướng, Liêm, Vũ Sát, Tham). Vì đang hạn còn ở Huynh Đệ nên tuy gặp người võ cách nhưng ở với nhau không bền… Năm này vì Lưỡng Phá, Lưỡng Không ngộ Kình cho nên Ngọc Anh gặp nhiều chuyện buồn phiền, chán đời tự tay cắt mạch máu từ bỏ cuộc sống. Nhờ Long, Đức ngộ Dưỡng, Hỉ Thần cứu thoát tay thần chết.

Năm 21 tuổi Hạn đến Tử Tức: Năm này hạn vào cung vô chính diệu, đắc Cự, Nhật là một năm hái ra lộc và nổi tiếng (song Lộc, Mã ngộ Tràng Sinh, Khốc, Khách, Quang, Quí, Hóa Khoa). Song song với đà nổi tiếng là tiền bạc dồi dào chứ không phải eo hẹp về tiền như năm trước khi hạn ở Phu ngộ Không, Kiếp. Nhưng về hạnh phúc lứa đôi thì có nhiều triệu chứng rạn nứt. Cũng trong năm này, Ngọc Anh phải sảy thai vì đại hạn có Thai ngộ Linh Tinh, Bạch Hổ, tiểu hạn gặp Hỏa, Hình, Kị, Diêu. Nếu không sảy thì Ngọc ANh bị tai nạn bán thân bất toại mới thoát chết.
Năm 22 tuổi Hạn vào Tài Bạch: Có Tả, Hữu hội Tướng, Phủ, Vũ, Tham là một năm phát về tiền bạc, nhưng đầu năm này vì Hổng, Hỉ, Hỉ Thần ngộ Quả TÚ, Kiếp Sát, Thiên Không, Đào Hoa cho nên Ngọc Anh một lần nữa phải chịu đau buồn vì gẫy đổ. Rồi đến cuối năm mới được hưởng tiền bạc do Tướng, Phủ, Vũ, Tham đem lại (Ngọc Anh có ô tô vào cuối năm này). Và cũng trong năm này có Đà đắc địa gặp Tả Hữu, song Hỉ, Hóa Quyền ngộ Thiên Quan quý nhân cho nên Ngọc Anh được xuất ngoại.

Năm 23 tuổi Hạn đến Tật Ách (1972): Một năm lận đận chuyện nhà cửa vì Cự, Nhật ở Điền Trạch chiếu lên bị Tuần Triệt án ngữ. Hạn có Nhật, Nguyệt, Hổ, Cái cho nên Ngọc Anh vẫn gặp duyên nợ. Tuy nhiên năm năm có Tuần, Triệt cho nên đầu năm gặp thì giữa năm đã bất mãn…

Tóm lại, Ngọc Anh là người con có hiếu với cha mẹ, biết thương anh em, nhưng số kiếp phải lận đận vì chồng. Con thì hiếm nhưng rất thông minh và đẹp.
Từ năm 35 tuổi trở đi, đại hạn đổi lên Tử Tức và Tài Bạch là 20 năm Ngọc Anh có rất nhiều tiền, và bây giờ chuyện buôn bán sẽ rất bận rộn khiến Ngọc Anh không còn xuất hiện ở lĩnh vực ca nhạc thường xuyên nữa.

Lê Thanh Hải

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

51. Kinh nghiệm tử vi của cụ Thiên Lương: Sao thiên mã tại mệnh, thân… (KHHB số 74d1)

0

Tôi học tử vi:
Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương


SAO THIÊN MÃ TẠI MỆNH, THÂN MỘT YẾU TỐ RẤT QUAN TRỌNG ĐỂ XÁC ĐỊNH VỀ CÔNG DANH TRONG ĐỜI

Trần Việt Sơn

Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã – nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt. Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.

Cách an sao Thiên Mã

Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tí Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã

Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tỵ, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tỵ, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.

Đi tìm ảnh hưởng của Mã

Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.

Thiên Mã tại cung Dần

Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.
Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:
-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tỵ

Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tỵ.

Thiên Mã tại cung Thân

Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi

Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ

Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tỵ) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.
Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tỵ, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:
1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tỵ (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ Tỵ, mạng Mộc, Thiên Mã Tỵ Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới đạt thành.

KHHB số 74D1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

49. Cuộc đời cụ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

0

CUỘC ĐỜI CỤ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM



Qua bài tựa quyển “ Bạch Vân gia phả “ của tiến sĩ Vũ Phương Đề, đông các học sĩ đời vua Lê Ý Tôn

– HOÀNG PHONG –

Từ xưa đến nay, người ta đã nói rất nhiều về cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng theo tôi về cuộc đời của cụ, bài này đúng hơn cả, vì đây là bài của vị đại khoa thời Lê đã đề vào gia phả cho con cháu của cụ. Vậy xin trích dịch để độc giả nhã giám và rộng đườnh tham khảo…

Trình quốc công trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm tự Hanh phủ đạo hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại tiên tổ ngày xưa tu nhân tích đức đã nhiều ( nay không thể khảo cứu được ) chỉ biết từ đời cụ Tổ thì được tập phong Thiếu bảo Tư quận công, mỹ tự là Văn Tĩnh. Cụ bà được phong Chinh phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước đây các cụ lập gia cư ở nơi có sông núi bao bọc, hợp với kiểu đất của Cao Biền.

Phụ thân được phong Thái bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, đạo hiệu là Cừ Xuyên tiên sinh, nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được xung chức Thái học sinh.
Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân, nguyên người ở An Tử hạ thuộc huyện Tiên Minh là con gái quan Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân.

Bà vốn là người thông minh, học rộng văn hay; lại tinh cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đã tính được rằng: vận mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa thì sẽ suy đồi. Vì có một chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên bà chờ đợi đến ngót 20 năm trời , khi gặp ông Văn Định có tướng sinh quý tử, mới lấy.

Nhưng sau lại gặp một trang thiếu niên trong lúc sang bến đò Hàn thuộc con sông Tuyết, thì bà ngạc nhiên than rằng: “ Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì ? “.

Những người theo hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau bà hỏi lại tính danh mới biết người ấy tên là Mạc Đăng Dung, khiến cho bà phải sinh lòng hối hận đến mấy năm trời.

Bỉnh Khiêm sinh vào năm Hồng Đức thứ 21 ( tức năm Tân Hợi 1491 ) lúc sơ sinh vóc người có vẻ hùng vĩ, khi chưa đầy năm đã biết nói, một hôm vào buổi sáng sớm Văn Đinh đang bế cậu ở trên tay bỗng thấy cậu nói ngay rằng: “ mặt trời mọc ở phương đông “ ông lấy làm lạ rồi năm lên bốn thì phu nhân dạy cậu học kinh truyện, hễ dạy đến đâu thì cậu thuộc lòng đến đấy, và thơ quốc âm cậu đã nhớ đến mấy chục bài.

Lại một hôm bà đi vắng. Ông ở nhà bày trò kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng:

“ Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung “ , rồi ông muốn đọc tiếp câu nữa nhưng chưa nghĩ kịp thì cậu đứng bên đọc luôn ngay rằng: Vén tay tiên nhẫn nhẫn rong. Ông thấy cậu mẫn tiệp như vậy có ý mừng thầm, đợi khi bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất mãn ,nói với ông rằng : Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao ông lại dạy con như thế. Ông cả thẹn xin lỗi nhưng bà vẫn không nguôi, giận bỏ về ở bên nhà cha mẹ đẻ, cách ít lâu thì mất.

Lại có truyền ngôn rằng: Lúc tiên sinh để chỏm cùng với lũ trẻ tắm ở bến đò Hàn, khi ấy có một chú thuyền buôn người Tàu nhìn thấy tướng mạo ông, chú bảo với mọi người rằng: Cậu bé này có tướng rất quý chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô về sau chỉ làm đến trạng nguyên tể tướng mà thôi, vì thế ai cũng đoán chắc rằng: Bỉnh Khiêm sẽ là bậc tề phủ của quốc gia sau này.

Như tiên sinh còn lúc thiếu niên, học vấn sở đắc ngay tự gia đình đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, ông bèn tìm đến để xin nhập học Lương Công là người làng Hội Trào, thuộc huyện Hoàng Hóa, lúc ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học được phép Thái ất thần kinh của người cùng họ, tức là dòng dõi Lương Nhữ Hốt ( ông Hốt trước hàng nhà Minh được phong tước là Lăng Lăng Vương ) Lương công rất thông minh về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho tiên sinh đến khi ngài bị ốm nặng lại đem cho con là Lương Hữu Khánh ký thác với tiên sinh, tiên sinh săn sóc dạy dỗ chẳng khác chi con mình, sau này ông Khánh cũng được thành đạt.

Năm Quang Thiệu ( 1516 – 1526 ) gặp lúc loạn lạc tiên sinh về ẩn cư để dạy học lấy làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên ( tức Lê Hoàng Đệ Thung ) thì Trịnh Tuy và Mạc Đặng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử, để sai khiến chư hầu hai bên gây cảnh nội chiến khiến cho trong nước chịu cảnh lầm than lúc ấy tiên sinh có cảm hứng một bài thơ rằng:

Thái hòa vũ trụ bất Ngu Chu
Hổ chiến giao tranh tiểu lưỡng thù
Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu
Uyên ngư tùng tước vị thùy khu
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước
Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

( Bản dịch của ông Phan Kế Bính )

Non sông nào phải buổi bình thời
Thù đánh nhau chỉ khéo nực cười
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi
Núi thây sông máu thảm đầy nơi
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
Ngán ngẩm cuộc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát nhẩn nhơ chơi.

Sở dĩ có bài thơ trên, vì tiên sinh biết rõ nhà Lê sẽ trung hưng, dẫu rằng ngày nay phải tạm tìm kế an thân, nhưng rồi sau đấy tất nhiên sẽ lại khôi phục đất nước, mà câu thú dữ nên phòng lúc cắn người chỉ là nói kín đó thôi.

Quả nhiên về sau nhà Lê trung hưng, bốn phương trời trở lại yên tĩnh. Bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí khoa hương thi ấy tiên sinh được đỗ đầu, rồi năm sau tức là năm thứ sáu đời nhà Mạc ( 1535 ) lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đổi thì lại đỗ Tấn sĩ đệ nhất danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong đời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm bài thơ “ Xuân thiên ngự tửu, đều dự hạng ưu, rồi i thăng chức Hữu Thị Lang Hình bộ, sau thời gian lại thăng chức Tả Thị Lang kiêm chức Đông Các Đại học sĩ.

Trong 8 năm ở triều, tien sinh dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi vì bổn tâm tiên sinh chỉ muốn trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù lòa cũng cho họ các nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rể là Phạm Dao Y thế lộng hành vì sợ liên lụy đến mình, nên tiên sinh cáo quan xin về trí sĩ.

Thế là giữa năm Quảng Hòa thứ 2 ( 1542 ) tiên sinh mới 52 tuổi đã xin trí sĩ, treo mũ về làng, dựng am Bạch vân ở phía tả chỗ làng ở, và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ khi ấy tiên sinh có bắc hai chiếc cầu Nghịnh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán là Trung Tân ở bến Tuyết Giang có bia để ghi sự thực.

Ngoài ra tiên sinh còn tu bổ chùa chiền; có lúc cùng các lão tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo chơi Kim hải Úc hải để xem đánh cá. Còn chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An Tử, Ngọa Vân, Kính chủ, Đồ Sơn, nơi nào tiên sinh cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh quên cả sớm chiều mỗi khi thấy chỗ rừng cây xanh tốt chim đổi giọng ca , tiên sinh lại hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần tiên.

Nhưng trong thời gian dưỡng lão ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón về kinh thành để hỏi, tiên sinh đều ung dung chỉ dẫn, nhờ được bổ ích rất nhiều. Xong rồi lại trở lại am cũ, họ mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng nhất công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công, bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con thứ tự cũng được phong hàm.

Năm cảnh lịch thứ 111 thời nhà Mạc ( tức Mạc Phúc Nguyên 1550, Thư Quốc Công người xã Khoa Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiểu con là Quyện và Mỗi về hàng Quốc triều, tiên sinh có làm bài thơ gởi cho Thiếu trong có câu.

Cô ngã tôn cô duy nghĩa tại,
Tri quân xử biến khởi tâm can.

Nghĩa là ta giúp con côi vì trọng nghĩa, ông khi xử biến há cam lòng.

Lại có câu:

Khí vận nhất chu ly phục hợp
Trường giang khởi hữu hạn đông nam
Nghĩa là: Vận chuyển một vòng tan lại hợp, Trường giang đâu có hạn đông nam “.

Thiếu xem thơ trong lòng cảm thất bứt rứt, còn Quyện cũng có tướng tài, luôn lập được chiến công. Phúc Nguyện lấy làm lo ngại; hỏi kế, tiên sinh thưa rằng: Cha Quyện với thần là chỗ bạn thân từ trước và đã ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn thủ Thiên trường ở vào tình thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại thực chẳng khác chi thò tay vào túi để lấy một vật gì mà thôi.

Rồi tiên sinh xin với Mạc Phúc Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn, đoạn gửi thư cho Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại tình xưa rồi nhân lúc đã quá say phục binh nổi dậy bắt cóc đưa về Nam Ngạn, tiên sinh mới đem ân nghĩa quốc gia ra khuyên nhủ. Quyên cảm động khóc nức nở, tiên sinh bèn dẫn về quy thuận họ Mạc, rồi sau trở thành viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy trì thêm mấy chục năm nữa.

Trong thời gian ấy, đức Thế Tổ đã dấy binh thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận ở cửa Thần Phù, Khiêm Vương, Mạc Kính Điển đại bại Thế tổ thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra đánh kinh bắc , khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, ông hiến cách hư thực cho họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định.

Năm Diên Thanh thứ 8 ( 1585 ) đời vua Mạc Mậu Hợp tiên sinh lâm bịnh, Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Tiên sinh chỉ trả lời: “ Tha nhật quốc hữu sự cố Cao bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế. Nghĩa là: Sau này quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời “

Quả nhiên cách 7 năm sau họ Mạc mất rồi các chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lên giữ Cao Bằng được 7 chục năm nghĩa là sau ba bốn đời mới hoàn toàn bị diệt; coi đó thấy lời của tiên sinh dự đoán chẳng sai chút nào

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

36. Lá số tử vi của tử tội Trần Đình Yên (KHHB số 5)

0

LÁ SỐ TỬ VI CỦA TỬ TỘI TRẦN ĐÌNH YÊN

Liệu Yên phải đền tội hay được ân xá
Bài của THIÊN CƠ

Luận giải lá số tử vi TỬ TỘI TRẦN ĐÌNH YÊN
Đại – úy Cảnh – sát, Trung – tâm Trưởng Trung – tâm hành – quân thuộc Bộ chỉ – huy cảnh – sát Quốc – gia Quận 10

Thủ phạm vụ cướp của giết người vào giờ ngọ ngày 27 tháng 3 năm Nhâm Tí (10.5.72) tại một tiệm vải của Ấn kiều Nathani 233 Đồng Kháng Chợ Lớn, hạ sát Nathani và bắn trọng thương công dân Nguyễn Ngọc Tâm.
Tòa án mặt trận QK 3 xử ngày mùng 4 tháng 4 Nhâm Tí tuyên án tử hình lúc giờ mùi cùng ngày.
Tử tội đang được giam hậu chờ phá án và cuối cùng là ân xá của Tổng thống VNCH
Sinh giờ Thân ngày 21 tháng 11 năm Giáp Thân tại Thái Bình.
Dương nam Thủy mệnh, Mộc tam cục.

TRƯỚC KHI LUẬN GIẢI

Từ lá số người hùng Không quân Trần Thế Vinh trong Khoa học huyền bí số 3, và hôm nay lá số Tử tội Trần Đình Yên, chúng tôi đưa lên đây chỉ với mục đích để cùng bạn đọc rút kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống đã qua và tai nạn đã xảy ra của các đương số, mà tai nạn hoặc cái chết của họ đã làm mọi người phải chú ý, để chúng ta luận giải, căn cứ trên sự kiện đã xảy ra, cùng suy nghiệm lẽ huyền nhiệm của khoa Tử vi Đẩu số, đang cùng nhau nghiên cứu trên mặt báo này. Ngoài mục đích duy nhất ấy ra, chúng tôi tuyệt nhiên không hề nghĩ đến chuyện lợi dụng sự đau thương của gia cảnh người khác mà bàn tán xuyên tạc. Mong bạn đọc thông cảm cho.

Một vài biến chuyển quan trọng trong đời của đương số:

Cha mất trước năm 1954, di cư vào Nam với mẹ (năm nay 55 tuổi), anh trai (tuổi Bính Tí) và một em gái. Anh trai và em gái đã lập gia đình ở riêng. Đương số sống với mẹ. Mới cưới vợ cuối năm Tân Hợi, hiện vợ có thai hơn hai tháng (vợ tuổi Nhâm Thìn).

Đương số là sĩ quan QLVNCH, bị thương (trận Quảng Ngãi) ngày 5.12.69 đạn xuyên má làm điếc lỗ tai phải, lúc nằm bệnh viện, phải cắt cuống họng để đổ nước và sữa. Giải ngũ trong năm này (Kỷ Dậu). Năm Tân Hợi tháng 5.1971 được vào Cảnh sát Quốc gia với cấp bậc biên tập viên tập sự.

Luận giải khái quát của chúng tôi

Khi chúng tôi tìm vào gia đình đương số, gặp thân mẫu và người anh trai chúng tôi được biết thêm: Có một ông thầy tử vi ở đường Bà Hạt (không treo bảng hiệu) đoán dùm cho bà cụ rằng đương số nhất định không chết mà chỉ bị tù lâu năm mà thôi, vì ngày đương số đánh cướp và bị bắt là ngày 27, nhật hạn đi vào Mệnh có Hóa khoa, nguyệt hạn ở Tử tức có Lộc tồn, Giải thần, sẽ có quý nhơn giải cứu, cho nên gia đình đương số rất trông ngóng sự ban ơn của Tổng thống VNCH. Sở dĩ bà cụ tin tưởng ở ông thầy tử vi này là vì năm Kỷ Dậu (1969) đương số bị thương thập tử nhất sinh ở Quãng Ngãi, ông cũng đoán không chết.
Chúng tôi có tìm vào gặp ông thầy. Ông khiêm tốn cho biết là xem giùm chớ không lấy tiền, ông không muốn nêu tên tuổi. Sau đó thầy nói năm nay đương số 29 tuổi, gốc đại hạn ở Phúc đức, có Lộc tồn, Hóa Lộc, Xương, Khúc, Tả, Hữu, Cáo, Phụ, Mã, Quyền, Tướng, Ấn, Long, Phượng, Giải thần. Mệnh lại có Hóa khoa, Thiên giải. Có nhiều sao cứu giải như vậy, chắc chắn sẽ bị tù lâu chứ không chết.

Chúng tôi về xem lại lá số, tra cứu tính chất sinh khắc, hung cát của các sao, thật tình chúng tôi thấy lo ngại cho đương số vì những điều khắc kị trong lá số như sau:

I.Đại hạn ở phúc đức có Tướng quân Tử ngộ Phục binh, cung nhị hợp lại có Hình Kiếp Thiên Việt vì là cùng một nhóm chịu ảnh hưởng của Tuần không cho nên sự thông đồng của hai cung nhị hợp này rất mạnh. Lưu niên đại hạn ở cung huynh đệ lại có Không Không Kiếp Thương Sứ Hình Diêu Cô Quả Thiên Việt Lực sĩ là những bộ sao tác họa hung hãn cho thủy mệnh.

II.Tiểu hạn đến Thê thiếp ở cung Dần, có Tuần lưu niên Dần Mão, tuổi này Dương nam, Tuần ở Dần cung, Tiểu hạn ở đây giáp Kình Đà, mà Tật ách gặp Không, Kiếp, Sát, Kị, Hình, Diêu…Mệnh chỉ có Hóa Khoa với Thiên giải làm sao cản nổi Tang, Hổ nổi lên xúi giục làm bậy bởi tiếng gọi về tiền bạc của Lộc tồn ở Tiểu hạn. Vì sách có câu: “Lộc tồn tính những tham tài, Mệnh thêm Tang, Hổ mưu ai dám bì”. Đó là những ma lực xúi giục đương số đi vào con đường lầm lỗi, cướp của giết người.

III.Nguyệt hạn tháng 3 đi vào cung thê thiếp, trung phùng tiểu hạn và lưu đại hạn gặp các hung tinh như đã nêu trên, nhờ nhật hạn đến cung Mệnh, có Hóa khoa, Thiên giải cho nên đương số không bị hạ sát tại trận mà chỉ bị canh cầm. Đến tháng xử, thì nguyệt hạn lên cung huynh đệ có Kình dương, Lực sự, Địa không, ngoài có Hình, Kiếp, Diêu, Cô, Quả, Thương, Sứ xâm nhiễu.

Nhật hạn hôm xử án là mùng 4 nằm ở cung Phúc đức, lại gặp Tử, Tướng ngộ Phục Binh, Khốc Hư Tang Điếu hợp chiếu sang Điền trạch gặp Hình, Việt, Tấu thơ, Địa kiếp, làm sao tránh khỏi bản án tử hình.

Trong năm này cũng có những giải nhưng không đủ bộ, như Lộc tồn không gặp Quan, Phúc, hoặc Quang, Quí, Tả, Hữu mà lại gặp toàn bộ Khốc, Hư, Tang, Điếu, Linh Hỏa thì lộc tồn giáng họa chứ không cứu giải cung phúc lại gặp Phá quân thuộc thủy miếu địa ngộ Tuần không thuộc hỏa Đương số lại thủy mệnh thành thử năm nào gặp các sao hiền hòa như xương khúc khôi việt Khoa lộc long phượng thì Phá quân nằm yên đến những năm gặp các bộ hung tinh thì sao này lồng lên tác họa.

Nhìn qua ngày, tháng đương số gây họa và bị canh cầm rồi bị mang án tử hình, căn cứ vào lá số này, đương số sẽ gặp dữ nhiều lành ít. Tuy nhiên, Mệnh cung có Hóa khoa là đệ nhất giải thần, ngộ Thiên giải là đương số sẽ được quý nhơn giải cứu. Nếu xin Tổng thống VNCH ân xá mà được dần dần qua đến tháng 5 mới thoát hiểm.

Đoán như vậy không phải chúng tôi có ác ý với đương số, vì rằng có xử tử một Trần Đình Yên thì cũng không cứu sống được Ấn kiều Hathani và cũng không lành được vết thương của ông Nguyễn Ngọc Tâm. Mà giết người đền tội thì nhẹ nhàng hơn là xử tử giam hậu để cho tử tội có thì giờ suy gẫm mà ăn năn hối lỗi, cho thấm thía về nỗi nhớ nhung xa cách những người yêu thương trong gia đình.

Chúng tôi nghĩ rằng nên để tử tội sống trong sám hối là hơn. Đất nước nay đã đổ máu nhiều rồi giết thêm một Trần Đình Yên có chắc xã hội sẽ hết sạch những kẻ giết người cướp của không? Hay cũng chỉ là giải pháp lấy đá đè cỏ rồi cỏ vẫn mọc theo kẽ đá, như thánh hiền đã dạy?

Những phút cuối cùng của tử tội Trần Đình Yên trước giờ Tòa kết án
Tử tội khai: vì thụt két 250.000 đồng nên…đi xin chớ không phải cố ý đi cướp

Saigon 16-5 Sáu ngày sau khi vụ cướp xảy ra tại Chợ Lớn viên đại úy cảnh sát thủ phạm sáng nay bị tòa quân sự mặt trận quân khu Ba tuyên án tử hình.
Theo bản cáo trạng Đại Úy Cảnh sát Trần Đình Yên 27t Trung tâm trưởng Trung tâm hành quân thuộc Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia quận X, vào lúc 13 giờ trưa ngày 10-5 vừa qua đã xông vào tiệm vải 233 Đồng Khánh Cholon dùng súng uy hiếp chủ nhân là Ấn kiều Nathani để tống tiền.
Liền khi ấy vợ Nathani và các con bỏ chạy tán loạn và báo tin với nhà chức trách quận V cách đó 100 thước.
Sợ bị lộ và uy hiếp gia đình khổ chủ không xong, tên cướp bắn chết Nathani bằng một phát súng trí mạng là gây thương tích cho Nguyễn Ngọc Tám bằng một phát súng xuyên qua ngực.
Sau đó thủ phạm vào bên trong thay đổi áo và leo tường nhảy xuống nhà bên cạnh đánh đập chủ nhân đòi tiền và dùng người này làm con tin. Đang khi đó, cảnh sát quận 5 đã bao vây cô lập Khu Đồng Khánh và bắt loa kêu gọi y ra nạp mình, ba giờ sau đó, tên cướp ra và bị bắt,
Tòa án mặt trận Quân khu III đã áp dụng một điều khoản trong sắc luật năm 1849 dự liệu về tình trạng thiết quân luật để tuyên bố có thẩm quyền xét xử các thường tội.
Điều khoản này quy định, trong tình trạng thiết quân luật, thẩm quyền của nhà chức trách dân sự và Tòa mặt trận có quyền xét xử bất cứ tội phạm nào.
Các luật sư biện hộ cho bị can đã nêu lên những nghi vấn như ăn cướp sao chỉ đi một mình giữa ban ngày và lại hành động nơi đông dân cư gần chi cảnh sát… và nhứt là nghi ngờ bị can bị bịnh thần kinh vì trước khi giải ngũ bị can bị thương nơi đầu, uy viên chính phủ Nguyễn Chí Lạc đã yêu cầu tòa tuyên bản án nặng để làm gương. Sau khi nghị án, vào lúc 16 giờ, chiều nay ông Chánh án Lê Minh Liên xác nhận bị can Trần Đình Yên phạm các tội toan trộm với trường hợp gia trọng và toan cố sát với trường hợp gia trọng và toan cố sát Tòa tuyên án tử hình.
Hẳn bạn còn nhớ liền sau khi Trần Đình Yên bị bắt, Đại tá tư lệnh cảnh sát quốc gia đã gở thư cho Thủ tướng xin để cho tiểu đội hành quyết C. Sát bắn tên Trần Đình Yên. Đại tá tư lệnh cũng nói rõ nếu được chấp thuận thì cuộc hành hình sẽ diễn ra tại pháp trường cát bùng binh Saigon.
“Đến giờ phút này tôi hãy còn bàng hoàng không hiểu tại sao mình lại hành động như vậy. Là một sĩ quan BĐQ từng lăn lóc ở chiến trường bắt rất nhiều tù binh VC, tôi đối xử với họ vô cùng nhân đạo săn sóc thuốc men cho nước uống thức ăn.
Đối với kẻ thù còn như vậy huống hồ là những người thù oán gì. Vì sự túng nghèo không lối thoát tôi đã hành động vô ý thức như vậy xin tòa mở lượng khoan hồng cho tôi”
Lời nói cuối cùng của bị can Đại úy CS Trần Đình Yên người vừa đánh cướp và bắn chết một thương gia Ấn kiều tại Chợ lớn đã không làm tòa xúc động. Nên 1 giờ sau đó anh ta đã bị tòa lên án tử hình sau khi đã xác nhận 3 tội trạng trộm trong tình trạng gia trọng cố sát với trường hợp gia trọng và toan cố sát với trường hợp gia trọng. Bác bỏ tất cả mọi khước biện của luật sư xin đình lại để lấy kết quả y khoa về trạng thái thần kinh.
Lúc đó 3g15 phút chiều. Tuy có vẻ cứng rắn nhưng mặt Yên không dấu nổi những nét thất thần xanh xao. Anh loạng choạng đi ra xe về nhà giam trong vòng tay của người anh ruột nước mắt cũng đong đầy nói những lời an ủi “Em yên tâm” mình còn xin phá án cạnh đó là bà mẹ già của Yên gào khóc thảm thiết “trời ơi Yên ơi! Con tôi!” Cô vợ trẻ đẹp của Yên đã ngất xỉu khi bước ra sân ngoài tòa án. Bước chân Yên nặng nề như treo đá. Anh ngó vợ ngó mẹ mà không nói được 1 lời. Vợ anh đang mang bụng chửa, người ta nhìn thấy nước mắt anh chảy dài xuống đôi gò má hóp.
KHHB số 5

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

48. Cô bé Tí Hàng Bạc (KHHB số 74c2 và 74d1)

0

Trước khi pót bài Cô bé Tí Hàng bạc ở folder 74C2 và Thái Châu, mình quote lại bài viết về đời sống Cô bé Tí hàng bạc do chị LTT gõ trước đây ở diễn đàn cũ (cho ace tiện theo dõi)

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT : CHÚA TIÊN

HỒI MỘT :CUỘC ĐỜI CỦA CHÚA TIÊN TRÊN BÁO PHÁP

Chủ báo HENRI DE MASSIAS hồi thời kì đó đang sưu tập các dữ kiện để viết về cuộc đời li kì CHÚA TIÊN trên báo AVENIR DU TONKIN dưới nhan đề :” LA vie merveilleuse de Betty la Tonkinoise. Độc giả HN, cả ta lẫn tây, đều hiểu BETTY là tên ĂNGLÊ đặt cho cô BÉ TÍ HÀNG BẠC. Trong các nhân tình cô bé Tí, không ai biiết rõ, viết nhiều về cuộc đời cô bằng De Massias. Có lẽ do đó, nàng cưng nhất chàng DON JUAN đĩ điếm này. Massias cũng như hầu hết các nhân tình mết CHÚA TIÊN không phải chỉ vì nàng đa tình, da thịt thơm tho hấp dẫn mà còn vì nàng thông minh và linh mẫn như hồ li, khiến chồng và tình nhân nhiều phen lúng túng, bối rối trước những c6au hỏi hóc búa của nàng mặc dù họ học cao, còn nàng gần như thất học. Về điểm thông minh và linh mẫn này, DE MASSSIAS có kể về nàng như sau:
BETTY là cô gái nhà quê, được ba má nuôi là vợ chồng công sứ HƯNG YÊN cho học tiếng PHÁP truyền khẩu, thực hành ngay trong gia đình nên 5,6 năm sau đã nói thông PHÁP NGỮ. Cái giá trị ăn khách của BETTY ở chổ đó. Các quan thầy coi nàng như con chim lạ miền Bắc vì hồi đó hiếm có gái AN NAM nào thạo tiếng Bắc như nàng. Phải nói là họ bị BETTY chinh phục hơn là họ chinh phục BETTY. Không những này trẻ đẹp, sạch, thơm hơn người nữ A6u, nàng còn khéo o bế, chiều chuộng nên không người tình nào thất vọng vì nàng.
Tuy nhiên, BETTY cũng rất khó tính, cái khó tính tạo ra cái oai của nàng đối với đàn ông. Thái độ khó tánh, cửa quyền này tuy không đẹp nhưng các nhân tình vẫn khoái BETTY, có lẽ vì họ thấy ít có me tây AN NAM nào giống nàng do đó rất quí nể không dám coi thường nàng như các me khác.
Cuộc đời BETTY là cả một huyền thoại đánh đấu bởi những cuộc phiêu lưu đầy kịch tính. Nàng là con út trong một gai đình 3 con, cha làm ĐỀ LẠC, bị thất lạc cha từ nhỏ, bé thánh con cưng của vợ chồng viên công sứ HƯNG YÊN J. Simoney, với tên Tây là FELICIE. Bà công sứ, nguyên con gái viên CHÁNH TỔNG ở CẦU NGÀNG, vì hiếm hoi nên rất quí chiều cô bé, cử một cô khâu đứng tuổi phục dịch, chăm sóc bé và một con hầu nhỏ làm bạn chơi đùa. Viên công sứ còn sai một thầy thông dạy bé học quốc ngữ và tiếng Tây. Thấm thoắt, sau mấy năm, Bé lột xác thành cô bé dậy thì 17 tuổi, đẹp ngoan, biết chữ. Năm đó (1905) dịch hạnh đen bỗng hoành hành trong vùng Trung châu. Vợ công sứ Simoney chẳng may mắc dịch chết giữa lúc BÉ mơn mởn như trái chín đầu cành. Bà mất chưa đầy tháng, thì một đêm, Bé bị bố nuôi làm nhục, khóc vùi đến sáng, rồi cách một ngày sau bỏ nhà trốn biệt. Simoney sai lính và nhân viên bổ đi kiếm mấy ngày không thấy. Bé Tí đi tàu thuỷ lên HÀ NỘI, đem một vali đồ vật dụng vá tế nhuyễn gồm một số nữ trang, vàng ngọc khá bộn của mẹ nuôi và tư trang riêng, trên 1000 đồng dành dụm 5,6 năm đủ nuôi sống bé vài năm nếu không ăn sài huy hoàng.
Con nai vàng ngơ ngác vừa dính mũi đầu đời, chân ướt chân ráo , không thể nào ngờ chỉ 3 năm sau, nàng trở thành CHÚA TIÊN động HÀNG BẠC, ngồi dương cơ đồ sộ cách chổ nàng lên bến hôm đó không đầy 300 thước. Bé Tí bỡ ngỡ như chim lạc trong rừng cố đô miền Bắc. Khi đi ngang qua nhà hàng :” GÀ TRỐNG VÀNG”, bé cảm thấy đói, xuống xe vào ăn. Và từ bữa đó, nàng là khách trọ cô đơn trong nhà hàng này. Thấm thoắt bé ở khách sạn được KIM KÊ được tròn năm. Thiếu gì những Tây trẻ có già có ngắm nghé tống tình, làm quen bắt bồ, song nàng vẫn thản nhiên với bề ngoài luôn luôn trang nhã, lịch thiệp khiến các con ong cánh bướm Tây lắm phen ngẩn ngơ bối rối.
Nhưng rồi ngồi ăn núi lở, sốtế nhuyễn, của riêng tây của bé làm sao đủ cung ứng lâu dài cho nếp sống “ô ten” nhà hàng của bé giữa HÀ THÀNH hoa lệ. Trong lúc tiền bạc cạn dần, Bé đang lo tính tương lai thì thần tài râu bạc gỏ cửa nàng một cách gay cấn li kì


HỒI HAI : ĐẮM TÌNH, TIỀN, CŨNG LẮM TRUÂN CHUYÊN

Mấy tháng sau, bé Tí bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nàng phải bán đôi xuyến cuối cùng để thanh toán tiền nhà hàng. Rồi một cứu tinh đến với nàng.
Lúc ấy, quan ba Bounet từ Nam kì chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh BẮC PHI điều động ra Bắc đánh ĐỀ THÁM vừa âm mưu đánh úp HN ngày 15-11-1907. Trong khi chờ biên chế vào đệ nhị lữ đoàn của đại tá BATAILLE, viên BaBOUNET tạm trú nhà hàng ” gà trống vàng” trên lầu gần phòng Bé. Một hôm vì vội vã sơ ý, y đẩy lầm cửa vô phòng Bé, thấy nàng vận đồ ngủ mỏng na92m nệm trắng, lệt đật nghiêng mình xin lỗi. Thay vì bị trách mắng, BONET được đáp lại bằng nụ cười tha thứ đượm vè tình tứ. Trưa hôm sau, chờ nàng rời phòng , Bonnet chào, xáp lại mời nàng xuống cùng ăn để được lặp lại lời cáo lỗi hôm trước. Sau vài ngày, hai bên thành đôi tình nhân gắn bó. Viên quan Ba cũng vừa lãnh số tiền truy cấp khá bộn đưa Bé giữ. Tuần lễ sau, nhận lệnh hành quân, Bonnet đành tạm từ biệt người đẹp lên đường.
Hồi đó, Pháp huy động toàn lực mở chiến dịch dưới quyền chỉ huy của Quan Năm Bonifacy, thanh toán một lần cho xong quân ĐỀ THÁM. Chiến dịch kéo dài 03 tháng. Vì vậy, Quan Ba của Bé bị cầm chân, nhưng vẫn gửi lương tháng về cho Bé ở nhà hàng. Tháng 2 -1908, quân Bảo Hộ phát giác được chiến khu mới của ĐỀ THÁM trong rặng núi Láng, gần Tam Đảo. Bonnet chỉ huy một tiểu đoàn làm nút chận, án ngữ để sau núi Láng để đại quân Bonifacy tấn công hai mặt Tây, Nam vào chiến khu….Bonet bị trúng đạn ở lưng, lập tức được tản thương về HN, nhưng đã tắt thở dọc đường.
Bé Tí ở khách sạn đâu có hay. Hai tháng sau, không nhận được tiền gửi về nàng đoán người tình đã tử trận và từ đó chuỗi ngày đen tối lại một nữa đến với nàng. Một hôm, có một quan Tây râu xồm đến gỏ cửa phòng cô, xuất trình một bì thư cô nhận ra là thơ cô gửi cho BONNET và , tự nhận là Quan Tư cấp chỉ huy quan BA xấu số. Bé cảm ơn, gọi bồi bưng rượu lên đãi khách rồi mời ăn trưa trong phòng, viên quan TƯ không từ chối. Trong bữa ăn, hai bên trò chuyện mỗi lúc một thân và từ đó Bé lại cặp với quan Tư Lastelle, CHỈ HUY TỈNH ĐỘI bắc Giang.
Một hôm, y đem về gửi nàng giử dùm một bình vôi bằng vàng 5 kg và một cái ang bằng sứ Tàu cổ (không rõ cái ang là cái gì nữa). Hai báu vật này do Lastelle đoạt được trong các cuộc hành quân….Sau đó, bẵng đi mấy tháng, viên quan Tư không trở về HÀ NỘI. Chẳng biết hỏi ai, bé Tí đi Phủ Lạng Thương mới hay nhân tình của cô đã mất vì bệnh dịch tả không kịp đưa về HN. Thế là trời cho cô số vàng vô chủ này.
Cô Bé sau khi được chiếc bình vôi vàng nặng 5 kg đã bắt đầu tính bỏ cuộc sống gái khách sạn bằng cách kết giao với những bạn cùng phái ở HN. Mục đích là muốn kiếm đường làm ăn tìm đến cuộc đời tốt đẹp lương thiện hơn.
Bé nán lại khách sạn vài tháng hết năm 1908, ra giêng mới ra phố tậu nhà, mở tiệm buôn bán. Tiếc thay, số cô không phải số buôn bán, kinh doanh nên cô gặp một cuộc tình duyên mới, lần này không phải quan binh mà là dân sự rất giàu, ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời oanh liệt của cô.

HỒI BA : TÂY CHỦ MỎ VÀNG

Pháp kiều này là Jean Broussais, một trong những chuyên gai khẩn mỏ Pháp đầu tiên đến ĐÔNG DƯƠNG từ 1902-1903 và cũng chính là người đã khám phá nhiều mỏ quặng tại Ngân Sơn, chợ Điền, chợ Đã và mỏ vàng tại suối rít, Hoà bình….đã trở thành triệu phú nên hồi đó người ta quen gọi là Tây chủ mỏ vàng. Broussais vừa trở lại miền Bắc sau 03 tháng về Pháp nghỉ sua hai năm goá vợ, sang Bắc kì 6 năm nay TÂY CHỦ MỎ VÀNG không lấy ai trước Bé. Nay gặp nàng y như bị trúng tiếng sét. Sau một thoáng dò xét tư cách thấy Bé tư cách đàng hoàng, BROUSSAIS kết nàng làm vợ.
Thế là sau đó, Bé nghiễm nhiên thành bà chủ mỏ vàng mặc dù không có giá thú. Chỉ sau 1 năm rời khách sạn :” gà trống vàng”, Bé Tí là chủ một dương cơ nguy nga, sang trọng nhất nhì Hn bấy giờ, tôi tớ cả bầy, tiền của như nước, được gọi là bá chủ mỏ vàng, có người gọi là bà lớn. THỰC RA TIỀN CỦA NÀNG KHÔNG CHỈ KHÔNG PHẢI CHỈ BROUSSAIS CUNG CẤP MÀ CÒN NHIỀU BROUSSAIS KHÁC CUNG HIẾN NÀNG. Một số bạn Tây cùng ở nhà hàng với Bé trước ngày Bé lấy Tây mỏ vàng, thấy chồng Bé hay vắng nhà bèn đến thăm, họ lại giới thiệu thêm một số bạn thân khác.
Với tất cả 28 chồng liên tiếp, kể từ Broussais đến cả trăm nhân tình lai rai suốt 36 năm vang bóng, Bé Tí đã vận dụng nhiều tiểu xảo gây ảo tưởng cho họ cô là người chung tình chỉ yêu có họ mà thôi. Và nếu họ chợt thấy một đàn ông nào khác trong nhà cô thì đó là ….bạn chồng rất thân đến chơi lúc cô đi vắng (cái này không hiểu tiểu xảo này lắm)
Cô từng tâm sự với cô TƯ HỒNG rằng, bận tâm lớn nhất mỗi ngày là việc “canh giờ” như người BẺ GHI cho xe lửa khòi đụng nhau. Mắc dù chu đáo từng chút nhưng đi đêm có ngày gặp ma. Một hôm Bé tiếp một viên quan Năm vừa ra đến cửa thì Tây mỏ vàng về đến nơi. Lần đầu bắt gặp quan binh Tây trong nhà đi ra, BROUSSAIS NỔIGHEN VÀ CẮT ĐỨT QUAN HỆ.
Về phía bé Tí , sau ngày bỏ chủ mỏ vàng, trở thành một thiếu phụ xinh đẹp, tương đối tự do tiếp các nhân tình, không còn thấp thỏm nhiều như trước,. Trong khoảng 7, 8 năm đứt với Tây mỏ vàng, Bé đã liên tiếp lấy thêm 3,4 chồng và thường xuyên có vài chục nhân tình lẻ. Hầu hết đều là quan binh, quan chức cao cấp và dân sự bự, mỗi tháng tối thiểu mỗi người bao nàng ….Như thế mỗi tháng cô Bé nếu muốn có thể tậu 2 nhà lớn hoặc trên 20 mẫu ruộng hoặc hơn 300 lượng vàng ( nói vàng dễ hiểu giàu cỡ nào nhất). Đến năm 1919, Tây mỏ vàng chết, bé Tí trở thành triệu phú thực sự ( hơn tỉ phú thời bây giờ – trước 1974, còn so với bây giờ chắc đại tỉ phú quá) năm nàng tròn 30 tuổi.
Kể từ 1910, Bé Tí đã giàu có lớn, nhà cửa trang hoàng, trần thiết kế kiểu ĐÔNG PHƯƠNG lộng lẫy như dinh phủ vương hầu, đầy những bảo vật, đồ cổ trung hoa quí hiếm, đặc biệt nhất là một anh sứ cổ KHANG HY (Anh sứ này nguyên của một đại tá Pháp dự trận BÁT QUỐC DẸP QUYỀN PHI, năm 1900, đột nhập Cấm Thành Bắc Kinh, đoạt được trong cung nội MÃN THANH rồi sang tay Passignat mua được cho bé Tí

HỒI PHỤ: SỰ TINH KHÔN CỦA BÉ TÍ

Quán làng an thổ, Ninh Giang Hải dương, cô bé Tí là một trong những me Tây lớn hiếm hoi hồi đầu thiết lập nền bảo hộ tại BẮC KÌ ( 1886). Thời đó, cô và cô Tư hồng oanh liệt lẫy lừng hơn cả, hơn cả 2 Cô BA TRÀ, BẢY LIỄU SÀI GÒN dù hai cô này nhiều nhân tình lớn như tướng Giel, phó thống đốc Boutignac, LE jOL, nguyên chánh văn phòng Toàn quyền A. Saraut, ĐỔNG LÍ TOÀ KHÂM HUẾ, PHÓ THỐNG ĐỐC ROCHAT….Ba chục năm đầu thế kỉ này là thời kì vang bóng một thời huy hoàng nhất của bé Tí. Lắm chồng, nhiều nhân tình, tiền của vào tay cô như nước.
Sau ngày đoạn tuyệt với bé Tí vì bị bé Tí phỗng tay trên nhân tình của cô Tư Hồng, cô Tư Hồng thường nói với những ai biểu cô giàu rằng:” tôi giàu thấm đâu so với con bé Tí. Nó có dư cả trăm cây vàng rồng do các chồng và nhân ngãi Tây Tào cho nó. Nhưng nó kín lắm, không dám gửi nhà băng, cũng chẳng dám giấu trong tủ trong rương vì sợ bị cướp. Nó nghĩ ra 1 mẹo thật hay để đánh lạc hướng kẻ gian. Nó sai 2 gia nhân đi mướn 2 toán thợ đúc ở hai làng xa nhau, đưa về HN ĐỂ ĐÚC HAI PHO TƯỢNG Mẫu tại hai trại của nó ở vùng ngoại ô. Hai tượng này giống nhau, nhưng 1 đúc bằng vàng thật,1 bằng đồng. ĐÚC XONG PHO TƯỢNG VÀNG , NÓ ĐEM BIỆT ĐẾN 1 NƠI B1I MẬT, GỌI THỢ SƠN BÊN ĐÌNH BẢNG, CHỢ DẦU sang tô sơn phủ che lớp vàng như một tượng gỗ hay đá rồi bao kín bằng vải điều, đem về thờ trên lâu điện HÀNG BẠC. Còn pho tượng bằng đồng, nó mướn thợ ở HÀ NAM lên sơn phết rồi đem cung tiến một ngôi đền thờ Mẫu SÒNG SƠN ở HN. Tin con Bé đúc tượng Mẫu cung tiến đồn ầm lên trong giới bà Bóng Bắc Hà nhưng mấy ai biết nó cùng lúc đúc tượng vàng trăm kg thờ trong điện che mắt bọn gian phi.

HỒI BỐN: ĐỒNG BÓNG

Giàu lớn rồi, cô bé Tí cũng như lắm bà đang nghèo hoá giàu, đua nhau nhập tịch giới khăn chầu áo ngự. Cô nổi tiếng là đồng bóng lẫm liệt. Từ Bắc vào Trung, không đền to phủ lớn nào cô không đến hành hương. Các bà đồng quan đàn chị đều quí nể vì cô khéo xử và hào phóng. Cô có 4 rương lớn bằng gỗ bạch đàn mặt ngoài sơn vẽ tứ linh, mặt trong để mộc thơm phức đựng đầy khăn chầu áo ngự thượng hảo hạng mà ít bà bóng đương thời, kể cả các bà đồng quan có nổi 2 chiếc. Đặc biệt, khăn áo đều bằng nhiễu và gấm đoạ Thượng Hải, không mấy bà Bóng thời đó đủ tiền mua sắm. Các nữ trang đều bằng ngọc và vàng trong khi các bà khác chỉ có đồ giả, đồ mạ, một rương đầy đồ hầu mẫu, một đựng đồ hầu các ông lớn ông hoàng, một đựng đồ chúa Thượng Ngàn….Ngoài ra, một giá gương bằng vàng 18k cao hơn 2 gang nguyên của một nữ hầu tước Pháp do một ông chồng Tây mua tặng cô trong một tiệm đồ cũ ở MẠC XÂY.
Trong ngôi nhà Tây hai tầng giữa phố Hàng bạc, cô tôn điện thờ Mẫu nguy nga chẳng kém ngôi đền. Một cung văn trẻ hát chầu trong điện có soạn một tập vè lục bát, ví toà nhà HÀNG BẠC như là ĐỘNG TIÊN. Không hiểu ĐỘNG TIÊN trên trời đẹp như thế nào chứ ĐÔNG TIÊN HÀNG BẠC thì thập phần lộng lẫy. Toà nhà lớn bên ngoài bày biện đầy đồ cổ quí giá như: ngọc ngà, đồng, sơn, sứ từ đời Chu đến Thanh trị giá thử thời đến bạc triệu. Bên cạnh toà nhà là một sân ngổn ngang lồng, chuồng, nuôi đủ thứ kì cầm dị thú.
….Những ngày có đàn tam tứ phủ, tha thướt các ba 2 bóng, khăn xanh áo đỏ chẳng khác nào động tiên hạ giới trong ánh đèn khói nhang và đàn hát nhã nhạc. Vì thế cô bé Tí được thần thánh hoá là CHÚA TIÊN.
Siêu tài liệu: Thầy bói lợn đoán số Cô Bé Tí Hàng bạc
Linh Xuyên
Số Bé phải xa cha 28 năm – Suốt thời gian này, sao Bé không về làng thăm cha? Trường hợp ly kỳ Bé Tái ngộ cha – Tình cờ định mệnh giữa vụ thoát ly và đoàn tụ của Bé – Những “tài ngoại” của Bé dưới ngòi viết chủ báo “Avenir du Tonkin”

(Đoạn tiếp của câu chuyện kể đời sống bà Bé Tí hàng Bạc Hà Nội)

Thầy bói Lợn
Từ ngày bé đi biệt khỏi làng, thầy ĐỀ VĂN GIẢNG nhớ con hoài. Bảy năm sau, nhân đi dự đám tang người anh họ ở làng BẦN YÊN NHÂN, thầy đề nghe danh thầy bói LỢN ngày đó, chừng 30 tuổi đã nổi tiếng coi hay tại chợ ĐƯỜNG CÁI. Vì bệnh trái trời nặng, lòa hai mắt , mặt rỗ, thầy bói khụt khịt mũi như lợn nên có hỗn danh này.
Thầy Đề đặt tiền coi quẻ tìm con thất tung, Thầy Lợn gieo quẻ xong, quyết ngay là lúc này chớ đi tìm kiếm vô ích, mòn giầy dép cũng không thấy, dù tình cờ qua cửa nhà con hay đi ngang mặt con giữa đường cũng không thể gặp nhau.
Thầy Đề hỏi:”tại sao?”. Thầy nói Lợn đáp:” số mệnh nó khiến xui như vậy….vì cha con phải cách xa nhau 28 năm”
Thầy Đề lại hỏi:” có hi vọng tìm thấy sớm hơn hoặc tự nó nhớ gốc, nhớ cha quay về?”. Thầy Lợn lắc đầu rồi hỏi về ngày sinh tháng đẻ của Bé, lâm râm bấn tử vi, cho hay là ít cũng phải 20 năm. Cha con chia lìa nhau thì cũng sẽ bất ngờ đoàn tụ thật li kì hi hữu.
Thầy Đề lại hỏi:” nó đến nay đã 18, 19 tuổi chẳng biết trôi dạt nơi đâu? Có gặp chốn lương thiện tử tế không?”

Đa nhân đa duyên
Thầy Lợn khụt khịt cười đáp:” nói cho ông anh mừng con nhỏ này làm lớn đến nơi. Số nó thật đáo để. Có nó ra đời thì không cha mẹ, hoặc phải ly cách cha mẹ. Số nó mệnh VCD, lập tại Tí, lại đủ Khôi Việt , Tả hữu, thêm Quyền Lộc, Xương Khúc chiếu lại là nó thừa tài làm nên danh giá”
Thầy Lợn khựng lại một lúc rồi tiếp” hiềm nỗi con nhỏ đủ bộ Tham Diêu, Mộc Cái, Hồng đào, thêm Phượng Long đối chiếu Khốc Hư thì hơi….đa đa nhân duyên đấy. Giá mà số này có Tử Phủ nhập miếu ở hạn thì chẳng khác số bà Chúa CHÈ thuở trước. Dầu chẳng được vậy, đây cũng là số cận quí, giàu sang lẫy lừng 1 thời”
Thầy Đề lại hỏi:”Nếu lẫy lừng 1 thời rồi lụn bại thì hi vọng gì?”
Thầy Bói lắc đầu đáp: “Số bất cứ ai cũng vậy chỉ lẫy lừng 1 thời, dài hay ngắn, như hoa chỉ nở 1 lần rồi tàn sớm hay muộn. Số con nhỏ này đáo hạn ĐỊA KIẾP có thể sẽ hết của như THẠCH SÙNG nếu không làm điều phúc đức. Nhưng ngày đó cũng còn lâu khi con nhỏ tuổi về chiều và ông anh lúc đó cũng đã được nó đền đáp báo hiếu đầy đủ.
Thật ra, thầy Đề, lúc đó, chẳng mấy tin tưởng lời thầy bói. Chính cả thầy Lợn cũng không thể ngờ 20 năm sau thầy 49, một sáng kia, cũng buổi chợ đông như bữa đó, có một xe hơi lộng lẫy từ phía Hà Nội sang đậu xịch bên lộ, bước xuống một ông lão vận đồ lụa bạch, đội nón lông ngan đen chóp bạc, theo sau là một thiếu phụ sang trọng len lách qua đám đông đến quán thầy bói. Ông lão ngồi xuống đầu ván, cất tiếng hề hề cười.

Nhớ giai
Thầy Lợn ngẩng mặt, lẩm bẩm: “Quái! Giọng ai nghe quen quen….nhưng đã lâu không tới coi”
Ông lão khà khà cười:” phải, 20 năm qua mới đến thầy đây!”
Ông Lợn khụt khịt, nghiêng tai về tiếng khách lạ:” Ai nhỉ….ông khách dưới NINH GIANG?”
Ông lão cười rộ :”Chịu thầy nhớ dai! Văn Giảng đây
A ! Cụ Đề đã tìm thấy con gái ? Đến thưởng đệ phải không?
Ông lão tủm tỉm cười xua tay ra dấu cho thiếu nữ đừng lên tiếng rồi nói: “Đến trách thầy, chứ thưởng gì. Con gái đã thấy đâu. Năm đó, thầy đoán trong 20 năm nay đã 21, 22 năm rồi, vẫn tuyệt vô âm tín. Lão nay đã 74 biết sống đến bao giờ mới gặp con?”
Thầy Lợn hoài nghi, chau mà : “Nếu quả vậy, tôi coi lại cho cụ một quẻ xem sao”
Ông lão gật đầu, lấy trong hầu bao đồng ván 2 cắc bạc đặt vào đĩa. Thầy bói khấn, gieo tiền, ngồi im bấm quẻ rồi lắc đầu:” có lẽ cụ muốn thử tôi, chứ quẻ này “Úp cối” là cụ gặp con rồi”
Ông Lợn lại khảo lại số tử vi ông lão rồi lẩm bẩm nói 1 mình: “Quái thật! số này năm nay không tháng 3 thì tháng 7 cha con phải đoàn tụ, sao nay sang tháng chạp mà vẫn chưa ?”
Một chuỗi cười dòn vang lên, ông lão ôm chầm lấy vai thầy bói cười :” Xin chịu thầy, thần bốc TRẦN ĐOÀN tái sinh! Bữa nay cha con lão đến tạ thầy đây”

Hạn Địa Kiếp
Chúa Tiên Hàng Bạc mở ví lấy xấp bạc 10 đồng đưa cho cha…Sau khi trao số bạc vào tay ông Lợn, ông lão hỏi nhỏ:” Năm xưa, thầy đoán con tôi đáo hạn địa kiếp hết của như THẠCH SÙNG, vậy hạn đó năm nào….và có cách nào cho qua khỏi được chăng?”
Thầy bói trầm ngâm giây lát đáp: ” Hạn này còn lâu, hơn giáp nữa, vào năm ẤT MÙI ( 1956) nhưng có thể hoá giải được phần nào nếu đương số tu nhân tích đức, tránh sát giới, của cải sẽ bị tán phát 1 nửa, còn lại 1 nửa không đến nỗi trắng tay hết sạch”
Lời thầy Lợn làm cô bé Tí biến sắc, ông lão khuyên con đừng đi xe hơi, lo cán chết người, vật sẽ mang tội. Khi về tới HN, nghe lời thầy bói, cô vội bán lại chiếc Donnet Zedel mới cho chủ hãng Aviat, sắm 1 xe kéo lộng lẫy, đẹp nhất HN do 1 phu xe vận đồ trắng, nón trắng, quần xà cạp trắng ” hách ” nhất cố đô, kéo đi đó đi đây trong thành phố, theo sau là 1 phu hầu ăn mặc đúng y, đóng vai vệ sĩ chạy bám đít bánh xe khiến khách qua đường đều chú ý.

Cuộc tái ngộ ly kỳ sau 28 năm…
Kể từ 1910, Cô Bé Tí đã giầu có lớn, nhà cửa trang hoàng, trần thiết kế kiểu Đông Phương lộng lẫy như dinh phủ vương hầu đầy dẫy những bảo vật, đồ cổ Trung Hoa quý hiếm. Muốn dương danh khoe của Cô mở động cho dân chúng thong thả vào coi. Từ năm 1924, cửa mở cách một ngày một lần, nhưng từ 1930, nhà cầm quyền Pháp chỉ cho mở chủ nhật và ngày lễ. Người vào coi xếp hàng một nối đuôi trước cổng. Một hôm, có ông lão quê đến nhập bọn, lần bước sau toán người vào coi. Lối đi trong động hẹp ngang, đủ cho chuỗi người nối gót tiến lên vì 2 bên đều kê san sát tủ, xập, kỷ, án, bình phong chạm trổ, sơn thếp hoặc cẩn xà cừ, ghép ngọ ngà châu báu. Trên mặt thì bầy la liệt đồ cổ ngoạn bằng đồng thiếc, ngọ, ngà, hổ phách, san hô, bảo thạch, đồ sứ cổ Tàu từ đời Thanh đến Chu, tổng trị giá ngày đó đến nửa triệu bạc. Người vào coi – Dù sành điệu hay không – cứ chầm chậm bước một vừa đi vừa ngắm xem, không ai được xáp gần, sờ mó các đồ vật trưng bầy. Theo bén gót người phía trước, ông lão quê đang mải ngắm bộ bình đông bích đồ thứ 6 cánh cần ngọc vàng…bỗng la lên chu choa, nhăn nhó, thụp xuống ôm lấy chân làm cán ô cong kẹp nách ngoắc phải miệng một ang sứ cổ Khang Hi từ trên kỷ lộn rớt xuống bể tan tành (Ang sứ này nguyên của một đại tá Pháp dự trận Bát quốc dẹp Quyền Phi năm 1900, đột nhập Cấm Thành Bắc Kinh, đoạt được trong cung nội Mãn Thanh rồi sang tay Passignat mua được cho cô Bé Tí). Thì ra ông lão có mụn lở gót chân buộc thuốc sơ sài. Người đi sau, lúc cất bước, vô ý đá trúng phải, làm ông lão đau điếng, lóng cóng gây ra vụ bể. Ông lão run sợ, khóc lóc lạy van. Ai thấy cũng ái ngại, nhưng phải chờ Chúa Tiên về…Vì sợ trách nhiệm, viên quản gia quát tháo nhốt ông vào nhà cầu. Y trở ra xua hết người coi, đóng cửa lại rồi xuống nhà giật mình thấy cửa cầu tiêu mở, đẩy vô, không thấy ông lão. Hốt hoảng, quản gia làm um xùm, thúc gia nhân túa các ngả tìm kiếm. Ai vừa giải cứu ông lão? Gã phụ bếp giầu lòng thương, ghét quản gia phách lối, nhân lúc mọi người bận nhà trên, đã lén mở cửa nhà cầu, đưa ông thoát lối sau. Vì không thuộc phố phường Hà Nội, ông lão vừa đi vừa hỏi đường, loanh quanh đến Phố Mã Mây bỗng có tiếng thình thịch chạy sau lưng ông chưa kịp ngoái cổ thì bị gã quản gia túm tóc đánh…Người đi đường xô tới can ngăn. Gã quản gia kéo xềnh xệch lão về Hàng Bạc, hô gia nhân lấy dây trói, bỏ nằm cầu tiêu, khóa cửa lại. Ông lão tủi nhục nằm khó dấm dít đến trưa chiều, chẳng ai cho ăn uống: Mãi tối, bà Chúa đi dự đàn tứ phủ trên đền Đức Vua dốc Yên Ninh cùng 2 cô gái nuôi mới về. Cả nhà đổ ra đón, bưng các tháp quả phẩm lộc, đồ biếu vào. Quản gia trình Chúa Tiên vụ bể ang và thủ phạm, ông lão, vì trốn khỏi nhà đã bị bắt lại, nhốt trong buồng vệ sinh, chờ lệnh Bà Chúa. Nghe nói ông lão đau chân loạng quạng làm bể đồ, Chúa Tiên biểu cởi trói, dẫn lên vào phòng thay áo trở ra thấy ông lão mặt mày hốc hác bị quản gia bắt quì dưới đất, Chúa Tiên không nỡ, biểu đỡ dậy, lấy ghế cho ngồi, hỏi ăn uống gì chưa? Ông lão lắc đầu xin hớp nước đỡ khát. Bà Chúa sai người đưa xuống bếp cho ăn uống tử tế xong dẫn lên. Chúa Tiên ôn tồn hỏi sao đến coi lại không cẩn thận để ý làm bể bảo vật của Bà? Ông cụ mếu máo kể từ lúc nối gót người vào coi đến lúc thình lình bị đá vào mụn, đau quá luýnh quýnh cán dù móc phải ang rớt bể rồi bị giữ. Chúa Tiên vặn hỏi đã vậy, sao còn chạy trốn? Lão thưa:
-Không phải vậy. Lão không dám tự ý trốn đi mà…do một chú tử tế thương hại mở cửa nhà cầu dắt lão ra cổng sau, trỏ đường biểu trốn. Chẳng may phố xá không rành loanh quanh hỏi thăm ra tới bến, định đi Hưng Yên thăm con, đến gần Cột Đồng Hồ thì bị thầy quản gia túm đánh, lôi kéo về nhà, cột nhốt trong nhà xí!
Lai lịch ông lão quê
Chúa Tiên nghe sinh lòng bất nhẫn nói:
-Giờ lỡ đánh vỡ đồ quý của tôi thì phải đền!
Nước mắt chạy quanh, ông lão mếu máo chắp tay xá:
-Bẩm Bà Chúa, lão quê mùa nghèo khó, sống trơ trọi, không có tiền đền Bà Chúa
-Thế con cháu đâu mà lại sống trơ trọi?
-Lão có thằng lớn gần 50, mới đây cả vợ chồng đều bị chết bệnh thời khí. Chúng có 2 con: 1 đứa đi lính Đoan 8, 9 năm nay không thấy về; còn 1 đứa 17 ở đợ làng bên. Lão còn 1 gái nữa, lấy chồng hàng Huyện, đăng lính Khố Xanh vừa đổi sang Hưng Yên. Với lương cai Khố xanh, vợ chồng nó nuôi sao nổi 7, 8 đứa con, nói chi giúp đỡ cha già?
-Vậy, lão làm cách nào sống?
-Nhờ biết năm ba chữ thảo được lá đơn, bản văn tự (giao kèo mua bán vay mượn) làm sớ trạng cúng kiếng, ngoài ra hằng ngày và dịp Tết nhất, có người mướn viết châm, liễn đối trướng hiếu hỉ, nên cũng tạm sống qua ngày.
-Ngoài hai trai, gái đó, có còn con nào khác không?
Câu hỏi khiến ông lão bùi ngùi
-Bà Chúa hỏi thêm đau lòng. Lão lận đận vất vả, mới 40 đã gà trống nuôi 3 con
Chúa Tiên bỗng đanh nét mặt
-Ông lão nói có 2 con: 1 trai, 1 gái. Con Trai và dâu mới chết dịch; con gái lấy chồng khố xanh sao lại vừa biểu nuôi 3 con? Đứa thứ ba ở đâu?
-Dạ, đứa thứ 3, chẳng rõ nó ở đâu? Còn sống hay đã chết? Nghĩ đến nó, lão cầm lòng không nổi. Nay thấy mặt nó một lần, lão nhắm mắt cũng thỏa lòng.
Chúa Tiên chớp chớp mắt nén xúc động hỏi:
-Đứa thứ 3 này trai hay gái?
-Bẩm, cháu gái.
Chúa Tiên hơi biến sắc, hỏi:
-Con gái nhỏ ở với ông Cụ, sao lại không biết nó ở đâu? Sống hay đã chết?
Ông lão tần ngần chưa kịp đáp, Chúa Tiên hỏi tiếp:
-Hay là nó bị mẹ mìn, kẻ nào bỏ bùa dỗ mang sang Tàu bán?
Ông lão lắc đầu:
-Không ai dụ dỗ mà tự nó ra đi
-Gì lạ vậy? Tự nó ra đi như người lớn? Quả là chuyện lạ, ít thấy!
Ông lão bèn kể đầu đuôi chuyện sai cái Tí Ba, gái út đem be ra đầu làng mua rượu chẳng may té, be bể, miểng đâm tét đùi rồi sợ đòn cha, không dám về, đi biệt tăm từ đó…nay đã tròn 28 năm.
Nghe đến đây, Chúa Tiên bèn khoác tay ra dấu cho kẻ ăn người làm, gia nhân trong phòng xuống nhà dưới để bà hỏi chuyện riêng ông lão. Khi ai nấy không còn trong phòng, Chúa Tiên mới khẽ hỏi ông lão danh tánh, quê quán nghề nghiệp? Ông nhất nhất trả lời, Bà Chúa không cầm được nước mắt ôm cha nức nở khó. Xiết bao mừng tủi, ông lão nghẹn ngào trách con bấy lâu giàu sang chẳng đoái hoài đến cha già, quê quán. Chúa Tiên nhận tội bất hiếu, trình bày không phải vì quên làng nước gia đình, mà do gặp lắm éo le, nghịch cảnh không cho nàng giữ tròn hiếu đạo: Khi bỏ nhà ra đi, gặp được vợ chồng công sứ dung dưỡng nuông chiều, lắm lúc nhớ cha, anh chị, nhưng đâu dễ mỗi chốc được về thăm. Vả lại hình ảnh cha nghiêm dữ đòn càng khiến nàng thêm e ngại. Đến khi bị bố nuôi khác máu tanh lòng làm điều ô nhục, nàng còn thấy phải xa cha hơn nữa vì lẽ không thể trở lại thôn làng trong cái vỏ nửa tây nửa ta chẳng giống ai trong làng. Nàng đành nhắm mắt đưa chân. Hà Nội như ánh đèn thu hút cánh thiêu thân, nàng bị cuộc sống lôi cuốn lên chốn phồn hoa cố đô. Thân gái bơ vơ giữa cảnh xô bồ đô hội, nàng phải từng phút vận dụng xảo năng để tranh sống, thăng hoa, nên không còn đầu óc nghĩ đến chuyện nào khác ngoài thực tại thử thời.
Chúa Tiên thú thật với cha là từ ngày tới cố đô 36 phố phường nàng không hề được ngủ trước nửa đêm, bận rộn tối ngày suốt 20 năm ròng rã. Lắm lúc muốn sai thuộc hạ hoặc đích thân về làng thăm cha, nhưng ý định chỉ thoáng qua rồi lại bỏ đó vì quá đa đoan công chuyện. Thấm thoát, ngày qua tháng lại đã gần 30 năm, nay cha con trùng phùng xum hợp. Nghe con nói xong ông lão gục gặc, tấm tắc khen với Chúa Tiên:
-Chịu Thầy bói Chợ Đường Cái đoán giỏi! Ông Lợn quyết đoán phải 20 năm xa cách cha con mới đoàn tụ. Tính đến hôm nay vừa tròn 27 năm II tháng. Bữa nào, cha con mình phải đến thưởng ông Thầy!
Liền đó, Chúa Tiên cho gọi toàn thể gia nhân, tôi tớ lên đứng đằng trước mặt, ra lệnh những ai đã có thái độ vô lễ, tàn nhẫn với cha già phải quì xuống tạ tội lễ sống 2 lạy còn người khác thì 2 vái sau khi tuyên bố cho biết đó là cha đẻ xa cách 28 năm mới gặp lại. Bà thuật cho nghe trường hợp Bà nhỏ 12, 13 đã phải lìa xa gia cảnh. Định mệnh đã an bài sự kiện tương phản giữa việc thoát ly và đoàn tụ của Chúa Tiên: Xưa thì con đánh vỡ bỏ cha nay thì “cha làm bể ang cha mới gặp con”

Cuộc đời Chúa Tiên trên báo Pháp
Giữa bầu không khí hoan hỉ bỗng có tiếng chuông reo ngoài cửa. Viên quản gia chạy ra, trở vào cho biết quan tây Chủ báo Phố Hàng Trống đến. Một thoáng do dự Chúa Tiên ra hiệu cho vô…Thấy ông lão quê mùa lạ hoắc ngồi bên Chúa Tiên, Chủ báo Henri de Massias hôn tay nàng vừa ngó ông lão. Hiểu ý, Chúa Tiên giới thiệu cha với người tình lớn rồi vui miệng kể giai thoại vừa xảy ra. MASSIAS, lúc đó đang sưu tập các dữ kiện để viết về cuộc đời li kì CHÚA TIÊN đăng “phơi-tông” trên báo AVENIR DU TONKIN dưới nhan đề :” La vie merveilleuse de Betty la Tonkinoise”. Độc giả HN, cả ta lẫn tây, đều hiểu BETTY là tên ĂNGLÊ đặt cho cô BÉ TÍ HÀNG BẠC. Trên nhật báo “Annam Nouveau” của Nguyễn Văn Vĩnh, nhân sĩ chủ trương thuyết trực tri ngày đó, có bài châm biếm Chủ báo Avenir là mỏ rao hàng (crieur public) cho Chúa Tiên để được Chúa cho tha hồ “ra vào động Chúa”. Cũng trên báo này, binh bút Trần Văn Tùng còn ví De Massias là họ Mã của Tú Bà đang muốn đánh cả cụm “rinh” Aline (tức Cô Liên, con nuôi lai đẹp, tay hòm chìa khóa Chúa Tiên). Trong các nhân tình cô bé Tí, không ai biiết rõ, viết nhiều về cuộc đời cô bằng De Massias. Có lẽ do đó, nàng cưng nhất chàng DON JUAN đĩ điếm này. Massias cũng như hầu hết các nhân tình mết CHÚA TIÊN không phải chỉ vì nàng đa tình, da thịt thơm tho hấp dẫn mà còn vì nàng thông minh và linh mẫn như hồ li, khiến chồng và tình nhân nhiều phen lúng túng, bối rối trước những câu hỏi hóc búa của nàng mặc dù họ học cao, còn nàng gần như thất học. Về điểm thông minh và linh mẫn này, DE MASSSIAS – tức Quan Năm Douguet, nhân tình Betty trong truyện “Đời ly kỳ của Betty – Cô gái Bắc” có kể về nàng như sau:
BETTY là cô gái nhà quê, được ba má nuôi là vợ chồng công sứ HƯNG YÊN cho học tiếng PHÁP truyền khẩu, thực hành ngay trong gia đình nên 5,6 năm sau đã nói thông PHÁP NGỮ. Cái giá trị ăn khách của BETTY ở chổ đó. Các quan thầy coi nàng như con chim lạ miền Bắc vì hồi đó hiếm có gái AN NAM nào thạo tiếng Bắc như nàng. Phải nói là họ bị BETTY chinh phục hơn là họ chinh phục BETTY. Không những này trẻ đẹp, sạch, thơm hơn người nữ Âu, nàng còn khéo o bế, chiều chuộng nên không người tình nào thất vọng vì nàng.
Tuy nhiên, BETTY cũng rất khó tánh, cái khó tánh tạo ra cái oai của nàng như oai của Josephine với Nã Phá Luân khiến đàn ông quý nể. Lắm người có cảm tưởng Betty là mụ phù thủy hay nhà linh thị. Một lần, sau tiệc sinh nhật vợ bạn thân, tôi trở về nhà Betty. Hôn tôi xong, nàng nheo mắt, trỏ vào mặt tôi nói rằng tôi vừa đi ăn tiệc về và ăn hơi nhiều. Tôi ngạc nhiên hỏi sao biết? Nàng đáp tôi ăn đồ nguội và bánh thịt (sand wiches) nhiều hơn bánh ngọt. Tôi sửng sốt tròn mắt trước câu nói trúng phóc của Betty. Hỏi làm cách nào biết rõ vậy? Nàng tủm tỉm trả lời là có mắt thần thấy rõ mọi vật ở xa. Lại một lần đến, chơi nhà d’Apremont – tức de Monpezat – nằm chuyện gẫu, tôi có hút 5 điếu á phiện. Vì là thuốc thượng hảo hạng Besesnares rất thơm, tôi đã cẩn thận xúc miệng rất kỹ, tợp ly nhỏ Cointreau và ngậm điếu xì gà trước khi chia tay, đến nhà Betty. Tới nơi, tôi hôn nàng. Người đẹp bỗng nheo mặt, ngó tôi không chớp. Làm bộ không lưu ý, tôi bồng nàng, đặt xuống divan… Betty đẩy tôi ra: Không! Anh sắp làm tôi mệt. Để mai, bữa nay tôi không khỏe! Tôi chưng hửng trước phản ứng bất ngờ này. Nàng nói tiếp: Đi hút về mà hành xác người ta! Tôi vội chối và giơ tay thề. Betty nhếch cười: Anh quên tôi có mắt thần sao? Tôi đâu tin lời thề anh bằng tin râu tóc anh? Câu trả lời khó hiểu làm tôi thắc mắc, hỏi lại nàng làm thinh. Tôi đến d’Apremont, kể hắn nghe chuyện này. Anh bạn chủ ngựa cười: “Con nhỏ già dặn kinh nghiệm, đánh hơi tài lắm” Rồi hắn giải thích là Betty thính mũi, ngửi thấy khói thơm dặt mùi á phiện còn phảng phất quyến vào râu tóc mà biết, chứ không phải có mắt thần, linh thị gì. Xúc miệng uống rượu hút xì gà chưa đủ, phải rửa mặt gội đầu xà bông mới đánh bay được mùi thuốc. Hồi làm Quân Trấn Trưởng sống độc thân ở Hà Nội, tôi (Lời: Quan Năm Douguet tức Massias) có hẹn Betty mỗi tuần đến Quân Trấn một lần nếu quá 17 giờ thứ bẩy không thấy tôi tới nàng.
Rồi một thứ Bẩy, đang ngủ trưa, có một bạn gái thân, chồng làm Phó Công sứ một tỉnh duyên hải, lần đầu lên thăm tôi tại Quân Trấn. Trong tình cũ nghĩa xưa, nàng vui với tôi suốt buổi trưa đến gần 16 giờ mới chia tay. Hơn giờ sau, Betty đến, vào cổng bên hông lúc tôi vừa xuống văn phòng sau khi đã cẩn thận sai lính làm lại buồn, xóa hết dấu vết cuộc hợp hoan vừa qua. Một mình trong buồng, Betty để mắt quan sát, hít hà các gối đệm rồi bấm chuông… Tôi vừa lên đến cửa, nàng ôm chầm lấy hôn rồi phanh áo tôi, đưa mũi đánh hơi, trên da mặt vai, ngực tôi một lúc, vùng văng xô tôi ra, giật cây dù để trên bàn, bước mau ra cửa. Tôi cản giữ lại, nàng gỡ tay tôi, nói:
-Anh quên là tôi không muốn làm người thứ 2 trong cùng một ngày của anh? Khỏi hỏi ai, tôi cũng thừa biết anh vừa có một đàn bà trong vòng tay.
Dứt lời, nàng dời phòng, hẹn hôm sau tới. Thái độ khó tánh, cửa quyền này (fierté des manieres) tuy không đẹp, nhưng các nhân tình vẫn khoái BETTY, có lẽ vì họ thấy ít có me tây AN NAM nào giống nàng và do đó rất quí nể, không dám coi thường nàng như các me khác. Riêng tôi còn khoái Betty ở chỗ nàng hay nêu lên những vấn nạn từng khiến nhiều người – trong số có tôi – từng bí khó trả lời. Tôi có tật đêm mưa, bằng mọi cách, phải tìm đến với nàng. Vài ba lần như vậy, nàng thấy bị làm phiền nhiễu vì tăm tối mưa gió, đầu ráo áo ướt, cửa mở đóng làm rộn lối xóm nên một đêm, nàng biểu tôi sẽ không tiếp lần sau, nếu không giải thích tại sao lại khoái đến với nàng đêm mưa? Lúng túng, tôi đành trả lời khoái đêm mưa tìm đến, chứ không hiểu tại sao? Betty vặn hỏi sao lại khoái như vậy? Bất cứ hành động nào cũng có lý do như muốn ăn uống là vì đói, khát. Việc mò mẫm đêm mưa sấm chớp ầm ầm không thể không có những lý do sâu sắc ngoài động cơ sinh lý thúc đẩy? Rồi nàng cười nói tiếp không hiểu tại sao đàn ông khoái đến với đàn bà những đêm mưa? Nàng thấy đàn ông Đông hay Tây cùng khoái như vậy, và đã hỏi nhiều người già lẫn trẻ, hầu hết là các quan Tây đều không giải tỏa nổi thắc mắc của nàng. Do đó, Betty đã quyết định từ nay không tiếp ban đêm mưa chừng nào chưa được giải thích rõ về điểm này.
Một người tình cũ của Betty trước tôi là Đại tá M, có thuật lại câu chuyện về bộ tóc dài dậm cảu Betty. M mỗi lần nằm bên nàng đều yêu cầu nàng bọc hay quấn tóc, đừng bỏ xóa vì anh ta có tật ngủ say tay quờ quạng, hễ vướng vít phải tóc dài là thức tỉnh lập tức. Betty không chịu, viện lẽ, nếu quấn lại không ngủ được như bị ai nắm đầu. Vậy chỉ có cách hai người ngủ riêng là tốt. Nhưng M không muốn vậy. Sau nhiều lần yêu cầu nàng chịu nhượng bộ với điều kiện M giải thích cho nàng hiểu công dụng của tóc trên đầu cùng những lông khác như ở nách? Tại sao nách có lông dài? Tại sao nhỏ không có, lớn mới mọc? Để làm gì?
Tất nhiên, cũng như tôi M chịu thua không trả lời được câu nào.
KHHB số 74C2

 

Siêu tài liệu: Hạn địa kiếp của cô Bé Tí Hàng Bạc
Linh Xuyên

Thầy kế Khâm Thiên đoán cô Bé Tí đáo hạn Địa Kiếp (năm Ât mùi 1955) phải khánh tận như Thạch Sùng – Để cứu vãn, thầy bói khuyên cô làm gì? Sao cô không tin? Cô bị hết của, ly kỳ trong nửa ngày như thế nào? Ai tay không đến đoạt hết kho tàng báu vật vô giá của Cô?…

Cô Bé Tí coi quẻ thầy Kế
Sau khi đến chợ đường Cái thưởng tạ thầy bói Lợn, được ông này báo động về hạn năm Mùi rất nặng, cha con cô Bé trở về HN kém vui. 8 năm sau, ông lão qua đời, được con gái ma chay linh đình, đưa linh cửu về quê mai táng. Năm 1942, nhân đi trẩy hội Mẫu PHỦ GIẦY qua Nam Định, CHÚA TIÊN nhớ lời đoán của ông Lợn, có ghé coi thầy Kế , lúc đó ngồi ở phố HÀNG SONG. Không muốn ra mặt, nàng nhờ bà Bóng đi theo cầm quẻ và biên ngày tháng ra mảnh giấy, để khi hỏi bà này nói thay. Thầy bói gieo quẻ xong, hỏi ngày giờ sinh, rồi bấm tay nói ngay: ” Số này giống y cô BÉ TÍ HÀNG BẠC”.
Chúa Tiên cười, lên tiếng chào. Ông Kế dõng dạc nói : “Hơn năm trước, ngày tôi mới từ KHÂM THIÊN về Ngã Sáu ( ỏn rợp), bà có đến coi vụ ông Năm Đồng đăng bị Nhật bắt, tôi đã quyết đoán bà về tới HN thì ông ta cũng được tha, việc đó có đúng không?”
CHÚA TIÊN gật đầu: “Chịu thầy! Tôi về đến nơi buổi trưa thì chiều, ông ta đến.Còn quẻ bói hôm nay ra sao?”
Ông Kế đáp: “Quẻ hôm nay không ứng, chẳng động hào nào, tôi mới hỏi ngày giờ sinh bấm đoán theo tử vi. Như lần trước, tôi đã nói bà từ nay đến năm Ngọ tới (1954) , tức còn tròn 1 giáp, số vẫn hạnh cát, không có chuyện gì nhưng đến năm Mùi (1955) , hạn phùng địa kiếp, phải lo phòng kẻo vong gia như THẠCH SÙNG thuở trước.
Lời thầy Kế làm chúa tiên hơi biến sắc nói: “Thầy bói Lợn cũng đoán vậy, khuyên tôi làm phúc vì đức năng thắng số, kiêng sát sanh và ăn chay niệm Phật thì cũng đỡ hoặc có thể qua khỏi. Như vậy có thể đúng không? Thầy có phép gì giúp tôi qua hạn này không?”
Ông Kế đáp: “Bà nên làm như ông Lợn đã dạy nhưng tôi còn khuyên bà đầu năm Ngọ (1954) nên dọn nhà đi nơi khác ít nhất 1 năm đến đầu năm Thân (1956) hãy quay trở về nhà cũ. Tốt hơn là nên bán ngôi dương cơ đó hoặc cho người ta thuê, nếu không hạn này khó qua”
Chúa tiên hỏi dọn đi đâu, thầy bói khuyên nên dọn xa Hà Nội, càng xa về phương Nam càng tốt, càng kín nhẹm việc chuyển cư không để ai biết tung tích, đia chỉ càng tốt. Nếu ở lại ngôi nhà hiện hữu, chắc chắn không qua khỏi đại hạn xấu này.
Nghe nói tuy lòng lo ngại, nhưng Chúa tiên Hàng Bạc vẫn tin có Mẫu che chở, số mình không đến nỗi. Sau khi nàng đi khỏi, thầy Kế nói ngay với khách xem ở đó là cô BÉ TÍ sẽ không làm theo lời ông dạy vì số cô sẽ tán gia năm Mùi, may lắm còn cái xác nhà và chút ít của chìm.
Ra khỏi chổ coi bói, Chúa tiên có vẻ băn khoăn, hoang mang nhưng về tới nhà nàng lại chủ quan như 10 năm trước cùng cha đi coi thầy bói Lợn về. Tin có vua Mẫu, chư vị Quan Lớn, quan Hoàng hộ trì…nàng càng mê đồng bóng.. Từ Đồng Cuông, Tuần Quán, Hội Lộ, Đền Tranh đến Phủ Giầy, Sòng Sơn, Phố Cát, không đền to phủ lớn, hội hè nào nàng không tới hành hương chiêm bái. Nàng cũng tin người Nhật, người Pháp sẽ không chiếm đoạc tài sản của nàng, do đó nàng chẳng phải thay đổi chổ ở. Việc di chuyển đồ đạc, nhất là hàng ngàn báu vật, cổ khí lớn nhỏ dễ bể là điều khó khăn, nan giải. Hơn nữa, cả 1 điện thờ nguy nga khiêng dọn đi đâu? Nàng vẫn tin là pho tượng Mẫu bằng vàng rất linh thờ trong động sẽ hóa giải các vận hạn đến với nàng. Thế là Chúa tiên coi như “pha”, không quan tâm đến lời khuyến cáo lúc đó của hai thầy bói nổi danh BẮC HÀ. Mãi cho đến 12 năm sau…

Mưu chiếm của quý của cô Bé Tí
Hai cán bộ, nón bọc nylon, đeo sà cột theo viên Trưởng Phố Hàng Bạc, đến bấm chuông nhà cô Bé Tí, người quản gia cháu cô ra mở cửa mời vào, Viên Trưởng Phố giới thiệu 2 gã cũng xuất trình chứng minh thư là Đại diện Tòa Thị Chính đến thăm viếng chào mừng đồng bào sau ngày Chính phủ về tiếp quản thủ đô.Vừa uống trà hút thuốc, 2 cán bộ vừa đưa mắt quan sát kỹ các đồ vật trang hoàng trong phòng khách.Một gã “giáo đầu” hỏi về chủ nhân và tình hình sinh hoạt . Rồi gã thứ hai mở màn tán dương thành tích kháng Pháp và sự nghiệp cứu quốc của Chính phủ .Y kể công 8 năm hy sinh gian khổ đã đưa đến kết quả là nay Chính phủ về suôi tiếp thu nửa phần đất nước điêu tàn vì chiến tranh, trống trơn vì thực dân bóc lột , vơ vét. Chẳng những họ nhặt nhạnh những gì có thể đem được, mà còn hủy diệt những gì họ không thể đem theo như bất động sản, các di tích lịch sử nhằm gây khó khăn cho Chính phủ hao tiền hao của tốn công tái thiết. Gã lớn tuổi phụ họa : cụ thể như Chùa Một Cột , thực dân biết không thể đem theo đã phá hoại ngôi chùa bằng mìn, còn phao tin Chính phủ ta chỉ huy (Thực ra vụ này do VM gây ra để Chính Phủ Quốc Gia hồi đó, không thể tháo gỡ , chuyển vào Nam ngôi chùa độc nhất vô nhị Đông Dương này, rồi lấp liếm tố ngược Quốc Gia và Pháp cấu kết chủ động).Gã cán bộ lại tiếp : Chưa hết , nhiều bảo vật của 2 bảo tàng viện Đấu Xảo (Mussé Maurice Long) và sau nhà hát lớn (Mussé L, Finot) cũng bị họ lấy đến 80-90% đem vào Saigon và Đà Nẵng. Còn bao nhiêu vật liệu máy móc , công cụ cơ xưởng , xí nghiệp cũng bị họ tẩu tán vào Nam hết . Bây giờ Chính phủ ta và nhân dân phải lo hàn gắn và xây dựng lại từ con số không . Mọi công dân phải tích cực tham gia vào công cuộc tái tạo phục hồi chung , không ai được trốn tránh nghĩa vụ trọng đại này.
Viên quản gia hỏi việc đóng góp của người dân như thế nào ?
Gã kia trả lời : Đại khái nông dân có thể đóng góp tiền bạc , thóc lúa, công sức canh tác , khai phá gia tăng diện tích .Thợ thuyền thi đua lao động sản xuất . Các thương gia ủng hộ tiền của , không trốn thuế chính phủ , mở mang doanh thác . Như gia chủ đây nhà giàu có nhiều bất động sản có thể cho nhà nước mượn không để làm cơ xưởng , công sở , kho tàng v.v.hoặc quyên tặng của cải , ủng hộ các đồ quý giá như năm xưa sau Cách mạng tháng 8 /1945 nhân dân đã hưởng ứng “Tuần lễ vàng” .
Viên quản gia lại thắc mắc hỏi : Các cổ vật quyên tặng như vậy Chính phủ sẽ bầy bán tại cửa hàng mậu dịch lấy tiền xung quỷ hay đem trang trí các cơ quan Trung ương hoặc trang hoàng tư dinh, tư thất nhân viên cao cấp nhà nước ?
Gã cán bộ trẻ cho hay : Chính phủ không đem bán cũng không đem bầy biện trần thiết đâu cả , các cổ vật sẽ đem trưng bày trong các bảo tàng viện, điền vào những chỗ đã bị Pháp lấy đi . Chính phủ sẽ biết ơn và ban khen những vị sở hữu chủ hảo tâm này , vì họ đem vinh dự đến cho chính phủ và nhân dân khi các phái đoàn quốc tế tới tham quan .
Kế đó 2 cán bộ yêu cầu được dẫn đi coi các nơi trong động Chúa Tiên .Viên quản gia hướng dẫn 3 người từ tầng trệt lên đến các lầu , xuống cả sân nuôi cầm thú lạ , 2 cán bộ tròn mắt ngắm coi, không ngớt gục gặt đầu khen ngợi khiến cho vị quản gia cảm thấy lo ngại . Sau đó chừng 1 tuần bọn này trở lại động Hàng Bạc . Viên quản gia xuất hiện nhưng không mở cửa như lần trước , mà ở trong nói vọng ra : Bà chủ trẫy hội chưa về . Bộ 3 gật đầu không nói 1 lời rồi chào đi thẳng.
Sau đó 1 tháng chúng lại đến lần thứ 3 .Thấy nét mặt chúng nặng chịch , viên quản gia đon đả mở cửa mời vào nhưng cho biết bà chủ vẫn chưa về . Bọn này tần ngần ngó nhau ra vẻ hoài nghi, quản gia nài nỉ mời họ vào khám xét để kiểm chứng sự thực .Nhưng bộ ba chỉ cười nửa miệng , lắc đầu không nói 1 lời phiền trách .Cuối cùng gã cán bộ già hỏi sao vắng nhà lâu như vậy ? Quản gia cho hay : Bà thường đi hát đền này phủ nọ liên miên có khi cả nửa năm mới về . Ở nhà độ vài tuần 1 tháng lại có bạn đồng quan khác đến rủ đi nữa .Lại hỏi : Bà chủ cứ sống đồng bóng lang bang suốt năm thế sao? Quản gia đáp : Chủ tôi đã già , nhờ ơn Vua Mẫu độ đủ bát ăn , ở nhà có con cháu tin cậy trông nom nên yên tâm đi lễ bái quanh năm . Hai gã cán bộ ngó nhau gục gặt rồi chào cáo lui . Hí hững kế hoãn binh này đắc cách , quản gia sau đó lên lầu Điện thuật lại cuộc tiếp xúc vừa xong cho Chúa Tiên nghe và tin chắc là : tụi chúng đã tới 3 lần không đạt kết quả sẽ chẳng tới nữa. Mà cho dù có tới, lại dỡ mửng cũ cù cưa , nói quanh riết cũng huề.
Nhưng rồi sau 2 tháng , bẵng đi không thấy chúng trở lại , cả nhà cũng quên bẵng không nghĩ đến chuyện này.Bỗng 1 hôm , tụi cán bộ trở lại với 5, 6 bộ đội nai nịt đồ trận , đi chiếc xe 10 bánh bít bùng đỗ xịch trước cửa .Trên xa nhảy xuống 2 gã cán bộ hôm trước , theo sau là 1 cán bộ mới , không phải là viên Trưởng phố như 3 lần trước, tiến đến cỗng bấm chuông .Trong nhà xôn xao , nhốn nháo , viên quản gia lật đật chạy ra mở cửa . Gã cán bộ già chào , yêu cầu muốn gặp mặt bà chủ có việc gấp , và họ nói rằng bà chủ đang có nhà nhà không đi vắng .Viên quản gia hơi thất sắc nhưng kịp trấn tỉnh, trả lời rằng bà chủ thực sự chưa về và cam đoan nếu anh em lục khám thấy xin chịu tội bắn chết ngay .
Gã cán bộ gật đầu cười lạt , trấn an là Bà Chúa chưa về cũng không sao . Rồi trỏ tay vào viên cán bộ mới, vai choàng sà cột lớn, giới thiệu là Phó Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Chủ tịch Phủ , đại diện bộ Nội Vụ muốn được gặp bà Chủ hoặc viên quản gia giây lát .Dứt lời , gã mở sà cột lấy tờ văn thư trao cho quản gia , nói đó là văn thư Bộ Nội Vụ gữi Bà Bé Tí Hàng Bạc.
Nội dung văn thư đại ý Bộ Nội vụ trân trọng yêu cầu bà chủ cho Chính phủ mượn 1 số báu vật gồm các loại đồ sứ cổ , đồ đồng , đồ ngọc v.v.trong thời gian 3 ngày để trưng bày tại Bảo tàng Viện Thành phố , nhân cuộc viếng thăm hữu nghị 2 phái đoàn khảo cổ Liên Xô và Trung quốc tới vào ngày mốt . Các bảo vật vô giá của Bà sẽ đem vinh dự về cho tổ quốc và cho nhân dân Việt nam.Nhân viên Bộ sẽ làm giấy biên nhận những đồ vật do bà vui lòng cho mượn .
Coi xong văn thư quản gia nói là bà chủ không có nhà nên không có quyền quyết định vụ này.

Nhưng VM có cách thật lẹ để chiếm đoạt
Gã cán bộ lớn tuổi lập tức nghiêm mặt nói ngay : đây là lệnh cấp bách của bộ Nội vụ cho chúng tôi phải bằng mọi giá mượn kỳ được các bảo vật vì chiều mai 2 phái bộ bạn đã tới , và sang ngày mốt sẽ chính thức tham quan các bảo tàng viện và di tích lịch sử thủ đô .Như vậy không có vấn đề trì hoãn và ông quản lý phải quyết định thay cho bà chủ .Vả lại Bộ Nội vụ, Chính phủ đứng lên mượn có văn thư giấy tờ làm bằng và cán bộ nhân viên chúng tôi đại diện biên nhận ấn ký bảo đảm thì còn e ngại gì ? Gã cán bộ thứ hai tiếp lời lên án thực dân đã đoạt ngang nhiều cổ vật quý giá , nên Chính phủ không thể để bảo tàng trống trơn , lèo tèo vài ba cái không đáng giá khiến ngoại quốc chê cười , nước ta có trên 4000 năm lịch sử mà nghèo nàn về lĩnh vực khảo cổ .
Trước áp lực của cán bộ , viên quản gia nhất định không nhượng bộ .Thấy tình thế khó giàn xếp êm , 3 cán bộ ra ngoài sân bàn với nhau . Lát sau trở vào gã cán bộ già dõng dạc nói vì tình hình gấp rút , chúng tôi phải giải quyết 1 trong 2 cách để ông quản gia chọn : một là ông phải thay bà chủ cho Chính phủ mượn số cổ vật yêu cầu trong thư Bộ Nội Vụ mà chúng tôi là đại diện nhân danh bộ sẽ làm giấy biên nhận và ghi rõ và đánh số các đồ vật để vi bằng . Hai là theo lời ông vừa thề và cam đoan mới đây là chúng tôi sẽ bắt đầu khám xét nhà , nếu thấy bà chủ trong nhà thì chúng tôi sẽ “xử trí” ông lập tức , và kế đó là chúng tôi cứ tự tiện khêng ra xe những đồ vật đã ghi trong tờ biên bản để lại .
Viên quản gia bấn người không biết tính sao ? Nếu chịu giải pháp 1 thì quản gia làm sao có quyền cho mượn ? Nếu cho mượn ẩu không có lệnh chủ , lỡ mất mát hay gẫy bể thì ai chịu trách nhiệm ? Mà vô trong xin lệnh Chúa thì lòi tẩy chuyện mình đã nói xạo mấy lần qua …Còn giải pháp 2 thì tê bại , nguy hiểm hơn…
Chúa Tiên ở trên lầu điện , chúng khám phá thấy sẽ rất phiền , dám giết quản gia, đồng thời tha hồ sang đoạt các bảo vật . Sau vài phút suy tính, cuối cùng quản gia đành phải cho mượn các bảo vật theo yêu cầu của Bộ Nội Vụ , song đòi có sự chứng kiến , kiểm thị của trưởng khu phố Hàng Bạc ký vào biên bản hợp thức . Bọn cán bộ chịu liền nhưng khi đến kiếm thì ông Trưởng Khu Phố không ở nhà .Người vợ cho hay chồng vừa về quê thăm mẹ già đau nặng chừng vài ngày mới lên .Thấy quản gia có vẻ muốn làm ngặt , gã cán bộ đanh nét mặt lý luận:
-Trưởng Khu phố làm sao bằng đại diện Chính Phủ Trung Ương ? Giữa cán bộ Nội Vụ là chúng tôi với viên Trưởng Phố bên nào quan trọng ? Ông cẩn thận lẩn cẩm quá ! Chúng tôi là cán bộ nhà nước mà không được ông tin cậy bằng 1 viên chức khu phố hay sao?
Gã đeo sà cột xua tay:
-Thôi . Không cần hỏi ông ta . Mấy anh bộ đội và bọn ta vào lục soát kiếm bà chủ thế nào bà cũng sẽ chịu cho Chính phủ mượn .
Dứt lời gã vẫy tay kêu mấy lính VM đứng ngoài cửa , khiến cho quản lý biến sắc xua tay không cho lính vào và trách :
-Các anh bộ đội cướp phá nhà dân hả ? Nhà chật , đồ đạt như rừng mà súng ống nghênh ngang , dù chẳng phá thì cũng như phá .
Gã cán bộ già trách lại :
-Tại ông ngoan cố, bất chấp lệnh của Chính phủ , coi ba cái đồ cổ nát còn hơn danh diện, uy tín Chính phủ trước mắt các phái đoàn ngoại quốc.
Gã thứ hai nói tiếp :
-Ông này phải đưa đi cải tạo, gột rửa đầu óc tư hữu, cá nhân chủ nghĩa mới có thể thành công dân tốt của chế độ ta. Vì tôn trọng quyền dân, chính phủ cử cán bộ đến điều đình mượn đàng hoàng , có giấy tờđảm bảo hẳn hoi. Chẳng bù giặc Pháp trước kia muốn cướp của ai thì cướp, chẳng hỏi han điều đình chi hết , ai mà hó hé chúng bỏ tù rục xương .
Sẵn đang bực tức, quản gia mượn dịp sửa lưng :
-Anh nói sai .Hồi Pháp thuộc anh còn nhỏ biết đâu chuyện đó . Chỉ nghe bọn ghét Tây thổi phồng , xuyên tạc , chứ Pháp nó đàng hoàng , không như các anh nhiễu dân mượn gì , đòi gì là đòi cho kỳ được bất kể dân có ưng hay không ? Cái gì các anh cũng nêu Chính phủ , nhà nước , nhân dân làm bung xung để bịt miệng , đóng hàm dân ..Nhân dân là ai ? Là các anh , là chúng tôi , là đồng bào , là tất cả 35 triệu dân Việt , nhưng nhân dân cũng chẳng là ai hết .Thôi .Nói lắm cũng chẳng ích gì, các anh muốn mượn những gì , hãy làm biên nhận để ký cho xong .
Không đợi quản gia lập lại câu nói , gã cán bộ trẻ thảo tờ biên bản , trong khi gã lớn tuổi và gã thứ 3 (cán bộ Tàu cộng về về Văn hóa Nghệ thuật) đi chọn lựa các đồ muốn mượn “nhè” toàn những thứ quý đẹp đủ cỡ , đánh số thứ tự , ghi biên bản rồi , chuyển ra xe , mãi đến chiều chở 4 xe mới hết . Trong Động Chúa Tiên 10 phần còn lại 2 , đồ đạc chỏng trơ loáng thoáng. Khi chiếc xe chót sắp chuyển bánh, viên quản lý rầu rĩ nói với 3 cán bộ:
-Theo điều ghi trên biên bản , chính phủ có cam đoan chịu trách nhiệm về việc sức mẻ, rạn bể , thất thoát số cổ vật đã trao cho các anh .Và trong 3 ngày sẽ hoàn trả chúng tôi nguyên vẹn , đủ số. Xin lưu ý các anh điểm đó.
Gã cán bộ già gật đầu cười , bắt tay quản gia vỗ về :
-Yên chí lớn đi ông anh .Đại diện Chính phủ chúng tôi đã cam đoan trên giấy mực tôn trọng các điều kết ước với gia chủ và quản gia . Sau 3 ngày các bảo vật này sẽ được hoàn trả đầy đủ và không sức mẻ .
Vụ giựt đồ ly kỳ làm sạt nghiệp Chúa Tiên
Ba hôm sau không thấy tụi cán bộ trở lại …rồi 10, 15 ngày vẫn biệt tăm. Nóng lòng, Bà Chúa hối thúc quản gia tìm đến hỏi Bộ Nội vụ. Tới nơi, đi hết phòng này đến buồng kia xuất trình tờ biên nhận để đòi; nhưng không ai biết xuất xứ ở đâu vì nó không phải do Bộ Nội Vụ làm, ấn dấu và chữ ký, tên tuổi đều giả cả. Quản gia loanh quanh suốt buổi, có ý nhận mặt tìm 3 cán bộ bữa nọ song chẳng thấy. Về tâu với Chúa, Bà tất tưởi đến yết kiến Phó Thị trưởng, bạn đốc tờ già Trần Văn Lai. Viên này đích thân tới Bộ Nội vụ hỏi giùm, cũng không biết hơn. Kế đó, đốc tờ “phá tượng Tây sau ngày Nhật đảo chánh” lại tới Trường Viễn Đông Bác Cổ hỏi vì Bảo tàng viện Finot và Maurice Long thuộc sở quyền trường này, nhưng ở đây cũng chẳng giúp được gì vì không hề cử ai đi mượn đồ của tư nhân Đốc Lai đến tận động Chúa Tiên (bà lúc đó đã 66) cho biết cuộc vận động không đưa đến kết quả tại hai nơi trên và mách nước cho cô bạn già đi cớ Công An Trung Ương và Quận Nhất. Hai hôm sau Phòng Tư Pháp Quận Hàng Trống cho gọi Trưởng Khu Phố Hàng Bạc tới thẩm vấn. Viên này khai 2 tháng trước, một hôm, có 2 cán bộ đến văn phòng xuất trình giấy tờ, chứng minh thư với sự vụ lệnh Bộ Nội Vụ cử họ đến tham quan đến các đồ cổ ngoạn nhà Cô Bé Tí Hàng Bạc. Rồi, cả hai yêu cầu ông dẫn tới giới thiệu gia chủ. Tất cả chỉ có thể và chỉ có 1 lần, sau đó không hề gặp họ lần thứ 2. Công An Quận Nhất cũng đến Trường Bác Cổ yêu cầu cung cấp dữ kiện, nếu có để truy lùng gian phi. Để tỏ thiện chí, Ban Giám đốc xuất trình sổ danh – bộ nhân viên cho Trưởng phòng Tư pháp quận 1 coi. Liền đó Trưởng lại tập hợp nhân viên để viên quản gia điểm mục nhận diện. Nhưng vô ích, quản gian đâu có ở đó mà tìm? Bà Chúa uất hận ra về, bỏ tiền mướn người dò la và kín đáo nhờ các tay hàng sách buôn bán đồ cổ, kể cả em rể Passignat, chủ tiệm La Perle ai phát giác manh mối giúp Bà lấy lại số trên 300 cổ khí bị lừa, sẽ được thưởng 2000đ (bằng nửa số độc đắc nay). Nhưng, bẵng đi 2 năm, trong khi cả nhà Chúa Tiên cơ hồ quên vụ này thì một chủ tiệm đồ cổ, tên Cửu Ninh, em bên ngoại Chúa, đến báo cho biết một số cổ vật hiện được cất dấu dưới hầm Bảo tàng viện Finot, lão chủ tiệm quả quyết là sau khi có bạn đứng đắn cho tin, lão đích thân đã tới điều đình qua sự giới thiệu của người bạn với viên gác đan, biếu 5đ (bằng 10.000đ nay) yêu cầu được đi ngắm coi chốc lát, thỏa tính hiếu kỳ, hiếu cổ, dưới hầm viện, nơi chứa các đồ cổ quí hiếm Đông Phương ít đem trưng bầy công chúng xem, trừ phi có phái đoàn ngoại quốc tới. Viên gác đan thầy tiền tối mắt, nhất là không ngờ có vụ gạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tí, nên hướng dẫn lão xuống coi, thấy rõ ràng rất nhiều đồ cổ Chúa Tiên. Tin này được lập tức báo cho Quận Nhất. Vài hôm sau, được giấy mời đến Quận, quản gia và Bà chúa được Trưởng phòng Tư pháp hỏi qua về vụ phát giác rồi cung hai người đến thẳng Bảo tàng viện sau Nhà hát lớn. Tới nơi, trái với lời khai quả quyết của lão quản gia, chẳng thấy cổ vật nào của Chúa Tiên trong số những đồ bầy thưa thớt trong 4-5 quầy tủ dưới hầm Viện. Vừa tức giận vừa bẽ mặt với Trưởng phòng Tư pháp Quận Nhất, Bà Chúa về tới nhà, cho gọi Cửu Ninh đến xỉ vả mắng nhiếc một hồi làm lão uất ức phát bệnh, vài ngày sau qua đời. Và cũng từ đó, Chúa Tiên không được biết mảy may tin tức, âm hao về số lớn đồ cổ bị cướp trước mặt một cách thật ly kỳ. Bạn đọc hẳn thắc mắc không hiểu những bí ẩn trong vụ này như thế nào? Phải chăng bọn gian phi, lưu manh đã trá hình cán bộ VM lừa gạt kho tàng báu vật Cô Bé Tí hay đó chính là âm mưu quỷ quyệt do chính quyền VM dựng lên vụ này để sang đoạt trắng trợn lô cổ khí của tư nhân?
Nghi vấn này mãi đến 14 năm sau mới được phơi trần trước ánh sáng , sự thật trong trường hợp tình cờ sau đây : Trong vụ Mậu Thân tháng 2/1968 , khi cộng quân ngày 19 bị QLVNCH đánh bật khỏi thành nội Huế tại khu Thương Tứ , có 2 VC từ dưới hầm chui lên đầu hàng 1 đơn vị HK.Trong 2 gã này có 1 nguyên là cán bộ Văn hóa Vụ , trước đã du học tại Bắc kinh về môn khảo cổ nhân văn . Sau y hồi hương hồi Hội Nghị Giơneo và được tuyển vào đoàn 200 cán bộ gữi về HN . Giữa tháng 8/1954 để điều nghiên chuẩn bị tiếp thu thủ phủ miền Bắc . Sau ngày VM tiếp quản HN 9/10/1954 y được cử chức Quản Thủ Bảo Tàng Viện cùng 1 số cố vấn Trung cộng là Khưu Mặc Viên , tức gã cán bộ lạ mặt thứ 3 đã đến động Hàng Bạc lựa chọn các báu vật , sau khi quản gia cực chẳng đã cho mượn.
Đụng trán ly kỳ ở miền Nam tự do với thủ phạm giật đồ
Cuối năm 1965, hồi chánh viên này dời chức Quản thủ, trở lại bộ đội, chờ ngày xâm nhập miền Nam. Sau 5 tháng hành trình gian khổ đơn vị y tới Cao nguyên bổ xung binh đoàn chủ lực Kon tum . Tháng 2/68 , đêm 30 Tết Mậu Thân dự trận tấn công Huế đến 21/2 đơn vị y tan nát bị đánh bật khỏi thành Nội cùng 2 tổ viên kẹt dưới hầm tử thủ , y chờ dịp ra hàng . Sau khi giải về Ty Chiêu hồi Đà Nẵng , y được Phó Trưởng ty nhận ra người cùng tỉnh Hải dương nên đối đãi nhiều thiện cảm . Hôm kết thúc khóa huấn chính cải tạo , hồi chánh viên lấy tình thân , đến nhà riêng Phó Ty, ngỏ ý nhờ bán 1 tượng Phật bằng vàng nặng chừng 30 lượng . Viên Phó Ty cầm coi pho tượng cao chừng 1 tấc với cặp mắt sửng sốt rồi hỏi xuất xứ . Hồi chính viên trả lời lúng túng nói là của gia bảo đem theo làm bùa hộ mạng . Nay vì tứ cố vô thân , dời trung tâm cần tiền sinh sống nên buộc lòng phải bán . Phó Ty cho hay nếu không nói rõ xuất xứ thì không thể bán giúp mà còn làm khó đương sự vì viên này biết đích thực pho tượng không phải của y . Hồi chính viên 1 mực quả quyết là của mình . Phó Ty lật ngược pho tượng , trỏ tay vào 2 chữ B.T. chạm dưới đáy hỏi:
-Anh lấy tượng vàng này của ai? Nếu không nói rõ thì tôi sẽ bắt anh đưa ra nhà chức trách
Tưởng Viên Phó Ty này giở trò tháo cáy sang đoạt , hồi chánh viên khăng khăng bảo là của gia bảo .
Cười lạt , Phó Ty vặn hỏi :
-Trong bản khai lý lịch anh khai thành phần bần cố nông làng Phao sơn , Nam Sách , Kinh Môn . Đã bần cố nông 3 đời như anh nói , làm sao cha ông có tượng vàng để lại cho anh ?
Vẫn cứng cỏi cấp trí, hồi chánh viên đáp :
-Họ tôi tuy 3 đời nghèo nhưng ông cha tôi đời nọ dặn đời kia không được bán vì tượng này rất linh đã phò hộ cho mấy đời nhà tôi thoát tai nạn , bệnh tật . Đến đời tôi không phải là không tin , song về với Chính phủ quốc gia , không họ hàng thân thích tại miền Nam , tôi phải sống tìm việc làm , chẳng lẽ giữ vàng mà phải đi ăn xin , ai cho ?Đó là tất cả sự thật , tôi không cưỡng đoạt của ai hết .
Phó Ty lắc đầu :
-Tôi không tin như vậy nếu anh không giải thích nổi nghĩa của 2 chữ BT dưới đáy tượng . Là gia bào nhà anh thì anh phải biết . Nếu không biết thì anh là quân gian .
Thấy đương sự có vẻ lúng túng . Phó Ty tiếp :
-Nhưng tôi chắc anh không giải thích nổi , vì anh không phải là chủ sở hữu đích thực .Và tôi chắc anh cũng không đủ lanh để phịa ra nghĩa của 2 chữ BT , vì chỉ có tôi hiễu rõ nghĩa của nó .
Câu nói làm đương sự thêm lúng túng nhưng cố trấn tỉnh đáp :
-Thú thật với ông gia bảo này là của lâu đời , đến cha tôi lại quên không giải thích nghĩa 2 chữ , về phần tôi cũng vô tình không hỏi , đến khi để ý đến thì cha tôi đã qua đời , chẳng biết hỏi ai ?
Phó Ty trỏ vào ngực cười :
-Hãy hỏi đây nói cho mà nghe .BT là chữ viết tắt tên của bà cô tôi ….dân Hà Nội ai mà không biết? Bà cô tôi có nhiều đồ quý hiếm đất Bắc Hà , hơn cả nhà Cửu Nghi , Bá Soạn . Các đồ báu vật dù là vàng ngọc , đồ sứ , đồ đồng cổ v.v. đều khắc 2 chữ BT trong 1 khung bát giác dưới tay . Anh còn muốn tôi nói rõ nữa không ? Anh có biết tôi là ai không ? Cha tôi chính là viên quản gia (gọi bà BT là cô ruột) đã bị bộ ba cán bộ VM các anh lường gạt , lấy gần hết cổ vật trong nhà . Lúc đó là đầu 1955 , đơn vị tôi đã dời HN tháng 9 /54 vào Quảng Trị do đó chẳng hay biết gì cả . Mãi đến tháng 4 /55, em trai tôi di cư vào Nam gặp tôi ở Huế mới cho hay đầu đuôi câu chuyện . Thật không ngờ trái đất lại tròn : thiên bất dung gian , cho tôi đụng trán 1 trong 3 thủ phạm giật đồ bà cô tôi .
Hồi chánh viên vẫn đứng im, xa vắng như đang suy tính cách chống chế .
Phó Ty lại tiếp :
-Cho anh hay là tôi ở Phố Hàng Bạc với bà cô và cha tôi từ năm 10 tuổi , đi học. Măm 16 tuổi tôi học trường Chu Văn An , mỗi năm 6 tháng 1 lần, cha con tôi lại phải lau chùi , kiểm soát các báu vật trong nhà nên biết rõ dấu ghi BT này .
Bây giờ anh đã tin tôi chưa? Nếu chưa, tôi sẽ đưa hình cha tôi cho anh nhận diện có phải là viên quản gia đã bị các anh gạt gẫm không ?
Hồi chánh viên vẫn điềm tĩnh đáp :
-Đúng hay sai , tôi gian hay ngay đều chẳng thành vấn đề . Vấn đề là giờ đây tôi đã về quy chánh Chính Phủ Quốc gia chủ trương xóa bỏ hận thù , tội lỗi tôi nếu có trước ngày hồi chánh , dù đã giết hàng ngàn người , cướp lừa bạc triệu , cũng kể như tôi không có tội , như đương nhiên được bạch hóa . Hơn nữa về phía ông , chẳng có gì xác minh tượng vàng là của bà cô . Về phần tôi cũng không có giấy tờ biện minh đó là của gia bảo thì dù đến chỗ phải trái , tôi , 1 tân hồi chánh viên , vẫn thắng lý .Tóm tắt , đối với Chính phủ VNCH , tôi nay được coi như không có tội gì trước ngày quy chánh và chỉ có tội , nếu từ nay về sau tôi làm điều gì phạm pháp .
Trước lập thuận lý của đương sự , Phó Ty nói :
-Tôi không có ý đòi lại tượng vàng của bà cô tôi , mà tôi chỉ muốn anh kể lại sự thật về vụ này , tôi đoan hứa sẽ không làm khó dễ , và sẽ giúp anh bán tượng phật này .
Hồi chánh viên bèn thuật lại mọi việc như đã kể ở trên .Vụ đoạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tí mà chủ xướng chính là đương sự :
Thấy Bảo Tàng viện thành phố mất mát quá nhiều cổ vật , đương sự và viên cố vấn TC bàn cách bù đắp thiếu hụt này . Biết Cô Bé Tí có nhiều cổ vật quý hiếm mà không thể điều đình để mua bằng tiền , cả 2 bèn thảo kế hoạch hành động trình lên Vụ Trưởng Vụ văn hóa . Sau khi thỉnh thị Bộ Giáo Dục Văn hóa Vụ không chính thức cho phép nhưng hứa kín với đương sự giúp phương tiện và nhắm mắt cho họ hành động .Nếu thành công sẽ trọng thưởng , bằng không sẽ gánh lấy hậu quả 1 mình. Sau nửa tháng chuẩn bị chu đáo , đương sự và 1 cán bộ dưới quyền đem tờ văn thư giả Bộ Nội Vụ nhờ Trưởng Khu Phố dẫn đến giới thiệu với Cô Bé Tí cho thêm uy tín . Và kết quả là 4 xe 10 bánh chở đầy cổ vật quý giá được đem cất dấu dưới hầm sâu của Bảo Tàng Viện L Finot. Đến khi có đơn cớ của Chúa Tiên được Nha Công An thông tư. Văn hóa Vụ đến gặp Giám Đốc Công An trình bày sự thực vụ này và yêu cầu bưng bít cho êm. Hai năm sau , Chúa Tiên lại tống đơn tố giác đích xác dưới hầm Bảo Tàng Viện nhà hát Tây có oa trữ các cổ vật. Quận Nhất bèn ngầm báo cho Bảo Tàng viện rõ tự sự . Đương sự lúc đó là Quản thủ viện , biết nguyên đơn sẽ đòi khám xét , lập tức cho di chuyển vào ban đêm các cổ vật lên gữi tạm trong Biệt Điện Chủ tịch Chính Phủ (dinh Toàn Quyền cũ). Hôm sau , quả nhiên Quận Nhất đưa nguyên đơn đến xét hầm nhưng không thấy gì .
Phó Ty hỏi hồi chánh viên làm sao mà đoạt được vàng . Đương sự cho biết y đã lẹ tay nẫng được trong 1 phút sơ ý của quản gia trước lúc ghi vào biên bản nhận các bảo vật cho mượn .
Sau khi nghe trình bày cặn kẻ vụ này , Phó Ty giữ lời , nội chiều hôm đó đã kiếm được người mua tượng vàng cho đương sự .
Hào sảng không kém , hồi chánh viên nói với Phó ty :
-Để tỏ lòng hối hận việc làm của tôi mặc dù cho chính quyền CS Miền Bắc lúc đó , đồng thời , để tạ lòng ưu ái ông đối xử với tôi suốt 4 tháng tại Trung tâm , tôi xin trích lại 1/3 số tiền bán tượng giá 270.000 đồng là 90.000 đồng biếu ông làm duyên cho có đi có lại .
Một cuộc dàn xếp thật đẹp và bất ngờ !!!!!
KHHB số 74D1

 

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

47. Tử vi đẩu số phú giải dưới mắt người vừa biết tử vi (KHHB số 74l2)

0

Đọc sách Tử vi


TỬ VI ĐẨU SỐ PHÚ GIẢI DƯỚI MẮT NGƯỜI VỪA BIẾT TỬ VI

Võ Văn Châu (Bình Dương)

Trong đệ nhất bán niên 1974, người học Tử vi tạm thỏa mãn với ba quyển sách lý số xuất hiện trên giang hồ. Đó là các cuốn:
-Tử vi nghiệm lý của Thiên Lương
-Tử vi đẩu số phú giải của Thái Vân Trình
-Tử vi dưới mắt khoa học của Đắc Lộc

Để thay đổi “món chay trường” Giai phẩm Khoa học huyền bí, phát hành bất thường mỗi tháng đôi ba lần.

Chưa biết Tử vi, người ta “nghiện” được nghe những “tín điều” giảng luận của Thầy lý số; đã quọt quẹt đôi chút Tử vi lại càng “nghiện lậm” được đọc các bí quyết tân kỳ của các bậc tiền bối võ lâm. Tiếc thay thời củi quế gạo châu, các cụ ngại in sách ra bán không chạy nên đành ôm ấp cả ngàn trang bản thảo đợi chờ…? Khốn thay cho những kẻ “võ lâm” vừa ra đời đã phải bơ vơ, lạc lõng, thiếu người dẫn dắt, thiếu người chỉ điểm để phải mò mẫm để phải thất bại đau thương trước thực tế phũ phàng.
Trở lại vấn đề, chúng ta nhìn vào quyển Tử vi Đẩu số phú giải của biên giả Thái Vân Trình bày ở nhà sách với bìa đen trắng thật thanh nhã làm chúng ta liên tưởng biên giả phải là người thông hiểu luật ngữ – hành Kim là màu trắng của nền sách, sinh Thủy là màu đen của tựa – Vấn đề màu sắc thích hợp cho từng bản mệnh” sẽ có dịp đề cập đến sau nầy).

Sự cố gắng của soạn giả để sưu tập một ngàn hai trăm câu phú của các danh phái Tử vi khiến chúng ta ngả nón kính phục vì tại các sách Tử vi khác như Tử vi đẩu số tân biên, Tử vi hàm số, Tử vi áo bí… chúng ta nhìn thấy đôi ba trăm câu là cùng: Quyển TVĐSPG hẳn là kho tài liệu phú giải cho chúng ta áp dụng và nghiệm xét các kinh nghiệm quý báu của người xưa truyền lại cho con cháu sau nầy.

Các câu phú vừa là tinh hoa sau bao nhiêu kinh nghiệm dấn thân mà cũng có thể là cái hố sâu cho chúng ta rơi tòm vào, thân bại, danh liệt. Đúng là con dao hai lưỡi, chúng ta nên cẩn thận khi nghiền ngẫm non ba trăm trang giấy khổ trung.

Biên giả đã khổ công tìm tòi, đúc kết các câu phú thành từng tiểu mục riêng biệt: 14 chính tinh chiếm độ nửa quyển sách, 47 trung tinh, hung tinh từ trang 145 đến trang 263 và thêm phần phụ lục một ít sao khác được 29 câu và phần Tổng luận với 22 câu.

Qua các ưu điểm phân biệt rành rẽ từng sao chính, phụ, các câu phú được in đậm nét cùng với những tinh túy tiềm ẩn trong 1,200 câu, chúng ta không phủ nhận. Nhưng còn một điểm sáng giá nhất giúp cho một số các Tử vi gia thức tỉnh: là sao Kình Dương phải an nghịch đối với tuổi Âm Nam, Dương Nữ (quan niệm của họ vẫn nhất định an Kình Dương trước (thuận) Lộc tồn rồi Đà la sau) qua các câu phú sau:
Xét xem đến chốn Thủy cung
Kị tinh yểm nhật úy đồng Kình dương

(câu 48, trang 130).
Khi đó Kình Dương ở cung Hợi, Lộc tồn (tuổi Nhâm) ở cung Tí (không bao giờ ở cung Tuất được) và Đà La phải tọa thủ Sửu cung. Như thế không an nghịch Kình, Đà là gì?
-Dương, Đà phùng Mã trực xung
Những là đánh Bắc, dẹp Đông chẳng rồi

(câu 14, trang 170).
Mã bao giờ cũng ở tứ sinh (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) xung chiếu Kình Dương đương nhiên ở một trong 4 cung nầy. Một khi Kình Dương tọa thủ tứ sinh thì tất nhiên an Kình Đà theo chiều nghịch của tuổi Âm Nam hay Dương Nữ rồi.

Tuy nhiên, sách vẫn còn nhiều chỗ cần đính chính lại:
-Không mục lục khiến cho việc tìm kiếm khó khăn
-Các câu phú bằng thơ lục bát hoặc song thất không xếp in phân biệt theo thể thơ.
-Dù các câu phú được sưu tầm đầy đủ các hệ phái Tử vi, rất có giá trị cho cách an sao, vị trí lạc hãm, đắc địa tính lý các sao…nhưng tiếc rằng có sự lập đi lập lại, có sự dấu nghề, nên kẻ hậu học cảm thấy còn thiếu sót quá nhiều, không gây được nguồn hứng khởi dùng các câu phú, làm yếu tố căn bản giải đoán lá số. Soạn giả đã lắm công phu sưu tập ngần ấy câu phú, hẳn đừng làm mai một công trình của mình, mà nên dùng kiến thức kinh nghiệm tử vi, nêu ý kiến cá nhân về các câu phú nào đúng, câu nào sai lệch, câu nào đáng nghi ngờ, câu nào cần xét lại.

Chi tiết hóa các điểm trên, chúng tôi đưa ra các dẫn chứng về các điểm thiếu sót đó và rất mong trong các kỳ tái bản, soạn giả sẽ làm vừa lòng những kẻ ham học hỏi một khoa học huyền bí đã từng bị nhiều người lầm hiểu là khoa dị đoan, mê tín.


1.Những từ ngữ cần giải thích:

-Hướng Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là những hướng nào. Hướng đó ảnh hưởng đến mỗi cá nhân như thế nào? Gia tăng hay chước giảm độ số của sao Nam, Bắc đẩu ra sao?
-Hướng Quý là cung Sửu, còn hướng ở cung Thìn, Tuất, Mùi là gì?


2.Những câu khó hiểu, mâu thuẫn

-“Nữ mệnh kị Nguyệt ngộ Đà”: Không giải thích Thái Âm hãm hay đắc. Nếu hãm địa thì chấp nhận, còn đắc, miếu, vượng thì kể như mâu thuẫn với các câu phú khác. Hơn nữa, Nguyệt ngộ Đà không hẳn có nghĩa là loạn dâm (câu 4 trang 137) mà có thể là bộ tiêu hóa lình xình, hoặc con mắt quáng manh,…Soạn giả có dám – khi thấy một lá số có cách trên – khẳng định là “cô hay bà loạn dâm” chăng?
-“Nguyệt diện Thiên lương nữ dâm bần”. Ít ra soạn giả phải giải thích tại sao Mệnh có cách nầy lại dâm đãng nghèo hèn cho đọc giả hứng thú hơn chứ giải nghĩa một chiều có phải đầu độc tinh thần con em không? Rồi không hiểu căn cứ vào đau soạn giả chua thêm: “nếu cung Mệnh an tại Dần Thân lại gặp Sát tinh tất là vợ lẽ, nhưng nếu cung phu gặp Tham Lang hội Xương, Khúc thời lấy được chồng giàu sang và danh giá”.
-“Nhật Nguyệt tối hiềm nghi bối vi thất huy” (câu 14, trang 121) được bàn ra câu “Tật ách cung có Tuần, Triệt mới thành sáng sủa, tốt đẹp như đến câu 69, trang 134, soạn giả đưa ra câu “Tật ách cung có Tuần, Triệt án ngữ nên mắt bị quáng gà hoặc bị đau mắt” thế có cho là trái ngược lắm chăng?
-Câu 7 trang 14 cho rằng Tử vi tại Ngọ hạn gặp Cự, Sát, Đà Linh đành ôm hận mà chết (Chu Du bên Tàu) thì đến câu 16, trang 16 ghi như sau “vận suy, hạn suy, hỷ Tử Vi chi giải hung ác”, nghĩa là Tử vi đáo hạn sẽ giải mọi hung nguy. Phải chăng cái nầy còn tối nghĩa, cần phải rọi thêm vài ngọn đèn cho mọi người được lãnh hội.

3.Những câu cần xét lại

Đào, Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa giắt tay trai vào

(Câu 11, trang 226)
Đọc qua câu trên, kẻ mới học Tử vi hẳn chép vào lòng để được dịp tuôn ra nếu là người trực tính, thấy sao nói vậy, không sợ mích lòng. Ai là người chịu trách nhiệm nếu có kẻ “bung” ngay vào mặt thân chủ câu phú trên? Tại sao biên giả không dự phòng trường hợp đó để lưu ý độc giả các trường hợp hóa giải, miễn trừ?
-Câu 30, trang 94: “Cung Mệnh an tại Thân có Cơ, Nguyệt tọa thủ đồng cung, hạn gặp Liêm, Hổ, Linh, Riêu tất phải sảy thai hoặc sinh con thiếu tháng; nếu gặp Kiếp, Hình thời khó thoát tù tội, nếu được Khoa, Phượng hội hợp thì tai nạn sẽ qua khỏi”.
Qua câu trên chúng ta chưa hiểu nên áp dụng cho nam nhân hay nữ nhân đây? Cho nên người viết mong rằng, soạn giả là người có trách nhiệm hơn ai hết trong việc đừng làm nản chí người xem.
 

4.Câu vô lý:

-Câu 45, trang 129 “Nhật Tỵ Nguyệt Dậu, Sửu cung mệnh bộ thiềm cung” được soạn giả giải thích là Mệnh tại Dần có Thiên Lương tọa thủ. Lỗi tại ăn công thì ít ra cũng nên có một bản đính chánh sau sách, chứ sao đành giấy trắng mực đen như thế?
-Còn biết bao câu nếu áp dụng người nầy thì đúng, chứ còn kẻ nọ thì sai lạc đi. Ví dụ như bản mệnh đồng hành với sao thì cho rằng đúng, chứ sao khắc bản mệnh hoặc bản mệnh khắc sao thì trường hợp có xảy ra 100% như 2 với 2 là 4 không?

 

5.Câu cần thí dụ chứng minh

-Câu 4, trang 13 “Cung Thao Đế Ấn đoạt trưởng tranh quyền” câu “Mấy người bất hiển phân vân bởi vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi” hoặc “Nhật Nguyệt đồng lâm, quan cư hầu bá”…là những câu phú cần có thí dụ chứng minh để cho độc giả thấu triệt nguyên do hơn là giải thích một quan nhiệm xưa một cách gò bó, một chiều.

Tóm lại, quyển Tử vi đẩu số phú giải của Thái Vân Trình có một công trình sưu tập công phu không ai chối bỏ nhưng còn thiếu sót ở phần nội dung về các câu phú vốn dĩ khó hiểu, đa nghĩa. Soạn giả cần soát lại những câu thừa, thiếu, vô nghĩa để mạnh dạn gọt bỏ ra ngoài (có thể ghi vào phần phụ lục với lời dặn dò của soạn giả. Các nhà lão luyện khoa Tử vi đã thấu hiểu rạch ròi vẫn còn phải do dự không ít mỗi khi áp dụng Phú vào lời giải đoán nữa là.
Mong các nhà đã, đang và sẽ viết sách Tử vi nghiên cứu sâu rộng thêm để đừng làm nản lòng bọn em, cháu.
KHHB số 74L2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

46. Lại một lá số nữa của ông Ngô Đình Diệm (KHHB số 74l2)

0

Ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống nhờ cung Nô bộc!

Tôi xin trình bày thêm một lá số của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm với đầy đủ lời giải đoán của một bậc lão thành đã biết trước cái chết của ông Ngô Đình Diệm do chính tôi và một số đông anh em chính trị phạm quốc gia đều nghe biết. Trong đó có cụ Phan Khắc Sửu nguyên Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa và ông Tạ Nguyên Minh hiện nay là bí thư trưởng Đại Việt Quốc xã thay thế nhà cách mạng Nguyễn Xuân Tiếu đã viên tịch
NGUYỄN VĂN DẬT

Để góp thêm tài liệu vào công việc nghiên cứu một lá số có tính cách lịch sử, được chính xác như lời cụ Thiên lương kêu gọi, tôi xin phép được trình bày qua về hoàn cảnh, trường hợp đã khiến chúng tôi được nghe lời tiên đoán về lá số của ông Ngô Đình Diệm.

Ngày 28-01-1063 (mồng bốn Tết năm Quý mão) những anh em Chính trị phạm Quốc gia bị Chính quyền ông Ngô Đình Diệm bắt giữ từ trước về tội chống đối đều được đưa từ các trại giam như P42 trại Võ Tánh Công an… về tập trung tại khám Chí Hòa để đợi ngày ra Tòa án xét xử.

Chúng tôi sống chung với nhau trong một trại giam có khoản trên dưới một trăm người vừa quân sự vừa dân sự, hàng ngày vẫn có thể qua lại trò chuyện với nhau.
Một hôm ông Nguyễn Chữ nguyên Giám đốc Công an Trung Việt (cũng thời ông Diệm sau đó bị bắt) có đưa ra một lá số đã lấy sẵn nói lá số của ông Ngô Đình Diệm sinh giờ Hợi ngày 13 tháng 5 năm Canh Tí.
Trong số anh em chúng tôi, những người am hiểu về Tử vi cũng nhiều như Trung tướng Phan Trọng Chinh (lúc bấy giờ mới là Thiếu tá) các ông Phan Bá Cầm, Nguyễn Chữ, Nguyễn Đức Toản, nhất là ông Nguyễn Đức Tỏa biệt hiệu Hoài Nhân Tử một người uyên tâm về chữ Hán và có rất nhiều năm kinh nghiệm về Tử vi.

Trong những ngày bị giam giữ ông Toản đã giải đoán rất đúng nhiều lá số của các anh em đồng cảnh nên được chúng tôi rất tín nhiệm giao cho lá số ông Ngô Đình Diệm để nhờ ông Toản nghiên cứu.

Sau mấy ngày nghiền ngẫm ông Nguyễn Đức Toản (tức Hoài Nhân Tử) hội chúng tôi lại và cho biết:
-Nếu căn cứ vào lá số của ông Ngô Đình Diệm sinh giờ Hợi ngày 13 tháng 05 năm Canh Tí thì có nhiều điểm nghịch lý làm cho lá số dù có tốt cũng bị chiết giảm như Thổ mệnh mộc cục tức là Cục khắc bản Mệnh.
Tuổi Canh ty Mệnh lập tại Mùi là Dương nhân cư Âm vị, Bắc nhân tọa Nam hướng. Cung mệnh đóng tại Mùi có Thiên Cơ phùng Triệt lộ Đà la hội Thiên Đồng, Thiên Lương, Cự môn, Xương Khúc, Hóa khoa, Tấu Thư nên ông Diệm xuất thân từ một lại nhân công chức là đúng, vì trong sách có câu: “Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân”.
Thiên Cơ cư Mùi không đắc địa lại gặp Triệt lộ, nên thân hình thấp da trắng mặt tròn, kém thông minh, hay có sự nhầm lẫn vì có mộ tinh thủ Mệnh (Mộ tế thông minh).

Vẫn theo sự giải đoán của ông Nguyễn Đức Toản thì số ông Diệm Triệt án Mệnh, Tuần cư Thân nên tuổi trẻ phải long đong lần đận về công danh, gặp nhiều sự bất mãn, và không đủ những yếu tố căn bản để tạo thành một lá số đại phát phú quý.
Xét về cung Thân cư Thê, đóng tại Tỵ có Thái Dương đắc địa, Thái Âm cư Dậu chiếu sang tức là được cách: “Đan trì qué trì tảo toại thanh vân chi chí”. Nhưng ở đây Thái Dương bị Tuần Không, Song hao Kiếp Sát bao vây không thể phát huy được ánh sáng của mặt trời một cách mạnh mẽ.

Nhìn vào cung Phúc đức có Thái Âm cư Dậu nhập miếu, đương số lại sinh ngày 13 giờ Hợi nên rất hợp với Thái Âm, lại thêm Đào hồng hỉ kết thành bộ ba “Tam minh” gia tăng sức sáng cho Thái Âm. Đối cung có Thiếu Âm, Hóa Khoa xung chiếu giúp cho mặt trăng thêm sáng sủa tốt đẹp và cũng nhờ cung Phúc đức đó mà ngày nay anh em ông Diệm mới được thanh danh lừng lẫy, song không được lâu dài và trọn vẹn vì Đào hoa ngộ Kình dương.

Một điều cần lưu ý là nếu căn cứ vào cung Mệnh và cung Thân trong lá số của ông Diệm đã trình bày ở trên, thì không có một dữ kiện nào có thể nói là ông Diệm làm nên Tổng thống. Nhưng nay sở dĩ ông Diệm được ngồi trên ngôi vị Lãnh đạo quốc gia chỉ vì nhờ cung Nô bộc được cách: “xuất Tướng nhập Tướng” cho nên phải chờ đến năm 55 tuổi (1954) khi đại hạn 53-62 bước vào cung Nô bộc có “lưỡng Tướng” hội Quốc Ấn Tả Hữu Thai Tọa vừa giáp cung Mệnh vừa chiếu vào cung Nô bộc hợp thành bộ sao “Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Ân Quý Thai Tọa Quyền Lộc”. Tiểu hạn 55 tuổi (Giáp Ngọ) đóng tại cung Thìn có “Tam hóa liên châu” (Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa) gặp Thái Tuế Long – Phụng, Hổ – Cái, Thanh – Long (lưỡng Long) liên kết thành cái thế tam hợp Thân Tí Thìn mới có cơ hội bộc phát, đưa ông Diệm từ một chính khách lưu vong, lên ngôi vị một Thủ tướng, rồi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, uy quyền hiển hách, thực không khác nào như cá gặp nước, như rồng gặp mây. Trong sách có câu: “Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hỏa bất như Hạn hảo (đem áp dụng vào số ông Ngô Đình Diệm thực đúng không sai).

Đến đây chúng tôi hỏi ông Nguyễn Đức Toản: “ông có thể cho biết về tương lai ông Diệm còn làm Tổng thống đến bao giờ?”. Ông Toản điềm nhiên trả lời: Như trên tôi đã nói số ông Diệm không phải do ảnh hưởng của các tinh tú đóng tại cung Mệnh hay cung Thân, mà chỉ nhờ vào cung Nô bộc cộng với Đại hạn tốt đưa lên danh vị Tổng thống (thời thế tạo anh hùng) thì lẽ dĩ nhiên nó chỉ phát trong Đại hạn ấy mà thôi, khi bước sang Đại hạn khác tất nhiên phải xuống.

Năm Quý mão (1963) ông Diệm 64 tuổi Đại tiểu hạn đều đóng tại cung Thiên Di, có Thiên Lương thuộc Mộc, gặp Hỏa tinh, Thiên hình, tam phương có Tuần không, Triệt lộ, Kình dương, Đà la, Thiên Diêu xung chiếu. Lưu đại hạn tại cung Mệnh Thiên Cơ ngộ Đà la, Triệt lộ, Linh hỏa lưu Kình lưu Đà đều chiếu Mệnh nên đã hết thời không còn lý do gì tồn tại được.
Xin thú thực, lúc bấy giờ chưa có cuộc tranh đấu của Phật giáo chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn dững như bàn thạch, với tâm trạng của những người đang bị mất tự do, chúng tôi chỉ hy vọng lời tiên tri của ông Nguyễn Đức Toản là đúng để chúng tôi sẽ sớm thoát khỏi vòng lao lý chứ thực sự chưa dám tin hẳn.

Thế rồi mấy tháng sau, vào khoảng đầu tháng 05 1963 chúng tôi được tin xẩy ra cuộc chống đối và tự thiêu của các vị Tăng Ni bên Phật giáo đã lôi kéo sự nổi dậy của toàn dân khiến cho chúng tôi thêm tin tưởng lời ông Toản đoán có thể đúng. Nhưng chúng tôi cũng vẫn lý luận rằng: “dù cho cuộc tranh đấu của Phật giáo có thành công thì người Mỹ cũng chỉ muốn bắt ông Diệm từ chức hoặc quá lắm thì đưa ông Diệm ra ngoại quốc là cùng chứ làm gì họ nỡ giết ông Diệm. nên chúng tôi hỏi lại ông Toản:

“Liệu anh em ông Diệm có bị giết không?” Ông Toản giải thích thêm: Cung Phúc đức của ông Diệm tuy được cách “Nhật Nguyệt tịnh minh”. Nhưng trong đó lại có Đào hoa ngộ Kình dương cư Dậu là một điều tối độc, không khác nào một đóa hoa đang rực rỡ mà bị người ta cầm con dao đâm vào giữa làm cho tan tác. Điều này tôi đã kinh nghiệm rất nhiều đều thấy đúng. (lời ông Toản) Thêm vào đấy Thái Âm ngộ Kình Dương, Hóa Kị cũng ví như ánh trăng sáng bị đám mây che phủ, Thái Dương cư Tỵ ngộ Tuần Không, Kiếp sát Song hao, Linh Hỏa, Hình Diêu hợp chiếu nên không thể phát huy được tinh quang để giải cứu. Hơn nữa cung Huynh đệ có Phá quân, Tuế Phá (lưỡng Phá) Thiên Khôi cư Ngọ phùng Triệt lộ (Thiên Khôi tối kị phùng Triệt lộ) hội Khốc Hư, Không Kiếp, Cô quả, Tang môn, Điều khách, Thiên mã là những triệu chứng đã báo trước khi anh em ông Ngô Đình Diệm hết thời không thể nào tránh khỏi nguy hiểm đến tính mệnh.
Đầu tháng 07-1963 khi cuộc tranh đấu của Phật giáo với chính quyền Ngô Đình Diệm
(bị mất trang chỉ gõ được đến đây)
KHHB 74L2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

- Advertisement -