- B)Sát Phá Tham biến chất
III) Hình Ảnh của THAM LANG
Giống như 2 Sao Thất Sát và Phá Quân ; Tham Lang khi không độc thủ tại 6 cung ( Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tí, Thìn ) thường đi cặp với 1 trong 3 sao của bộ Tử Vũ Liêm.
Đồng cung với Tử Vi tại Mão Dậu gọi tắt là Tử Tham ; với Vũ Khúc tại Sửu Mùi – gọi tắt là Vũ Tham ( nằm trong Mẫu Tử Sát ) ; với Liêm Trinh tại Tỵ, Hợi gọi tắt là Liêm Tham ( nằm trong Mẫu Tử Phá ) ảnh hưởng của Tham Lang phụ thuộc nhiều với các Sao đồng cung hay Tam Hợp chiếu – kể cả chính chiếu.
1) Tử Tham ( xem lại phần Tử Tham trong bài Tử Vi thủ Mệnh ).
Giống như cặp Tử Phá, cặp Tử Tham không những đối chọi nhau về Hành ( Tử Vi thuộc Thổ khắc nhập Thủy của Tham Lang – trường hợp Thổ vượng ; trường hợp Thủy nhiều hơn Thổ vai trò Tham Lang át chế Tử Vi khi Thủy vượng ) còn đối chọi nhau về Bản Chất. Nếu Mệnh có Tử Tham tại Mão, Dậu thì Quan Lộc với Liêm Sát tại Mùi, Sửu ( tuy đắc địa nhưng Công Danh thăng trầm không bền ); Tài Bạch với Vũ Phá tại Hợi, Tỵ ( tiền vào tay mặt ra tay trái ) ; Cung Phúc Đức với Thiên Tướng độc thủ tại Tỵ, Hợi ; Cung Phối ( Phu hay Thê ) với Thiên Phủ độc thủ tại Sửu, Mùi ; Cung Thiên Di vô chính diệu nhưng được hỗ trợ bởi Phủ Tướng triều viên. Nhị hợp tại Tật Ách có Thiên Đồng ( bản chất Phật tính, nhân hậu, hiền hòa làm dịu bớt tính hung hăng, nhiều dục vọng cùng dục tính của Tham Lang ).
Sinh giờ ( Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất ) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá Tham lên Bản Chất và Hành Động trong cuộc Đời rất rõ nét – tuy không mạnh như Trường Hợp bộ ( Sát Phá Tham ) khi độc thủ – vì đôi khi được kiềm chế bởi bộ ( Tử Vũ Liêm). Sinh các giờ còn lại ( Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi ) thì ảnh hưởng của Bộ Phủ Tướng Triều Viên trong Tam Giác ( Phúc, Di, Phối) có ảnh hưởng – phần lớn tốt – trong Hành Động kể từ Trung Vận.
Như đã nói kỹ về Bản Chất của Mệnh Tử Tham (trong bài Tử Vi thủ Mệnh ) phần lớn người có cách này Tâm Trạng yiếm thế như Phú đã có Câu :
– Tử Vi cư Mão Dậu, Kiếp Không đa vi thóat tục chi Tăng ( Cung Mệnh đóng tại Mão, Dậu có Tử Tham gặp Kiếp Không hội hợp là người Tu Hành. Những người có cách này phần nhiều muốn xuất thế ).
– Tham cư Đòai Chấn, thóat tục vi Tăng, Kị, Kiếp lai xâm, trần hòan đa trái ( Cung Mệnh an tại Dậu « Đòai », Mão « Chấn » có Tham tọa thủ là người thoát tục, tu hành. Nhưng trong trường hợp này nếu Tham gặp Kị, Kiếp hội hợp, chắc chắn sẽ phá giới, trở lại làm người thường, vì còn nặng nợ trần – hoàn ).
Lấy Hình Ảnh 2 Lá Số Mẫu cách Tử Tham sau đây để chứng minh « cách Thóat Tục vi Tăng » :
- a)Thiền Sư đắc đạo Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần – sư phụ của Vua Trần Nhân Tôn – là Hưng Ninh Vương Trần Quốc TUNG anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ( sinh năm Mậu Tí 1228 giờ Ngọ ngày 30 tháng Chạp).
Lá Số của Thiền Sư được Huệ Túc Phu Nhân, người sống cùng thời với Hưng Ninh Vương – không những là Thím của Ngài , lại còn là Sư Phụ của Ngài về Khoa Tử Vi phê trong Lá Số như sau : Kinh Vân Tử Tham Mão Dậu đa vi thóat tục chi Tăng. Ngô Kim Nhật kiến Tuệ Trung chi Số : Tử Tham ư Dậu ngộ Quyền Đào, tuấn nhã chi Lang. Tả Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử Tham cư Dậu ngộ Thiên Không, Hóa Kị tất thóat tục chi Tăng.
Huệ Túc Phu Nhân là con gái út của Hòang Bính đậu Tiến Sĩ làm Thị Độc Học Sĩ ( chức Quan đọc Sách và giảng Sách cho Vua nghe ) thời Tống. Khi bị quân Nguyên chiếm – đem Đại Gia Đình hơn 3000 người xin vào Đại Việt làm cư dân được Vua Trần Thái Tông cho Lập Nghiệp vùng Yên Bang. Hòang Bính là người đem Môn Tử Vi của Hi Di Trần Đòan truyền vào Việt Nam.
- b)Hòa Thượng Thích Trí Quang là 1 Hòa Thượng Phật Giáo, ông đóng 1 vai trò khá quan trọng trong Chế Độ Cộng Hòa Miền Nam từ 1963- 1967
Theo Cụ Thiên Lương, tác giả Cuốn Tử Vi Nghiệm Lý thì HT Thích Trí Quang sinh giờ Mão ngày 24 tháng 11 năm Qúy Hợi ( Dl : 31/12/1923)
Mệnh Tử Tham ở Dậu có Hóa Kị với Quan Lộc Liêm Sát, Kình, Linh, Tang ngộ Tuần+Triệt, Tài Bạch với Vũ Phá+Phá Hư ; THÂN cư Thiên Di được Phủ Tướng Triều Viên cách hội Tứ Linh ( Long Phượng Hổ Cái ).
Sau đây là Lời Bàn của Cụ Thiên Lương :
Mệnh Qúy Hợi đóng ở Dậu có Tử -Tham là số của người yếm thế kể cả hình thức Sao đến Vị Trí của Mệnh đóng. Nhưng chính bộ Tử – Tham không phải là nòng cốt của người Mệnh này ! phải tính tới bộ Vũ – Phá ở Tỵ. Tử Vi ở đây chính ra là vì Sao chỉ huy Mệnh nhưng bị Tham Lang làm lung lạc, mà chính Tham Lang này cũng không đủ sức để phá cách Tử Vi nên tuổi Qúy Hợi phải mệt mỏi vì Tham Lang, bộ Sao này vì thế thành ra nửa trắng nửa đen khiến bộ Vũ – Phá đủ tư thế cướp quyền chỉ huy mạng này. Phải nói hành động của người này chính là Vũ – Phá.
Người này tu chỉ là hình thức khóac áo Tử Tham để mà tranh đấu riêng tư cho mình, cho bè phái mình, cho tư tưởng tham vọng mình rất quyết liệt. Tam Hóa Liên Châu ở Mệnh( Hóa Kị giáp Khoa Quyền ở Dậu)có nghĩa là người này đã ôm một mối hận oán hờn chứa chấp một mưu cơ thâm trầm thầm kín, quấy phá bằng hành động có khi cũng không được đẹp đẽ, được nổi danh ( Tóai Quân lưỡng Phá )bằng lối kích thích người ta ( Điếu Khách ), THÂN vô chính Diệu ở Mão đắc Tràng Sinh ( Thủy) hành động ở trên cương vị Từ Thiện, nhân hậu có tính cách Chính Nghĩa, nhưng suy tư tính toán ghê gớm là cái vị trí đó của tuổi Qúy Hợi. Trong Tam Hợp cục của THÂN ( hành động ) Thiên Tướng, Kình – Lực, Thái Tuế, Hình, Riêu càng hành động bao nhiêu – càng nghiệp qủa bấy nhiêu, mặc dầu lấy cái Thế Chính Nghĩa mà dựa.
Khách quan mà nói, ông là người có nghị lực, nghị lực vào hạng khá dễ thành công ( Quang Qúy) phải dựa vào thế ngòai phụ giúp, chứ ông không tài tổ chức ( Mã thiếu Tả Hữu ). Nếu ông được đà thắng nước thì lại hay ẩu, đó là tính cách của Vũ Phá. Vì thiếu bộ Âm Dương nên ông kém sáng suốt.
Được liệt vào hàng Giáo Phẩm cao cấp như ai ( Thiên Phúc, Quí Nhân, Phong –Cáo, Đường Phù ) đối với ông chỉ là hư danh cho đến Tử Tham ông coi chỉ là chiếc áo khóac bề ngòai. Thâm tâm Vũ Phá, Hóa Kị một uẩn khúc khó ai biết nổi người bí mật này. Có thế mới chọi lại được người trong bóng tối của Đệ Nhất Cộng Hòa Ngô Đình Nhu.
Năm 1963 đương số tranh đấu được thành công, tiếng tăm lừng lẫy là năm 40 tuổi ở trong Đại Vận 33-42 ở Ngọ gặp Thái Dương đắc Hỏa Tinh. Tuy vậy có biết đâu chỉ là quân bài bị lợi dụng trong cái thế sinh xuất tính theo thời gian của tuổi Qúy Hợi đáo Ngọ Cung, ở trong còn nhiều Qủy Kế ( Cô Qủa, Phục Binh, Không Kiếp ). Lúc này đang ở trong Đại Vận 43-52 ở Thế khắc nhập thân bại danh liệt, nhất là từ năm 1966 đương số bước qua Đại Vận mới này 43t, họat động ráo riết, tưởng sự thành công cũng dễ dàng như mấy năm trước, nhưng có lẽ gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại là lúc hưng thời. Ông đành xẹp luôn cho đến nay, một đôi lúc cũng cố phát pháo mở cờ ra quân bởi không thời thôi cũng đành nằm co êm hơi lặng tiếng.
Bài này Cụ Thiên Lương viết trong cuốn Tử Vi Nghiệm Lý xuất bản tại Saigon năm 1974.
Lời Bàn thêm : Mệnh Tử Tham đóng tại Dậu ( Kim) với tuổi Qúy Hợi mạng Thủy với cả 3 yếu tố Can Chi và Nạp Âm đều là hành Thủy nên Yếu Tố Địa Lợi được Kim sinh Thủy. Với Thế Mộc của Tuổi ( Hợi Mão Mùi ) hành Mộc chỉ hợp với THÂN +Cung Phúc Đức đẹp – mà không hợp với Yếu Tố Thiên Thời khi Mệnh đóng ở Thế Kim( +Phá Hư : bất mãn, yếm thế, ưa làm cách mạng ). Yếu Tố Nhân Hòa (ảnh hưởng của Bộ Sao ) thì Tử Vi thuộc Thổ khắc Bản Mệnh ( +Mộc Cục ) nên bộ Sát Phá Tham hãm được hỗ trợ thêm của Vũ Khúc ( Kim) tung hòanh cùng với Hung Sát Tinh. Với Quan Lộc Liêm Sát ngộ cả Tuần lẫn Triệt – dù có thành công – nhưng không bền ( 2, 3 năm là cùng – kể cả các lá số khi cung Mệnh+ Tuần Triệt ). Khi đi vào Đại Vận 33-42 tại Tử Tức ( vì đi Tu nên ảnh hưởng của Đại Vận tác động nhiều ở cung Nô Bộc với Cự Nhật +Thanh Long Lưu Hà, Quyền, Địa Kiếp ) : ảnh hưởng của Phật Tử+Cố Vấn tác động vào đương số – lại gặp Tiểu Vận Qúy Mão 1963 vào Mệnh ( Tử Vũ Liêm Sát Phá Tham+Mã Khốc Khách )+lưu Thái Tuế tại THÂN cư Thiên Di ở Mão ( Phủ Tướng Triều Viên + Long Phượng Hổ Cái + Trung Tinh đắc cách ) được thành công chớp nhoáng « hung tinh Địa Kiếp » dù Mệnh có Hóa Kị+Đại Vận ngộ Địa Kiếp : vẫn thóat được hiểm nguy nhờ Ngọai Cuộc trợ giúp. Trong lời bàn của Cụ Thiên Lương : Lúc này đang ở Đại Vận 43 -52 ở cái thế khắc nhập …gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại lúc hưng thời : ý của Cụ nói đến Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng Phụ Tá là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan cả 2 đều Tuổi Canh Ngọ 1930 mạng Thổ khắc nhập Thủy : Lá Số của Tướng Kỳ Mệnh Thái Dương cư Ngọ + Triệt, với Quan Lộc Cự Môn + Tuần : nên phất lên năm Ngọ nhưng không bền vì Mệnh ngộ Triệt. Chết năm Tân Mão 2011 khi Tiểu Vận gặp Hạn La Hầu 82t+Kình Đà.
2) Vũ Tham ( xem lại phần Vũ Tham trong bài Bản Chất của Vũ Khúc ).
Khi đóng ở Sửu Mùi thì Tham Lang đồng cung với Vũ Khúc – gọi tắt là Vũ Tham ( cách phối trí của 14 Sao chính nằm trong Mẫu Tử Sát ) nghĩa là nếu cung Mệnh Vũ Tham tại Sửu, Mùi thì cung Quan Lộc với Tử Sát tại Tỵ, Hợi ; cung Tài Bạch có Liêm Phá. Tam Giác ( Phúc Di Phối ) được hỗ trợ bởi cách Phủ Tướng triều viên nên khi THÂN cư Di ( sinh giờ Mão Dậu ), THÂN cư Phu hay Thê ( sinh giờ Tỵ Hợi), THÂN cư Phúc ( sinh giờ Sửu Mùi) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá Tham giảm nhẹ trong cách Hành Xử từ Trung Vận. Sau đây là các câu Phú của Tiền nhân nói về cách này :
– Tham Vũ tiền bần nhi hậu phú ( Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung, nên lúc thiếu thời vất vả, nghèo túng, phải từ ngòai 30 tuổi trở đi mới khá giả và càng về già lại càng giàu có ). Câu Phú này có lẽ chỉ đúng khi Mệnh có Hung Sát Tinh và sinh giờ ( Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi ) khá lên nhờ cung THÂN đẹp.
– Tham Vũ đồng hành , vãn cảnh biên di thần phục ( Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung , về già có uy quyền , được nhiều người lui tới thần phục ).
– Tham Vũ Mộ trung cư Tam Thập tổng phát phúc ( giống như câu đầu).
– Tham, Vũ Thân cung vi hạ cách ( Cung THÂN an tại Tứ Mộ có Tham tọa thủ, có Vũ tọa thủ hay có Tham Vũ tọa thủ đồng cung là hạ cách, nên suốt đời vất vả và không thể quý hiển ) Câu Phú này phải xét lại khi Vũ Tham đồng cung và cần nhiều tố khác (hành của Mệnh và giờ sinh ) cũng như Câu Phú sau :
– Tham Lang , Vũ Khúc đồng thủ THÂN ; vô Cát Mệnh , phản bất tường ( Cung Mệnh an tại Sửu Mùi, có Tham Vũ tọa thủ đồng cung mà cung Mệnh lại không sáng sủa tốt đẹp , nên rất mờ ám xấu xa. Có cách này , thật là lao khổ trọn đời.
3) Liêm Tham
Khi Tham Lang đóng tại Mệnh ở Cung Tỵ hay Hợi thì đồng cung với Liêm Trinh nên gọi tắt là Liêm Tham ( cách phối trí 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Phá ). Nếu Mệnh có Liêm Tham thì cung Quan Lộc với Vũ Sát tại Dậu hay Mão ; cung Tài Bạch với Tử Phá tại Sửu hay Mùi ; cung Thiên Di vô chính diệu giáp Nhật hay Nguyệt ; Cung Phối « Phu Thê » được Thiên Phủ độc thủ + Thiên Tướng chiếu « Phủ Tướng triều viên cách » ; cung Phúc Đức với Thiên Tướng độc thủ + Thiên Phủ chiếu « Phủ Tướng triều viên cách ». Liêm Trinh thuộc Hỏa tính liêm khiết, nóng nảy chủ về Quan Lộc và Hình Ngục – Tham Lang thuộc Thủy đới Mộc tính le phè, ưa sắc dục « dâm tinh » vừa Phúc Tinh vừa Hung Tinh – cả 2 đều hãm địa tại Tỵ, Hợi. Hành và Bản chất đều khác nhau nên tùy thuộc vào Hành của Mệnh và Giờ Sinh : Nếu sinh giờ ( Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất ) không có Hung Sát Tinh với tuổi Tân ( Tỵ Dậu Sửu )+Cục Kim khi Mệnh đóng tại Tỵ hay Tuổi Ất ( Hợi Mão Mùi )+ Cục Mộc với Mệnh đóng tại Hợi được hưởng cả 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh với Hình Tướng + Chỉ Tay đẹp đẽ : không Phú cũng Qúy. Trường hợp các tuổi khác với hành khắc Mệnh + nhiều Hung Sát Tinh – cuộc đời tuy no đủ nhưng dễ rủi ro về tật bệnh, hình ngục khi vận số đi vào Năm xung Tháng Hạn « trường hợp Mệnh có Tuần hay Triệt thì độ số rủi ro có thể giảm bớt ». Nếu sinh các giờ ( Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ , Hợi ) cuộc đời thủa thiếu thời tuy vất vả , nhưng về Trung Vận và Hậu Vận nhờ Phúc Ấm Tổ Tiên dòng Họ ( THÂN cư Phúc) ; được giúp đỡ của Qúy Nhân khi thay đổi Môi Sinh ( THÂN cư Di ) ; được hỗ trợ hay cộng nghiệp với Người Bạn Đời Số Tốt ( THÂN cư Phối ) cuộc Đời trở nên giàu có và no ấm – đôi khi cũng nổi danh trong Môi Sinh. Liêm Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi gặp nhiều sao mờ ám đồng cung cuộc đời lao khổ, tình cảm khó thuận hòa ( khắc Phu Thê ), hay mắc tai nạn hay bị bắt bớ giam cầm hoặc hay bị bệnh tật ( tiêu hóa, sinh dục) – nếu được Hóa Kị hay Tuần Triệt thì độ số cũng giảm bớt về rủi ro cũng như tật bệnh ‼ Sau đây là các câu Phú của Cổ Nhân nói về Liêm Tham :
– Liêm Trinh, Sát Tinh cư Tỵ Hợi, lưu –đãng thiên – nhai ( Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Liêm tọa thủ, gặp nhiều Sát Tinh hội hợp , nên suốt đời phải lang thang phiêu bạt ).
– Liêm Trinh, Tứ Sát , tao hình ngục ( Cung Mệnh có Liêm tọa thủ, gặp Kình Đà Hỏa Linh hội hợp nên hay bị bắt bớ giam cầm, và cũng có thể bị ám sát).
– Tù ngộ Kình Đà Hỏa Linh hữu già – tỏa, thất cốc chi ưu ( Cung Mệnh có Liêm tọa thủ gặp Kình Đà Hỏa Linh hội hợp nên hay mắc tù tội và thường bị đói khát khổ sở ).
– Liêm Trinh, Bạch Hổ đồng cung, hình ngục nan đào ( Cung Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ gặp Hổ đồng cung hay xung chiếu , thật khó tránh được gông cùm xiềng xích.
– Tham Lang hãm địa tác trứ nhân ( Cung Mệnh có Tham Lang hãm địa là người vô dụng bỏ đi).
– Tham Lang Tỵ Hợi , bất vi đồ – thị, diệc tao hình (Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Tham tọa thủ , nếu không làm đồ tể, hàng thịt, tất hay bị bắt bớ giam cầm, rất khổ sở ).
– Tham Lang, Liêm Trinh đồng độ, Nam đa đãng, Nữ đa dâm ( Cung Mệnh có Liêm Tham tọa thủ đồng cung , rất mờ ám xấu xa. Đàn Ông có cách này hay chơi bời lang thang nay đây mai đó. Đàn Bà có cách này rất dâm dật.
– Tham, Liêm Càn thượng vân vô phong, Tuyệt, Linh ưu nhập , vi nhân bần khổ, nãi phùng Dương -Nhận, Kiếp, Không, Hư, Mã chung thân phi yểu tắc cô bần ( Cung Mệnh an tại Hợi « Càn » có Tham tọa thủ đồng cung với Sát Tinh rất mờ ám xấu xa ; vì Liêm Tham ở đây bị khắc hãm giống như Mây đứng không gặp Gió. Trong trường hợp nếu Liêm Tham gặp Tuyệt, Linh : là người nghèo khổ ; trường hợp Liêm Tham gặp Kình, Kiếp, Không, Hư, Mã hội hợp thật là suốt đời cùng khốn ; không yểu tử cũng cô đơn, bần hàn ).
– Tham ngộ Dương, Đà cư Hợi, Tí, danh vi phiếm – thủy đào hoa ( Mệnh có Tham Lang đóng tại Hợi hay Tí gặp Kình hay Đà đồng cung , nên rất mờ ám xấu xa. Tham ở đây ví như hoa đào nổi trôi trên dòng nước. Có cách này là người chơi bời, hoang đàng, thường lang thang nay đây mai đó ).
– Tham Lang tại Thủy Cung, giáp biên Tứ Sát, bần khổ chung thân ( Cung Mệnh an tại Hợi, Tí « đó là 2 cung Thủy » có Tham tọa thủ giáp Tứ Sát, thật suốt đời nghèo khổ ).
– Tham Lang Hợi, Tí, hạnh phùng Quyền, Vượng, biến hư thành thực, ư Giáp, Kỷ tuế, phú danh viên mãn ( Cung Mệnh có Tham toạ thủ tại Hợi, Tí gặp Quyền, Vượng hội hợp, biến hư thành thực, chuyển xấu thành tốt. Tuổi Giáp Kỷ có cách này được hưởng giàu sang trọn vẹn ).
GS PHẠM KẾ VIÊM