15 C
Hanoi
Chủ Nhật, 23 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 49

THIÊN ĐỒNG LUẬN (PHẦN 2)

0

Thiên đồng luận (Phần 2)

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

PHẦN 2 : Thiên Đồng Phụ Luận


Như trên đã nói về các điều khái quát của Thiên Đồng. Cổ nhân cho rằng, Thiên Đồng là một Phúc Tinh, không sợ Hung Tinh Thất Sát, chẳng sợ các hung tinh khác vây bọc. Lại cho rằng trên cả 12 cung, cung nào cũng ban phúc.
Xin Phụ luận về mấy luận điểm trên đây:Thứ nhất : Số Mệnh người Thiên Đồng như thế nào?
Thiên Đồng nhập mệnh, vốn dĩ là Phúc Thiện Tinh, hợp với nhóm văn tinh, quý tinh, cho nên nếu đắc cách hội được Tả Hữu, Xương Khúc thì văn mặc tinh thông, kiến văn quảng bác, cổ nhân nói rằng “Thiên Đồng dữ Xương Khúc tụ củng – Chủ hoa vinh” – Một đời quý hiển nhàn nhã. Nếu hội được thêm Khoa Quyền Lộc Quý, thì Phú Quý toàn vẹn ít ai bằng. Phú viết rằng “Thiên Đồng hội cát thọ nguyên thời”, nếu Thiên Đồng tránh xa được sát tinh, dâm tinh. Hội cát tinh thì tuổi thọ, phúc ấm cao dày.
Nhược bằng hãm địa, thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông, Nếu hãm mà gặp sát tinh, ắt tàn tật, cô khắc hoặc mang bệnh nan y trong người. Nếu hãm mà gặp Dâm tinh thì hoang dâm vô độ, tuổi thọ chiết giảm. Phúc ấm suy đồi.

Thiên Đồng, với cổ nhân có 2 tính xấu :

+ Thứ nhất là cái sự hay thay đổi, không ổn định. Luận về Thiên Đồng, cổ nhân phê rằng :” Thiên Đồng nhập mệnh, hoán cải vô thường”. Tức là thay đổi không ổn định, không biết đâu mà lần.
+ Thứ hai là công danh, tài lộc thường chậm muộn. Cổ nhân phê rằng “Thiên Đồng bạch thủ thành gia” (Thiên đồng – tay trắng làm nên cơ nghiệp). hay cụ thể hơn “Thiên đồng bạch thủ sinh tài vãn phát”. (thiên đồng tay trắng làm ra tiền bạc, nhưng cuối đời mới phát).
Về đặc tính thứ nhất, cổ thư đều nói rằng “thiên đồng canh cải thất thường”, cái sự biến đổi của Thiên Đồng không thể lường trước được. Nhưng không nên hiểu theo nghĩa hẹp là TÍNH NGƯỜI. Đúng là về TÍNH thì người Thiên Đồng cũng rất hay thay đổi, mục tiêu, chí hướng thường không rõ ràng. Dễ quên, dễ tha thứ, dễ bị người khác làm cho lung lạc. Còn trên phương diện tổng quát, cái sự “hoán cải vô thường” nó thể hiện cả trên số mệnh. Người Thiên Đồng thì công danh, việc làm, gia đình, chỗ ở đều có xu hướng không ổn định. Trong các thế đứng của Thiên Đồng, thì tại Tỵ Hợi, Thiên Đồng đối cung với Thiên Lương, tạo ra cách “Đồng Lương Tỵ Hợi”, theo cách này thì “Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm”, Nam thì phiêu dạt giang hồ nơi chân trời góc bể, nữ thì dâm bôn. Cái câu “nam đa lãng đãng” chỉ rằng con người phiêu du, phiêu lãng không có gì ổn định. Đây cũng là một đặc tính xấu của Thiên đồng.

THIÊN ĐỒNG LUẬN (PHẦN 1)

0

Thiên đồng luận (Phần 1)

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

Tác giả: Nguyễn Trọng Tuệ – Chủ tịch CLB phong thủy Thăng Long
PHẦN 1: Thiên Đồng thuyết.
Thiên Đồng, ngôi sao trong Tử vi hệ đóng ở vị trí thứ 4 sau sao Tử vi, thuộc về Nam Đẩu tinh. Trong Tử vi, Thiên Đồng được coi là Phúc tinh. Trên trời là thần cai quản cung Phúc Đức, chủ về việc tế tự. Nhập mệnh Hóa khí là Phúc tinh.Thiên Đồng thuộc Thủy, Miếu địa tại Dần – Thân, vượng địa tại Tí, đắc địa tại Mão-Tỵ-Hợi, hãm địa tại Ngọ-Dậu-Thìn-Tuất-Sửu-Mùi. Tại Dần–Thân thì đồng cung với Thiên Lương, Tại Tí-Ngọ thì đồng cung với Thái Âm, Tại Sửu–Mùi thì đồng cung với Cự Môn.

Đối với Cổ nhân nhìn nhận về sao Thiên Đồng cho rằng : Thiên Đồng – Thập nhị cung trung giai viết phúc. Tức là trong cả 12 cung, Thiên Đồng cư cung nào cũng giáng Phúc cho cung đó. Thiên Đồng nhập mệnh là người Thông minh, có tính thiện, bẩm tính ôn lương khoan hòa nhân hậu. Nếu nhập miếu thì Phú Quý Phúc Thọ toàn vẹn, nhược bằng hãm địa thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông.
Vì Thiên Đồng là Phúc Thần, chủ quản việc tế tự, nên người Thiên Đồng thường ưa các việc tâm linh, chùa chiền lễ bái. Vì là Phúc Thần nên Thiên Đồng rất có lợi trong việc sinh sản, hôn nhân. Hạn đến Thiên Đồng khả dĩ có thể thêm nhân khẩu trong nhà. 

Về hình dáng :

Người Thiên Đồng thường đầy đặn, nét mặt sáng sủa, da trắng. Hình tính phú viết về Thiên Đồng : “Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì”. (Người thiên đồng thì béo đầy, vẻ mặt thanh kỳ, mắt đẹp). Nhưng đấy là Thiên Đồng nhập Miếu. Còn nếu Hãm, hoặc gia ngộ Sát tinh Hình Kị thì thường có vết trên cơ thể, tuy da trắng nhưng không phì mãn, đặc biệt, mắt thường có điểm dị biệt. Phú nói “Thiên Đồng như Đà Kị phì mãn nhi mục miểu” (Thiên đồng giống như Đà Kị, béo đầy nhưng mắt thường có vẻ man mác buồn, hoặc có điểm khác lạ).
Trong Đẩu Số Tân Biên, Thái Thứ Lang viết “thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn đầy đặn”.
Với Nữ nhân, Thiên Đồng đắc địa nếu được hội cũng Quý Tinh, Xương Khúc, Khôi Việt thì Dung nhan mỹ ái. Phú nói “Phúc diệu phùng Việt Diệu, định thị hải hà dục tú” (Thiên Đồng mà gặp Thiên Việt, hẳn là người đẹp đẽ khoáng đạt như sống dài biển rộng)

Về tính tình :
Người Thiên Đồng thì Nhân hậu, từ thiện, thích làm việc thiện, ưa điều thiện. Thích các việc tâm linh, chùa chiền, lễ bái. Câu phú nối tiếng nói về tính tình của Thiên Đồng là “Thiên Đồng hoán cải vô thường” (thiên đồng nhập mệnh, là người thay đổi không ổn định). Do vậy mà Thái Thứ Lang mới viết “Canh cải thất thường” “không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc”.
Thiên Đồng là Phúc tinh, đương nhiên là mang tính thiện. Người Thiên Đồng sống hòa đồng, có phần dễ dãi, không ưa tranh đấu cừu thù. Ghét thị phi miệng tiếng (trừ một vài trường hợp đặc biệt). Nếu Đồng miếu nhập mệnh thì bẩm tính ôn hòa lương thiện, đẹp lòng mọi người. Nếu hội được Văn Tinh, Quý tinh thì Văn mặc tinh thông, hiền lành mà ngay thẳng. Nếu hãm địa mà lại ngộ sát tinh hội hợp thì là người ba phải, không có chính kiến. Thích phiêu lưu thay đổi. Điểm đặc tính chung của Thiên Đồng là khả năng dục tính mạnh, cả Nam lẫn nữ. Nếu hãm địa, gia sát, Nam Nữ thường dâm bôn.

Cổ nhân luận về sao Thiên Đồng
La Hồng Tiên tiến sĩ viết:

“Thiên đồng tinh chúc thủy, nãi nam phương đệ tứ tinh dã, vi phúc đức cung chi chủ tể. Phục vân: hóa phúc tối hỉ ngộ cát diệu, trợ phúc thiêm tường, vi nhân liêm khiết, mạo bẩm thanh kì. Hữu ki xu vô kháng kích, bất phạ thất sát tương xâm, bất phạ chư sát đồng triền. Hạn nhược phùng chi, nhất sanh đắc địa, thập nhị cung trung giai viết phúc, vô phá định vi tường”
Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc thủy, là ngôi thứ 4 trong chòm Nam Đẩu, là chủ tể cung Phúc Đức. Lại nói rằng: Hóa Phúc (Thiên Đồng) tối hỉ nếu gặp được cát diệu, trợ phúc thêm điều lành. Là người liêm khiết, dung mạo vốn dĩ đẹp đẽ. Gặp cơ hội cũng không tranh giành vội vã. Chẳng sợ Thất Sát xâm hại, chẳng sợ các sát tinh khác vây bọc. Hạn nếu gặp được (thiên đồng), là được đắc địa, mười hai cung đều nói rằng được ban phúc. Nếu không bị phá, nhất định là điềm tốt.

Hi Di tổ sư viết:
“Thiên đồng nam đấu ích toán bảo sanh chi tinh, hóa lộc vi thiện, phùng cát vi tường, thân mệnh trị chi, chủ vi nhân khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tất từ ngạnh trực, văn mặc tinh thông, hữu kì chí vô hung kích. Bất kị thất sát tương xâm, bất úy chư hung đồng độ, thập nhị cung trung giai vi phúc luận. Ngộ tả hữu xương lương quý hiển, hỉ nhâm ất bính sanh nhân, Tỵ hợi hãm địa. Bất nghi lục canh sanh nhân cư dậu địa, chung thân bất thủ. Hội tứ sát cư Tỵ hợi vi hãm, tàn tật cô khắc. Nữ nhân phùng sát trùng phá, hình phu khắc tử. Lương Nguyệt trùng phá, hợp tác thiên phòng, tăng đạo nghi chi, chủ hưởng phúc”
Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu tinh, lợi ích cho việc sinh lời, bảo trợ cho sinh sản. Hóa khí là Thiện Tinh, gặp được cát tinh thì tốt, nếu nhập vào Thân Mệnh, chủ về người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa, hiền mà ngay thẳng, văn mặc (học vấn, văn chương) tinh thông, gặp cơ hội cũng không vội vã. Không sợ Thất sát xâm hại, chẳng sợ hung tinh vây khốn. Mười hai cung đều luận là tốt. Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, rất tốt đối với người tuổi Nhâm, tuổi Bính. Đắc địa tại Tỵ Hợi, không nên gặp ở người tuổi Canh mà lại cư Dậu, nếu gặp như thế thì Chung thân bất thủ (không giữ được tiết nghĩa). Nếu hội cung Tứ Sát mà đóng ở Tỵ Hợi là xấu, ắt tàn tật cô khắc. Nếu Nữ nhân có Thiên Đồng mà gặp Sát tinh, trùng phùng với Phá, ắt hình phu khắc tử. Nếu Lương Nguyệt trùng Phá, dễ làm lẽ mọn, nên làm tăng đạo, thì được hưởng phúc.
 
Vân Đằng Thái Thứ Lang viết:
“……
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa là người thông minh, có tính khoan hòa, nhân hậu, từ thiện, nhưng không quả quyết, không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc. Tuy vậy, vẫn được hưởng giàu sang và phúc thọ song toàn.
− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, lại là người thích phiêu lưu, nay đây mai đó, và hay thay đổi chỗ ở.
− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, khắc tuổi Đinh, Canh, vậy cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi, có Đồng tọa thủ, tất suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực và có uy danh lừng lẫy.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Hình tuy suốt đời vẫn được no cơm ấm áo, nhưng lao tâm khổ tứ, sức khỏe lại suy kém, thường có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa.
− Đồng Hãm địa là người kém thông minh và nông nổi, cũng có tính nhân hậu, nhưng thay đổi thất thường, không quả quyết, không có định kiến, làm việc gì rồi cũng chóng chán, lại thích chơi bời ăn uống, tuy sống lâu nhưng rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, luôn luôn lo lắng vì sinh kế, lại hay mắc tiếng thị phi. Cung Mệnh có Đồng Hãm địa tọa thủ, nên đi buôn.
− Đồng Hãm địa, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lại là người hay nói khoác lác và không cẩn ngôn.
− Đồng Hãm địa Ngọ, là người có óc kinh doanh.
− Đồng Hãm địa Tuất, Ngọ ứng hợp với tuổi Đinh. Vậy cho nên tuổi Đinh mà cung Mệnh an tại Tuất, Ngọ có Đồng tọa thủ, tất nhiên là khá giả.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Xương Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc phải đoán là cũng có công danh và tiền tài.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kị, Hình. Thật là suốt đời lao khổ phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.
NAM MỆNH:
Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, có uy danh lừng lẫy. Phúc thọ song toàn.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời lao khổ, phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.
NỮ MỆNH:
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, Mão thủ Mệnh, là người đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử.
− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, là người đảm đang, nhưng đa dâm, thường phải sớm ly tổ.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, tất được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực, và phúc thọ song toàn.
− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, hay Hãm địa, phải muộn lập gia đình hay lấy kế lấy lẽ, mới tránh buồn thương.
− Đồng Hãm địa là người hoang đãng dâm dật, tuy được no cơm ấm áo và sống lâu, nhưng suốt đời vất vả, thường phải sớm ly tổ, bôn ba, nay đây mai đó. Đây, nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, lại có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung và hay mắc tai nạn: tuổi thọ cũng bị chiết giảm. …………”

LUẬN VỀ CUNG QUAN LỘC

0

Luận về cung Quan Lộc

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

Cung quan lộc là tên gọi có từ xưa, hiện nay người ta thường gọi là cung Sự Nghiệp vì lý do đơn giản là trong chế độ dân chủ không có quan như thời phong kiến, tuy nhiên, sách này vẫn gọi là cung quan lộc để các nhà nghiên cứu Tử Vi không cảm thấy xa lạ.
Cung quan lộc là để biết thành tựu, phú quý, nghề nghiệp thích hợp của một người. Đại hạn là chủ về cát hung trong mười năm, nếu trong mười năm này, sao trong cung quan lộc tốt thì con đường sự nghiệp trong mười năm ấy thuận buồm xuôi gió. Nếu sao không tốt hoặc bị hãm thì chủ về mười năm này gặp toàn trắc trở.
Cung quan lộc có Thiên Cơ tọa thủ, thêm Dương Đà, trường hợp này là có duyên với tôn giáo, nên làm sư tăng, ni cô, linh mục, nữ tu.
Thái Dương vượng địa hội họp Văn Xương ở cung quan lộc, có thể làm Tổng Thống hoặc Thủ Tướng.
Cung quan lộc kị nhất là có Liêm Trinh tọa thủ lại có thêm Hình Sát, vì ắt gặp tai họa tù ngục.
Cung quan lộc cũng kị Phá Quân tọa thủ lại thêm Dương Đà, nếu đại hạn, tiểu hạn gặp phải ắt phải vay mượn hoặc án xin để sống.

Nghề nghiệp thích hợp và các bộ sao:
Viện trưởng hành chính:      
Thái Dương tọa thủ cung quan lộc miếu vuợng thêm Văn xương.
Tử Vi thêm Lục Cát tọa thủ cung quan lộc.
Đại thương gia   

Vũ Khúc tọa cung thiên di, hoặc Thiên Lương tọa cung thiên di.
Liêm Trinh Thiên Tướng tọa cung tài bạch.
Hòa thượng, đạo sĩ, lình mục, ẩn sĩ         
★Thiên Cơ, Thiên Lương gặp Không Kiếp.
Đại phú ông       
★Cung Thân hoặc cung mệnh có Tử Vỉ.
★Thiên Phủ, Thái Âm tọa cung điền trạch đóng ở Tỵ.
★Thái Âm miếu vượng thêm Lộc Tổn xương Khúc tại cung quan lộc.
★Thái Dương, Thiên Lương tại cung tài bạch.
Chính trị gia. Công nghệ gia
★Tử Vi tọa thủ cung mệnh.
★Thái Dương tọa cung mệnh vượng địa.
★Thái Dương tọa thủ cung quan lộc.
Nhà văn, họa sĩ, thiết kế thời trang, biên tập báo chí, nghiên cứu học thuật
★Thiên Cơ tọa cung mệnh.
Nhà nghệ thuật, họa sĩ.
★Thiên Cơ Cự Môn tọa cung mệnh.
★Thiên Tướng thêm sát tinh tọa cung mệnh.
Nghề chính trị, nghề buôn đểu thích hợp         
★Vũ Khúc Thiên Phủ tọa cung mệnh
Sĩ quan cảnh sát, sĩ quan quân đội, xây dựng, mua bán bất động sản, nhà hàng.
★Vũ Khúc tọa thù cung mệnh.
Sĩ quan cảnh sát, quân cảnh, đặc vụ, điều tra viên, trinh sát, thám tử.
★Thái Dương thêm Thiên Hình tại vượng địa.
Nhà thiết kế, nhà văn, nhà ngân hàng, giáo sư, kỹ thuật công nghiệp nặng, gốm sứ, mỹ viện, y tá, dược sĩ, buôn bán
★ Liêm Trinh tọa cung mệnh.
Nhân viên công vụ      
★ Liêm Trinh và Văn xương hoặc Văn Khúc đồng tọa cung quan lộc.
Viên chức ngân hàng, thư ký. kình doanh công xưởng nhò, kiến trúc, trang trí
★Thiên Phủ tọa cung mệnh.
Nhà thơ, nhà văn, diễn viên, nhà nghệ thuật, viên chức công ty, bác sĩ, ca sĩ, buồn bán bách hóa, hãng du lịch
★Thái Dương tọa cung mệnh
Bán hàng lưu động, thợ lưu động, bán dạo, chào hàng, đại lý bảo hiểm, bán hàng chợ trời
★Thái Âm tọa cung thiên di.
Đoán mệnh, coi tướng, siêu tâm lý học, thôi miên, ma thuật, thông linh, nghề tự do, chiềm tinh
★Thái Âm Văn Khúc đồng tọa cung quan lộc.
★Cự Môn tại cung tài bạch
Nghiên cứu học thuật, nghỉẽn cửu nghệ thuật, nghiên cứu y học
★Thái Âm thêm cát tinh tọa cung mệnh.
★Thiên Hình Thiên Lương đồng tọa cung mệnh.
★Thiên Đồng Thái Âm đổng tọa cung mệnh.
Bác sĩ khoa ngoại, đồ tể, gia công thịt     
★Tham Lang thêm Dương Đà đồng cung.
Luật sư, chính trị gia, nhà diễn thuyết, nhà biện luận, nhà bình luận, công ty quảng cáo, thiết kế, kỹ sư cơ giới
★Cự Môn tọa cung mệnh
Chính trị gia, doanh nhân, tham mưu, thư ký
★Thiên Tướng tọa cung mệnh.
Họa sĩ, bác sĩ, nhà nghệ thuật        
★Thiên Tướng thêm sát tinh tọa cung mệnh.
Thầy giáo 
★Thiên Lương tại cung Thân hay cung mệnh.
★Cự Môn tại cung tài bạch.
Quân cảnh, cầu thủ bóng chày, kỹ sư xây dựng, nhà thám hiểm.
★Thất Sát tọa cung mệnh.
Quân cảnh, công nghiệp nặng, xây dựng, phế liệu, bác sĩ khoa ngoại, nha sĩ, nhà tôn giáo         
★Phá Quân tọa cung mệnh.
Nghệ thuật, thiết kế, nghiên cứu, phát minh    
★Văn Khúc tọa cung mệnh
Thiết kế, kiến trúc, nhạc công, nhạc sĩ, nhạc sĩ sáng tác     
★Tả Phụ hoặc Hữu Bật tọa cung mệnh
Luật sư, thầy thuốc đông y, chuyên gia châm cứu, nhân viên trị liệu
★Thiên Đồng, Thái Âm tạỉ cung Tí.
Đo đạc, tốc ký    
★Hỏa Tinh, Linh Tinh tọa cung mệnh.
Chủ tiệm buôn, kinh doanh khu giải trí, văn học, diễn viên, kiến trúc, doanh nhân       
★Hóa Lộc tại cung mệnh.
Đại biểu quốc hội, nghị sĩ, chính trị gia, thư ký, đại thương gia, lãnh đạo
★ Hóa Quyền tại cung mệnh.
Quan chức ngoại giao, quan chức thông tin liên lạc, quan chức khảo thí
★ Hóa Khoa tại cung mệnh.
Học giả trứ danh
★Hóa Khoa và Văn Xương Văn Khúc tọa cung mệnh
Nghiên cứu học thuật, luật sư, thẩm phán, chuyên gia kỹ thuật đặc biệt, sáng tác 
★ Hóa Kị tại cung mệnh.
Nhà thơ, văn sĩ, nhà viết kịch        
★Thiên Không, Địa Kiếp tọa cung mệnh.
Nhà du lịch, tài xế đường dài, tài xế tàu lửa    
★Thiên Mã tọa cung mệnh
Diễn viên, thủ công nghệ      
★Thiên Diêu tọa cung mệnh.
Bác sĩ, thẩm phán, sĩ quan cảnh sát.
★Thiên Hình tọa cung mệnh.
Chuyên gia kinh tế học         
★Vũ Khúc tọa cung mệnh.
Doanh nhân       
★Cung Thân ở cung tài bạch.
Nhân viên kỹ thuật     
★Cung tài bạch có Vũ Khúc, Thiên Tướng thêm sát tinh.
Viên chức ngân hàng, nhân viên thuế vụ, nhân viên tài chính    
★Cung tài bạch có Tử Vi thêm Tả Hữu.
★Vũ Khúc thêm Thiên Khôi hoặc Thiên Việt.
Bác sĩ, luật sư     
★Lập mệnh ở cung vị Thân ở Dần có Thái Dương, Cự Môn chiếu, tài bạch gặp Thiên Khôi, quan lộc có Thiên Đồng, Thái Âm

Nghề tự do
★ Lập mệnh ở Dần, Thân có Thái Dương, Cự Môn tại nhược địa xung chiếu, cung quan lộc gặp Thiên Đồng, Thái Âm hãm địa.
Diễn viện điện ảnh, nghệ nhân, diễn viên         
★Cung thiên di có Phá Quân nhập miếu, thêm Xương Khúc.
Chính trị gia       
★Thái Dương tại cung phúc đức (Vượng thì có tương lai, hãm thì không tốt)
Quan văn, thị trưởng, nghị sĩ, đại biểu   
★Tử Vi cư Tí Ngọ có Văn Xương, Văn Khúc củng chiếu.
Quan chức kinh tế tài chính, đại phú ông.
★Tử Vi tại cung tài bạch hoặc cung điền trạch thêm Tả Hữu, không gặp Tứ Sát.
Hòa thượng, ni cô, linh mục, nữ tu
★Thiên Cơ. Thiên Lương thêm sát tinh hoặc thêm Khống Kiếp tọa cung mệnh.
★Tử Vi gặp sát tinh hoặc Không Kiếp tọa cung mệnh.
Ủy viên giám sát, ủy viên lập pháp
★Thiên Đồng, Thái Âm tọa mệnh tại cung Tí.
Nhân viên ngành giáo dục công lập, quản lý trại giam, cảnh sát
★ Liêm Trinh, Phá Quân thêm sát tinh tọa cung mệnh.
Trộm cắp, cướp giật    
★Thiên Cơ gặp sát tinh, hoặc Cự Môn hãm địa gặp Dương Đà.
★Tham Lang tại Tí, Ngọ, Mão, Dậu không có cát tinh.
★Liêm Trinh, Tả Hữu, Dương Nhẫn đồng cung.
Nhân viên tình báo, đặc vụ, điệp viên     
★Thiên Cơ, Thiên Quan thêm sát tinh
Văn võ toàn tài, làm chức tổng trưởng   
★Thiên Hình, Văn Khúc tọa cung mệnh
Danh nhân trong ngành tư pháp, ngành nghệ thuật
★Thiên Lương hoặc Cự Môn cùng Thiên Tướng Thiên Hình thủ mệnh.
Thư ký, công tác văn hóa, chính trị, nhà tồn giáo, xuất bản, truyền thông báo chí         
★Thiên Cơ tọa cung quan lộc.
Tướng quân, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc
★Thái Dương tọa cung quan lộc miếu vượng.
Công tác văn nghệ, văn hóa 
★Văn Xương, Văn Khúc tại cung quan lộc.
Nhân viễn quân chính 
★Cự Môn tại cung quan lộc. Vũ Khúc, Phá Quân hoặc Liêm Trinh, Thất Sát tại cung quan lộc.
Kinh doanh khu giải trí, vui chơi, khu ăn chơi trụy lạc     
★Tham Lang tại cung quan lộc.
★Tham Lang, Liêm Trinh tại cung quan lộc, thiên di, tài bạch, phúc đức.
Quan chức ngành tài vụ       
★Thiên Tướng tại cung quan lộc.
Nhà hàng, quán ăn, giải khát, thủ công nghệ, khu giải trí
★Thiên Đồng tại cung tài bạch.
Công thương, điện khí
★Liêm Trinh tại cung tài bạch.
Tiệm vàng bạc, đá quý, kim cương
★Tử Vi tạl cung tài bạch.
Bác sĩ, nhà nghiên cứu văn học     
★Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung.
Nhân viên ngành kỹ thuật đặc biệt, nhân vỉên thiết kế
★Thiên Cơ tại cung tài bạch.
Tiệm cẩm đồ, tín dụng đen, mua bán chi phiếu        
★Thiên Tướng tại cung tài bạch.
Nông, lâm, thủy sản    
★ Dương Đà tại cung tài bạch.
★Thất Sát tại cung quan lộc.
Cổ phiếu, nghề đầu cơ
★Tham Lang hoặc Thất Sát tại cung tài bạch miếu vượng.
★Tử Vi, Thất Sát tại cung tài bạch.
Kỹ sư, học giả, thầy giáo      
★Tử Vi tại cung quan lộc.
Nhà thiết kế, thuế vụ, hải quan, kinh tài, vận chuyển
★Vũ Khúc tọa cung quan lộc.
Điện khí, cống nghiệp, cảnh sát, nhân viên bảo vệ, đội tự vệ
★Liêm Trinh tọa cung quan lộc.
Thời trang phụ nữ, nội y, mỹ phẩm, dụng cụ làm bếp
★Thái Âm tọa cung quan lộc.
Thương nghiệp, vận chuyển, khu giải trí, quảng cáo, thống tin, tiệm ăn, đẩu bếp, diễn viên         
★Tham Lang tọa cung quan lộc.
Xuất bản, in ấn, ngành pháp luật 
★Cự Môn tọa cung quan lộc.
Biên tập, thư ký, nhiếp ảnh, nhạc sư, chuyên viên trang điểm, đồ dùng phụ nữ
★Văn Xương, Văn Khúc tọa cung quan lộc.

Chăn nuôi 
★Cự Môn tại cung điền trạch.
Tiểu công nghệ, nhân viên kỹ thuật, nghề tự do
★Vũ Khúc, Thiên Tướng thêm sát tinh tại cung tài bạch.
Thư ký, đội trưởng đội vệ sĩ 
★Văn Khúc tại cung quan lộc.
Nghệ thuật, tôn giáo    
★Tham Lang, Văn Khúc đồng cung.
Nhà đất     
★Thái Âm tọa cung Điên Trạch tại Tuất, Hợi, Tí.
Nghệ thuật, y học, chính trị  
★Thiên Tướng thêm xương Khúc tọa cung tài bạch.
Nhân viên kỹ thuật, chuyên gia kỹ thuật
★Vũ Khúc, Tham Lang tọa cung mệnh
Vận động viên, võ sĩ, bảo vệ 
★ Phá Quân tọa cung mệnh.
Xây dựng  
★Thất Sát thêm sát tinh tại cung quan lộc.
Buôn sỉ, chào hàng, nhân viên đối ngoại
★ Phá Quân tại cung quan lộc.
Quan chức tài vụ
★Thiên Đổng tọa cung quan lộc miếu vượng.
Công vụ viên trung cấp        
★Thiên Cơ tọa cung quan lộc tại hãm địa, Liêm Trinh Phá Quân tại cung quan lộc.
Chủ tịch tỉnh trở lên    
★Thái Dương, Thái Âm thêm Xương Khúc, Tả Hữu tọa cung quan lộc.
Quan chức phủ tổng thống hoặc thủ trưởng đơn vị trực thuộc phủ tổng thông
★Tử Vi, Thái Âm thêm xương Khúc, Tả Hữu tọa cung quan lộc.
Học giả có danh vọng nhưng thanh bần, giáo viên   
★Văn Xương thêm Tứ Sát tại cung tài bạch
(Trích Tử vi kinh điển của Phan Tử Ngư)

SAO HỎA TINH – LINH TINH- PHẦN 2

0

Sao Hỏa Tinh – Linhtinh

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

HỎA LINH khi tốt và khi xấu

HOẢ LINH khi tốt:

HOẢ LINH là ngọn lửa, ngọn đuốc hồng rực rỡ báo tin chiến thắng, lửa hồng hoan ca. Thắng lợi nhờ nhanh mau khẩn cấp. Nghề nghiệp có tính chuyên môn, tinh vi, đầu óc lanh lợi, cử chỉ nhanh nhẹn. Là lịnh lạc sai khiến khẩn cấp kịp thời đối phó với tình hình. Là vì sao sáng. Được phê:

“HOẢ LINH tương ngộ danh trấn chư bang.”Phất lên rất nhanh.

Khi tốt là ngọn lửa trong lò luôn luôn cháy có sẳn thức ăn, hoặc trong các lò luyện kim, lò bánh…để tạo ra công ăn việc làm.


Là ngọn lửa trại đốt sáng lên để nối vòng tay lớn. Là tình cảm nhiệt tình của những người có chí khí nhất là kẻ đại chí. Ngọn lửa yêu thương sưởi ấm những tâm hồn lạnh lẽo. Ngọn lửa reo vui bên bếp lửa hồng, cả nhà quây quần ăn uống sau một ngày vất vả mưu sinh.

Đối với Kẻ Sỹ HỎA LINH là đốt đèn xem sách. Đối với Ngốc Tử là đốt sách tắt đèn.

HOẢ LINH khi xấu:

Ta có nhiều dạng, tạm kể: Dạng thiệt thòi, dạng theo ác

Kẻ lẻ loi, kẻ linh đinh, kẻ cô thân không được người thân sưởi ấm. Tự giận hờn vu vơ, trách người mà sao lại không trách mình.

Chết vì nóng, vì cháy hay vì nổi giận, uất hận mà chết…

Chết vì lạnh, chết vì lẻ loi, cô độc…Chết vì nghe, nghe theo, làm theo… lời xúi giục của kẻ khác.

Tự giết mình bằng giấc mơ điên á phiện. Tự đốt cháy mình mà không biết.

Kẻ liều mạng, liều mình, kẻ cuồng điên hung dữ hoặc kẻ điên buồn phiền

Khi xấu là ngọn lửa leo lắt, lung linh trên nắp quan tài, trên bàn thờ, là tiếng chiêng, tiếng phèng la tiển đưa lần cuối. Là lịnh lui quân, lui binh mà đôi khi cái lịnh ấy không đến tai binh sĩ, để có người chiến đấu trong vô vọng mõi mòn.

Yêu tinh, quỉ quái, tinh quái, tinh ranh. Đốt nhà phá xóm. Quậy phá không chịu nỗi, trong nhà là phá gia chi tử, ngoài đời là kẻ phá hoại chỉ thiếu đường đem bắn bỏ mà thôi. Cho nên có nhà Đẩu Số lạnh lùng viết: “HỎA LINH chuyên tác họa”

Cặp thứ ba trong Lục sát tinh là Hỏa-Linh (Hỏa tinh và Linh tinh). Lối an sao khiến cho tuổi nào cũng có thể gặp Linh Hỏa (cũng có tuổi không gặp). Có khi Linh-Hỏa đủ bộ, có khi Linh-Hỏa không đủ bộ và chỉ cần có một Linh hay một Hỏa tại Mạng hoặc tại cung Đại Vận. Những Linh và Hỏa cùng mạnh đến độ chỉ gặp một Linh hay một Hỏa cũng đã đủ ảnh hưởng.

1- NHỮNG TUỔI BỊ HỎA, LINH

– Hai sao Hỏa và Linh, thuộc Hỏa, rất kị các tuổi Canh, Tân (hàng Can) và Thân (hàng Chi), và những người Mệnh Kim.

– Gặp Linh, hoặc gặp Hỏa (1 trong hai sao) tại Mệnh hay tại Đại-Vận, thì những người tuổi Canh, Tân, Thân hay mạng Kim, là phải coi chừng !.

– Gặp tại Đại Vận, hay gặp những rắc rối, những khó khăn.

– Gặp tại cung Mệnh, cuộc đời khó khăn, vất vả, phải cố gắng rất nhiều mới thành đạt, hoặc có khi khá lên mà rồi lại hỏng.

2- SAO NÀO MỚI TRỊ ĐƯỢC HỎA, LINH

Tuy nhiên, Hỏa Linh không phải hoàn toàn xấu. Chúng là một sức mạnh, để tự nhiên không người hướng dẫn thì sức mạnh đó tác hại, nhưng nếu có sự hướng dẫn thì sức mạnh đó lại hướng vào những cái tốt đẹp, phù giúp cho đương số. Điều này cũng y như cặp Không-Kiếp phải được gặp Phá Quân mới tốt, và cặp Kình-Đà phải được gặp Thất Sát.

Các sát tinh đó cũng như những đạo quân hùng mạnh, những đạo quân đó phải có chỉ huy giỏi và mạnh thì mới được việc hay. Nếu không có chỉ huy mạnh và sáng suốt, sức hung hãn của các đạo quân sẽ đáng sợ.!

Hỏa và Linh phải gặp Tham Lang mới tốt.

Tham Lang mới vận dụng được sức lực, mới cai trị và chỉ huy được Hỏa và Linh.

3- CẦN PHẦN BIỆT

Nhưng nên chú ý ở chỗ Tham Lang gặp Hỏa hay gặp Linh, mỗi đàng có một nét riêng biệt

Tham Lang gặp Hỏa, thì được phú hơn là quý. Ví dụ : Ở Mệnh có Tham Lang và Hỏa-tinh là tốt, đương số được giàu có (hơn là được công danh). Mệnh có Tham Lang gặp Linh- tinh, thì đương số có chức phận lớn, có công danh (hơn là được giầu có, tức là phần tiền bạc bị kém)

4- NHỮNG TRƯỜNG HỢP BỊ HỎA-LINH CHƠI ĐỘC

– Như trên đã nói, Hỏa-Linh tại Mệnh hay Hỏa Linh tại Đại Vận đều có ảnh hưởng lớn (cho bốc lên hay phá tán). Tuổi Canh, Tân, tuổi Thân, hay người Mệnh Kim gặp Linh, Hỏa thì bị nặng như đã nói . Ngoài ra, người có Mệnh Cơ-Lương, gặp Linh-Hỏa cũng bị nặng.

– Phải Sát, Phá, Tham mới chỉ huy được Linh-Hỏa. Như thế, Linh-Hỏa ở Đại Vận gặp Sát, Phá, Tham thì tốt, mà người Mệnh Sát, Phá, Tham đến cung Đại Vận có Hỏa, Linh cung không sao.

– Mệnh Tử Phủ, gặp Hỏa-Linh (tại Mạng hay tại Đại Vận), cũng bị ngăn trở đụng thêm Không Kiếp, càng hỏng.

– Mệnh Vũ-Khúc, Thiên Lương gặp Hỏa-Linh thì không sao.

– Thiên Tướng không sợ Hỏa, Linh, Không, Kiếp. Như thế, Mệnh Thiên Tướng gặp các sao đó chẳng sao. Người ở Mệnh có Thiên Tướng, đến Đại Vận gặp 4 sao xấu đó, không sao. Thiên Tướng chỉ sợ có Hình, Kình, Đà (nên nhớ là Đà La ở Thìn Thuất, vì ở Thìn Tuất, Đà La mới có ảnh hưởng là lưới trời ngăn cản công việc, công danh, tiền tài … của đương số).

Đạo quân :

Theo lời cụ Thiên Lương :

– Không Kiếp như đạo quân nhảy dù

– Kình, Đà như đạo quân của Thủy Quân Lục Chiến

– Linh Hỏa như một đạo quân riêng biệt.

Ở một mình, không có chỉ huy mạnh và giỏi (hãm địa), chúng có sức tác hại mạnh mẽ, sai lạc. Nhưng gặp được chỉ huy giỏi có đất dụng võ hay, chúng lại có sức mạnh lớn, giúp ích cho đương số rất nhiều.

– Không Kiếp phải được Phá Quân

– Kình Đà phải được Thất Sát

– Linh Hỏa phải được Tham Lang

Có Tướng hay thì quân phải giỏi, phải giúp cho đương số lên mạnh./.

Trước hết, bộ sao Linh Hỏa được an theo tam hợp tuổi tức là theo tam hợp hội cục và giờ sinh. Sự vận chuyển của chúng an theo giờ sinh, tức đơn vị thời gian tạm gọi là nhỏ nhất, cực vi đối với khoa tử vi, ta có thể tạm xem chúng theo nghĩa Sát Na của nhà Phật.

Do tính chất cực vi nhỏ nhiệm, nên tác dụng của chúng rất nhanh và khó thấy. Do đó đứng ở đứng ở phần căn bản bộ sao Linh Hỏa chủ về tính khí, và sức khoẻ của ta. Do tính khí hiên ngang, cương quả quá mức, hình dáng uy nghiêm, tình cảm không lộ ra mặt nếu đắc địa. Hoặc do hãm địa mà ẩn tàng sự thâm hiểm gian ác ngấm ngầm, hình dáng bị phá tướng, kiên định trong mê muội để làm càn, sẵn sàng bỏ đạo nghĩa đều gặp tai nạn. Do chủ về sức khỏe nên thường chủ về bệnh bẩm sinh, bệnh về thần kinh, chiết giảm tuổi thọ. Nếu hiểu theo nghĩa Sát Na, thì chúng có thể là biểu tượng cho Niệm khởi sinh diệt liên tục lôi cuốn vây bọc lấy ta như dòng nước chảy xiết bùng vỡ muôn triệu bụi nước biểu tượng cho Hành ấm trong Ngũ Ấm Ma.

Nếu bộ sao này chủ về tính khí và sức khỏe vậy ta có thể tự hỏi chúng có mang tính di truyền hay không? Nếu có tính di truyền thì phải chăng ngoài biệt nghiệp của ta, chúng còn biểu tượng cho cộng nghiệp giữa ta và mọi người, mật thiết nhất là song thân đã sinh ta ra? Nếu lý này đúng thì việc đối chiếu giữa lá số tử vi của ta và lá số của song thân, cùng anh chị em hẳn phải có mối tương quan nhân quả nào không khi ứng dụng “phương tiện” Căn Chủ và bộ sao Linh Hỏa vào việc truy tìm này?

Công cuộc dò tìm xem ra còn nhiều vấn nạn. Vì chúng rất lớn rộng do song thân phải hiểu theo nghĩa rộng là ông bà chú bác cô cậu dì… mà sách tử vi của Thái Thứ Lang khi nói về mồ mả trong cung Phúc Đức có liệt kê các sao tọa thủ làm biểu tượng cho mồ mả của bác, cậu, cô, nội, ngoại….cùng các loại dáng đất và các hình tượng vật chất cũng như súc vật. Điều này đã chứng tỏ trong thực tế một khi có cải táng hay xây mồ một thân tộc thì ảnh hưởng của việc này hoàn toàn có tác dụng cát hung khác nhau cho từng cá nhân trong tộc họ có những lá số tưởng như là riêng biệt nhau.

Dù sao với sự diễn suy này cũng đủ cho thấy việc ta đang sống đây chẳng phải chỉ một mình ta sống, mà là toàn bộ người thân dù họ đang sống hay đã khuất mặt, cũng đều đang ở đây và bây giờ đều cùng hiện hữu “trong Ta”, sinh hoạt cùng ta trong dòng đời. Vậy việc giữ hay phá hoại danh giá gia đình, hành động của ta tốt hay xấu chắc chắn sẽ là Nhân tạo Quả cho con cháu về sau. Và lớn rộng hơn nữa, khi một câu niệm phật từ miệng của “cái người” tạm gọi là “mình” hồi hướng cho tứ thân phụ mẫu, anh chị em cùng mọi người trên thế giới được an lạc chắc hẳn chẳng phải chỉ có ta đang niệm và phải có tác dụng bao trùm lên chúng sanh chứ ? Hướng dò tìm này xem ra khá lý thú. Nhất là nếu mượn được những phương tiện khá tinh xảo và thâm mật của Căn Chủ, Mệnh Chủ, Thân Chủ, bộ Linh Hỏa, và có thể là bộ Xương Khúc, bộ Không Kiếp đều an theo giờ sinh trong ứng dụng.

Đó là vấn đề giờ sinh, nay nói đến yếu tố bộ Linh Hỏa được an theo tam hợp tuổi tức tam hợp hội cục của năm. Ở đây khoan nói tới tác dụng cát hung của chúng, mà chỉ tìm cách tác dụng của chúng như thế nào.

1. Với tính chất đi thuận hay nghịch của Hỏa Tinh và đi nghịch hay thuận của Linh Tinh, tùy Dương Nam Âm Nữ hay Âm Nam Dương Nữ, tất chúng phải là một cái gì mang nặng tính chất Âm Dương và chúng không thể tách rời nhau, hai loại khác nhau mang tính riêng lẻ, mà phải là bộ sao đôi như bộ Xương Khúc, Không Kiếp. Việc dự đoán tất không thể bỏ quên tính chất này. Và nếu xét chúng trong toàn thể bộ đôi không thể tách rời thì ý niệm về Trục là căn cứ duy nhất ta cần phải dựa vào để xét. Đó là vấn đề thứ nhất.

2. Theo thông thường của các trường phái thì:

Tuổi Dần Ngọ Tuất: Hỏa khởi tại Sửu. Linh khởi tại Mão. Dương Nam Âm Nữ thì Hỏa đi thuận, Linh đi nghịch. Âm Nam Dương Nữ thì Hỏa đi nghịch, Linh đi thuận.

Tuổi Hợi Mão Mùi: Hỏa khởi tại Dậu. Linh khởi tại Tuất. Dương Nam Âm Nữ thì Hỏa đi thuận, Linh đi nghịch. Âm Nam Dương Nữ thì Hỏa đi nghịch, Linh đi thuận.

Tuổi Thân Tí Thìn: Hỏa khởi tại Dần. Linh khởi tại Tuất. Dương Nam Âm Nữ thì Hỏa đi thuận, Linh đi nghịch. Âm Nam Dương Nữ thì Hỏa đi nghịch, Linh đi thuận.

Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Hỏa khởi tại Mão. Linh khởi tại Tuất. Dương Nam Âm Nữ thì Hỏa đi thuận, Linh đi nghịch. Âm Nam Dương Nữ thì Hỏa đi nghịch, Linh đi thuận.

Riêng tam hợp hội cục Tỵ Dậu Sửu, có trường phái an Hỏa khởi tại Tuất. Linh khởi tại Mão. Dương Nam Âm Nữ thì Hỏa đi thuận, Linh đi nghịch. Âm Nam Dương Nữ thì Hỏa đi nghịch, Linh đi thuận.

Việc an theo một trong bốn tam hợp hội cục cho bộ Linh Hỏa, mỗi tam hợp hội cục này đều có ngũ hành riêng. Vậy tất nhiên đã ám chỉ mang nặng tính chất Ngũ Hành của tam hợp hội cục. Cuối cùng ta cũng thấy và hiểu ảnh hưởng của chúng đều do Âm Dương Ngũ Hành mà ra.

Trong tử vi, trục Dần Thân là trục phân chia Âm Dương quân bình nhất. Nếu ta đứng xét 4 tam hợp hội cục dựa trên Tứ Chính làm chủ. Thì Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa, Hợi Mão Mùi thuộc Mộc. Hai hành của tam hợp hội cục này thuộc phần Dương (lấy Mão và Ngọ làm chủ). Thân Tí Thìn thuộc Thủy, Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim. Hai hành của tam hợp hội cục này thuộc phần Âm (lấy Dậu và Tí làm chủ) nếu lấy trục Dần Thân làm ranh giới.

Dựa vào phần lý này cho thấy, Hỏa Tinh của Dần Ngọ Tuất được “bắn” đi từ Sửu thuộc phần Âm, tức từ tam hợp hội cục Hỏa và Kim tương Khắc (nhấn mạnh chữ Khắc). Hỏa Tinh của Hợi Mão Mùi được “bắn” đi từ Dậu thuộc phần Âm, tức tam hợp hội cục Mộc và Kim tương Khắc. Tức hai tam hợp hội cục của phần Dương được khởi đi từ phần Âm.

Hỏa Tinh của Thân Tí Thìn được “bắn” đi từ Dần thuộc phần Dương, tức từ tam hợp hội cục Thủy và Hỏa tương Khắc. Hỏa Tinh của Tỵ Dậu Sửu được “bắn” đi từ Mão thuộc phần Dương, tức từ tam hợp hội cục Kim và Mộc tương Khắc. Tức hai tam hợp hội cục của phần Âm đượïc khởi đi từ phần Dương.

Đó là dựa trên trục Dần Thân và lấy Tứ Chính của tam hợp hội cục làm căn cứ, để thử tìm độ chính xác của vị trí khởi đầu giờ Tí của sao Hỏa Tinh cho từng năm thuộc bốn tam hợp hội cục. Vậy phải chăng, các vị trí này là do ứng dụng Lý Dương Trung Hữu Âm, Âm Trung Hữu Dương và lý khắc Ngũ Hành giữa các tam hợp hội cục. Và do sự Hình Khắc về Ngũ Hành giữa các tam hợp hội cục này, nên ở phương diện “Số Mạng” chúng là tai họa đem đến cho ta?

3. Riêng trường hợp của tam hợp hội cục Tỵ Dậu Sửu có trường phái cho Hỏa Tinh khởi từ Tuất. Theo thiển ý có lẽ dựa trên lý như sau.

Trước hết, đứng về phương diện thiên văn thì trục Sửu Mùi là do trục Tí Ngọ biến ra. Nguyên do tháng nóng nhất và lạnh nhất không phải là tháng Ngọ và tháng Tí. Vì tiết Đại Hàn coi là lạnh nhất trong một năm là ngày 21 tháng Một Dương Lịch tương ứng với tháng Sửu. Ngày nóng nhất trong năm là tiết Đại Thử nhằm ngày 23 tháng 7 Dương Lịch, tương ứng với tháng Mùi. Tức trục Sửu Mùi là trục quân bình về nóng lạnh, tức thời tiết. Đây phải là trục Âm Dương. Trong đó khoa tử vi đã xếp hai sao Thái Dương và Thái Âm đồng cung tại trục Sửu Mùi.

Dựa trên trục này để phân định, thì Dần Ngọ Tuất thuộc tam hợp hội cục Dương (Dần, Ngọ, Tuất đều là cung Dương, tức xét trên bản chất tự nội của cung), Hỏa Tinh khởi đi từ Sửu thuộc Dương theo sự phân định Âm Dương của trục Sửu Mùi. Sở dĩ cho Sửu thuộc phần Dương là ứng theo lý Thăng Giáng của Âm Dương, theo đó tại Sửu Dương “sẽ” thịnh và Âm “sẽ” suy (quẻ Địa Trạch Lâm, quẻ của tháng chạp).

Cũng vậy, tam hợp hội cục Dương Thân Tí Thìn, Hỏa Tinh khởi đi từ Dần thuộc Dương. Tam hợp hội cục Âm Hợi Mão Mùi khởi Hỏa Tinh từ Dậu thuộc Âm. Tam Hợp hội cục Âm Tỵ Dậu Sửu khởi Hỏa Tinh từ Tuất thuộc Âm. Vậy tam hợp hội cục Dương khởi Hỏa Tinh từ phần Dương, tam hợp hội cục Âm khởi Hỏa Tinh từ phần Âm.

Vậy phải chăng việc an sao Hỏa Tinh cho tam hợp hội cục Tỵ Dậu Sửu từ Tuất, không phải từ Mão là do dựa trên trục Sửu Mùi phân định Âm Dương, thời tiết để phân bố ? sự phân bố này lấy tam hợp hội cục Dương khởi đi từ tam hợp hội cục Dương, và trái lại. Hoàn toàn khác với cách phân bố điểm bắn sao Hỏa Tinh dựa trên trục Dần Thân.

4. Còn một cách an bộ sao Linh Hỏa theo đa số các sách tử vi Trung Hoa, và trong số các nhà tử vi Việt Nam có tiên sinh Quản Xuân Thịnh an bộ sao này theo lối khác (Số tử viKinh Nghiệm, quyển thượng, trang 35).

Điểm “bắn” của bộ sao Linh Hỏa đều giống nhau trong các tam hợp hội cục Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi. Riêng tam hợp hội cục Tỵ Dậu Sửu thì lấy Tuất làm điểm bắn cho sao Hỏa Tinh, lấy Mão làm điểm bắn cho sao Linh Tinh. Đặc biệt hơn cả là tất cả hai sao đều an theo giờ sinh theo chiều thuận kim đồng hồ.

Riêng với sao Linh Tinh người viết chưa tìm được căn do, vì sự vận hành của chúng chưa có lý nào thỏa đáng vì chúng quá phức tạp. Nhưng một khi nếu ta tạm chấp nhận việc dựa trên trục để biểu hiện tính cặp đôi không thể tách rời của bộ Linh Hỏa, thì hai sao này phải làm nhân làm duyên, làm hình bóng cho nhau.

Người viết không dám kết luận đúng sai giữa hai lối an sao khác biệt nhau, cho trường hợp Tỵ Dậu Sửu với giờ Tí khởi Hỏa Tinh tại Mão hay tại Tuất. Bài viết này chỉ nhằm thử tìm hiểu tác dụng “cặp đôi” của bộ sao Linh Hỏa ra sao, đối với từng tam hợp tuổi như thế nào.

5. Dù sao Hỏa Tinh có khởi đầu từ Mão hay Tuất cho trường hợp Tỵ Dậu Sửu. Nhưng bộ đôi Linh Hỏa của tam hợp hội cục này luôn đứng trong thế nhị hợp trong khoa tử vi. Không bao giờ có thế lục hại, tam hợp, xung chiếu, các cách giáp.

Cũng vậy, bộ đôi Linh Hỏa của tam hợp hội cục Hợi Mão Mùi luôn đứng trong thế lục hại. Không bao giờ có thế nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, các cách giáp.

Bộ đôi Linh Hỏa của tam hợp hội cục Dần Ngọ Tuất luôn dùng trục Dần Thân là trục đối xứng. Tức sinh ra các cách như cách Linh Hỏa đồng cung ở Dần Thân, giáp Linh Hỏa ở trục Dần Thân, thế tam hợp ở Thìn và Tí, thế xung chiếu ở Tỵ và Hợi, thế tam hợp ở Dần và Ngọ. Không bao giờ có lục hại, nhị hợp.

Cũng vậy ở tam hợp hội cục Thân Tí Thìn, bộ Linh Hỏa vận hành lấy trục Tí Ngọ làm trục đối xứng, tạo ra cách Linh Hỏa đồng cung Tí và Ngọ, giáp Linh Hỏa ở Tí và Ngọ, tam hợpï Linh Hỏa ở Dần và Tuất, xung chiếu Linh Hỏa ở Mão và Dậu, tam hợp Linh Hỏa ở Thìn và Thân. Không bao giờ có cách nhị hợp và lục hại.

Nếu ta đem ứng dụng các thế đặc thù của mỗi tam hợp hội cục và giao thoa chúng với các thế tam hợp Thái Tuế, tam hợp Thiếu Dương, tam hợp Tang Môn, tam hợp Thiếu Âm, thì mỗi chúng ta sẽ tìm được những kỳ đặc của bộ Linh Hỏa cho từng trường hợp.

Như vậy, ở mỗi tam hợp hội cục bộ sao Linh Hỏa đều có tác dụng đặc sắc riêng tư, trong đó ảnh hưởng của chúng làm cho các cung liên hệ có Linh Hỏa tọa thủ, phải dính liền vào nhau một cách chặt chẽ, không thể tách rời khi ứng dụng trong chiêm nghiệm cùng giải đoán.

Theo thiển ý, giả thuyết này có thể chấp nhận được vì tương ứng với các cách của bộ sao Xương Khúc, Không Kiếp, như đồng cung, cách giáp, cách tam hợp, cách sao tử vi luôn lục hại với sao Cự Môn, Thiên Tướng luôn lục hại với sao Thiên Cơ và xung chiếu với sao Phá Quân, Thất Sát luôn lục hại với sao Thái Dương và xung chiếu với sao Thiên phủ, Phá Quân luôn nhị hợp với sao Thiên Cơ và xung chiếu với sao Thiên tướng, Tham Lang luôn nhị hợp với sao Thiên Đồng, Vũ Khúc luôn nhị hợp với sao Thái Âm. Thái Dương luôn nhị hợp với sao Thiên Phủ và lục hại với sao Thất Sát, Liêm Trinh luôn nhị hợp với sao Thiên Lương.

6. Trường hợp an bộ Linh Hỏa theo Trung Hoa và tiên sinh Quản Xuân Thịnh lại cho thấy rõ cách giáp rất quan trọng trong tam hợp hội cục Dần Ngọ Tuất, hoàn toàn không có đồng cung, tam hợp, xung chiếu, nhị hợp, lục hại. Cũng vậy Tam hợp Thân Tí Thìn chỉ có cách tam hợp. Tam hợp Hợi Mão Mùi vừa có Lục Hại ở Mão Thìn, Dậu Tuất, vừa có Nhị hợp ở Tí Sửu, Ngọ Mùi. Tam hợp Tỵ Dậu Sửu có nhị hợp ở Thìn Dậu, và Mão Tuất và lục hại ở Sửu Ngọ và Mùi Tí.

Sự vận hành của bộ sao này luôn đi thuận theo chiều kim đồng hồ bằng giờ sinh, bất luận tam hợp hội cục nào, bất luận tuổi thuộc Dương Nam Âm Nữ hay Âm Nam Dương Nữ. Phải chăng với sự vận hành của bộ sao Linh Hỏa, người xưa đã “gần như” xem nhẹ tính Âm Dương của TUỔI?

7. Có thể nêu trường hợp của Saddam Hussein tuổi Đinh Sửu, sinh ngày 18 tháng 3 Âm Lịch giờ Mão.

Với tuổi Đinh Sửu thuộc tam hợp hội cục Tỵ Dậu Sửu, thì cách nhị hợp phải được xem là quan trọng và cần thiết khi chiêm nghiệm.

Cái độc đáo và cũng là oan khiên của Saddam là tuổi Sửu, Mệnh ở Sửu, Thân cư Thiên Di tại Mùi đều có Linh Hỏa nhị hợp trong tam hợp Thái Tuế hoặc tam hợp Tuế Phá, hai loại tam hợp mạnh dù tuổi Tỵ Dậu Sửu có hai cách an Linh Hỏa.

Độc đáo hơn nữa là với Cung Sửu là loại cung “đáy”, nếu so với Cung Ngọ là đất đứng sở hữu tối cao của Đế Tinh đứng thế lục hại. Cung Nô ở Ngọ với đầy đủ Khoa, Quyền, Lộc, Lộc Tồn, Đào Hoa, Cung Quan Lộc ở Tỵ là cung phía sau chạm phải bức tường hoành tráng của Cung Nô cản địa, không dễ dầu tiến liên cướp đoạt nếu không nhờ cách Long Phượng Hổ Cái, Toái Quân Lưỡng Phá, và cách Vô Chính Diệu Đà La độc thủ, cũng là cách “tàng hình”, đi luồn từ Cung Hợi (Lưu Đại Vận theo Âm Nam Dương Nữ) để tiến.

Nếu chỉ bàn cách nhị hợp không thôi, Cung Ngọ là cung của Đế Tinh thì với bức tường hoành tráng với các sao tốt nói trên, cũng chỉ làm lợi cho sao tử vi đồng cung Phá Quân cũng là Cung an Thân. Nếu cho rằng thế nhị hợp giữa Cung Ngọ và Mùi là Mùi (tam hợp Mộc) sinh Ngọ (tam hợp Hỏa), thì cái “sinh” này lại càng làm cho Cung Nô chết sớm, vì Phá Quân thuộc Âm Thủy đồng hành Mệnh, lấy được thêm Địa Không tạo thành đủ cách giáp Không Kiếp ở Mùi, tức biến Cung Nô thành đám lâu la của mình, cùng biến bộ Xương Khúc phù trợ cho Thiên Cơ thành loại giấy khống, bằng giả, mục nát. Cái hay của Cung an Thân ở Mùi là Cung Mùi nhị hợp Cung Ngọ là cung của Đế Tinh, tức là lợi dụng được cách kề cận quân vương lấy trọn Linh Hỏa đốt Thiên Cơ.

Thế nhị hợp giữa Cung Mệnh và Cung Bào cũng vậy. Nếu cho rằng Sửu (tam hợp Kim) sinh Tí (tam hợp Thủy). Tức Thái Tuế, Kình, Đà ở tam hợp Mệnh sinh tam hợp Bào thì lại làm cho Cự Môn, Hóa Kị bị chụp mũ là loại chống đối ngoan cố (cái tưởng của Saddam chăng?), càng chóng chết. Theo thiển ý, ở đời hẳn không bao giờ có chuyện cho đi mà không nhận lại gì (giúp hoặc cho ai cái gì dù chỉ có niềm vui trong lòng cũng là một cách nhận lại). Nếu ta không chấp chặt vào quan niệm thế nhị hợp Sửu luôn sinh Tí (vì một khi đã gọi là” Hợp” ít nhất cũng cùng phải chung một quan điểm nào đó), mà hiểu theo sự tác động qua lại đúng với lý Âm Dương, thì Cung Mệnh ở Sửu lấy lại Tả Hữu và được cách giáp Không Kiếp, thêm Hóa Kị, chính là cách gian hùng siêu nhân.

Tương tự ta có thể xem cách nhị hợp giữa Cung Phụ Mẫu và Phu Thê, giữa Cung Phúc và Tử Tức, giữa Cung Điền Trạch và Tài bạch, giữa Cung Quan Lộc và Tật Ách sẽ minh chứng được những hành động xem ra có một không hai của Saddam.

Nếu cho rằng cách giáp Không Kiếp là cách vất vả, lao đao thì cũng không nên chấp chặt lý này, vì muốn làm chuyện phi thường, trở thành con người phi thường (dù chỉ là cái tưởng, tức tướng tùng tâm sinh), thì chuyện lao đao đương nhiên là phải có. Và với sao Thái Tuế ở Mệnh, Tuế Phá ở Cung an Thân, thì chuyện chịu hiểm nguy, dùng cách vô độc bất trượng phu để được làm vua thua làm giặc chỉ là chuyện…nhỏ! Và một khi đã lấy được Cự Môn lục hại với Tử Phá (Cung an Thân) thì chiến lược tuyên truyền, thông tin, ca tụng, tôn sùng lãnh tụ cho cá nhân mình là cách tuyệt chiêu để sống còn và thụ hưởng.

Nếu ta lưu ý thêm về vị trí của Căn chủ tuổi Đinh là sao Thiên Cơ đóng trong Cung Nô Bộc, vị trí của Mệnh Chủ tuổi Sửu là sao Cự Môn ở Cung Huynh Đệ, vị trí của Thân Chủ tuổi Sửu là sao Thiên Tướng ở Cung Mệnh. Ta có thể hiểu được sự thâm trầm và lạnh lùng tàn nhẩn của bản tính không phải là sao Thiên Tướng thủ Mệnh, mà là sao Cự Môn (chính vì là “sao ám” nên khó biết ông là Phật hay ma. Và cũng chính vì là sao ám nên khi hạn gặp sao Cự Môn, tâm thành thiên biến vạn hóa khiến mọi việc phải thay đổi liên tục để ứng phó, tương ứng với Lưu Niên Đại Hạn 67 tuổi). Sự phát huy hết mức của cách Toái Quân Lưỡng Phá của Thân. Tất cả đều biến cuộc đời gặp huy hoàng rực rỡ hay lụi tàn bại vong đều dựa vào cái “gốc” Căn Chủ tuổi Đinh là sao Thiên Cơ ở Cung Nô Bộc (tỏ rõ được tâm ý người khác và giàu hay nghèo vì bạn), và ta hiểu được tại sao Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu, Đà La độc thủ lại chiếm lĩnh được Cung Nô Bộc.

Người Việt Nam ta có câu lá rụng về cội, sinh ra từ đâu thì chết phải về đó. Ở đời, con người ta sống ít ai mà không làm chuyện nghiêng ngả, không nhiều thì ít. Cái “cây” Saddam đã bao năm mọc nghiêng lệch qua bên áp bức, cả vú lấp miệng em. Khi bị cưa cắt thì sẽ ngã đổ bằng sức mạnh áp bức và cả vú lấp miệng em (Vũ khí hủy diệt hàng loạt). Chơi xấu ai bằng cái gì thì bị người khác chơi lại cái đó.

Vinh quang đầy máu tanh trong vũ đài chính trị khởi từ Thái Tuế ở Mệnh, Tuế Phá ở Thân. Đến lúc lộ nguyên hình mình là Tuế Phá (Đại hạn 63-72) thì thật là hay cho nghiệp chướng phải trả. Bị cú đánh phủ đầu nặng ký vừa phi cơ, hỏa tiễn (dạng chụp mũ đánh phủ đầu), súng đạn (dạng đối mặt tỏ rõ ai ngon hơn ai), vừa tiền bạc (dạng biết lạm dụng phước báu vật chất) của sao Thiên Tướng, tức là sao hóa khí của Căn Bính thuộc tuổi Bính Tuất (Tổng Thống Bush) đóng ngay Mệnh (ta và ngươi là hai hay là một ?), và cũng là nơi trở về Thái Tuế trong Tiểu Hạn năm Mùi, Saddam còn lại gì không? Cái sống và cái chết của ông phải chăng chỉ nằm gọn trong 4 Cung Tí, Ngọ, Sửu, Mùi?

ST

SAO HỎA TINH – LINH TINH- PHẦN 1

0

Sao Hỏa Tinh – Linh tinh

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

Hỏa Tinh, Linh Tinh, hóa khí là sát, chủ sát phạt, tai họa, bệnh tật (Có hung, có cát)

Hỏa – Linh có sức phấn đấu mạnh mẽ, nhưng đồng thời lại mang tính phá hoại, không thích bị bó buộc. Do Hỏa Linh quá mức cương cường, nếu như không được sao thích hợp chế phục, thường chủ thuở nhỏ nhiều bệnh tật tai họa, nên đổi họ, cho người khác làm con nuôi. Nếu lại thêm các sát tinh khác công phá mà không được cát tinh trợ giúp, dễ dẫn tới tàn tật.
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến.
Hỏa – Linh tuy là sát tinh, nhưng không phải hung hoàn toàn, cần phải xem có sao nào có thể chế phục hoặc lợi dụng được nó hay không, nếu có sẽ chuyển hung thành cát.
Nếu Hỏa – Linh Tinh đi cùng Thất Sát hoặc Kình – Đà La miếu vượng thì chúng có thể chế ngự hung tính của nhau, tuy vẫn khó tránh gian nan vất vả, nhưng vẫn có được những thành tựu mang tính đột phá hoặc sáng tạo.
Với Kình – Đà. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh.
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi với Hỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
Nếu Hỏa – Linh đắc địa cùng tử vi thì Hỏa – Linh sẽ thần phục trước đế tinh tử vi mà giảm bớt sức phá hoại.
Hỏa – Linh tốt nhất là được đồng cung với Tham Lang miếu vượng tại tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi, sẽ tạo thành cách “Hỏa/Linh Tham”, chúng sẽ kiềm chế lẫn nhau để phát huy tính thiện, ức chế ác tính, nên thường sẽ gặp thời cơ tốt để phát triển nhanh chóng. Nếu lại gặp sao Hóa Lộc của Tham Lang, chủ về đại phú đại quý, có được uy quyền nhanh chóng.
Hỏa – Linh độc thủ tại Mệnh dù nam hay nữ đều chủ về có những thiên hướng phát triển đặc thù, sự nghiệp có thành tựu, nhưng khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Hỏa – Linh đắc địa, lại được lục cát bổ trợ sẽ càng có cát lợi. Nếu không, thường là chóng phất chóng bại, mệnh nữ hôn nhân trắc trở.
Do sức mạnh của Hỏa – Linh quá lớn, nên ngoài các sao tử vi, Thất Sát, Tham Lang, Kình – Đà, những sao khác gặp phải Hỏa Tinh đều tăng thêm phần gian nan trắc trở, nếu những sao đó lại lạc hãm, thì mức độ càng nghiêm trọng.
Hỏa Linh ở cung Mệnh chủ cuộc đời chìm nổi, đặc biệt là bất lợi lúc nhỏ tuổi, nhưng nếu có cát tinh thì chủ làm quân nhân cảnh sát mà thành danh, hoặc bạo phát.
Hỏa Linh cung tài bạch, có cát tinh thì bạo phát, không có cát tinh thì tài vận rất xấu, hoặc phát rồi lại lụn bại.
Bàn về hoả linh, phai nhớ thêm hoả linh thuôcj hành hoả, dóng vào cung có sao hành thổ (dắc hoặc miếu, vượng đia)nhìn chung ảnh hưởng thiên hướng tốt hơn không đến nổi nguy hiểm như ta tưởng, Hoả linh mà an vào Hợi, Ti thì không nguy hiểm, vi sức mạnh bị chính cung ức chế, Hoả, linh mà vô chính diệu có tuần không, triệt không thì phát rất nhanh chóng, nhưng không được bền lâu. Hoả linh an với tham lang ( cung mão) là tốt nhất vì mão thuộc Mộc sinh Hoả, Tham sao Mộc cũng sinh Hoả nên là người có mặt trong (triều Đinh) đấy.
HOẢ TINH: CHỦ NÓNG, NHIỆT. LINH TINH: CHỦ LẠNH, HÀN.
Đây là 2 yếu tố quan trọng để đoán về bệnh lý. Nóng, sốt, nhiệt, viêm, sưng tấy… là Hỏa. Lạnh, rét, hàn… là LINH. Sốt cao quá không hạ nhiệt được tất chết. Khi chết ai cũng lạnh ngắt như đồng. Người ấy đã lạnh rồi. Cho nên trên TỬ VI có những vị trí có cả 2 yếu tố, cũng có vị trí chỉ thấy 1 yếu tố. Nếu thấy cả 2 yếu tố nóng và lạnh ví như ta điều hòa được nhiệt độ. Nếu chỉ thấy 1 yếu tố ta sẽ khổ vì quá nóng hoặc quá lạnh.
LỬA và BĂNG
Các chi tiết kể trên liên quan đến nơi ở, sự tiện nghi trong sinh hoạt cũng như bệnh hoạn gặp phải, từ đó đoán về tình cảm, tai nạn… Trên là vận dụng HỎA LINH để đoán về bệnh tật, dưới đây là vận dụng LINH HỎA để đoán về tình cảm.
HOẢ TINH: nồng nhiệt, nồng nàn, nhiệt tình. HỎA LINH: CUỒNG NHIỆT
* Trong tình cảm khi đắc địa HOẢ TINH bày tỏ tình cảm rất nồng nhiệt, nhiệt tình. Nếu có thêm Linh là cuồng nhiệt. Nhưng khi lạc hãm nó là ngôi sao nóng giận điên cuồng là đây,
HOẢ TINH: CHỦ GIẬN HỜN. LINH TINH CHỦ LẠNH NHẠT
* Khi lạc hãm HOẢ chủ giận hờn, LINH chủ lạnh nhạt, lạnh lùng
“HỎA LINH mặt khó sầu nhăn suốt ngày…”. Ví dụ câu hát: “Anh nỡ lạnh lùng đến thế sao Tim em băng giá tự hôm nào…” Mô tả sự lạnh nhạt trong tình yêu. Hay ở điểm mô tả sao LINH TINH với các từ lạnh lùng, băng giá… Sao HỎA TINH dễ bị kích động hưng phấn thái quá chuyển qua phẫn nộ. LINH TINH chuyển qua lạnh nhạt, thái quá chuyển qua điên cuồng. Trong Hán Sở tranh hùng. Hạng Võ tấn công một thành trì nào đó một cách khó khăn, đâm bực mình, khi vào được rồi đốt sạch để lại tiếng ác trong lịch sử. Khi bị vây khốn tự sát vì bản thân Hạng Võ mang ngôi sao Nổi Nóng ngay trong MỆNH.
ĐIÊN và NỔI GIẬN:
+ Điên và cuồng là 2 khái niệm khác nhau.
* HỎA TINH là sao dễ nổi nóng, nổi giận, nóng vội từ đó dễ phát cuồng. Kị gặp HAO vì từ HAO ta dễ gặp KÌNH ĐÀ thế là hỏa bốc, HỎA KÌNH là lửa bốc lên, HỎA ĐÀ là ngọn lửa tràn ra không ngăn cản nổi. Nếu có lại kị gặp SÁT PHÁ, CỰ.
* LINH TINH là sao dễ nổi điên, nổi loạn phát sinh ra sự chống đối. Từ đó nổi loạn là đây. Điên giận, điên cuồng là LINH HỎA, là bộ sao của bệnh tâm thần, tâm bệnh. Bây giờ không có lý do gì không hiểu câu:
“CỰ HỎA KÌNH DƯƠNG chung thân ải tử”. Nổi giận phản đối không được tự sát mà thôi.
“LINH XƯƠNG LA VŨ hạn chí đầu hà”. Phát điên vì nghe lời xúi bậy uẩn ức mà chết.
TINH THẦN và TÍNH KHÍ:
Đây là bộ sao chủ tinh thần của một con người. HỎA TINH chủ tinh thần nóng vội, nhiệt tình, nồng nàn nhưng một thoáng chốc có thể chuyển qua nỗi giận, giận hờn thái quá phát sinh hung dữ. Sự hưng phấn thái quá, sự ức chế stress, trầm uất, trâm cảm cũng là đây.
Một HỎA TINH nồng nàn chuyển qua một HỎA TINH giận dữ.
Một LINH TINH trong sáng chuyển qua một LINH TINH lạnh lùng.
2 sao nầy thước đo tình cảm của con người. Và còn nhiều nữa.
CHUYÊN MÔN, TINH NHUÊ. HỎA thiên về lửa, LINH thiên về điện.
* Chủ công việc, nghề nghiệp có tính chuyên môn. Ví dụ: TỬ VI, HOẢ TINH công việc có tính chuyên môn đặc biệt có tính khẩn cấp như các đơn vị phản ứng nhanh, cứu hoả, cứu hộ.
Trong chuyên môn các nhà khoa học. Cụ thể HOẢ thiên về lửa…LINH thiên về điện. Cần gặp HOÁ KHOA. Từ đó ta đoán được ngành luyện kim, ngành điện tử là đây. Cái điện thoại di động, cái máy vi tính cũng là đây… TỬ VI đã đi trước thời đại khi khái niệm về điện còn quá xa lạ với con người. Nói đến Khoa Học người viết dễ bức xúc vì dạng TỬ VI dưới mắt các nhà khoa học, chẳng qua khoác áo khoa học lòe bịp người. Ngay cả TỬ VI của Tàu còn sai, chưa phải đề tài bàn đến, nên chưa nói thôi. Hãy đợi đấy!
* Khi đạt đến trình độ cao là tinh diệu, tinh nhuệ, tinh thông, tinh hảo, tinh khôn…
Khi xấu là yêu tinh quỷ quái, chọc điên chọc giận người khác. Xấu quá là điên khùng, chết về âm phủ cũng còn phá Diêm Vương.
NGON LỬA SÁNG, ĐỐT, ĐỐT CHÁY, ĐỐT LÊN NGỌN LỬA, NỔI LỬA
HOẢ TINH chủ: Ngọn lửa. LINH TINH chủ sáng. Cả hai sao là Ngọn lửa sáng nhưng lạc hãm là ngọn lửa leo lắt chẳng đủ sáng. Xấu là Ngọn lửa trên bàn thờ, trên nắp quan tài. Vì vậy Linh còn có nghĩa là Linh Hồn thường có mặt ở các hạn chết. Một linh hồn vừa rụng rơi. Một vì sao đã tắt.
Khi tốt HỎA LINH là ngọn đuốc sáng soi đường trong bóng đêm tăm tối. Cho nên có câu: “KÌNH DƯƠNG HỎA TINH uy quyền xuất chúng…” Nó là ngọn đuốc giương cao báo tin thắng trận, lửa của ta lan tràn tới đâu quân thù chạy khiếp vía. Ngược lại lửa của địch lan đến đâu họa tai đến đó.
VÌ SAO SÁNG. TINH TÚ:
* Khi tốt đi với Cát tinh. Nhất là LINH TINH là vì sao sáng trên một lãnh vực nào đó.
Khi xấu càng xấu hơn đi với Hung, Sát tinh lạc hãm là vì sao rụng thậm chí là rụng rất sớm, hoặc héo úa cuồng điên, ngây ngây dại dại…
Còn là biểu tượng Tinh Tú trên bầu trời. Thuộc nhóm sao Thiên thể trong bầu trời. THIÊN KHÔNG thuộc bầu trời khoảng không, THÁI ÂM mặt trăng, THÁI DƯƠNG mặt trời.
VAI TRÒ…
* Vai trò là gì? Như vai trò làm cha, vai trò làm con, vai trò làm thầy, vai trò người lãnh đạo… Nếu không LINH TINH tất khó đóng trọn vai trò ấy. Nếu có đôi khi cũng đóng không trọn vai trò ấy vì LINH bị lạc hãm, bị phá cách… Vậy thì không còn ngạc nhiên khi nghe các câu như: Vai trò phụ nữ trong giai đoạn mới… Anh không có vai trò gì ở đây, xin đi ra… Ta không có LINH TINH tại MỆNH, cũng chưa gặp tại Hạn đành vui chơi chỗ khác vậy. Nếu có, cần biết vai trò của ta là gì? Nhỏ hay lớn? Quan trọng hay không? Làm trọn vai trò đó. Không phải vai trò của ta, ta làm chẳng bao giờ thành công. Từ vai trò hóa thành diễn viên.
DIỄN VIÊN:
* LINH TINH là ngôi sao của diễn viên khi đi với nhóm HỒNG LOAN, TẤU THƯ, ĐÀO HOA nhất là có THIÊN CƠ, VŨ KHÚC. Là siêu sao, hay vì sao sáng, sao mờ tuỳ thuộc vào chính tinh và LINH TINH dắc hãm địa và nhóm sao Tam HOÁ chủ thành đạt.
HỎA TINH và LINH TINH sao nào hấp dẫn hơn?:
Hỏa tinh chủ: Hot, nóng hổi, Sốc (shock). Trong khi LINH TINH là thức ăn nguội, bản tin cũ lạnh rồi chẳng gây sốc cho ai nhưng thực tế có những cái nguội ngắt làm người khác đứng tim. Thỉnh thoảng ta lại thấy người ta hâm nóng lại những tin tức xưa cũ. Có những cái nóng hổi chỉ có một lúc thôi rồi tàn phai. Lại có những cái nguội lạnh rồi làm điêu đứng người khác. Ví dụ như là:
… “Tưởng rằng đã quên, cuộc tình sẽ yên. Thân đau muốn nằm… Một ngày thấy em là từng mũi đinh cuồng điên…” thế là HỎA LINH rồi. Trịnh Công Sơn mô tả Tình Lạnh cũng khá lắm.
Nếu chưa đủ đô thì nghe tiếp “ Đôi mắt người xưa”. Xem ra dùng ca nhạc học TỬ VI là điều chưa từng có. Không có làm thành có là đắc THIÊN KHÔNG. Không có họa làm cho có họa là họa vì không. Nồng nàn không ưa lại thích nổi nóng là họa vì HỎA . Lạnh nhạt không ưa lại thích lạnh lùng. Có câu nói hay đại ý là: Người quân tử cư xử với nhau rất lạnh nhạt. Kẻ tiểu nhân cư xử với nhau rất cuồng nhiệt. (Người Quân tử chỉ một, hai câu là hiểu nhau rồi, kẻ tiểu nhân bia rượu vào mới hiểu nhau rõ)
LINH ỨNG, HIỆU NGHIỆM:
Chủ : Linh ứng, tức nói mò, nói theo cảm tính…mà đúng với sự việc. Dĩ nhiên rất cần cho thầy bói nói dựa cho nên có câu “Phúc chủ lộc thầy”. Nhất là đi với THIÊN ĐỒNG. Đi với VŨ KHÚC thì vừa có thực tài vừa linh nghiệm, cả 2 sao đều đắc địa thì tuyệt vời. ( xem Ngôi Sao Linh Ứng)
LINH HỒN, LINH THIÊNG.
Chủ: Linh hồn người đã chết, nhất là có thêm các Vong tinh, điều nầy rất dễ gặp. LINH TINH là một sao thường có mặt trong hạn chết. Người có sao LINH sáng, hoặc hợp cách khi chết thường linh thiêng có thể trở thành thần thánh được tôn thờ mãi mãi. Đó là trường hợp Quan Công…
LANH LỢI, NHANH MAU, LANH NHƯ CHỚP:
* Là một yếu tố quan trọng trong thi đấu bằng trí não, bằng sức lực. Như làm toán rất nhanh, dịch ngoại ngữ nhanh, hiểu nhanh, đầu óc lanh lợi, tay chân nhanh nhẹn…trong thi đấu, trong đời sống rất cần thiết đôi khi nhờ nhanh mau, lanh lợi mà thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Chỉ huy giỏi là biết tận dụng yếu tố nhanh mau để ra tay trước. Nếu đi chiến đấu, xử dụng phương tiện đi lại cần yếu tố này hơn ai hết. Nguyên tắc bao giờ cũng đi với cát tinh là tốt, hợp với chính tinh toạ thủ là tốt. Lạc hãm bất hợp là xấu trong trường hợp ấy là mau chết, mau gặp hoạ hoặc tai hoạ do sự nhanh mau, như đua xe lạng lách… Chết nhanh, chết mau mới khỏe mạnh đó mà đã chết rồi (Đốt giai đoạn Sinh lão bệnh tử. Từ Sinh chuyển qua Tử, chọc giận Đức Phật Thích Ca với học thuyết của Ngài)
HỎA LINH là bộ sao chủ nhanh mau khẩn cầp. Khẩn là HỎA, nhanh mau, cấp là LINH.
“HOẢ LINH miếu vi nhân đảm lược.” (Đảm lược: Gan dạ mưu mô)
Các đơn vị tinh nhuệ, em nào mà chẳng có 2 sao nầy ở MỆNH. Thậm chí vì yếu tố khẩn, khi ngủ không được cởi giày nửa kìa, còn máy bay nổ máy chờ sẵn. Nghèo thì xài xe 4 bánh, 2 bánh. Có câu chuyện khó tin mà có thật mới gần đây thôi, một xe cứu thương vì nhanh mau khẩn cấp gây ra tai nạn, nạn nhân là một em bé bị văng xa đến 20 mét. (xe cứu thương thường bịt bùng, sao văng được lạ là thế, dẫu sao thì em bé nầy “hưởng chữ’ 2 lần tai nạn. Đó là BINH KIẾP cách, nghe thôi phải hình dung được họa gì)
VŨ KHÍ NÓNG, VŨ KHÍ LANH:
* Vũ khí nóng là gì? Đây, sờ đi. Sao lạnh ngắt? Đem xài là nó nóng liền và gây ra tiếng ồn. Vũ khí lạnh đem ra sử dụng rồi cũng lạnh ngắt, lại không ồn ào. Cho nên có kẻ khoái cái nầy, kẻ thích cái kia. Không nói bạn cũng thừa hiểu vũ khí nóng thuộc HỎA TINH, vũ khí lạnh do LINH TINH quản lý. Các chiến binh không biết có đủ bộ LINH HỎA không mà chơi luôn cả 2 thứ vừa dao, vừa súng. Khi gắn vô súng gọi là lưỡi lê. Khi có một người tự xưng là chiến binh, ta phải kiểm tra vũ khí ngay, nếu có khả năng lá số ấy đúng. Thật là giản dị, không có gì khoa học hơn. Nhưng bí quyết đoán HỎA LINH khi nào là Vũ khí chưa tiết lộ đâu đừng bắt chước mà đoán bậy.
HOẢ TINH: chủ cháy, đốt.. LINH TINH: Chủ HÉO ÚA, NON YỂU, RƠI, RỚT, RỤNG:
Chủ: cháy, đốt, nổi lửa, khai hỏa… Tùy theo Hung Cát tinh để luận đoán. Khi tốt là đỏ lửa lên biến quặng thành kim loại. Khi xấu là tự đốt cháy nhà mình, tự đốt bản thân mình.
Sao Linh đóng tại mệnh lạc hãm lại gặp sát tinh chủ non yểu. Đi với cát tinh hay nhất là TỬ VI chủ mệnh lệnh. Cây cối sao héo úa thế, thế là một vụ mất mùa. Một mẩu đối thoại:
Cái gì rơi xuống thế. Một chiếc máy bay đang LINH TINH. LINH TINH là cái gì? Đang xoay lung tung không thấy sao? Thì nói rơi, rớt rụng đi. Dân TỬ VI nghe thoáng qua là hiểu rồi.
LINH TINH: Thuộc nhóm sao bất ngờ. HOẢ TINH: Thuộc nhóm sao khẩn cấp
Chủ: Lệnh lạc, sai khiến khẩn cấp. Bất ngờ khẩn cấp, đi với các sao bất ngờ khác, trở tay không kịp. So sánh với nhóm sao bất ngờ khác
CỰ MÔN: Chủ chẳng ngờ có vậy mà phản đối, ly tán, chia ly, đi xa. Cao nhất là làm phản.
THẤT SÁT: Chủ sự thất kinh liên quan đến sự mất và được. Không ngờ bị mất, không ngờ mà được
THIÊN KHÔNG: chủ không ngờ, cái mà ta tin tưởng nhất không thể xẩy ra thì nó lại xẩy ra.
LINH TINH: bất ngờ đến rụng rời chân tay tưởng chừng như trời đất sụp đổ. Một tin tức không may, một lịnh lạc không mong đợi. Một ngôi sao rối loạn tiền đình.
LƯU HÀ: Hà cớ vì sao? là một dấu hỏi to đùng. Nó thất lạc ở đâu? Nó còn hay mất?Tại sao tôi phải đi? Tại sao lại giữ tôi lại? ủa chỉ thế mà đổ máu?
PHI LIÊM: chủ bất ngờ thiên về thị phi tự nhiên từ đâu bay đến, tự nhiên vô cớ cải cọ. Nó cũng hoàn toàn bất ngờ từ đâu mà đến không biết một dị vật rơi trúng ta một hòn đá, một nhát dao, một viên đạn cho đến một HOẢ tiễn to đùng, quả bom ngàn tấn.
LINH TINH Chủ: LỆNH LẠC. HOẢ TINH Chủ: KHẨN CẤP. CHỦ: LỊNH KHẨN
LINH chủ lịnh lạc, HOẢ chủ khẩn cấp cần gặp cát tinh, quyền tinh, phù hợp nhất với TỬ VI, sao này chủ mật đi với LINH chủ mật lịnh, đi với HOẢ chủ khẩn mật. HOẢ chủ: Khẩn, nhanh, gấp, mau và đứng hàng đầu các sao cùng nhóm như PHI LIÊM. Sao LINH TINH chủ lịnh lạc đóng tại Mệnh là hợp cách nhất vì chủ MỆNH LỆNH phát xuất từ ta. Lịnh khẩn, lịnh mật, lịnh tối khẩn, lịnh tối mật cần đi với sao TỬ VI. Chỉ có sao TỬ VI hợp cách nhất mà thôi.
Lịnh Khẩn cần cho ai? Cần cho nhà lãnh đạo, lãnh tụ, các nhà quân sự. Vì vậy bộ HỎA LINH đối với khác trở thành nguy hiểm dễ gặp tai họa khẩn cấp mà thôi.
Khi tốt là mau giàu, giàu nhanh, mau phát tài, phát lộc, phát uy quyền.
Khi xấu là tai hoạ đến nhanh trở tay không kịp nhanh như hòn đạn, mũi tên.
TAI HỌA do LINH HỎA:
Tai họa rõ nhất về bộ sao nầy là sự Nóng Lạnh thất thường sinh ra bệnh tật thường gặp, cái dễ gặp hơn hết là sự nóng vội, nôn nóng, hấp tấp không suy nghĩ từ đó dễ xa cách nhau vì sự giận hờn bên kia vì lạnh nhạt, thứ ba là phỏng lửa, nước sôi, cháy nhà do HỎA. Điện giật sét đánh do LINH. Thứ 4 là do sự ưa nhanh chóng khi di chuyển, ưa nhanh mau khi làm giàu, ưa mau lên khi nắm quyền trong khi không đắc dụng (không sử dụng tốt 2 sao nầy) có thể biến thành điên loạn. Tai họa nhanh mau khi di chuyển.
Quả đất đang nóng dần lên là điều rất rõ nông dân, ngư dân… rất khổ về LINH HỎA. Khi nói đến cháy nổ phải nghĩ ngay đến LINH HỎA. Muốn chế ngự cơn giận ư phải có TRIỆT mới làm được việc đó, giận hờn chẳng giải quyết được gì. Khi giận hờn ai người viết 10 phần chỉ nói 1, 2 mà thôi, chứ không cạn tàu ráo máng. Giận nhất là lạnh tanh chẳng thèm nói, sau đó là nghe xin lỗi, xin lỗi… nói nhiều càng xin lỗi nhiều. Người viết chưa xin lỗi ai điều gì hết. Lúc họp hành cãi bằng thích, nếu không sau đó biến thành LỊNH phải làm, đôi khi được miễn trừ rất thú vị. Cấp trên đôi khi phải vòng vo: Nói điều nầy ra ai tin thì thôi không tin đừng phản đối. Thế là Đình TRIỆT HỎA.
TÓM LƯỢC VỀ LINH HOẢ:
Chủ: Lịnh lạc khẩn cấp. Bất ngờ khẩn trương. Nỗi giận phát điên. Nỗi điên đốt cháy. Lịnh đốt, lịnh nổi lửa. Lanh lợi nhanh mau. Nhiệt tình và lạnh lùng. Rơi rớt rụng.
ĐẮC HÃM ĐỊA:
HỎA LINH đắc ý tại các cung thuộc về ban ngày từ Dần đến Ngọ, và đắc ý khi có THAM LANG càng hợp lý nhất khi có TỬ VI. Vì thế có thể tốt tại Sửu Mùi nếu có THAM vì hợp bộ sao nầy.
Đương nhiên bất lợi các cung thuộc về đêm (Từ Thân Dậu Tuất Hợi Tí) vì sao? Ban đêm có lửa, ban đêm khẩn cấp, ban đêm lịnh lạc là dấu hiệu xấu toàn chuyện thất kinh.
Khi đã đắc ý chắc gì đã đắc dụng. Muốn biết đắc dụng là thế nào không? Ví dụ có thích dùng súng AK 72 không, Moa cho một cái xài chơi. Dĩ nhiên khối người không dám vì em là cư sỹ, là tu sỹ, em là phận gái chữ tòng… không dám đâu. Vậy thì đắc địa, đắc ý mà không đắc dụng coi chừng chết vì LINH HỎA không hiểu tại sao.
ST

SAO HỎA TINH

0

Sao Hỏa Tinh – Phần 1

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

Hành: Hỏa
Loại: Sát Tinh
Đặc Tính: Nóng nảy, táo bạo, liều lĩnh
Tên gọi tắt thường gặp: Hỏa
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa). Phân loại theo tính chất là Đoản Thọ Tinh.
Nếu sao Hỏa Tinh tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.
Đắc địa: Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Hãm địa: Tí, Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Hỏa Tinh là người có thân hình thô, xấu, tóc và lông màu vàng hay đỏ, thường có tỳ vết ở chân tay hay răng miệng, vóc người ốm.
Tính Tình
Người can đảm, dũng mãnh, có chí khí, tính tình nóng nảy, táo bạo, liều lĩnh.
Công Danh Tài Lộc
Sao Hỏa Tinh vốn là sát tinh nên sao này ít ý nghĩa tốt, trừ phi đắc địa ở các cung ban ngày (Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ) và nếu gặp thêm nhiều cát tinh.
Phúc Thọ Tai Họa
Hỏa Tinh dù hãm địa, nhưng gặp chính tinh đắc địa và hợp Mệnh cũng can đảm, nghiêm túc, hay ghen táo bạo, liều lĩnh. Nữ mệnh Âm, nam Thái Dương đắc địa, đẹp và nghiêm túc.
Những bất lợi trên đặc biệt xảy ra cho người có Mệnh đóng ở Tây (Dậu) và Bắc (Tí) có Hỏa Tinh hãm địa tọa thủ. Vì là sao Hỏa nên sự tác họa rất mau.
Vốn xấu vì hãm địa, Hỏa Tinh càng xấu khi gặp sát tinh, hãm địa khác:
Hỏa Tinh gặp Kình Dương: Công danh trắc trở, tài lộc kém, hay bị tai nạn.
Hỏa Tinh gặp Thiên Mã, Kình Dương, Đà La: Tay chân bị tàn tật.
Riêng việc giáp Hỏa Tinh cũng là biểu hiện của bại cách, suốt đời phải tha phương, bất đắc chí, bất mãn.
Những Bộ Sao Tốt
Người sinh năm Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, có Hỏa Tinh đắc địa là hợp cách, vì Hỏa Tinh là sao Hỏa, chịu ảnh hưởng của ban ngày, đắc địa ở Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ. Trong trường hợp này, nếu gặp nhiều cát tinh thì chắc chắn phú quý trọn đời.
Người mà ở cung Mệnh ở hướng Đông, Nam (tức là Mão và Ngọ) có Hỏa Tinh đắc địa tọa thủ cũng hợp cách, phú quý.
Nếu cung Mệnh ở hướng Tây (Dậu) và Bắc (Tí), có Hỏa Tinh đắc địa chiếu, cũng được phú quý nhưng không bền.
Hỏa Tinh là sao võ cách, đắc địa thì hiển hách về võ nghiệp. Nếu đồng cung và đắc địa thì càng đẹp hơn.
Những Bộ Sao Xấu
Sao Hỏa Tinh vốn là sát tinh, sao này hãm địa rất xấu về các phương diện tính tình, bệnh lý, tai họa, phúc thọ.
Hỏa Tinh Khi Vào Các Hạn
Hỏa Tinh đắc địa, thì hỷ sự về tiền bạc hay công danh một cách nhanh chóng.
Hỏa Tinh hãm địa, thì có tang, hay bệnh hoạn, bị kiện, mất của, truất quan, hoặc phỏng đồ nóng, hoặc cháy nhà (nếu có thêm Tang Môn), có thể bị loạn trí, điên cuồng.
Ảnh hưởng của Hỏa Linh phải kể là nghiêm trọng. Tỉ dụ Mệnh cung VCD, Hỏa Tinh hay Linh Tinh độc thủ thì quan hệ với những người sinh thành không mấy tốt đẹp, hoặc mồi côi hoặc bố mẹ chia lìa, hoặc đi làm con nuôi, hoặc không gần gũi phải ở với ông bà nội ngoại, chú bác cô dì, hoặc như Lã Bố làm con ba họ.
Trường hợp Hỏa Linh đóng ngay vào Phụ mẫu cung, nhưng chính tinh của cung này tốt lại thấy cả Lộc Mã thì phải đoán rằng thủa nhỏ đi theo bố mẹ đến một dị vực (phương xa) tạo điều biến đổi cho cả cuộc đời về sau (tỉ dụ lần du cư Tỵ nạn sang Mỹ)
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến
Tỉ dụ như Hỏa Linh vào Điền Trạch đều đưa đến tai hoạ về nhà cửa: cháy nhà, bị đoạt nhà. nếu Hỏa Tinh thì cháy nhà xảy đến bằng tai nạn vô ý. nếu Linh Tinh thì xảy đến bằng có kẻ đốt nhà. Âm mưu đoạt nhà đều vì Linh Tinh chứ không phải do Hỏa Tinh
Hỏa Linh vào cung Tật Ách thì hỏa bệnh thuộc thực và rõ rệt. Linh Tinh bệnh thuộc hư và âm trầm.
Hỏa Linh đóng mệnh tuổi trẻ đã ly hương. Ở cung Phụ mẫu, tuổi nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia lìa. Để tìm hiểu cặn kẽ vẫn phải căn cứ vào nguyên tắc “Hỏa minh Linh ám” mà đoán Hỏa và Linh đều rất hợp với sao Tham Lang.
Tại sao? Vì Hỏa Linh thuộc hỏa mà Tham Lang là Dương Mộc, Mộc sinh Hỏa. Tham Lang có Hỏa hay Linh thêm Lộc Tồn, hoặc Hóa Lộc chủ về hoạnh phát tiền bạc. Nếu thấy cả Không Kiếp chen vào thì bạo phát rồi bạo bại.
Tham Linh không hay bằng Tham Hỏa. Cổ nhân nói “Tham Linh tịnh thủ tướng chi danh (Tham Lang Linh Tinh đồng cung đác địa làm tướng văn tướng võ) cho người ta cảm tưởng rằng Linh đi với Tham tốt hơn Hỏa đi với Tham
Thực ra không phải vậy, Hỏa gặp Tham là minh Hỏa, Linh gặp Tham là ám hỏa. Hỏa cần phải sáng sủa, không nên tối ám. Bởi thế khi viết vào chi tiết cổ nhân mới thêm:”Hỏa Tinh mà hội hợp với Tham Lang ở vượng địa chức tới tước hầu và thượng tướng, lập công lớn nếu không bị hung sát phá, tuổi trung niên thành công”
Còn với Linh Tinh thì cổ nhân viết:”Ngộ Tham Lang tú, quan lộc diệc bất ninh nhược phùng cư vượng địa, phú quí bất khả luận”. Linh và Hỏa đứng với Tham Lang đều đi tới chổ thành đạt phú quí hơn người, nhưng riêng Linh Tinh cổ nhân phê mấy chữ “diệc bất ninh” trong khi với Hỏa tinh thì không phê mấy chữ này. Bất ninh là không yên. Tham Linh thường phải ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn hơn Hỏa minh Linh ám càng rõ rệt khi chúng hiện vào các cung tử tức, nô bộc. Cung tử tức không chính tinh Hỏa tinh đơn thủ, nếu đối cung có chính diệu hay thì vẫn sinh con được, không sợ tuyệt tự. Nhưng nếu là Linh Tinh thì bà thứ sinh con cho chứ không phải chính thê.
Hỏa Tinh đóng nô bộc với Hình Kị thì chỉ bị bộ hạ oán ghét nhưng không mưu hại. Còn bị LinhTinh thì chẳng những căm giận mà còn âm mưu phản bội dẫn họa tới.
Hỏa Linh đi với Dương Đà lại biến ra những ý nghĩa khác. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi vớiHỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
Có câu phú rằng “Kình Dương Linh Tinh vi hạ cách (Kình Dương đứng với Linh Tinh là hạ cách). Trong khi Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì lại có câu phú khác “Dương Hỏa đồng cung uy quyền cuất chúng” (Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì oai quyền. Dĩ nhiên phải là Kinh Dương đắc địa)
Hỏa Linh đứng thế hiệp Mệnh, nghĩa là Mệnh cung ở giữa hai phía sát bên là Hỏa Linh. Cách cục này phải kể như xấu, đưa tới hung tọa bất an, cuộc đời bôn ba nếu Mệnh cung chính tinh xấu càng nặng. Trường hợp Mệnh cung Tham Lang độc thủ nơi miếu vượng thì lại là cách hoạnh phát bạo phát. Trường hợp Hỏa Linh hiệp Kình Dương ở Mệnh thì vẫn thành công nhưng cực kỳ gian nan.
Những câu phú cổ nhân về Hỏa Linh còn thấy:
– Vũ Khúc Dương Đà kiêm hỏa tú, táng mệnh nhân tài
(Mệnh hoặc vận hạn có Vũ Khúc Kình Đà Hỏa tinh vì tiền mà tang mạng)
– Hỏa Linh thủ xung nữ dâm dục
(Hỏa Linh đóng Mệnh cung hoặc xung chiếu đàn bà đa dâm)
– Thất Sát LinhTinh trận vong yểu triết
(Thất Sát gặp LinhTinh số không thọ, thường hung tử)
– Linh Tinh Phá Quân bôn ba lao bác tài tinh khuynh
(Linh Tinh Phá Quân hãm cuộc đời long đong vất vả và tiền bạc phá bại)
– Linh Hỏa Dương Đà thủ Mệnh yêu đã bối khúc chi nhân
(Tại Mệnh hội tụ Kình Đà Linh Hỏa dễ bị tật như còng lưng)
– Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa Linh ở Mệnh nơi miếu địa công danh hiển hách)
– Linh Tinh toạ Mệnh nhập miếu vũ chức cư đa
(Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà)
– Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà
(Vận hạn thấy Linh Tinh hãm gặp Đà La Vũ Khúc hãm hay Văn Xương có thể chết)
– Hỏa Linh dũ Phá đương Thân, bại điền tài ư tổ nghiệp
(Hỏa Linh đứng với Phá Quân ở Thân không phải cung Thân thường phá điền tài của tổ nghiệp)
– Linh Hỏa miếu vi nhân đại dởm
(Linh Hỏa thủ Mệnh miếu địa là người can trường to gan)
– Hỏa Linh Dương Đà vi tứ sát đơn phùng Cơ nhi hữu duyên
(Tứ Sát Hỏa Linh Dương Đà một trong bốn sát ấy gặp Thiên Cơ là người có duyên).
– Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng
(Hỏa Linh ưa gây họa gặp thêm Kiếp Không ở chỗ Thiên Sứ họa còn gấp bội)
– Linh phùng Sứ, Mã hội Dương Đà hữu tật tứ chi
(Cung Tật ách nơi sao Thiên Sứ đóng lại thấy cả Dương Đà chân tay có tật)
– Hỏa Linh hãm ư tử tức đáo lão vô nhị khốc
(Hỏa Linh hãm vào cung tử tức, hiếm con hoặc lúc già xa con)
– Linh Hỏa Hình Tang tối hiềm tử tức, hạnh ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh lão lai tất hữu
(Linh Hỏa Hình Tang ở cung con, nếu như có Nhật Nguyệt song hữu thì khi về già cũng có người nối dõi)
– Hỏa Linh nhập Mệnh miếu, kiến chư cát, lập vũ công
(Hỏa Tinh hay Linh Tinh miếu địa đóng mệnh gặp thêm các cát tinh lập đựơc võ công)
– Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa với Linh đồng cung ở đất miếu danh tiếng khắp nơi)
– Hỏa Linh hãm hội Dương Đà bảo cưỡng tai thâm.
(Hỏa Linh ở đất hãm gặp Kình Đà thì lúc nhỏ lắm bệnh tật)
– Nữ Mệnh Hỏa Tinh tâm độc, nội lang, khắc phu khắc tử
(Đàn bà Hỏa Tinh thủ mệnh giỏi tháo vát nhưng tâm độc và dữ dằn khắc chồng khắc con)
– Đà La Hỏa Linh đồng cung giới dịch chi tật
(Mệnh hay Tật Ách có Đà La Hỏa Linh dễ mắc chứng phong ngứa, sưng gan)
– “Hỏa Linh ngộ hãm Thiên Cơ
Hẳn trong Mệnh ấy có tà chứ không”
(Hỏa Linh hãm gặp Thiên Cơ hãm, người thật khùng như bị ma làm)
– “Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi
Lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần”
– “Hỏa Linh ngộ Mã oán gia
Đề phòng hỏa hoạn mới là khỏi tai”
– “Linh Tinh Việt Hỏa đoài biên
Thạch trung hương hỏa thất kiềm sinh tai”
(Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Việt ở Dậu dễ bị tai họa về nhà cửa)
– “Kiếp Không da ắt đen hoàn
Hỏa Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày”
(Mệnh Hỏa Linh mặt mày ít tươi tỉnh, thường xấc sược, giận dữ)
– “Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ
Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương”
– “Tuất Thìn Xương Khúc Đà Linh
Sát gia Mệnh hạn gieo mình trầm vong”
– “Kình Dương Kị Hỏa một bài
Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh”
– “Dương Linh toạ thủ Mệnh ai
Lại gặp Bạch Hổ hoạ tai đao hình”
– “Linh phùng Sát Phá hạn hành
Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung”
– “Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung “
(Linh Tinh ở cung Phu thê có vợ hay chồng hà tiện)
– “Kiếp Không Linh Hỏa xấu xa
Sinh con lại gặp những lại gặp những tà ác tinh”
(Kiếp Không Linh Hỏa vào tử tức hiếm con, con bất hiếu, bất mục)
– “Bóng tà vẫn kém hào con
Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn”
– “Hỏa Linh Dương Nhẫn lâm vào
Có sinh con cũng liệt vào tật thương”
– “Thiên Hình giữ của tốt sao
Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen”
(Linh Tinh đây ở cung Tài Bạch)
– “Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
Hại người tổn vật mấy lần họa sinh.”
ST

SAO LINH TINH

0

Sao Linh Tinh

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

Hành: Hỏa
Loại: Hung Sát Tinh
Đặc Tính: Độc ác, sát phạt, cô bần, tai nạn
Tên gọi tắt thường gặp: Linh
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
Đắc địa: Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Hãm địa: Tí, Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Linh Tinh là người có thân hình thô, xấu, tóc và lông màu vàng hay đỏ, thường có tỳ vết ở chân tay hay răng miệng, vóc người ốm.
Tính Tình

Người can đảm, dũng mãnh, có chí khí, tính tình nóng nảy, táo bạo, liều lĩnh.
Công Danh Tài Lộc
Sao Linh Tinh vốn là sát tinh nên sao này ít ý nghĩa tốt, trừ phi đắc địa ở các cung ban ngày (Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ) và nếu gặp thêm nhiều cát tinh.
Phúc Thọ Tai Họa
Linh Tinh dù hãm địa, nhưng gặp chính tinh đắc địa và hợp Mệnh cũng can đảm, nghiêm túc, hay ghen táo bạo, liều lĩnh. Nữ mệnh Âm, nam Thái Dương đắc địa, đẹp và nghiêm túc.
Những bất lợi trên đặc biệt xảy ra cho người có Mệnh đóng ở Tây (Dậu) và Bắc (Tí) có Linh Tinh hãm địa tọa thủ. Vì là sao Hỏa nên sự tác họa rất mau.
Vốn xấu vì hãm địa, Linh Tinh càng xấu khi gặp sát tinh, hãm địa khác:
Linh Tinh gặp Kình Dương: Công danh trắc trở, tài lộc kém, hay bị tai nạn.
Linh Tinh gặp Thiên Mã, Kình Dương, Đà La: Tay chân bị tàn tật.
Riêng việc giáp Linh Tinh cũng là biểu hiện của bại cách, suốt đời phải tha phương, bất đắc chí, bất mãn.
– Linh tinh đắc địa : can đảm, mọi sự việc thường bị trắc trở.
– Linh cư Mão, Dậu ngộ Tham : công danh hoạnh phát
– Linh cư Sửu Mùi ngộ Tham : tuổi Mậu kỷ làm nên danh tướng.
– Linh, Hỏa, Kình, Đà (tứ sát) thủ Mệnh : Mệnh cát Phúc hãm : gian tà biển lận. – Tứ sát cập Cự : dâm dật.
(Linh cũng như Hỏa và thường đi đôi với nhau mới có hiệu lực lớn. Vậy hãy xem lại chỗ nói về Hỏa tinh .)
Những Bộ Sao Tốt
Người sinh năm Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, có Linh Tinh đắc địa là hợp cách, vì Linh Tinh là sao Hỏa, chịu ảnh hưởng của ban ngày, đắc địa ở Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ. Trong trường hợp này, nếu gặp nhiều cát tinh thì chắc chắn phú quý trọn đời.
Người mà ở cung Mệnh ở hướng Đông, Nam (tức là Mão và Ngọ) có Linh Tinh đắc địa tọa thủ cũng hợp cách, phú quý.
Nếu cung Mệnh ở hướng Tây (Dậu) và Bắc (Tí), có Linh Tinh đắc địa chiếu, cũng được phú quý nhưng không bền.
Linh Tinh là sao võ cách, đắc địa thì hiển hách về võ nghiệp. Nếu đồng cung và đắc địa thì càng đẹp hơn.
Những Bộ Sao Xấu
Sao Linh Tinh vốn là sát tinh, sao này hãm địa rất xấu về các phương diện tính tình, bệnh lý, tai họa, phúc thọ.
Linh Tinh Khi Vào Các Hạn
Linh, Xương, Vũ, La : phòng chết trôi.
Linh, Việt : phòng điện, sét.
Linh, Sát, Phá : phòng bị tù.
Linh Tinh đắc địa, thì hỷ sự về tiền bạc hay công danh một cách nhanh chóng.
Linh Tinh hãm địa, thì có tang, hay bệnh hoạn, bị kiện, mất của, truất quan, hoặc phỏng đồ nóng, hoặc cháy nhà (nếu có thêm Tang Môn), có thể bị loạn trí, điên cuồng.
Ảnh hưởng của Hỏa Linh phải kể là nghiêm trọng. Tỉ dụ Mệnh cung VCD, Hỏa Tinh hay Linh Tinh độc thủ thì quan hệ với những người sinh thành không mấy tốt đẹp, hoặc mồi côi hoặc bố mẹ chia lìa, hoặc đi làm con nuôi, hoặc không gần gũi phải ở với ông bà nội ngoại, chú bác cô dì, hoặc như Lã Bố làm con ba họ.
Trường hợp Hỏa Linh đóng ngay vào Phụ mẫu cung, nhưng chính tinh của cung này tốt lại thấy cả Lộc Mã thì phải đoán rằng thủa nhỏ đi theo bố mẹ đến một dị vực (phương xa) tạo điều biến đổi cho cả cuộc đời về sau (tỉ dụ lần du cư Tỵ nạn sang Mỹ)
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến
Tỉ dụ như Hỏa Linh vào Điền Trạch đều đưa đến tai hoạ về nhà cửa: cháy nhà, bị đoạt nhà. nếu Hỏa Tinh thì cháy nhà xảy đến bằng tai nạn vô ý. nếu Linh Tinh thì xảy đến bằng có kẻ đốt nhà. Âm mưu đoạt nhà đều vì Linh Tinh chứ không phải do Hỏa Tinh
Hỏa Linh vào cung Tật Ách thì hỏa bệnh thuộc thực và rõ rệt. Linh Tinh bệnh thuộc hư và âm trầm.
Hỏa Linh đóng mệnh tuổi trẻ đã ly hương. Ở cung Phụ mẫu, tuổi nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia lìa. Ở Phu Thê cung vợ chồng phân tán. Để tìm hiểu cặn kẽ vẫn phải căn cứ vào nguyên tắc “Hỏa minh Linh ám” mà đoán Hỏa và Linh đều rất hợp với sao Tham Lang.
Tại sao? Vì Hỏa Linh thuộc hỏa mà Tham Lang là Dương Mộc, Mộc sinh Hỏa. Tham Lang có Hỏa hay Linh thêm Lộc Tồn, hoặc Hóa Lộc chủ về hoạnh phát tiền bạc. Nếu thấy cả Không Kiếp chen vào thì bạo phát rồi bạo bại.
Tham Linh không hay bằng Tham Hỏa. Cổ nhân nói “Tham Linh tịnh thủ tướng chi danh (Tham Lang Linh Tinh đồng cung đác địa làm tướng văn tướng võ) cho người ta cảm tưởng rằng Linh đi với Tham tốt hơn Hỏa đi với Tham
Thực ra không phải vậy, Hỏa gặp Tham là minh Hỏa, Linh gặp Tham là ám hỏa. Hỏa cần phải sáng sủa, không nên tối ám. Bởi thế khi viết vào chi tiết cổ nhân mới thêm:”Hỏa Tinh mà hội hợp với Tham Lang ở vượng địa chức tới tước hầu và thượng tướng, lập công lớn nếu không bị hung sát phá, tuổi trung niên thành công”
Còn với Linh Tinh thì cổ nhân viết:”Ngộ Tham Lang tú, quan lộc diệc bất ninh nhược phùng cư vượng địa, phú quí bất khả luận”. Linh và Hỏa đứng với Tham Lang đều đi tới chổ thành đạt phú quí hơn người, nhưng riêng Linh Tinh cổ nhân phê mấy chữ “diệc bất ninh” trong khi với Hỏa tinh thì không phê mấy chữ này. Bất ninh là không yên. Tham Linh thường phải ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn hơn Hỏa minh Linh ám càng rõ rệt khi chúng hiện vào các cung tử tức, nô bộc. Cung tử tức không chính tinh Hỏa tinh đơn thủ, nếu đối cung có chính diệu hay thì vẫn sinh con được, không sợ tuyệt tự. Nhưng nếu là Linh Tinh thì bà thứ sinh con cho chứ không phải chính thê.
Hỏa Tinh đóng nô bộc với Hình Kị thì chỉ bị bộ hạ oán ghét nhưng không mưu hại. Còn bị LinhTinh thì chẳng những căm giận mà còn âm mưu phản bội dẫn họa tới.
Hỏa Linh đi với Dương Đà lại biến ra những ý nghĩa khác. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi vớiHỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
Có câu phú rằng “Kình Dương Linh Tinh vi hạ cách (Kình Dương đứng với Linh Tinh là hạ cách). Trong khi Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì lại có câu phú khác “Dương Hỏa đồng cung uy quyền cuất chúng” (Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì oai quyền. Dĩ nhiên phải là Kinh Dương đắc địa)
Hỏa Linh đứng thế hiệp Mệnh, nghĩa là Mệnh cung ở giữa hai phía sát bên là Hỏa Linh. Cách cục này phải kể như xấu, đưa tới hung tọa bất an, cuộc đời bôn ba nếu Mệnh cung chính tinh xấu càng nặng. Trường hợp Mệnh cung Tham Lang độc thủ nơi miếu vượng thì lại là cách hoạnh phát bạo phát. Trường hợp Hỏa Linh hiệp Kình Dương ở Mệnh thì vẫn thành công nhưng cực kỳ gian nan.
Những câu phú cổ nhân về Hỏa Linh còn thấy:
– Vũ Khúc Dương Đà kiêm hỏa tú, táng mệnh nhân tài
(Mệnh hoặc vận hạn có Vũ Khúc Kình Đà Hỏa tinh vì tiền mà tang mạng)
– Hỏa Linh thủ xung nữ dâm dục
(Hỏa Linh đóng Mệnh cung hoặc xung chiếu đàn bà đa dâm)
– Thất Sát LinhTinh trận vong yểu triết
(Thất Sát gặp LinhTinh số không thọ, thường hung tử)
– Linh Tinh Phá Quân bôn ba lao bác tài tinh khuynh
(Linh Tinh Phá Quân hãm cuộc đời long đong vất vả và tiền bạc phá bại)
– Linh Hỏa Dương Đà thủ Mệnh yêu đã bối khúc chi nhân
(Tại Mệnh hội tụ Kình Đà Linh Hỏa dễ bị tật như còng lưng)
– Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa Linh ở Mệnh nơi miếu địa công danh hiển hách)
– Linh Tinh toạ Mệnh nhập miếu vũ chức cư đa
(Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà)
– Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà
(Vận hạn thấy Linh Tinh hãm gặp Đà La Vũ Khúc hãm hay Văn Xương có thể chết)
– Hỏa Linh dũ Phá đương Thân, bại điền tài ư tổ nghiệp
(Hỏa Linh đứng với Phá Quân ở Thân không phải cung Thân thường phá điền tài của tổ nghiệp)
– Linh Hỏa miếu vi nhân đại dởm
(Linh Hỏa thủ Mệnh miếu địa là người can trường to gan)
– Hỏa Linh Dương Đà vi tứ sát đơn phùng Cơ nhi hữu duyên
(Tứ Sát Hỏa Linh Dương Đà một trong bốn sát ấy gặp Thiên Cơ là người có duyên).
– Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng
(Hỏa Linh ưa gây họa gặp thêm Kiếp Không ở chỗ Thiên Sứ họa còn gấp bội)
– Linh phùng Sứ, Mã hội Dương Đà hữu tật tứ chi
(Cung Tật ách nơi sao Thiên Sứ đóng lại thấy cả Dương Đà chân tay có tật)
– Hỏa Linh hãm ư tử tức đáo lão vô nhị khốc
(Hỏa Linh hãm vào cung tử tức, hiếm con hoặc lúc già xa con)
– Linh Hỏa Hình Tang tối hiềm tử tức, hạnh ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh lão lai tất hữu
(Linh Hỏa Hình Tang ở cung con, nếu như có Nhật Nguyệt song hữu thì khi về già cũng có người nối dõi)
– Hỏa Linh nhập Mệnh miếu, kiến chư cát, lập vũ công
(Hỏa Tinh hay Linh Tinh miếu địa đóng mệnh gặp thêm các cát tinh lập đựơc võ công)
– Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa với Linh đồng cung ở đất miếu danh tiếng khắp nơi)
– Hỏa Linh hãm hội Dương Đà bảo cưỡng tai thâm.
(Hỏa Linh ở đất hãm gặp Kình Đà thì lúc nhỏ lắm bệnh tật)
– Nữ Mệnh Hỏa Tinh tâm độc, nội lang, khắc phu khắc tử
(Đàn bà Hỏa Tinh thủ mệnh giỏi tháo vát nhưng tâm độc và dữ dằn khắc chồng khắc con)
– Đà La Hỏa Linh đồng cung giới dịch chi tật
(Mệnh hay Tật Ách có Đà La Hỏa Linh dễ mắc chứng phong ngứa, sưng gan)
– “Hỏa Linh ngộ hãm Thiên Cơ
Hẳn trong Mệnh ấy có tà chứ không”
(Hỏa Linh hãm gặp Thiên Cơ hãm, người thật khùng như bị ma làm)
– “Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi
Lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần”
– “Hỏa Linh ngộ Mã oán gia
Đề phòng hỏa hoạn mới là khỏi tai”
– “Linh Tinh Việt Hỏa đoài biên
Thạch trung hương hỏa thất kiềm sinh tai”
(Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Việt ở Dậu dễ bị tai họa về nhà cửa)
– “Kiếp Không da ắt đen hoàn
Hỏa Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày”
(Mệnh Hỏa Linh mặt mày ít tươi tỉnh, thường xấc sược, giận dữ)
– “Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ
Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương”
– “Tuất Thìn Xương Khúc Đà Linh
Sát gia Mệnh hạn gieo mình trầm vong”
– “Kình Dương Kị Hỏa một bài
Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh”
– “Dương Linh toạ thủ Mệnh ai
Lại gặp Bạch Hổ hoạ tai đao hình”
– “Linh phùng Sát Phá hạn hành
Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung”
– “Phu cung Riêu Sát Kình Dương
Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng”
– “Cự Môn Linh Hỏa tương phùng
Ba lần mối lái chẳng xong mối sầu”
(Linh Hỏa đây đóng vào cung Phu thê)
– “Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung “
(Linh Tinh ở cung Phu thê có vợ hay chồng hà tiện)
– “Kiếp Không Linh Hỏa xấu xa
Sinh con lại gặp những lại gặp những tà ác tinh”
(Kiếp Không Linh Hỏa vào tử tức hiếm con, con bất hiếu, bất mục)
– “Bóng tà vẫn kém hào con
Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn”
– “Hỏa Linh Dương Nhẫn lâm vào
Có sinh con cũng liệt vào tật thương”
– “Thiên Hình giữ của tốt sao
Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen”
(Linh Tinh đây ở cung Tài Bạch)
– “Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
Hại người tổn vật mấy lần họa sinh.”
Hỏa Tinh ở Dần Ngọ Tuất là miếu địa. Hỏa Tinh tại Tỵ Dậu Sửu là đắc địa. Hỏa Tinh vào Hợi Mão Mùi là lợi địa. Hỏa Tinh đứng Thân Tí Thìn là hãm địa.
Linh Tinh đóng Dần Ngọ Tuất, Thìn, Tỵ, Mùi là miếu địa. Linh Tinh hãm ở Tí Hợi Dậu Sửu
Hỏa – Linh có sức phấn đấu mạnh mẽ, nhưng đồng thời lại mang tính phá hoại, không thích bị bó buộc. Do Hỏa Linh quá mức cương cường, nếu như không được sao thích hợp chế phục, thường chủ thuở nhỏ nhiều bệnh tật tai họa, nên đổi họ, cho người khác làm con nuôi. Nếu lại thêm các sát tinh khác công phá mà không được cát tinh trợ giúp, dễ dẫn tới tàn tật.
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến.
Hỏa – Linh tuy là sát tinh, nhưng không phải hung hoàn toàn, cần phải xem có sao nào có thể chế phục hoặc lợi dụng được nó hay không, nếu có sẽ chuyển hung thành cát.
Nếu Hỏa – Linh Tinh đi cùng Thất Sát hoặc Kình – Đà La miếu vượng thì chúng có thể chế ngự hung tính của nhau, tuy vẫn khó tránh gian nan vất vả, nhưng vẫn có được những thành tựu mang tính đột phá hoặc sáng tạo.
Với Kình – Đà. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh.
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi với Hỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
Nếu Hỏa – Linh đắc địa cùng tử vi thì Hỏa – Linh sẽ thần phục trước đế tinh tử vi mà giảm bớt sức phá hoại.
Hỏa – Linh tốt nhất là được đồng cung với Tham Lang miếu vượng tại tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi, sẽ tạo thành cách “Hỏa/Linh Tham”, chúng sẽ kiềm chế lẫn nhau để phát huy tính thiện, ức chế ác tính, nên thường sẽ gặp thời cơ tốt để phát triển nhanh chóng. Nếu lại gặp sao Hóa Lộc của Tham Lang, chủ về đại phú đại quý, có được uy quyền nhanh chóng.
Hỏa – Linh độc thủ tại Mệnh dù nam hay nữ đều chủ về có những thiên hướng phát triển đặc thù, sự nghiệp có thành tựu, nhưng khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Hỏa – Linh đắc địa, lại được lục cát bổ trợ sẽ càng có cát lợi. Nếu không, thường là chóng phất chóng bại, mệnh nữ hôn nhân trắc trở.
Do sức mạnh của Hỏa – Linh quá lớn, nên ngoài các sao tử vi, Thất Sát, Tham Lang, Kình – Đà, những sao khác gặp phải Hỏa Tinh đều tăng thêm phần gian nan trắc trở, nếu những sao đó lại lạc hãm, thì mức độ càng nghiêm trọng.
Hỏa Linh ở cung Mệnh chủ cuộc đời chìm nổi, đặc biệt là bất lợi lúc nhỏ tuổi, nhưng nếu có cát tinh thì chủ làm quân nhân cảnh sát mà thành danh, hoặc bạo phát.
Hỏa Linh cung tài bạch, có cát tinh thì bạo phát, không có cát tinh thì tài vận rất xấu, hoặc phát rồi lại lụn bại.
Hỏa Linh cung quan lộc, có lợi làm quân nhân cảnh sát, hoặc có lợi về đầu cơ, nếu không gặp cát tinh thì gặp nhiều trắc trở.
ST

HỎA TINH VÀ LINH TINH – TOÀN THƯ

0

Hỏa tinh và Linh tinh – Toàn thư

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

      Hỏa Tinh
      Thuộc tính ngũ hành của Hỏa tinh là dương hỏa, là sát tinh thứ nhất của chòm Nam Đẩu, hóa khí là sát chủ về tính cương, quyết liệt, phá hoại và nóng vội. Là một trong sáu Sát tinh, Hỏa tinh có sức phấn đấu mạnh mẽ, nhưng đồng thời lại mang tính phá hoại, không thích bị bó buộc. Do Hỏa tinh quá mức cương cường, nếu như không được các sao thích hợp chế phục, chủ về thủa nhỏ nhiều bệnh tật tai họa, nên đổi họ, cho người khác làm con nuôi. Nếu lại có thêm các sát tinh khác công phá mà không được cát tinh trợ giúp, dễ dẫn đến tàn tật.Hỏa tinh là sát tinh, nhưng không phải là hung hoàn toàn, cũng không cát hoàn toàn, cần phải quan sát xem có sao nào có thể chế phục, hoặc lợi dụng được nó hay không, nếu có sẽ chuyển hung thành cát. Nếu Hỏa tinh cùng Thất sát, hoặc Kình dương nằm tại cung miếu vượng, thì có thể chế ngự được hung tính của nhau, tuy vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả, nhưng vẫn có được những thành tựu mang tính đột phá hoặc sáng tạo. Nếu như miếu vượng lại đồng cung với Tử vi, thì Hỏa tinh sẽ thần phục trước Đế tọa mà giảm bớt sức phá hoại. Hỏa tinh tốt nhất là được đồng cung với sao Tham lang nhập miếu tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, sẽ tạo thành cách Hỏa Tham, nếu cả hai sao cùng nhập miếu thì chúng sẽ kiềm chế lẫn nhau để phát huy tính thiện, ức chế tính ác nên thường sẽ gặp thời cơ tốt để phát triển nhanh chóng. Nếu lại gặp sao Hóa Lộc của Tham lang (năm Mậu), sẽ chủ về đại phú quý, có được uy quyền nhanh chóng.

Hỏa tinh đứng một mình tại cung Mệnh, dù là nam hay nữ, đều chủ về có những thiên hướng phát triển đặc thù, sự nghiệp có thành tựu, nhưng khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Hỏa tinh nhập miếu, lại có được sáu Cát tinh bổ trợ, thì càng thêm cát lợi. Nếu không, thường là chóng phất chóng bại, nữ mệnh hôn nhân trắc trở. Do sức mạnh của Hỏa tinh quá lớn, nên ngoài các sao Tử vi, Thất sát, Tham lang, Kình dương, những sao khác nếu gặp phải Hỏa tinh đều tăng thêm phần gian nan trắc trở, neus những sao đó còn thêm lạc hãm thì mức độ bất lợi càng trở nên nghiêm trọng.

Linh Tinh
      Thuộc tính ngũ hành của Linh tinh là âm hỏa, là sát tinh thứ hai trong chòm Nam Đẩu, hóa khí là sát chủ về tính liệt. Tính chất của Linh tinh cũng tương tự như Hỏa tinh, nhưng uy và lực không bằng Hỏa tinh, có phần hư nhược, nhưng nếu không gặp Tử vi, Thất sát, Tham lang chế phục, vẫn chủ về thủa nhỏ nhiều tai họa bệnh tật, khó nuôi, cần phải đổi họ, cho làm con nuôi. Nếu không được Cát tinh phù trợ, lại bị Sát tinh công phá, dễ dẫn đến tàn tật.

Nếu Linh tinh đồng cung với Tử vi nhập miếu, thì Linh tinh sẽ thần phục Đế tinh mà giảm thiểu tai hại. Nếu Linh tinh đồng cung với Thất sát, sẽ bị chế ngự trước quyền và uy của Thất sát mà giảm bớt lực phá hoại. Linh tinh nếu rơi vào Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và đồng cung với Tham lang nhập miếu sẽ tạo thành cách Linh Tham, cả hai đều nhập miếu sẽ tương tác bổ trợ lẫn nhau, thường gặp cơ hội tốt để phát triển mạnh, nếu như lại gặp sao Hóa Lộc của Tham lang, sẽ được tài đột ngột làm nên sự nghiệp.

Nếu Linh tinh đứng một mình tại cung Mệnh, dù là nam hay nữ, đều chủ về có thành tựu đặc thù cho sự nghiệp, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Linh tinh miếu vượng, tại cung Tam phương Tứ chính có chủ tinh tốt đẹp đắc địa, hoặc sáu Cát tinh hiệp trợ thì sẽ càng cát lợi., nếu không dễ chóng phát chóng bại, tai họa triền miên, mệnh nữ hôn nhân nhiều trắc trở. Ngoài các sao Tử vi, Thất sát, Tham lang, những sao khác nếu gặp phải Linh tinh sẽ chuốc thêm nhiều trắc trở gian nan, đặc biệt khi chúng lạc hãm thì lại càng thêm bất lợi.

ST

HỎA TINH VÀ LINH TINH – VƯƠNG ĐÌNH CHI

0
Hỏa tinh và Linh tinh – Vương Đình Chi

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

       Hỏa tinh thuộc dương Hỏa, Linh tinh thuộc âm Hỏa. Cho nên có thuyết “Hỏa minh Linh ám”, có nghĩa là Hỏa tinh mang lại điều không hay từ mặt chính diện, ngoài sáng; còn Linh tinh thì ngầm mang lại tại hại, trong tối.

Cũng do bản chất này, nên khi Hỏa tinh và Kình dương đồng độ, thì chủ về “kích phát”, còn khi Linh tinh và Đà la đồng độ, thì chủ về “trui rèn”.
Hễ Hỏa tinh hoặc Linh tinh ở cung Mệnh, hoặc ở cung Phụ mẫu, chủ về khi còn bé, đã chia ly với gia đình, hoặc là làm con thừa tự người khác.
Hỏa tinh thủ Mệnh, hoặc thủ cung Phụ mẫu, gặp các sao Phụ diệu Tá diệu không đủ “cặp đôi” (sao lẻ), thì chủ về cha mẹ lưỡng trùng, có hai họ, hoặc cha mất sớm.
Hỏa tinh ưa đồng độ với Tham lang, chủ về đời người tích cực tiến thủ
Tinh hệ Tử Sát cũng ưa Hỏa tinh đồng độ ở một cung, gặp thêm Kình dương thì càng đẹp, cũng chủ về tích cực tiến thủ, có điều không bằng Hỏa Tham hóa Lộc, đây là  cách có thể phát lên một cách nhanh chóng (Tử vi tọa mệnh, đến cung hạn Thất sát, cũng chủ về đột nhiên biến thành hanh thông, nhưng không bằng “Hỏa Tham” chủ về kiếm được tiền).
Hai kết cấu sao thuật ở trên, không nên có Đà la đồng độ, nếu không sẽ biến thành “cách phá cục“, chủ về phá hoại.
Hỏa tinh bay đến cung có tinh hệ ổn định (như Tử vi, “Tử Phủ”, Thiên phủ, Thiên lương, .v.v…), có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, có thể khiến tinh hệ chính diệu thiên về phát triển tính “cương”. Ví dụ như tinh hệ “Thái dương Thiên lương” chỉ có tính chủ quan, thêm Hỏa tinh thì có tính ngoan cố.
Uy lực của Linh tinh kém hơn Hỏa tinh, nhưng là âm hỏa nên Linh tinh chủ về kéo khá dài, vì vậy mang đến tai nạn cũng có tính lâu dài. Ví dụ như Hỏa tinh phần nhiều mang đến tính tổn thất vật chất chỉ thuộc loại không may nhất thời, còn đối với Linh tinh, thì mang lại tai nạn thường kèm có đau khổ nội tâm, mệnh tạo rất khó quên.
  
Bốn sao Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về thất bại, mà sự thất bại này, là do mệnh tạo tự chuốc lấy. Nếu có lưu Đà, lưu Xương cung khởi nguyên cục “Linh Xương Đà Vũ”, thì tai họa càng kịch liệt.
Liêm trinh hóa Kị có Kình dương đồng độ, lại gặp Linh tinh, gọi là cách “Hình tù hội Linh” chủ về chết bất ngờ, hoặc chết về binh đao. Nguyên cục “Hình Tù hội Linh” lưu niên có lưu Dương cung khởi, thì tai họa càng dữ dội, thường thường xảy ra trong kỳ khắc ứng.
Tinh hệ Liêm Sát có Kình dương đồng độ, gặp Linh tinh, gọi là cách “Liêm Sát Dương Linh”, là mệnh chết ngoài chiến trường.
Linh tinh cũng không ưa đồng độ với Phá quân, chủ về kinh doan làm ăn thất bại, nhưng thích hợp với các nghề nghiệp có tính trắc trở như nha sỹ, bác sỹ, chuyên viên về trật đả, làm nghề tháo dỡ, thợ sửa xe, sửa thuyền, .v.v…
Hễ có Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, cung bị giáp thường thường rất xấu. Như giáp cung Tài, chủ về vất vả bôn ba mà tài khí rất kém. Hỏa Linh chia ra ở các cung Phúc đức và cung Mệnh, chủ về cuộc đời nhiều sóng gió trắc trở. Hỏa Linh chia ra ở cung Mệnh và cung Phu thê, phần nhiều cũng chủ về vợ chồng không êm ấm, đời người khó thuận lợi toại ý.
Các chính diệu không ưa Hỏa Linh giáp cung là Thiên cơ, Thiên đồng, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, các chính diệu này cũng không ưa chúng đồng cung, dễ biến thành phá cách. Như tinh hệ Cự Cơ an mệnh tại cung Mão, Cự môn hóa Lộc, là “Cự Cơ đồng lâm cách” chủ về phú quý, nếu có Hỏa Linh đồng độ thì chủ về no ấm mà không giầu sang.
Cung Phu thê gặp Hỏa Linh, thì chủ về thành hôn trong tình cảnh bối rối vội vàng.
Hỏa Linh ở cung Mệnh, chủ về trước thì “việc sắp thành lại hỏng“, trải qua nỗ lực mới chuyển thành “việc sắp hỏng thì lại thành“. Người theo võ nghiệp gặp chúng thì chủ về lập được công trạng.
Nữ mệnh gặp Hỏa Linh, cổ nhân cho răng hiếp đáp chồng, khắc con, quan hệ nhân tế rất kém, tính cách cương cường, nặng nhất là gặp Hỏa tinh, cổ nhân còn nói là “lòng lang dạ sói”. Những luận đoán này cần phải xem xét tinh hệ chính diệu thủ cung Mệnh mới định được. Không thể luận đoán theo cách nói của cổ nhân được.
Cung Phúc đức gặp Hỏa Linh, phần nhiều nội tâm nóng nảy, nhưng vẫn có phân biệt. Hỏa tinh chủ về tính “cương” (cứng rắn), Linh tinh chủ về tính “liệt” (dữ dội). Tính “cương” thì phần nhiều nóng nảy, tính “liệt” thì không dùng lời nói nhưng dùng hành động đọt ngột để phản kháng.
Cho nên hai sao tuy cùng tính cứng rắn, nhưng tính cứng rắn của Hỏa tinh mang tính chính diện, bộc trực, còn tính cứng rắn của Linh tinh thì thâm trầm hơn.Hai sao Hỏa Linh rất ưa đồng độ với Tham lang, gọi là cách “Hỏa Tham”, hay cách “Linh Tham”, chủ về phát lên một cách nhanh chóng, hoặc chủ về lập đương công danh một cách nhanh chóng. Ngoài ra Hỏa Linh cũng ưa đồng độ với hai chính diệu Tử vi và Thất sát, đối với Tử vi thì có thể hóa giải tính cứng rắn của Hỏa Linh, đối với Thất sát thì có uy và có thể nhiếp phục Hỏa Linh. Cho nên nếu so sánh, thì mệnh cục Tử vi có Hỏa tinh đồng độ sẽ ít sóng gió trắc trở hơn mệnh cục Thất sát có Hỏa tinh đồng độ.

Cự môn là “ám tinh”, rất kị gặp Hỏa tinh và Linh tinh, bởi vì Hỏa Linh không đủ sức làm sáng Cự môn, mà “ám” của Cự môn thì đủ để làm u ám Hỏa Linh. Nếu Cự môn đồng độ với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, thì chủ về người dễ xung động, mà còn nhiều thị phi.Hỏa tinh và Linh tinh cũng không ưa Liêm trinh, vì Liêm trinh là âm hỏa, các sao Hỏa cùng tụ tập một cung, gặp Thất sát và Kình dương sẽ chủ về xảy ra bất chắc.

Cổ nhân có lập hai cách cục liên quan đến Hỏa Linh, một là “Hỏa Linh giáp mệnh cách”, hai là “Linh Xương Đà Vũ cách”.

Cổ nhân nói: “Hỏa Linh giáp mệnh là bại cục”, trong Đẩu Số, hễ bị một cặp sát tinh giáp cung, nhất định sẽ có khuyết điểm, như Kình Đà giáp cung, Không Kiếp giáp cung, và Hỏa Linh giáp cung. Cung bị Hỏa Linh giáp cung sẽ có khuyết điểm gì, thì phải xem tinh hệ bị giáp cung mà định, thông thường, sẽ khiến đời người bị giảm sắc.

Xuất thân như nhau, cùng học như nhau, thậm chí cùng làm việc trong một cơ cấu, đến sau trung niên, thì lại một thăng một trầm, có thể là vì bị “Hỏa Linh giáp mệnh cách” mà chính diệu của cung mệnh lại vô lực. Đây là căn cứ quan trọng, cần phải xét chính diệu có lực hay vô lực.

Nếu bị giáp cung là tinh hệ có lực, như “Vũ khúc Thất sát”, “Vũ khúc Thiên phủ”, “Liêm trinh Thất sát”, “Tử vi Thất sát”, sẽ chủ về mệnh tạo vẫn có thể phát dương quang đại, bất quá chỉ phải trải qua gian khổ mà thôi.

Nhưng nếu cung vị bị Hỏa Linh giáp cung lại có Kình dương, thì lúc luận đoán phải cực kỳ thận trọng. Kình dương có thể biến thành “thiện” mà cũng có thể biến thành “ác”, không thể luận chung chung được.. Lúc này phải quan sát các sao hội hợp ở tam phương tứ chính mà định tính chất của nó.

Còn cách “Linh Xương Đà Vũ” là an mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà tam phương tứ chính lại hội tụ 4 sao Lịnh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc, cổ nhân nói: “Linh Xương Đà Vũ, hạn đến thì nhảy sông”, chủ về có tai nạn sông nước. Đây là do cổ nhân chứng nghiệm được nên đưa ra kết luận này. Vương Đình chi cho rằng, cũng có thể xem là điềm báo tai nạn thông thường, nhất là về giao thông.

Cần lưu ý, nếu nguyên cục có Vũ khúc và Linh tinh hội chiếu (Hỏa tinh thì không phải), trong đại hạn hoặc lưu niên, cần phải có lưu Xương, lưu Đà hội hợp. Bởi vì “Linh Xương Đà Vũ cách” cũng bao gồm cả lưu Xương lưu Đà, vốn dĩ đã có Đà la Văn Xương, lại bay vào lưu Đà hoặc lưu Xương, xung khởi Đà la, Văn xương, thì tai họa sẽ xảy ra, năm đó cần phải cản thận giữ gìn sức khỏe, đồng thời đề phòng tai nạn sông nước và tai nạn giao thông.

Hỏa tinh ưa các sao Cát, ưa người sinh ở hướng Đông và hướng Nam, ưa người sinh vào các năm Dần Mão Tỵ Ngọ Tuât
Hỏa tinh ưa ở các cung Dần – Ngọ – Tuất
Hỏa tinh kị các sao Hung, kị ở các cung Thân – Tí – Thìn
Hỏa tinh là Cát thì chủ về phát tài năng hơn người, Hung thì chủ về gặp nhiều tai ách.

Linh tinh ưa và kị giống Hỏa tinh
Linh tinh là Cát thì chủ về ngầm phát phúc, là Hung thì chủ về ngầm bị xâm hại.

Khẩu quyết an Hỏa tinh và Linh tinh:

      An Hỏa tinh và Linh tinh, căn cứ chi của năm sinh để khởi giờ Tí

Thân Tí Thìn nhân Dần Tuất dương
Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương
Tỵ Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị
Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất phòng.

ST

HỎA TINH LINH TINH HỢP LUẬN – ĐẠI TOÀN

0

Hỏa tinh Linh tinh hợp luận – Đại toàn

(Tuvivietnam – Siêu tầm)

      火星 – Hỏa Tinh

      又 杀神,属火,南斗浮星。
Là một “Sát thần”, thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh.

      火 星为四煞之一,乃一凶星。居寅午戌为入庙,居巳酉丑为得地,居亥卯未为利益,居申子辰为陷。火星入命,面色红黄,眼大,脸圆长,中等身材,略壮。于人性情 则刚强出眾,急躁胆大,顽固不化,自以为是,心性毒辣,唇齿四肢有伤,麻面或面有伤痕,毛髮有异于常人之处,如为红棕色或卷毛。落入十二宫中皆不为美论, 唯居疾厄宫入庙,作身体强壮少病论之。与庙旺之贪狼同宫入命,指日立边功,武职显贵,经商横发。火星虽入庙旺之乡守命,亦有不顺,成败起伏势所难免,若入 陷宫,刑克甚重,克害六亲,易招官非横祸,恶疾缠身。

Hỏa tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là ích lợi, cư Thân Tí Thìn là hãm địa. Hỏa tinh nhập Mệnh, sắc mặt đỏ vàng, mắt to, mặt tròn dài, thân hình trung bình, khá cường tráng. Là người tính tình cương cường xuất chúng, táo bạo hấp tấp, ngoan cố, tự cho mình đúng, tâm địa cay độc, răng miệng tứ chi có thương tích, tàn nhang hoặc có sẹo, râu tóc có chỗ khác thường, ví dụ như tóc nâu đỏ hay tóc xoăn. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, duy nhập miếu ở cung Tật ách thì thân thể cường tráng ít bệnh. Đồng cung với Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, chủ có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Hỏa Linh tuy nhập miếu thủ Mệnh, cũng có điều không thuận lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nếu nhạp cung hãm địa thì hình khắc nghiêm trọng, khắc hại lục thân, dễ rước kiện tung tai họa bất ngờ, có bệnh nặng trong người.

      女命火星,性格刚强,热烈外向,敢说敢言。火星庙旺又与吉星庙旺同守,旺夫益子,贞烈之妇。陷宫守命或同宫之正星落陷,心毒,内狠外虚,凌夫克子,不守妇道,多是非,淫欲下贱。

Nữ mệnh Hỏa Tinh, tính cách cương cường, sôi nổi hướng ngoại, dám ăn nói. Hỏa Tinh miếu vượng lại có cát tinh miếu vượng đồng thủ, vượng phu ích tử, là người vợ trinh liệt. Hãm địa thủ Mệnh hoặc đồng cung bới chính tinh lạc hãm, tâm địa thâm độc, lòng dạ xấu xa vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ phận làm vợ, nhiều thị phi, dâm dục hạ tiện.

      1 、火星利东、南方生人,及寅卯巳午年生人,则祸轻,不利西、北方生人,祸重。
Hỏa Tinh lợi cho người sinh phía Đông, Nam, và người sinh năm Dần Mão Tỵ Ngọ, tai họa nhẹ, không lợi cho người sinh phía Tây, Bắc, tai họa nặng.

      2 、火星守命,入庙见诸吉,对宫及叁合宫不加凶,宜从事军警起家,立武功,中年始兴。
Hỏa tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, đối cung và tam hợp không hội hung tinh, thích hợp làm trong quân đội cảnh sát, lập võ công, trung niên bắt đầu phát triển hưng thịnh.

      3 、火星与贪狼守命,加吉星,宜从武职,主能立功边疆,有将相之贵,经商则必大发财利,主富,加羊陀劫空不作此论。
Hỏa tinh và Tham Lang thủ Mệnh, hội cát tinh, thích hợp làm võ chức, chủ có thể lập đại công ở biên cương, có cái quý của bậc làm quan tướng, kinh doanh thì tất đại phát tài lợi, chủ phú, hội Dương Đà Không Kiếp thì không luận như trên.

      4 、火星陷地,羊陀同宫,主人繈褓灾深,少年易夭折,只宜过房外家寄养,二姓延生,重拜父母方可。
Hỏa Tinh hãm địa, Dương Đà đồng cung, chủ người lắm tai họa nặng nề, thiếu niên dễ chết yểu, chỉ thích hợp cho làm con nuôi để người khác nuôi dưỡng, mang hai họ, nếu nhận cha mẹ nuôi thì cũng có thể tránh được.

      铃星 – Linh Tinh

      又 杀神,属火,南斗浮星。
Còn có tên khác là “Sát thần”, thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh

      铃 星为四煞之一,乃一凶星。居寅午戌为入庙,居巳酉丑为得地,居亥卯未为利益,居申子辰为陷。铃星入命,面色青黄,形容不一,有奇特怪异之处。于人性情则刚 强出眾,急躁胆大,顽固不化,自以为是,心性毒辣,嫉妒心强,牙齜必报,说话声音低沈或沙哑,凡事不讲情面,险恶阴狠,头面手足有伤,麻面。落入十二宫中 皆不为美论,唯居疾厄宫入庙,作身体强壮少病论之。铃星与庙旺之贪狼入命,指日立边功,武职显贵,经商横发。虽入庙旺之乡守命,亦有不顺,成败起伏在所难 免,入陷宫,克害六亲,易招官非横祸,恶疾缠身。

Linh Tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là lợi ích, cư Thân Tí Thìn là hãm địa. Linh Tinh nhập Mệnh, sắc mặt vàng xanh, mặt và người không phù hợp, có chỗ khác lạ kì quái. Là người tính tình cương cường xuất chúng, hấp tấp táo bạo, ngoan cố, tự cho mình là đúng, tâm địa cay độc, lòng đố kị lớn, nói chuyện âm thấp, trầm hay khàn, mọi chuyện không bàn chuyện cá nhân, hiểm ác âm mưu, mặt đầu tay chân có vết thương, mặt tàn nhang. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, riêng cư cung Tật ách nhập miếu thì luận là thân thể cường tráng ít bệnh. Linh Tinh và Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Tuy nhập đất miếu vượng thủ Mệnh cũng có chỗ bất lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nhập cung hãm địa, khắc hại lục thân, dễ chuốc tai họa bất ngờ kiện cáo, có bệnh nặng trong người.

      女命性格刚强,热烈外向,背六亲,伤夫子,入庙遇吉丰足,陷宫不贞洁,贫寒下贱。
Nữ mệnh tính tình cương cường, sôi nổi hướng ngoại, phản lục thân, hình thương chồng con, nhập miếu hội cát tinh thì đầy đủ, lạc hãm thì không trinh khiết, nghèo khó bần tiện.

      1 、铃星利东、南方生人,及寅午戌年生人,则祸轻,不利西、北方生人,祸重。
Linh Tinh lợi cho người sinh phía Đông, Nam, và người sinh năm Dần Ngọ Tuất, họa nhẹ; không lợi cho người sinh phía Tây, Bắc, họa nặng.

      2 、铃星守命,入庙见诸吉,对宫及叁合宫不加凶,宜从事军警起家,立武功。
Linh Tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, đối cung và tam hợp không có hung tinh, thích hợp làm về quân đội cảnh sát, lập võ công.

      3 、铃星守命,入庙遇紫府左右,不贵即富。
Linh Tinh thủ Mệnh, nhập miếu hội Tử Phủ Tả Hữu, không quý tất phú.

      4 、铃星与贪狼守命,加吉星,宜从武职,主能立功边疆,有将相之贵,经商则必大发财利,主富,加羊陀空劫不作此论。
Linh Tinh và Tham Lang thủ Mệnh, hội cát tinh, thích hợp làm võ chức, chủ có thể lập công nơi biên cương, có cái quý của bậc quan tướng, kinh doanh tất đại phát tài lợi, chủ phú, hội Dương Đà Không Kiếp không luận như trên.

      5 、铃星陷地守命,孤贫、夭折、破相延寿。
Linh Tinh hãm địa thủ Mệnh, nghèo khổ, chết yểu, nếu phá tướng thì có thể kéo dài tuổi thọ.

      6 、铃星守命,廉贞擎羊会,主刀兵。
Linh Tinh thủ Mệnh, Liêm Trinh Kình Dương hội, chủ đao binh.

      7 、铃星七杀同宫,主阵亡。
Linh Tinh Thất Sát đồng cung, chủ chết trận.

      8 、铃星破军同宫,财、屋必倾,破家荡產。
Linh Tinh Phá Quân đồng cung, tất khuynh gia bại sản.

      9 、铃星守命,羊陀凑合,孤单、弃祖、伤残、带疾。
Linh Tinh thủ Mệnh, Dương Đà vây, cô đơn, rời xa quê quán tổ tiên, thương tật, có bệnh.

      10 铃昌陀武,限至投河,此四星交会於辰戌二宫,辛壬己年生人,二限行至辰 戌,定遭水厄。
Linh Xương Đà Vũ, hạn chí đầu hà”, bốn sao này gặp nhau tại hai cung Thìn Tuất, người sinh năm Tân Nhâm Kỷ, hai hạn đến Thìn Tuất, tất gặp hỏa ách.

      火星铃星合论 – Hỏa Tinh Linh Tinh hợp luận

      1 、火铃乃杀神,兇恶之星,於寅午戌为入庙,申子辰落陷。十二宫中皆作祸,於人命内,有凶无吉,虽入庙旺之乡,亦非全吉,必有成败倾颓。命宫有吉遇火铃入庙者,多宜武职荣身。唯与贪狼同宫於旺地,或二星并夹贪狼,或与贪狼加会,则为发福之论。

Hỏa Linh là Sát thần, là sao hung ác, nhập miếu ở Dần Ngọ Tuất, lạc hãm ở Thân Tí Thìn. Ở 12 hai cung đều luận là hung, nhập Mệnh, có hung tinh mà không có cát tinh, tuy nhập đất miếu vượng, cũng không tốt hoàn toàn, tất có thành bại sụp đổ. Mệnh có cát tinh và Hỏa Linh nhập miếu thì thích hợp với võ chức, có thể vinh hiển. Duy đồng cung với Tham Lang ở đất vượng địa, hoặc hai sao trên giáp Tham Lang, hoặc hội chiếu với Tham Lang, thì luận là phát phúc.

      2 、火星铃星入命,主人头面四肢带伤,脾气粗暴,心狠性毒,反抗心强。入庙则刚强果敢,聪明机敏,有决断力。入陷宫则身材瘦小,刚愎自用,狡猾多诈,无远虑,行事欠缺谨慎,不计后果,一生亦常遭挫折,以至精神烦闷。

Hỏa Tinh Linh Tinh nhập Mệnh, chủ người đầu, mặt, tứ chi có vết thương, tính khí thô bạo, tâm tính tàn độc, tính khản kháng mạnh. Nhập miếu thì quả quyết cương cường, thông minh cơ duệ, có tính quyết đoán. Nhập hãm cung thì thân thể gầy nhỏ, cứng đầu, giảo hoạt, không suy nghĩ sâu xa, hành sự thiếu ổn trọng, không tính đến kết quả, một đời cũng thường gặp trắc trở, dẫn đến phiền muộn trong lòng.

      3 火铃夹命为败局,寅午戌年生人如遇火星铃星夹命身宫,又本命之正星不吉,陷弱,或化忌,或有凶煞,则为败局,一生遭凶,贫财夭折。如正星庙旺加吉,则主一生不顺,多小人,尚不至大凶而已。若贪狼居命有火铃夹,则以吉论,反主富贵,事业横成。

“ Hỏa Linh giáp Mệnh vi bại cách”, người sinh năm Dần Ngọ Tuất nếu được Hỏa Linh giáp Mệnh Thân cung, chính tinh bản Mệnh không tốt, lạc hãm, hay Hóa Kị, hoặc có hung sát, thì là bại cách, một đời gặp hung, nghèo khó chết yểu. Nếu chính tinh miếu vượng hội cát tinh, thì chủ một đời không thuận, lắm tiểu nhân, nhưng chưa đến mức là đại hung. Nếu Tham Lang cư Mệnh có Hỏa Linh giáp, thì luận là tốt, chủ phú quý, sự nghiệp hoạnh thành.

      4 、火铃旺宫,亦为福论,此二星入庙独坐,叁合方及对宫诸星庙旺加吉,或贪狼在对宫,亦有富贵之人,唯福不全美,或是身体有伤残,或是幼时多灾难养,或离祖过房,或刑克妻子,不一而足。

Hỏa Linh ở vượng cung, cũng luận là phúc, hai sao này nhập miếu độc thủ, các sao ở tam hợp và đối cung đều miếu vượng hội cát tinh, hoặc Tham Lang ở cung đối, cũng là người phú quý, chỉ có điều phúc không hoàn toàn đẹp, hoặc thân thể có thương tật, hoặc khi nhỏ lắm tai họa khó nuôi, hoặc rời xa tổ tiên cho làm con nuôi, hoặc hình khắc thê tử….

      5 、火铃相遇,寅午戌入庙,加吉富贵扬名,财运突发,但骄横跋扈,小人得势,犹如癩狗长毛。
Hỏa Linh gặp nhau, nhập miếu ở Dần Ngọ Tuất, hội cát tinh thì phú quý nổi danh, tài vận đột ngột phát, nhưng kiêu ngạo ngang ngược, tiểu nhân được thể.

      6 、火星铃星加见廉贞、七杀、破军、擎羊必有严重的血光之灾,并主阵亡或凶死。
Hỏa Linh hội kiến Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Kình Dương tất có tai nạn chảy máu, cũng chủ chết trận hoặc chết thảm.

      7 、火铃陷宫会羊陀,幼年多灾病,恐夭折,必过继与人重拜父母方可活命。此类组合一生多灾多难,六亲缘薄,或遭暴病横祸而亡身,并易沦为罪犯,有牢狱之厄或被枪毙。
Hỏa Linh hãm cung hội Dương Đà, khi nhỏ lắm bệnh tật, e chết yểu, tất cho làm con nuôi hay nhận bố mẹ nuôi thì có thể sống. Tổ hợp sao loại này một đời hay tai nạn khó khắn, lục thân duyên bạc, hoặc vì bạo bệnh tai họa bất ngờ mà chết, cũng dễ phạm tội, có tai ách ngục tù hoặc bị xử bắn.

      8 、女命命宫有火铃,与亲人不和,心恶毒,不守妇道,多是非。若火铃庙旺守命加吉,纵富贵亦主骄横,居陷地,若不贫贱亦必淫邪。总之女命遇铃火擎羊为下格,庙旺尤可,陷地下贱,贫穷夭折。

Nữ mệnh cung Mệnh có Hỏa Linh, bất hòa với người thân, tâm địa ác độc, không thủ đạo làm vợ, lắm thị phi. Nếu Hỏa Linh miếu vượng thủ Mệnh hội cát tinh, thì dù phú quý cũng chủ ngang tàng, cư hãm địa, nếu không nghèo hèn tất dâm tà. Tóm lại nữ mệnh hội Hỏa Linh Kình Dương là hạ cách, miếu địa hạ tiện, nghèo khó chết yểu.

ST
- Advertisement -