K Mùi / Quý Du / Đinh T / Đinh Mùi
Đại vận: Nhâm Thân – Tân Mùi – Canh Ngọ – Kỷ Tỵ – Mậu Thìn – Đinh Mão

Đây là mệnh của Viên Hng Thành (tức Viên Thế Khải), xem sơ qua thì thấy Thân cường Thực Thần chế Sát mà thôi, nhưng biện chi tiết thì lấy năm làm chủ, năm là Kỷ Mùi, Mùi Dậu giáp thân là quý; lấy ngày làm chủ thì Đinh quý nhân tại Dậu, lấy Sát làm dụng mà Sát quý tại Tỵ cho nên thân Sát hỗ hoán đắc quý nhân. Thất sát là thần đối nghịch với ta, quý nhân hỗ hoán ví như được triều đình nhà Thanh biết đến mà trọng dụng, mà cũng là dấu hiệu triều đình bị ta phản phúc. Địa chi Tỵ Mùi Dậu giáp lộc giáp quý, toàn trụ đầy Lộc và Quý nhân ủng hộ nên ứng với Nguyên thủ quốc gia. Đến vận Mão, Sát đối nghịch lâm Quý nhân đắc thế mà xung với Quý nhân của bản thân nhật chủ, bị cô lập hoàn toàn, hết sức hiển nhiên vậy.

Ất Mão / Bính Tuất / Quý Dậu / Bính Thìn
Đại vận: Ất Dậu – Giáp Thân – Quý Mùi – Nhâm Ngọ – Tân Tỵ – Canh Thìn

Đây là mệnh của Từ Đông Hải (tức Tổng thống Từ Thế Xương, sinh năm 1855, mất 1939, bản thân đậu Tiến sĩ, từ năm 1879 đã kết nghĩa huynh đệ và sau thành mưu sĩ cho Viên Thế Khải, sau làm đến Thủ tướng rồi năm 1918 được Quốc hội bầu làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc), ban đầu nhìn vào chỉ thấy Tài được Thực sinh, nhưng mà Quý quý nhân tại Mão, Bính quý nhân tại Dậu, Thìn Mão Dậu Tuất là hai phương đông tây đối đầu, mà cũng là lưỡng hợp giải xung cho nhau (Thìn hợp Dậu, Mão hợp Tuất), thủy hỏa tương tranh nhưng đắc quý nhân Ất mão đóng vai người thương thuyết mà hòa bình với nhau. Viên là võ nhân, dụng Sát vi quyền còn Từ là văn thần (*), dụng Thực sinh Tài, đây lẽ nào là ngẫu nhiên ư?

(*) Từ Thế Xương còn được gọi là “Văn trị Tổng thống”, tức là Tổng thống lãnh đạo thành công về mặt văn hóa và giáo dục.

Mậu Dần / Kỷ Mùi / Giáp Dần / Ất Hợi
Đại vận: Canh Thân -Tân Dậu -Nhâm Tuất -Quý Hợi -Giáp Tí -Ất Sửu

Niên Mậu nhật Giáp, đều lấy Mùi làm quý nhân; bản thân Giáp vượng gánh được Tài, nguyệt lệnh có Kỷ thổ chân quý nhân lộ ra làm Dụng thần; hơn nữa hỷ Tứ trụ vô kim, Dần Mùi tàng hỏa, Thực Thương sinh Tài, cách cục hết sức thanh thuần. Niên nguyệt là tổ nghiệp, được quý nhân xuất lộ là hưởng phúc ấm, quý nhân Mùi trực tiếp làm dụng thần nghĩa là bản thân được quý nhân nâng đỡ. Đây là mệnh của người Hợp Phì tỉnh An Huy Lý Quốc Quân, được Tổng thống Hạng Thành trọng dụng, thời Dân quốc sơ niên từng giữ chức Quảng Đông Tuần án sứ giả (mệnh của Viên Hạng Thành là Kỷ Mùi kỳ cách hơn).

Mậu Tuất / Giáp Tí / Kỷ Tỵ / Mậu Thìn
Đại vận: Ất Sửu -Bính Dần -Đinh Mão -Mậu Thìn -Kỷ Tỵ -Canh Ngọ -Tân Mùi

Tài sinh Quan vượng, Bính hỏa Điều hậu làm dụng. Nguyệt lệnh Thiên Ất là quý chổ thừa hưởng phúc ấm tổ tiên. Quý nhân là Tài nhằm sinh Quan là quý nhân gián tiếp, hơn nữa do Tài Quan tháng chạp cần hỏa để Điều hậu, Dụng thần tại Tỵ mà không phải Tí, quý nhân ở đây được dùng gián tiếp. Đây cũng là mệnh của một ông người Hợp Phì họ Lý. Vận đến Bính Dần Đinh Mão kế thừa sản nghiệp lớn, mà cái quý của mệnh so với tứ trụ trước thì hơi kém một chút. Hơn nữa do Kỷ Giáp hợp Quan để hộ Tài, nên Mậu (Kiếp) không thể tranh đoạt, vì thế một mình thừa hưởng được sản nghiệp rất lớn.

(Lâm chú thích: Tứ trụ này thủy không có kim sinh cho, một bầy thổ bao vây, không luận là Tài vượng. Năm thổ mà chỉ có một hỏa, biến thành Tòng vượng cách, hỏa thổ là hỷ dụng thần kiêm nhiệm Điều hậu, Tí thủy là Bệnh. Trong 70 năm Đại vận, ngoài chữ Thìn bán hợp cục với Tí thủy ra, các chữ còn lại đều là hỷ dụng hoặc đóng vai trò trừ khử Bệnh thần, Kị thần. Nhập Tòng cách mà được vận trình trường thịnh như vậy đúng là hiếm thấy.)

Tân Tỵ / Tân Sửu / Canh Thân / Tân Tỵ
Đại vận: Canh Tí -Kỷ Hợi -Mậu Tuất -Đinh Dậu -Bính Thân -Ất Mùi -Giáp Ngọ

Kim gặp tháng rét thổ, cần dụng hỏa Điều hậu. Mà Tỵ Sửu hội hợp, Tỵ Thân hình hợp, cách cục liền chuyển đổi. Khí toàn kim thủy, đành phải thuận theo vượng khí, nên hành vận thổ kim thủy là mỹ vận. Đây là mệnh Lý Quốc Kiệt, người Hợp Phì (tỉnh An Huy). Tân kim tạp xuất mà chỉ có một Canh kim đắc quý, tuy anh em rất đông mà một mình mình kế tục ngôi vị, “quý do di ấm” là chổ đó, cho nên niên nguyệt trụ thích hợp đóng quý nhân. Vừa vào vận Mùi, lưỡng quý tương xung, hơn nữa gặp phải lưu niên Giáp Tuất, tam hình hội hợp, hình thương đến lưỡng quý mà bị họa tù ngục. Tứ trụ này nếu như thời thấu một thủy thì vận cuối không đến nỗi cùng khốn. Có thể thấy Thần sát không hoàn toàn vô căn cứ. Lại về quý nhân người họ Lý, đầu tiên là mệnh Văn Trung Công (tức Lý Hồng Chương), Quý Mùi / Giáp Dần / Ất Hợi / Kỷ Mão, Khúc trực nhân thọ cách, cho đến mệnh Lý Quốc Kiệt có kim cục mà quý bị tuyệt diệt, hưởng ngôi vị đến đây thì tận số, cũng đều là kỳ cả. Đây là đạo lý trinh nguyên của vận hạn (*), nghiên cứu Bát tự thì vô cùng tận, cần chuyện tâm thì mới tỏ tường.

(*) Bát Tự lấy niên vi nguyên, nguyệt vi hanh, nhật vi lợi, thời vi trinh. Niên nguyệt cát thì tiền vận cát, nhật thời cát thì hậu vận cát. Còn về Đại vận thì lấy 15 năm đầu là nguyên, 15 năm kế là hanh, 15 năm giữa là lợi, 15 năm cuối là trinh.