Nguyên văn:
Nguyệt lệnh dụng thần, phối với tứ trụ, mỗi 1 chữ lấy sanh khắc mà chia ra cát hung, nhưng có khi cùng là sanh khắc, mà đóng ở trước hay sau cũng chia ra cát hung nữa, mệnh thật là áo diệu vậy.
Từ chú: Địa vị trước hay sau, rất là khẩn yếu, có khi cùng 1 bát tự, mà ở chỗ này là cát, ở chỗ kia là hung, ở chỗ này có thể dùng, ở chỗ kia không thể dùng, nghèo giàu, sang hèn, thọ yểu tuyệt nhiên bất đồng. Biến hóa vô định, chẳng có công thức để mà thuyết minh. Toàn ở sanh khắc chế hóa, như nói Quan kị Thương, Ấn kị Tài, đều là áp dụng 1 cách ngu ngốc, cốt ở trình tự trước sau, tất theo hoạt pháp. Ngốc pháp nói được, mà hoạt pháp không có gì để nói, người còn thần minh, học giả lấy thực tập mà tự ngộ.
Như trụ của tôi: Bính Tuất, Nhâm Thìn, Bính Thân, Bính Thân, sanh sau Thanh minh 1 ngày, Ất mộc dư khí còn dùng được, lấy Ấn hóa Sát (xem ” mệnh giám “), năm nay đã tới tuổi tri mệnh, như sanh 20 ngày sau Thanh minh, thổ vượng thì không luận dụng thần như vậy. Em họ tôi, là Bính Tuất, Bính Thân, Bính Thân, Nhâm Thìn, bát tự hoàn toàn như nhau, nhưng sanh tháng 7, Ất mộc hưu tù, không thể là dụng, lấy Tài gánh sát công thân, thanh niên chết yểu. Ấy là 1 ví dụ hỉ.
Nguyên văn:
Như Chánh quan cùng gặp Tài Thương đều thấu, mà trước sau có khác nhau. Như Giáp dụng Dậu Quan, Đinh trước Mậu sau, tất lấy Tài hóa giải Thương, tức tuy không thể quý, nhưng hậu vận tất có kết cục. Nhược Mậu trước mà Đinh sau ở giờ thì, tất là Quan gặp Tài sanh, nhưng vì về sau bị thương phá, tức thuận theo vận trên thì, về sau chẳng có kết cục, con cháu khó khăn hĩ.
Từ chú: Chánh quan cách gặp Thương, thấu Tài được giải. Nhưng cũng có khi không giải nổi, là vì trình tự trước sau có khác biệt vậy.
Thương | C.Tài | Nhật chủ | T. Tài |
Đinh niên | Kỉ | Giáp nhật | Mậu |
Dậu | Thìn |
Tài vượng sanh Quan, Thương quan tiết khí ở Tài, Quan tinh không hề tổn chút nào. Như thay đổi ngôi vị, như ví dụ sau:
T. Tài | Quan | Nhật chủ | Thương |
Mậu niên | Tân | Giáp | Đinh |
Dậu | Thìn | Mão |
Tức là tài sanh Quan mà gặp phải thương phá vậy. Lại cũng có khi tuy là Đinh trước Mậu sau, mà cũng không giải nổi, như:
Quan | Thương | Nhật chủ | T. Tài |
Tân niên | Đinh | Giáp | Mậu |
Dậu | Ngọ | Thìn |
Tân kim thấu xuất ở năm, Dậu kim trùm đầu Đinh hỏa, tuy có Mậu thổ ở giờ, cũng không giải nổi, vì hỏa kề cận vậy. Lại như:
Kiêu | C. Tài | Nhật chủ | Thương |
Nhâm niên | Kỉ | Giáp | Đinh |
Dậu | Thìn | Mão |
Tuy đinh hỏa Thương quan tại giờ, lại chẳng hại Quan tinh, nhờ có được Kỷ thổ hóa Thương, Nhâm Ấn hợp Thương nên giải được. Năm Đinh giờ Nhâm cũng vậy.
Lấy tài hóa Thương là như thế, so với lấy Ấn chế Thương hộ Quan, lý như nhau. Như:
Tỉ | Ấn | Nhật chủ | Thương |
Giáp niên | Quí | Giáp | Đinh |
Dậu | Thìn | Mão |
Đinh hỏa Thương quan, bị Quý Ấn chế, chẳng hại nổi Quan tinh. Như đổi lại là năm Kỷ, tất Ấn bị Tài phá, hỏa lại thành Thương quan hĩ. Lại như:
Ấn | Quan | Nhật chủ | Thương |
Quí niên | Tân | Giáp | Đinh |
Dậu | Thìn | Mão |
Tuy có Quý thủy Ấn, nhưng Đinh hỏa vẫn thương tổn Quan tinh, là vì ngăn cách vậy; Quan tinh gặp trước tiên phải bị thương, Ấn không đủ cứu hộ nổi hĩ.
Nguyên văn: Ấn cách đều mong có cách khôi Ấn, nhưng trước sau có khác biệt. Như Giáp dụng Tí Ấn, Kỷ trước Quý sau, tức khiến cho không giàu, nhưng về già thuận hơn; nhược Quý trước mà Kỷ sau ở giờ, về già lại khốn khổ hĩ.
Từ chú: Nguyệt lệnh Ấn thụ như gặp Tài tinh, phi tất bất cát, là vì tham Tài khôi Ấn, tất Ấn khinh mà Tài trọng. Nhật nguyên cốt yếu Ấn thụ tư sanh, Ấn bị Tài phá, lại không có Tỷ kiếp cứu ứng (xem phần luận Tài luận Ấn trong chương Tài Ấn tịnh dụng). Đều là khôi Ấn, mà trước sau có khác biệt, giờ là quy túc chi địa. Giờ gặp hỉ thần sanh vượng, về già tất tốt đẹp; giờ gặp kị thần sanh vượng, về già tất khốn khó.
Nên nói Giáp dụng Tí Ấn, Kỷ trước Quý sau, thì tuy gặp Tài phá, nhưng được Ấn sanh. Như Quý trước mà Kỷ ở giờ, kết cục là Ấn, bị Tài phá vậy. Cũng nên xem kỹ tứ trụ phối hợp ra sao, như con của Mỗ phú ông ở Chiết Tây, Canh Thân, Mậu Dần, Bính Thân, Ất Mùi, Tài tinh khôi Ấn, tuy Ất Ấn ở giờ, Tài trước Ấn sau, nhưng Ất Canh hóa hợp, đắc khí ở Thân, có cứu ứng mà chẳng giải, như trung niên hậu vận tốt, còn có kết cục, lại hành Tài vận, tất vô thiện quả.
Nguyên văn: Thực thần đồng thị Tài Kiêu tịnh thấu, nhi trước sau có khác. Như Nhâm dụng Giáp Thực, Canh trước Bính sau, về già tất hanh thông, cách cũng được phú mà không quý. Nhược Bính trước mà canh ở giờ, về già tất đạm bạc, phú quý đều không có hĩ.
Từ chú: Thực thương sanh Tài, lấy Kiêu ấn đoạt Thực chế Thương là bệnh, nhược Ấn ở trước, mà Thực thương sanh Tài ở sau, tất Ấn tư sanh nhật nguyên, nhật nguyên vượng nên tiết tú, giống như Ấn vượng dụng Thực thương (xem chương luận Ấn dụng Thực thương), cách chủ phú quý. Thực thương mừng hành Tài địa, có Tài chế Ấn, Kiêu để hộ Thực thương vậy. Nhược không có Bính Tài, tất là bị bệnh mà chẳng có thuốc vậy. Như:
Kiêu | Sát | Nhật chủ | Thực |
Canh | Mậu | Nhâm | Giáp |
Thân | Dần | Tí | Thìn |
Canh kiêu đoạt Thực mà không có Tài để cứu ứng, vận hành Tài địa, tuy tạm bổ cứu 1 chút, hiềm vì nguyên cục không có Tài sanh, tớiThân vận, Canh kim đắc địa, tức khó lòng cứu vãn (xem “Tích thiên tủy” quyển 4 chương chân giả), ấy bởi vì không có Tài nên bệnh vậy. Như Bính trước mà Canh ở giờ, tất thủy tú phát, sau bị Tài đoạt, phú quý đều không, thế lực cùng cực vậy. Như trụ nữ sau:
Thực | Ấn | Nhật chủ | T. Tài |
Đinh | Nhâm | Ất | Kỉ |
Mùi | Dần | Mão | Mão |
Hành vận: Quý mão / giáp thìn / ất Tỵ / bính ngọ / đinh mùi / mậu thân
Ất mộc thân vượng, đinh hỏa tiết tú, lấy Đinh là dụng thần, Nhâm thủy là bệnh, Kỷ thổ chế Nhâm thủy là dược. Tiếc là Đinh Nhâm hợp hóa mộc, khử thủy tuy là tốt, nhưng chẳng nên khử luôn hỏa. Dụng thần tại năm bị tổn, nên nói xuất thân hàn vi. Kỷ thổ ở giờ là cứu cánh, nên nói giúp chồng và gia đình, con nối dõi tốt đẹp. Vận hành nam phương đắc địa, phúc trạch lâu dài. Nam nữ cùng 1 lệ vậy (xem ” tích thiên tủy chinh nghĩa ” quyển 6 nữ mệnh chương).
Nguyên văn: Thất sát gặp Tài Thực cùng thấu, nhi trước sau mà khác xa. Như Kỷ sanh tháng Mão, Quý trước Tân sau, tất trước lấy Tài trợ làm dụng, mà sau thì Sát dùng Thực chế, chẳng mất đại quý. Như Tân trước mà Quý ở giờ, tất Sát gặp Thực chế, mà Tài chuyển Thực a dua theo Sát, không chỉ chẳng quý, hậu vận tiêu tác, thêm khó thọ hĩ.
Từ chú: Sát dùng Thực chế là, lấy Sát làm dụng, lấy Thực làm hỷ, thấu Tài là phá cách. Nhưng cách trước sau, nên có khi phá cách mà cũng có khi chẳng phá cách, xem ví dụ sau:
T. Tài | Sát | Nhật chủ | Thực |
Quí niên | Ất | Kỉ nhật | Tân |
Mão | Mùi |
Tuy Tài sanh Sát vượng, nhưng được can giờ Thực thần chế Sát, phú quý chẳng mất. Như đổi là tháng Quý Mão tháng như sau:
C. Tài | T. Tài | Nhật chủ | Thực |
Nhâm niên | Quí | Kỉ nhật | Tân |
Mão | Mùi |
Đều là Tài trước Thực sau, lại không tránh khỏi Thực thần sanh Tài a dua theo Sát hĩ.
Đến như thực trước tài sau, cách cục đổi khác xa hơn nữa. Như:
Ấn | Thực | Nhật chủ | T. Tài |
Bính | Tân | Kỉ | Quí |
Ngọ | Mão | Hợi | Dậu |
Bính hỏa hợp mất Thực thần, Dậu kim sanh Tài a dua theo Sát, chẳng gặp cứu ứng hĩ. Lấy Thực chế Sát như thế, hay lấy Ấn hóa Sát cũng vậy. Như năm Quý tháng Ất Mão ngày Hỷ giờ Đinh mão, Tài không phá Ấn, Sát tuy trọng nhưng gặp Ấn hóa giải. Như năm Đinh tháng Quý Mão, hoặc năm Giáp Kỷ tháng Đinh Mão mà giờ Quý dậu, đều là Tài phá Ấn để a dua theo Sát vậy. Đại loại như thế, làm ví dụ minh họa. Cũng do thế mà cát hung thay đổi vậy, Bính sanh tháng Giáp Dần, năm Quý giờ Mậu, Quan sanh Ấn, mà chẳng sợ Mậu hợp; Mậu tiết thân đẹp, lại không thể vượt Giáp để hợp Quý, là đại quý cách vậy. Giả sử năm tháng Mậu Quý mà giờ Giáp, hoặc năm Giáp mà tháng Quý giờ Mậu, tất Mậu không cách chi hợp được với Quý, là đại phá cách hĩ.
Ấy cũng bởi vì ngôi vị có khác nhau, liệt kê ra như sau thì rõ:
Quan | Kiêu | Nhật chủ | Thực |
Quí niên | Giáp | Bính nhật | Mậu thời |
Dần |
Quan sanh Ấn, Mậu không thể vượt Giáp để hợp Quý. Giả sử như hai trụ sau:
Quan | Thực | Nhật chủ | Kiêu |
Quí niên | Mậu | Bính nhật | Giáp |
Ngọ | Ngọ |
Kiêu | Quan | Nhật chủ | Thực |
Giáp niên | Quí | Bính nhật | Mậu thời |
Dậu |
Trụ 1 được Giáp mộc tách ra, Mậu Quý không thể hợp, mọi thần đều đắc dụng nên thành cách. Trụ 2, 3, Mậu Quý bị hợp, không có Giáp mộc để tách ra, nên phá cách hĩ.
Nguyên văn: Bính sanh Tân Dậu, năm Quý giờ Kỷ, vì Thương cách bởi Tài, nên Thương vô lực, cách ngôi nên tiểu quý. Giả như sanh Quý Kỷ mà không được Tân năn cách, cách cục bị phá nát hĩ.
Từ chú: Ấy cũng bởi vì ngôi vị có khác nhau, liệt kê ra như sau:
Quan | C. Tài | Nhật chủ | Thương |
Quí niên | Tân | Bính nhật | Kỉ thời |
Dậu |
Bính hỏa nhật nguyên, lấy Quý làm quan, lấy kỷ làm Thương, được Tân kim Tài tinh cách giữa, tất Thương quan sanh Tài, Tài sanh Quan, trong phú có quý. Giả sử như trụ sau:
Thương | Quan | Nhật chủ | C. Tài |
Kỉ niên | Quí | Bính nhật | Tân thời |
Dậu |
Tân kim không thể hóa Thương, Kỷ thổ trực tiếp hại Quan tinh, cách cục bị phá nát hĩ (năm quý tháng kỷ cũng tương tự).
Nguyên văn: Tân sanh tháng Thân, năm Nhâm tháng Mậu, giờ có Bính Quan, chẳng sợ Nhâm vì có Mậu ngăn cách, cũng hứa hẹn quý cách. Giả sử năm Bính tháng Nhâm mà giờ Mậu, hoặc năm Mậu tháng Bính mà giờ Nhâm, tất Nhâm đi khắc Bính, chẳng mong gì quý hĩ.Tân sanh tháng Thân, năm Nhâm tháng Mậu, giờ có Bính Quan, chẳng sợ Nhâm vì có Mậu ngăn cách, cũng hứa hẹn quý cách. Giả sử năm Bính tháng Nhâm mà giờ Mậu, hoặc năm Mậu tháng Bính mà giờ Nhâm, tất Nhâm đi khắc Bính, chẳng mong gì quý hĩ.
Từ chú: Ngày Tân giờ Bính, lấy Quan làm dụng, lấy thương là bệnh, lấy Mậu làm thuốc cứu ứng. Liệt kê ra như sau:
Thương | Ấn | Nhật chủ | Quan |
Nhâm niên | Mậu | Tân nhật | Bính thời |
Thân |
Nhâm Bính xa nhau, được Mậu ngăn cách, tất Nhâm thủy chẳng thể thương hại nổi Quan tinh.
Quan | Thương | Nhật chủ | Ấn |
Bính niên | Nhâm | Tân nhật | Mậu thời |
Thìn |
Nếu đổi lại Mậu thổ ở giờ, Quan Thương đều bày ra ngang nhau.
Mậu niên / Bính Thìn / Tân nhật / Nhâm thời
Ấn | Quan | Nhật chủ | Thương |
Mậu niên | Bính | Tân nhật | Nhâm thời |
Thìn |
2 trụ trên Nhâm thủy trực tiếp thương hại Bính hỏa Quan tinh, Mậu không cứu nổi.
Nguyên văn: Như ở trên lấy Quan tinh làm ví dụ, như Ấn sợ Tài phá, Tài sợ Tỷ kiếp, Thực thương kị Kiêu ấn, ý nghĩa như nhau. Phép cứu ứng cũng là thế.
Từ chú: Các loại như thế, không thể kể hết, thật ra cát hung vài lời khó nói hết. Nhiên tế tư kỳ cố, lý rất rõ ràng, đặc nan vi thiển giả đạo nhĩ.
Chương này luận sanh khắc trước sau cát hung, chuyên lấy thiên can làm ví dụ, mà địa chi mới là trọng yếu, có khi còn hơn thiên can nửa. Thí dụ như sau:
Sát | Ấn | Nhật chủ | Kiếp |
Quí | Giáp | Đinh | Bính |
Dậu | Tí | Mão | Ngọ |
Hành vận: Quý hợi / nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ
Tí Ngọ Mão Dậu, vốn là tứ xung, mà trụ này chẳng những không xung, lại trở thành tứ trợ. Mão Dậu cách nhau bởi Tí thủy, Tí Ngọ cách bởi Mão mộc, kim thủy mộc hỏa, nhờ đó tương sanh, lấy Ấn hóa Sát làm dụng. Thủy được mộc dẫn hóa, kim được thủy dẫn hóa, chẳng thương Ấn thụ dụng thần, tuy xung mà chẳng xung.
Thương | Ấn | Nhật chủ | Tỉ |
Tân | Đinh | Mậu | Mậu |
Mão | Dậu | Tí | Ngọ |
Hành vận: Bính thân / ất mùi / giáp ngọ / quý Tỵ / nhâm thìn / tân mão
Trụ này thổ kim Thương quan dụng Ấn, mà Mão Dậu xung, Quan tinh không thể sanh Ấn; Tí Ngọ xung, ấn căn bị Tài phá; địa chi mộc hỏa bị xung, thiên can hỏa thổ trở thành hư thoát. Không khỏi 1 đời bơ vơ, bản thân còn gặp tai nạn hĩ. Cũng có khi mừng được xung khắc, như
Càn long hoàng đế nhà Thanh:
Kiếp | C. Tài | Nhật chủ | Sát |
Tân | Đinh | Canh | Bính |
Mão | Dậu | Ngọ | Tí |
Hành vận: Bính thân / ất mùi / giáp ngọ / quý Tỵ / nhâm thìn / tân mão / canh dần / kỷ sửu
Dương nhận cách cục, lấy Sát chế Nhận làm dụng. Hiềm thu kim không Ấn, chẳng vượng, mà Quan sát thông căn Mão Ngọ, chế nhận thái quá. Hay ở chỗ Mão Dậu xung nhau, khiến cho Mão mộc không sanh Hỏa, Tí Ngọ xung nhau, khiến cho ngọ hỏa chẳng phá Dậu kim, dù cho Bính Đinh Quan Sát nhưng được thông căn. Ức chế cái thái quá, thành trung hòa, tất là huyền chi hựu huyền, không thể nói hết. Trụ trên đơn cử Tí Ngọ Mão Dậu làm ví dụ, cũng có vì hội hợp trước hay sau mà tính chất thay đổi lại có không xung không hợp, mà cách nhau sanh khắc trước sau, cát hung khác biệt. Không thể kể hết, học giả luyện tập thuần thục, tự nhiên lĩnh ngộ hĩ.
Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Bình Diệu Dụng