19 C
Hanoi
Thứ Sáu, 21 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 16

75. Tôi học giải đoán lá số tử vi (KHHB số 74l1)

0

Tử vi đẩu số
TÔI HỌC GIẢI ĐOÁN LÁ SỐ TỬ VI

Bài của Lê Ốc Mạch
(tự Định Công Phổ)

Trong lá số tử vi, vòng Tử vi và Thiên Phủ là quan trọng nhất, vì phải biết Tháng, Giờ, Năm, Ngày sinh mới an được. Kế đến là vòng Tràng sinh phải biết Tháng, Giờ và Năm sinh rồi tới vòng Lộc tồn và vòng Thái tuế. Thường thường thì vòng Tràng sinh, Lộc tồn và Thái tuế được để ở dưới mỗi cung, Tràng sinh ở giữa Lộc tồn và Thái tuế hai bên, người xem số Tử vi có kinh nghiệm trước hết là xem ở cung Mệnh có những sao nào của ba vòng này nếu thấy ba sao cùng tốt là lá số tốt nhất nếu thấy hai tốt và một sao xấu, đó là hạng nhì, nếu thấy một tốt hai xấu là hạng ba, và nếu thấy ba xấu là hạng bét.

Các cụ ngày xưa, gọi bốn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi là Tứ sinh hay Tứ Tuyệt vì sao Tuyệt và sao Tràng Sinh bao giờ ũng phải an ở bốn cung này. Bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu được gọi là Tứ chính vì bốn cung này đóng ở Chính Bắc, Chính Nam, Chính Đông và Chính Tây. Còn bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì coi là Tứ mộ (đất) vì thuộc Thổ.

Vì những lẽ kể trên là rất quan trọng, nếu an sai vị trí của hai sao Tràng Sinh và Tuyệt thì việc giải đoán lá số coi như không đúng.

Vòng Tràng Sinh có sao Mộ, nếu đi thuận thì sao Mộ ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nếu đi nghịch thì sao Mộ ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Thuận hay nghịch ở Tứ Mộ hay Tứ Chính ta phải để sao Mộ yên vị ở đó, đấy là luật bất di bất dịch của Tử Vi Đẩu Số.

Bây giờ ta giải đoán lá số của ông A, sinh năm Giáp Dần, tháng Giêng, mồng 1, giờ Tí.

Cung Mệnh và cung Thân đều ở Dần gọi là Thân Mệnh đồng cung. Mệnh là do trời. Thân là có trời mà cũng có Ta. Lúc mới sinh ra thì có Mệnh do trời sắp đặt cho hết đời mình. Rồi lớn lên được dạy bảo hướng về Thiện (hay ác) đó là tu thân. Trong sách thấy nói từ 30 tuổi là có ảnh hưởng cung Thân, theo thiển ý thì cung Thân có ảnh hưởng từ khi đứa trẻ biết phân biệt Thiện, ác tức từ 7, 8 tuổi.

Theo lá số của ông A, thì Mệnh và Thân vô chính diệu, đắc nhất không, may là cung Mệnh có Lộc tồn thì cũng đỡ khổ. Lại được cách “Nhật Nguyệt chiếu hư không” tốt lắm thêm Long trì, Phượng Các, Bạch hổ, Hoa cái cho nên rất đàng hoàng.

Cung Mệnh có Tràng sinh cung Quan lộc có Đế vượng và cung Tài bạch có sao Mộ số này sống lâu được hưởng giàu sang phú quí.

Cung Tài bạch ở Tuất có Cự môn hãm may có Văn Xương, Văn khúc, Hữu Bật, Tả phụ Bát tọa, Tam thai và được Mộ khố xung chiếu tiền tài sung túc. Thêm Bạch hổ Tang môn là xấu, tiền bạc bị sút giảm ít nhiều.

Cung Quan Lộc ở Ngọ có Thái Dương thật là tốt đẹp, đó là cách Nhật Lệ trung Thiên, quí cách “hữu chuyên quyền phú gia địch quốc” nghĩa là nếu không chuyên quyền thì giàu to. Nhưng có Hóa Kị đồng cung là nếu không bị mắt kém thì thường bị đau đầu. Cung Quan lộc chỉ việc tranh đấu với đời. Mệnh Tài Quan là ba cung quan trọng nhất, ba cung này có thể đúng được 90 phần trăm.

Sau đến ba cung Thiên Di, Phúc đức, Thê Thiếp, ba cung này có thể đúng đến 70 phần trăm.

Rồi đến ba cung Phụ Mẫu, Tử Tức, Nô Bộc, ba cung này chỉ đúng 40 hay 45 phần trăm, sau hết đến ba cung Huynh Đệ, Điền Trạch, Giải ách ba cung này chỉ đúng được 20 hay 25 phần trăm, người đoán số phải liệu lời mà nói đừng có quả quyết quá lắm mà có khi bị hố.

Cung Thiên Di là cung chỉ việc đi ra ngoài ở Thân ngộ Triệt là ra ngoài thường gặp những sự phiền lòng và khi chết thì ở xa nhà. Có Thiên Cơ, Thái âm hãm địa gặp Triệt thành sáng sủa hợp chiếu có Thiên Đồng, Thiên Lương làm văn quan thì hợp.

Cung Phúc Đức ở Thìn có Thiên Đồng ở Thìn có Thiên Đồng hãm địa nhưng Thiên Đồng là phúc tinh, ở cung nào thì giáng phúc cho cung đó. Lại có Văn Sinh đó là cách Ngọc Tụ Thiên Hương (hương thơm tụ lại cây ngọc) thật là tốt, lại Mộ Khố, nhờ phúc đức và giàu lớn.

Cung Thê Thiếp ở Tí ngộ Tuần là số phải lập gia đình chậm mới tránh được phân ly chia cách. Có Thái Dương miếu địa xung chiếu Long trì Phượng Các vợ sẽ là một mệnh phu, vượng phu ích tử, và rất đàng hoàng vì có Long trì Phượng Các. Có Thai phục vượng tướng là có con rồi mới làm lễ cưới.

Cung Tử tức ở Hợi có Thiên Tướng tốt lắm, con cái học hành giỏi, thêm Địa Kiếp Địa không đắc địa là có con thì rất có thể có một lúc nào đó rất hoạnh phát, nhưng có Địa hao, Tiểu hao nuôi con rất tốn kém, sinh nhiều mà nuôi được ít. Có Thiên Tướng và Tuyệt là có hai giòng con.

Cung Phụ mẫu có Thiên Không, Địa kiếp, Địa không Kình Dương, Linh tinh, Thiên hình là cha mẹ xung khắc với đương số, nếu không thì cha mẹ xung khắc nhau vì có Đào hoa, ông cụ lả lướt, có vợ lẽ con riêng nên xung khắc là lẽ đương nhiên.

Cung Nô bộc ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên Việt, Thiên Khôi người giúp việc và bạn bè rất tốt rất giỏi, lại có Hồng Loan, Thiên hỷ, Đào hoa cùng Thiên Riêu họ rất lẳng lơ đa tình, phải coi chừng kẻo mắc phải lưới tình, một phút sa cơ, tiếng xấu một đời.

Cung Huynh đệ ở Sửu ngộ Tuần, anh em không hợp tính nhau nên bất hòa, tuy nhiên có Hóa Lộc, Hóa Quyền. Hóa Khoa tọa thủ và hợp chiếu anh em giàu có và tài giỏi vì có Thiên Khôi, Thiên Việt. Lại có Hồng Loan, Thiên Riêu là họ cũng lả lướt lắm và phóng khoáng, có tiền bạc nhiều lại càng trác táng.

Cung Điền trạch ở Tỵ có Vũ Khúc, Phá quân là lúc trẻ tuổi, có nhà đất thì bán đi, lúc lớn tuổi lại mua tậu, khi đó mới giữ được của.

Cung Tật ách ở Dậu ngộ Triệt là suốt đời ít ốm đau. Có Thiên Hình Linh Tinh Hỏa tinh, Kình dương, Đà la là thường gặp tai nạn, nhưng có Tử vi và Hóa Lộc Hóa Khoa cứu giải nên tai nạn cũng không đáng ngại lắm.

Đại hạn và tiểu hạn

-Đại hạn từ nhỏ đến 15 tuổi:
Mệnh Thân ở Dần có Lộc tồn, giáp Hóa Lộc, Thái Tuế, Thai phụ, Phong Cáo, Nhật Nguyệt chiếu hư không Long trì, Phượng các, Bạch hổ, Hoa cái sống trong cảnh sung túc, học giỏi, rất đàng hoàng.

-Đại hạn từ 16 tuổi đến 25 tuổi: có Thiên không, Địa kiếp, Địa không, Linh tinh, Kình dương, Thiên hình rất xấu, vất vả.

-Đại hạn từ 26 tuổi đến 35 tuổi: có Thiên Đồng hãm địa may có Tả phụ, Hữu bật, Văn khúc, Văn Xương, rất tốt lại có Mộ khố (Kho tiền) học giỏi tài hoa được quý nhân giúp đỡ làm giàu và có danh giá.

-Đại hạn từ 36 đến 45 tuổi
Có Vũ khúc Phá quân thêm Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc, ân quang, Thiên quí thật là tốt đẹp có tiền bạc có quyền hành, có danh giá. Lại có Địa kiếp, Địa không đắc địa xung chiếu có thể có hoạch phát tài. Nhưng có Hồng loan, Thiên riêu, sợ rằng có tiền nhiều chơi bời trác táng.

-Đại hạn từ 46 đến 55 tuổi
Ở Ngọ có Thái Dương là giàu sang phú quý tột bực. Có Hóa Kị là cách “Cát xứ tàng hung” nên bị giảm 3 phần 10, hay bị đau mắt nặng.

-Đại hạn từ 56 đến 65 tuổi
Ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc thật là giàu sang, nhưng có Thiên hỷ, Hồng Loan, Đào hoa, Thiên Riêu, Thiên Y sợ rằng chót đời rồi mà bị gái đẹp làm mất danh giá và hại đến gia phong.
Ở Thân có Thiên Cơ Thái âm ngộ Triệt. Thiên Cơ, Thái âm ngộ Triệt thành tốt. Có Thiên Mã gặp Lộc vẫn giàu có, an hưởng tuổi già.

Tiểu hạn 1 năm

-Năm Sửu 36 tuổi
Ở Mão, có Linh tinh Kình Dương Thiên Không, Địa kiếp, xấu lắm. Nhưng Đại hạn từ 36 đến 45 tuổi tốt, nên cũng không xấu lắm, năm Sửu nửa phần tốt, nửa phần xấu (5/10 tốt 5/10 xấu).

-Năm Dần 37 tuổi.
Ở Thìn có Thiên Đồng khá tốt, thêm Tả phụ, Hữu bật, Văn Khúc, Văn Xương tiểu hạn này tốt lắm. Đại hạn cũng tốt vậy. Tốt 9/10 và xấu 1/10.

-Năm Mão 38 tuổi
Ở Tỵ có Vũ khúc Hóa quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc thật là tốt, nhưng có Hồng Loan, Riêu y bị giảm. Còn 7/10 tốt và 3/10 xấu.

-Năm Thìn 39 tuổi
Ở Ngọ có Tử vi thực là rực rỡ, lại có Lộc tồn hợp chiếu vừa có danh giá vừa có tiền tài, nhưng bị Hóa kị đồng cung bị cách “Cát xứ tàng hung” nên chỉ còn 8/10 tốt và 2/10 xấu.

-Năm Tỵ 40 tuổi
Ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc thật là tốt đẹp. Thiên Phủ là sao tiền bạc thêm Hóa Lộc là giàu lớn lại có Thiên Khôi, Thiên Việt là người có lượng bao dong, có tài tổ chức.

KHHB số 74L1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

74. Khảo luận: nguồn gốc khoa tử – vi (KHHB số 74l1)

0

KHẢO LUẬN: NGUỒN GỐC KHOA TỬ – VI

* TRẦN-ÐOÀN CÓ PHẢI LÀ ÔNG TỔ TỬ-VI? HAY LÀ MỘT TIÊN ôNG?
* Có THẬT CÁC SAO TỬ-VI Là TINH-ÐẨU? HAY THẦN THÁNH?
* NHỮNG ÐIỀU TỬ-VI CẦN CHẤN-CHỈNH LẠI, SAU KHI XÉT ÐúNG NGUỒN GỐC TỬ-VI.

G.S Hoàng-Quân

A-Nguồn gốc khoa Tử-Vi

-Tranh luận về khoa Tử -Vi hiện nay, người ta có ba giả-thuyết về nguồn gốc của nó:

– Giả-thuyết thứ nhất: Nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử-Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó.

– Giả-thuyết thứ hai: Khoa Tử-Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử-Vi không giải-thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy.

– Giả-thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử-Vi là Dịch lý. Hi-Di tiên-sinh đã căn cứ vào Dịch lý mà san định ra Tử-Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử-Vi ít để ý đến lịch-sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch-sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả-thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn.

Trở lại với nguyên lý khoa Tử-Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống-Thái-Tổ với Hi-Di tiên-sinh:

“ . . . . Quả nhân đã đọc Tử-Vi Tinh-Nghĩa kinh do tiên-sinh ban cho. Tiên-sinh là Thần Tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên-sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?

Ðáp :
– Không phải bần đạo đâu. Không phải bần đạo đâu. Khoa Tử-Vi uyên-nguyên từ đời Ðông-Tấn. Qua đời Lục-Triều vẫn chưa có qui-tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên-hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử-Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa Thiên-Văn, Lịch-Phổ, Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm và Hình-Tượng thấy cùng một gốc ở vũ-trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc-Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên-cứu ra đây . . . (Triệu-thi Minh thuyết Tử-vi kinh, chương 1).
Như vậy, nguồn gốc khoa Tử-Vi rất xa, và nguyên-lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ-trụ.

B–Sáu khoa tạo thành Tử-Vi

Uyên-nguyên khoa Tử-Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn-hóa sơ khai của Trung-Hoa. Thời đại thượng cổ Trung-Hoa : Hoàng-Ðế, Hạ-Vũ, Tây-Châu, Xuân-Thu, tính ra khoảng 2502 năm ( Từ 2752 đến 250 trước Tây-lịch) nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên-hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu :
Thiên nhân tượng dữ.
Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau.
Kinh-Thư nói : Thiên sinh chúng dân.
Kinh-Thư nói : Duy Thiên âm chất hạ dân.

Lễ-Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên – Trời có toàn quyền soi xÉt khắp nơi, trời có phÉp tắc trị muôn vật, làm khuôn phÉp cho mọi ngươì, tức là cái nền tảng đạo đức.

Kinh-Thi nói :
Thuợng đế lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương.

Lại nói :
Thiên giám tại hạ.
Thiên sinh chúng dân.
Hữu vật hữu tắc.

Kinh-Thư nói :
Thiên tự hữu điển.
Thiên trật hữu lễ.

Ấy bởi cái tư-tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan : Quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử-Vi vậy.

a) Quan Chúc coi việc trời

Thời cổ chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc Thần-quyền rất quan trọng. Như tại Ai-Cập có chức Pháp-Lão, Do-Thái có chức Tế-Tự-Trưởng. Ấn-Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là giòng Ðế-vương. Bà-la-môn chính là giòng Quan-Chúc. Tây-Tạng có chức Lạt-Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia Giáo-Hoàng La-mã còn có quyền trên cả vua chúa.

Chúc quan Trung-Hoa có hai loại :

* Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư-tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về giòng dõi chi lưu chức quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chÉp, khi Tào-Uế luận chiến sự với Lỗ-Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận.

* Hai là Quan-Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xÉt việc trời để ứng vào nguời. Ðời Tam-Hoàng có sai quan Nam-Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc-Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi-Hòa-Kính thuận việc Trời xÉt về trình độ Nhật-Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xÉt máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính, tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần :

-Hiệp định ngày, tháng, 4 mùa làm ra lịch.

-Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu-Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch-Học. Thiên-Hồng-Phạm có nói về Ngũ-Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó.

-Xem xÉt tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân-Thu, bọn Tì-Táo, Tử-Thận đều là giòng Chúc Quan coi việc lịch.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quan-Sử coi việc người

Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại-Sử, Tiểu-Sử, Tả-Sử, Hữu-Sử, Nội-Sử, Ngoại-Sử.

– Kinh-Thi, do quan Thái-Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão-Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ-Hạ-Sử. Trong Hán-Thư, phần Nghệ-Văn-Chí, sử-gia Ban-Cố cũng cho rằng phái Ðạo-Gia là do Sử-Quan mà ra.

Tóm lại, tư-tưởng học thuật cổ Trung-Hoa, tư-tưởng “Thiên Nhân Tương Dữ” như sau :

Quan Chúc coi việc Trời (nguồn gốc Tử-Vi):
Quan Chúc coi việc tế tự.
Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên-Văn học. Lịch số học, tức âm Dương. Chiêm-tinh-gia tức Phương-thuật).

Quan-Sử coi việc nguời :
Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho-gia).
Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo-gia)

Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc-Quan làm lịch.

c) Thuật số cổ Trung-Hoa

Trong bộ Hán-thư của Ban-Cố, phần Nghệ-Văn-Chí có đoạn :
“Thuật số do các sử gia Thần-thoại là Hi-Hòa trong nhà Minh-Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân-Thu có Lỗ có Tân-Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử-Vi. Thời Chiến-Quốc, Sở có Cam-Công, Vệ có Thạch-Thông-Phủ. Hán có Ðường-Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”.

Các khoa thuật số Trung-Hoa là sáu khoa mà Hi-Di tiên-sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên-lý. Tiên-sinh nhân học, rồi hiệp tinh-hoa thành khoa Tử-Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này.

– Khoa Thiên-văn, trong bộ Sử-Ký 130 quyển của Tư-Mã-Thiên đã dành cả quyển 28 nói về Lịch, quyển 29 nói về Thiên-quan. Trong bộ Hán-Thư, Nghệ-Văn-Chí, Ban-Cố để một chương chÉp về khoa Thiên-văn. Theo Ban-Cố thì Thiên-Văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu. Khoa Tử-Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên-Văn. Kinh Dịch rút từ nguyên-lý vũ-trụ tuần-hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên-Văn, nên có câu:

Quan Thiên-Văn dĩ sát thời biến.
Nghĩa là ngắm tượng trời để xÉt sự thay đổi thời tiết.
(Chu Dịch, Quẻ Bí)

Nguyên-lý căn bản của Tử-Vi là Thiên-Văn. Thiên-Văn và Dịch đều có nguyên-lý là Vũ-Trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên-lý của Tử-Vi là Dịch lý cũng không lạ.

-Về Lịch-Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi-Di không mấy chú ý đến tính chất Ngũ-Hành của các sao tại 12 cung. Mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó.

-Ngoài ra, khoa Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm, Hình-Tượng cũng đều có nguyên-lý Vũ-Trụ mà Hi-Di tiên-sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con nguời.

C-Khoa Tử-Vi và tiểu-thuyết thần thoại

Vì sự thiếu sót của Tử-Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt-Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu-thuyết Thần-kỳ chí-quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử-Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông Thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử-Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung-Hoa và bị tiểu thuyết ảnh huởng đến độ tưởng thật (1)

a) Trần-Ðoàn không phải là Tiên-ông. Trần Hi-Di là một đạo-gia tu ở Hoa-Sơn, đời Tống-sơ. Tất cả sách vở đều chÉp như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu-thuyết ra đời. Nhiều tiểu-thuyết gia biến Tiên-sinh thành Trần-Ðoàn lão-tổ, có phÉp tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu-thuyết gia cho Tiên-sinh sống từ đời Bàn-Cổ. Ðời Ðông-Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phÉp thu học trò. Tiên-sinh chỉ là Ðạo-gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm.

Các Sao trong Tử-Vi và nhân vật Thần-Thoại : Từ sự lầm lẫn Hi-Di tiên-sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các Sao trong Tử-Vi với các vị thần trong Tiểu-thuyết.

Rồi khẳng định rằng Hi-Di tiên-sinh căn cứ vào nhân vật Thần-thoại đời Thương-Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về Văn-Học-Sử và Sử Trung-Hoa. Có ba điều chứng minh rằng Hi-Di tiên-sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương-Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử-Vi :

Thứ nhất: Các ngôi sao trong khoa Tử-Vi đều là những hành-tinh có thật trong Thiên-Văn. Ðọc bộ Tinh-Kinh của Cam-Hũu-Vu, hoặc của Lưu-Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên-Hà. Tiểu-thuyết gia lấy các sao trong Thiên-Văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là Thần của ngôi sao.

Ðáng buồn thay, có những nhà Tử-Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu-thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng.

Thứ hai: Khoa Tử-Vi được phổ biến vào năm Càn-Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu-thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ Trung-Quốc Văn-Học Sử của Dị-Quân-Tả Tự-Do thư xã ấn hành tại Hương-Cảng vào niên hiệu Trung-Hoa Dân-Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn-học, trang 397 có viết :
“. . . . Minh-Sử, Nghệ-Văn-Chí chÉp có tới 127 bộ tiểu-thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn . . . Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu-thuyết có Trung-Quốc tứ đạo kỳ thư . . . Mà Tứ-Ðại kỳ-thư tiểu-thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong-Thần Diễn-Nghĩa hay còn gọi là Phong-Thần Bảng (2) . . “

Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong-Thần được bịa đặt ra sau Hi-Di tiên-sinh đến 200 năm.

Thứ ba: Tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân-Thu, Tả truyện, Chiến-Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần-thoại trong Phong-Thần. Bộ Sử-Ký của Tư-Mã-Thiên:

– Cuốn 4 nói về Thương Kỷ.
– Cuốn 5 nói về Chu Kỷ.
– Cuốn 33 nói về Lễ, Chu-Công thế-gia.
– Cuốn 32 nói Tề, Thái-Công thế-gia.

Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch-sử như : Trụ-Vương, Võ-Vương, Khương-Thượng. . .vân. vân . . . Không hề thấy nói đến Dương-Tiễn, Lý-Tĩnh, Lý-Na-Tra, Long-Kiết công chúa, Nguyên-Soái Trương-Quế-Phương .v.v. . .

c) Kết luận. Tóm lại :

-Khoa Tử-Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên-lý của nó là vũ-trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ-trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử-Vi có nguyên lý là Dịch lý.

Tiểu-thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần-thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa-học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử-Vi. Hi-Di tiên-sinh là một đạo-gia, không phải là Tiên ông.

  • Một giáo sư tốt nghiệp đại học, vì mê tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, bị xe cán gẫy ống chân không đi nhà thương bó bột. Nằm ở nhà tập vận nội công như Trương Vô Kị mong xương lành. Rút cuộc chân thối phải cưa.
  • Người Nhật có một bản đề tên Trá trọng Tâm, in đời Minh, 120 hồi.

 

Tài liệu tham khảo:

SáCH CHỮ HáN:

-Tử vi tinh nghĩa: Trần Đoàn bản của cơ quan nghiên cứu Đông á Châu.

-Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh: Triệu Thị bản của cơ quan nghiên cứu Đông á Châu

-Trung quốc Văn học sử: Dị quân Tả

-Ẩm băng Thất văn tập: Lương Khải Siêu

-Trung quốc Triết học sử: Phùng Hữu Lang

– Trung quốc cổ đại xã hội nghiên cứu: Quách mạt Nhược

SÁCH TÂY PHƯƠNG:

-Pensee Chinoise: M. Granet.

-Naissance de la Chine: H.Glessner Greel.

KHHB số 74L1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

73. Tìm hiểu phú tử vi (KHHB số 74l1)

0

TìM HIỂU PHÚ TỬ VI

Phong Nguyên

Cách: Quân dân sủng ái
Cách: Ích Tử Vượng Phu
Cách: Thiếu niên Tân khổ

Hôm nay tôi lại xin tiếp tục thảo luận về phú tử vi sau khi đã gián đoạn một vài kỳ vì có một số độc giả đã tha thiết yêu cầu tôi sớm trả lời hoặc viết về một vài khÍa cạnh khác. Vậy quý bạn nào đang theo dõi loạt bài về phú tử vi xin thông cảm cho tôi.

HOÁ KỊ TÍ CUNG KHOA LƯƠNG PHỤ CHIẾU, ĐẮC QUÂN DÂN SỦNG ÁI

Giải nghĩa: Mệnh an tại Tí có Hoá Kị tọa thủ và Hoá Khoa, Thiên Lương hội họp thì được rất nhiều người quý mến, ngưỡng mộ. Có sách chép là “Chúng nhân tôn phục” thay vì “Đắc quân dân sủng ái”, nhưng sự khác biệt đó cũng không quan trọng lắm vì đại để cũng chỉ đề cập đến số người đông đảo mà thôi .

Nhận xét: Ngoại trừ ở cung Điền hoặc Tài, Hóa Kị thường bị coi là xấu cho nên trong trường hợp này thiết tưởng ta cũng không nên có thành kiến về Hoá Kị quá mức mà quên lãng đi một ưu điểm Ít có về sao trên. Tuy nhiên quý bạn cần lưu ý:

Điều tiên quyết là Mệnh phải ở cung Tí mới ứng nghiệm. Dù ở cung Ngọ là cung xung chiếu cũng không áp dụng được. Về lý do tại sao chỉ đặt trường hợp cung Tí tôi chưa tìm hiểu được, nhưng về sự ứng nghiệm tôi có thề đoan chắc với quý bạn.
Điểm cần thiết thứ hai là chỉ có Hoá Khoa và Thiên Lương mới sử dụng được Hóa Kị hữu hiệu nghĩa là không thể lấy Hoá Quyền, Hoá Lộc hoặc Khôi Việt để thay thế cho Hoá Khoa, lấy Thiên Phủ, Thiên Tướng để thay thế Thiên Lương . Điều này cũng chẳng có gì lạ lùng vì Hoá Khoa mới tượng trưng cho thông minh, tháo vát và Thiên Lương mới chủ về người biết ăn nói (những nhà mô phạm, du thuyết thường có sao này) do đó 2 sao này phối hợp với nhau đủ khả năng sử dụng Hoá Kị tượng trưng cho cái lưỡi, tức là sự ăn nói nên mới được nhiều người ngưỡng mộ chứ không phải nhờ khÍa cạnh nào khác, cho nên mới cần phải có Khoa Lương là các sao rất phù hợp với lãnh vực này. Vì vậy nếu gặp Thiên Phủ chẳng hạn thì đương số ăn nói lúng túng, chẳng ra lời lẽ gì cả vì Thiên Phủ chủ về bệ vệ khoan thai, chậm rãi thì làm sao dùng được sao Hoá Kị. Nếu gặp sao Thất Sát lại còn tệ hơn vì sao này chủ về võ chứ không dÍnh dấp gì đến văn, cho nên khi gặp Hoá Kị thì đương số ăn nói lỗ mãng, dữ dằn, thiếu tế nhị, nhất là khi thiếu Hoá Khoa thì lại càng tệ hơn nữa, khi đó thì làm sao còn được ai ngưỡng mộ nữa . Trường hợp gặp Tham Lang tuy không trở thành người du thuyết được nhưng cũng có thể là người khéo ăn khéo nói dễ thuyết phục người khác một cách riêng tư vì Tham Lang dù sao cũng chủ về khôn ngoan, lanh lợi, mặc dù đương số có thể thất bại khi đứng trước quần chúng đông đảo .

Câu phú đã nêu ra một cách hợp lý là Khoa Lương phụ chiếu, chứ không phải đồng cung với Hoá kị. Thực thế, nếu quý bạn coi lại cách an Hoá Kị thì sẽ thấy rằng không mấy khi Hoá Kị lại đồng cung với Thiên Lương, trừ trường hợp tuổi Kỷ thì vì Hoá Kị đồng cung với Văn Khúc cho nên có thể đồng cung với Thiên Lương ( vì Văn Khúc có thể đồng cung với Thiên Lương ). Đối với Hoá Khoa cũng vậy, rất Ít có trường hợp Hóa Kị đồng cung với sao đó.

Tuy câu phú trên có nêu ra tổng quát là cứ có Khoa Lương là “xài” được Hoá Kị , nhưng thực ra chỉ có một số tuổi là hy vọng gập, còn một số tuổi khác không bao giờ được hưởng cách trên. Nếu quý bạn chịu khó ngồi lập ra đủ 10 trường hợp tuổi theo hàng Can (và cách an sao Hoá Kị phải theo Can) và sao khác thì sẽ thấy chỉ có tuổi Giáp, Ất, Mậu là hay gặp Khoa Lương phụ chiếu Hoá Kị còn các tuổi Đinh , Nhâm , Quý thì đừng bao giờ hy vọng được hưởng cách trên .

VĂN XƯƠNG TÍNH THANH THẢ KHIẾT TỬ ÍCH PHU SƯƠNG

Giải nghĩa: Câu này chỉ áp dụng cho phụ nữ và có nghĩa là đàn bà cung Mệnh có Văn Xương tọa thủ thì tÍnh tình tao nhã và vượng phu Ích tử.

Nhận xét: Nếu ta chỉ biết câu này thôi thì thiết tưởng chẳng có gì đáng nói, nhưng nếu ta đọc tới câu “Nữ nhân Xương Khúc thông minh phú quý đa dâm” liệu ta còn dám nghĩ rằng người đàn bà đó có đáng gọi là “tao nhân” hay “vượng phu Ích tử” chăng? Thực ra hai câu phú này đều ứng nghiệm cả, miễn là ta phải chú ý tới các sao khác:

Nếu có thêm Đào, Riêu, Mộc, Cái thì chắc chắn vấn đề tao nhã và vượng phu Ích tử không còn đặt ra được nữa mà phải nhường chỗ cho “đa dâm”. Dù cho trường hợp này có Thiên Phủ, Nguyệt đức, Khôi, Việt…cũng vẫn còn tÍnh xấu đó, nhưng bề ngoài hơi khó nhận thấy.

Nếu vắng hẳn bộ sao “ướt át” kể trên và lại có Hóa Quyền, Khôi, Việt hoặc Thiên Phủ, Thiên Hình…ta có thể đoán chắc là đương số thuộc trường hợp câu phú thứ nhất, nghĩa là nết hạnh, đoan trang, vượng phu Ích tử.

Sau hết tôi cần nhắc lại (điều này tôi đã nêu ra đôi ba lần) là vào thời đại văn minh tiến bộ, hai sao Xương Khúc của phụ nữ đã có môi trường thÍch hợp giống như đối với phái nam nghĩa là phụ nữ có hoàn cảnh được ăn học cho tới cao khoa, cho nên khÍa cạnh “đa dâm” đã bị vô hiệu hóa rất nhiều, và do đó nhiều khi chỉ cần tránh được Đào, Riêu, Mộc, Cái là đủ đứng đắn chứ khỏi cần thêm Thiên Phủ, Hóa quyền…như đã nói trên. Đối với phụ nữ thời phong kiến có thể nhóm sao sau này vẫn còn cần thiết để áp đảo được tÍnh lãng mạn, lẳng lơ đi.

TUẦN TRIỆT ĐƯƠNG ĐẦU THIẾU NIÊN TÂN KHỔ

Giải nghĩa: Theo ý kiến của đa số những nhà Tử vi thì “đương đầu” có nghĩa là án ngữ ngay tại Mệnh, nhưng theo một vài “cây” Tử vi thì Tuần Triệt ở cung xung chiếu hoặc tam hợp với Mệnh cũng phải coi là đương đầu. Còn về ý nghĩa cả câu thiết tưởng không cần phải nêu ra vì đã quá rõ ràng.

Nhận xét: Chắc có bạn mỉm cười khi thấy tôi nêu ra câu phú đã quá quen thuộc và dễ hiểu, nhưng thực ra có một vài khúc mắc mà quý bạn không thể coi thường được:

Nếu chỉ chấp nhận trường hợp Tuần Triệt án ngữ ngay tại Mệnh mới gọi là “đương đầu” quý bạn vẫn phải phân biệt khi Mệnh có chÍnh tinh và Mệnh Vô chÍnh diệu. Trường hợp có chÍnh tinh bị Tuần Triệt án ngữ không phải lúc nào cũng tai hại vì thực ra chỉ có Tử Phủ, Thiên Tướng, Cơ Lương, Vũ khúc là sợ Tuần Triệt nhất, còn Thất sát nếu hãm địa lại gặp Triệt (hay hơn là Tuần) thì trái lại trở nên tốt đẹp hữu hiệu vô cùng, nhưng lẽ tất nhiên nếu Thất Sát đắc địa thì phải tránh Tuần mới hay. Còn trường hợp Mệnh vô chÍnh diệu gặp Tuần Triệt án ngữ cũng đừng vội cho là hay mà phải để ý xem có nhiều trung tinh tốt đẹp tọa thủ hay không. Nếu có thì cần tránh Tuần, Triệt (nhất là Triệt) vì Tuần bao vây không cho trong ngoài liên lạc được với nhau để phát huy khả năng phối hợp, còn Triệt thì chặt gẫy phá vỡ mọi sao hay khiến cho mất hẳn yếu tố tốt có sẵn tại Mệnh và các sao bên ngoài chiếu về không cứu vãn nổi. Trường hợp không có trung tinh tốt thì chỉ kị mỗi Tuần mà không sợ Triệt vì Mệnh xấu mà còn không nhờ cậy gì được các sao tại các cung tam hợp (bị Tuần bao kÍn không vào được) sẽ khiến cho đương số thực sự “tân khổ”, trong khi Triệt án ngữ lại thuận lợi vì không những phá được những yếu tố xấu tại Mệnh mà lại còn không cản trở sự trợ giúp bên ngoài.

Nếu chấp nhận Tuần, Triệt ở cung xung chiếu hoặc tam hợp cũng gọi là “đương đầu” chắc có bạn thắc mắc không hiểu tại sao Tuần, Triệt chỉ chiếu cũng gây ảnh hưởng mạnh mẽ như án ngữ. Điều này rất dễ hiểu vì có bao giờ ta chỉ căn cứ vào nguyên cung Mệnh để giải đoán mà trái lại luôn luôn phải kết hợp với các sao khác ở các cung tam hợp và nhất là ở cung xung chiếu. Do đó, tỷ dụ như Mệnh có Tử Phủ (Dần, Thân) rất cần có Vũ Tướng và các bộ trung tinh khác (như Tả Hữu, Thai Tọa, Khôi Việt…) mới thành cách quần thần khánh hội, như vậy nếu các sao này ở ngoài lại bị Tuần, Triệt án ngữ thì làm sao kết hợp được với Tử Phủ khiến cho hai sao này bị cô đơn, vô hiệu lực, thành ra vấn đề “tân khổ” thiết tưởng cũng rất hợp lý. Ngay cả với trường hợp Mệnh vô chÍnh diệu cũng vậy, bất luận có trung tinh tốt tại Mệnh hay không cũng cần phải có sự hỗ trợ bên ngoài, không khác gì một nước chạm tiến cần viện trợ của nước ngoài, nếu bị Tuần, Triệt ngăn trở thì làm sao còn có chỗ nương tựa, khiến cho đã xấu còn xấu thêm. Tai hại hơn cả trường hợp có chÍnh tinh nhiều. Quý bạn nào mệnh vô chÍnh diệu ở trong trường hợp sẽ cảm thấy “đương đầu” theo cách chiếu cũng hiệu nghiệm vô cùng.

Sau hết, có một điểm nhiều nhà Tử vi thắc mắc là tại sao Tuần, Triệt đương đầu (dù án ngữ tại Mệnh hay ở các cung tam hợp) chỉ hành hạ lúc “thiếu niên” chứ tuyệt nhiên không gây trở ngại cho tuổi từ trung tuần trở đi. Có vị cho rằng Triệt từ 30 tuổi sẽ yếu đi nhưng nếu nói đến “Tuần” thì hơi khó trả lời vì Tuần có ảnh hưởng suốt cả đời hoặc mạnh mẽ từ 30 tuổi trở đi. Có vị thì lý luận rằng lúc Ít tuổi chịu ảnh hưởng của Đại hạn đầu tiên tức là bị Tuần Triệt chi phối vì Đại hạn đầu nằm tại Mệnh, nhưng qua Đại hạn kế tiếp tránh được Tuần, Triệt rồi và tuổi còn trẻ mà sao vẫn “tân khổ” (trường hợp Tuần, Triệt án ngữ tại Mệnh còn có lý vì hai sao đó đè lên 2 cung, nhưng trường hợp ở các cung tam hợp hoặc xung chiếu thì đâu còn ảnh hưởng gì cho Đại hạn kế tiếp). Riêng tôi, tôi cũng không sao tìm hiểu nổi, vậy chỉ còn biết trông chờ các bậc uyên thâm Tử vi giải đáp giúp.

KHHB số 74L1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

72. Kinh nghiệm tử vi: Giải đoán cung tử tức (KHHB số 74l1)

0

Kinh nghiệm tử vi: GIẢI ĐOÁN CUNG TỬ TỨC

 

-Sự quan trọng của cung Tử-Tức
–Tử-Tức và cung Phúc Đức, Mệnh, Thân
–Trai nhiều hay gái nhiều?
–Con truyền tinh.
–Con nhiều, ít.
–Hạn sinh con.

Trần Việt Sơn

(Thuật theo kinh nghiệm cụ Thái Dương)

Xin nói ngay rằng cung Tử-Tức là một trong các cung mà sự giải đoán thiếu sự chính xác (khác với sự chính xác của các cung Mệnh, Thân, Tài, Di … ).

 

Nhưng cũng nên nói ngay rằng sự chính xác của cung Tử-Tức chỉ nằm trong những yếu tố rất đại cương. Thí dụ như có những sao xấu nào đó, là không con, hoặc được những cách tốt khác, là người nhiều con. Sự ít con hay hay nhiều con cũng như con thành đạt hay không thành đạt, là những ý niệm rất tương đối. Trong 5 đứa con ra đời, thế nào cũng có đứa thành đạt và đứa không thành đạt.

Ngoài ra nữa, số con cái cũng phải tùy theo cả hai vợ chồng. Một người số ít con, lấy một người có số nhiều con, sẽ thành ra thế nào? Nếu thêm một người hai vợ, hoặc một người hai ba chồng, thì phải xét khác. Nếu số cả hai người cùng một vợ một chồng thì cái sự nhiều con hay ít con tùy theo số của vợ hay của chồng lại phải tính khác.

Cũng bởi thế, khi tìm hiểu về con cái, phải có cả hai lá số vợ và chồng và phải biết rõ tình trạng hôn nhân (một vợ, nhiều vợ, người chồng lấy vợ kế, người vợ tái giá …)

Vị thế của cung Tử-Tức

Con cái là một yếu tố quan trọng của hạnh phúc. Người không con, hoặc có con cái mà không ra gì, hoặc có con cái mà không nuôi được, là người thiếu hẳn hạnh phúc.

Bởi thế mà xem cung Tử-Tức cũng phải xem cung Phúc-Đức. Cung Phúc-Đức được coi là chỉ về sự thịnh vượng hay sự tán tụ của họ hàng (vả chăng, cung Phúc Đức cũng có ảnh hưởng chủ chốt vào cả 11 cung khác). Cung Mệnh, Thân cũng có ảnh hưởng. Nói chung, cung Phúc-Đức tùy theo chính tinh tốt hay xấu miếu vượng hay khắc hãm, mà chủ về gia đình đông đúc hay hiếm hoi, thì cái đó cũng chỉ về con cái. Ngòai ra cung Mệnh, Thân phải tốt, thì do đó mà số con tăng lên, sự nuôi con cũng dễ dàng và mình cũng được nhờ con. Nói cách khác là cung Phúc-Đức và Mệnh-Thân tốt, thì tăng độ số của cung Tử-Tức. Ngược lại, cung Tử-Tức mà tốt, nhưng Phúc Đức lại xấu, Mệnh-Thân cũng xấu, thì phải cho rằng cung Tử-Tức bị giảm kém, hoặc đương số được con cái tốt mà chẳng được hưởng, chẳng được con cái phụng dưỡng.

Tuy nhiên, cũng còn tùy theo kinh nghiệm. Như có người mạng số thật xấu, nhưng cung Tử-Tức lại quá tốt. Người đó về già được hưởng sự phụng dưỡng của con cái. Có người cung Tử-Tức thật xấu, kể như không con, thế mà nhờ Phúc-Đức và Mệnh, Thân tốt, cũng thành có con.

Con Trai và con Gái

Có thể phân định trai nhiều hay gái nhiều bằng sự hiện diện của chính tinh tại cung Tử-Tức là Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh.

Nam đẩu tinh là : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát,, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ. Cung Tử-Tức có Nam đẩu tinh tọa thủ thì con trai nhiều hơn con gái.

Bắc đẩu tinh là : Thái âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân. Cung Tử-Tức có Bắc Đẩu tinh tọa thủ, thì con gái nhiều hơn con trai.

Nếu có 2 chính chinh tọa thủ, 1 là Nam đẩu tinh, 1 là Bắc đẩu tinh thì sao? Ảnh hưởng Nam đẩu tinh chia đều, vậy phải xem cung Tử-Tức là cung Dương thì con trai nhiều hơn; nếu là cung âm, thì con gái nhiều hơn.

Nếu là Tử- Vi đồng cung với một chính tinh khác: Tử-Vi lại là cả Nam và Bắc đẩu tinh, thì ảnh hưởng phân định trai gái không còn nữa. Vậy phải xét tính chất của chính tinh đồng cung kia. Nếu chính tinh đó là Nam đẩu tinh, thì sinh con trai nhiều hơn. Nếu là Bắc đẩu tinh, thì sinh con gái nhiều hơn.

Vấn đề con truyền tinh

Vấn đề này được nhiều người nhắc nhở đến và cho là một yếu tố quan trọng cũng như trường hợp vợ chồng truyền tinh.

Vợ chồng truyền tinh : Cung Thê của chồng có một bộ chính tinh nào, thì cung Mạng của Vợ có đúng một bộ chính tinh đó. Hoặc ngược lại, cung Phu của vợ có bộ chính tinh nào thì cung Mạng của chồng có bộ chính tinh đó. Các bộ chính tinh như Tử-Phủ-Vũ Tướng, Sát-Phá-Liêm-Tham, và không cứ phải đúng chinh tinh tọa thủ tại cung; cung Mạng của vợ có Liêm Trinh, cung Thê của chồng có Thất Sát, và cả hai cung cùng có bộ Sát Phá Liêm Tham, Thế cũng là truyền tinh.

Con truyền tinh: Cung Tử-Tức của đương số có chính tinh hay bộ chính tinh nào đó, xem cung Mạng trong lá số đứa con. Nếu cũng có chính tinh hay bộ chính tinh đó, thì đó là đứa con truyền tinh. Đứa con truyền tinh là đứa con sau này có nhiều liên quan với mình, như sau này nó chăm lo phụng dưỡng cho mình, hoặc là sống chung với mình, ở gần mình, hoặc cũng có thể là mình phải chăm sóc cho nó. Không hẳn phải là như vậy có nghĩa là các đứa con khác không có hiếu với mình; cũng có thể có những đứa con không phải là truyền tinh cũng có hiếu với mình, nhưng chúng vì hòan cảnh mà ở xa thì chúng không thể chăm sóc đến cha mẹ theo lối sớm khuya thăm hỏi thế thôi.

Vấn đề có mấy đứa con

Trong các sách Tử-Vi, có ghi những cách chỉ dẫn số con trong mấy trường hợp. Ví dụ: Có chính tinh này miếu thì năm con, có chính tinh kia hãm thì một con, có sao xấu nọ thì “đến già không có tay bồng con thơ “.

Chúng ta chỉ có thể tin ở những cách đó một cách rất tương đối, chưa kể rằng phải phối hợp các cách đó để “tạm đưa ra một đáp số về con”. Ngòai ra, lối đóan cũng không thể chính xác, là vì có những đứa con đẻ ra, mà có đứa sống được, có đứa hữu sinh vô dưỡng; xét tuổi của đương số, nếu là tuổi đương độ sanh đẻ, chưa thể biết rõ đã đành; nếu là người đã qúa tuổi sanh (thí dụ 60 tuổi) thì số con cũng khó thể chính xác, là vì ngày nay, những thanh niên, con cái của các ông bà lớn tuổi, chết một cách lãng xẹt, thì như vậy có kể cả không ?.

Có nhiều vị nổi danh về Tử-Vi chủ trương rằng số con mình là số con mà mình nuôi được đến tuổi trưởng thành (18, 21 tuổi) chứ không phải là số con sanh ra (kể cả những đứa con chết yểu).

Nhiều vị nổi danh Tử-Vi cũng chủ trương những nguyên tắc để giải đóan số con như sau:

– Chỉ kể đến số con của hai vợ chồng chính thức (có hôn thú) và ở trường hợp một vợ một chồng, sống với nhau lâu dài thì phải tính như sau : ước lượng số chồng mấy con, ước lượng số vợ mấy con, đem cộng lại rồi chia hai. Thí dụ : Theo lá số chồng là 8 con, theo lá số vợ 2 con; cộng lại rồi chia hai thì hai vợ chồng đó được 5 con. Trong Tử-Vi các cung Tài-Bạch, Điền-Trạch và Tử-Tức của hai vợ chồng bù trừ cho nhau.

-Có một ông bạn, cung Tử tức ở Dần, có Tham Lang, Bạch hổ, số con đến 16 đứa (phải chăng là con nhiều như hổ lang?).

– Một người thường, không phải là thứ đại lãnh tụ, có cung Tử-Tức rất xấu là người không có con với người vợ duy nhất của mình, nhưng nếu cung Nô Bộc thật tốt, cũng có thể có nghĩa là người đó có những đứa con ngọai hôn với những nhân tình, vợ bé.

Hạn sanh con : Sanh Trai hay sanh Gái

Vận sinh con, cần nhất phải có sao Thai
Gặp Tiểu vận mà có sao Thai và những hỷ tinh như Hồng Đào Hỷ, Sát Phá Liêm Đào, Nhật, Nguyệt, thì có tin mừng sinh con. Sao Thai là quan trọng nhất.

Tuy nhiên, không có sao Thai ở Tiểu Vận. Sao Thai có thể đóng ở Đại vận, hay ở Nguyệt Vận. Vậy ta cộng chung các sao ở Đại Vận, Tiểu Vận, Nguyệt Vận , thấy có sao Thai và các bộ Hỷ tinh thì đó có thể vận tốt sinh con. Tuy nhiên, ở Đại vận và Tiểu vận mạnh hơn là ở Nguyệt Vận.

Còn sinh con Trai hay con Gái thì xem cung Tiểu vận báo hỉ, có Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh. Gặp Nam đẩu tinh thì sinh Trai; gặp Bắc đẩu tinh thì sinh Gái. Nếu gặp Tuần Triệt đóng ngay cung, thì ảnh hưởng ngược lại., Nam đẩu tinh sinh Gái, Bắc đẩu tinh sinh Trai.

KHHB số 74L1

71. Kinh nghiệm tử vi: Phá quân thìn đụng độ Phá quân tuất (KHHB số 74l1)

0

Kinh nghiệm tử vi:
PHÁ QUÂN THÌN ĐỤNG ĐỘ PHÁ QUÂN TUẤT

Đông Nam Á

-Chết thì chết, không lạy ông Dự thẩm
-Đụng độ chủ tiệm may
-Nhờ ván cờ, đổi cuộc đời

Kể lại câu chuyện này, tôi chỉ có ý muốn nêu rõ một vài nhận xét trong việc xem tướng số. Bởi vì có một vài người bạn nhờ tôi “hướng dẫn” xem số của họ theo nghề nào mới được phù hợp. Nhưng nhà tướng số chân truyền cũng chỉ biết đoán điều tốt xấu trong phạm vi thọ yểu hay phú quý. Tức là nói về cuộc đời của thân chủ. Còn việc nói về việc “hướng” được số thì đời người chẳng lẽ không có số mạng. Cứ nhìn vào bản thân tôi, các bạn sẽ thấy ngay. Nếu hướng cho nổi số phận tôi theo con đường phú quý thì tôi đã hành động cho mình trước tiên. Vài ý kiến trên được chứng minh ở câu chuyện tôi sắp kể dưới đây về cuộc đời lưu lạc trong quá khứ của tôi. Hơn nữa, tôi cũng xin các bạn nhận định thêm rằng : Số mạng mỗi người diễn biến ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

Lên Hà Giang

Năm Canh thìn 1940, tôi vừa được 27 tuổi và tính theo số tử vi tôi gặp đại vận và tiểu vận trùng phùng ở cung Tí, có Thiên Phủ, Vũ Khúc ngộ Tuần. ông thầy bói Lợn có đoán : Phúc Đức, Vũ Khúc, Thiên Phủ được Thanh Long Tử Tướng ở thiên di chiếu, là cách ” Tứ đại dương mộ đắc địa”. Tôi cũng đã thường được nghe nhà Bà Lý nọ, cụ Chánh kia sở dĩ giàu có là vì được mộ táng chổ này. Nhưng ngôi Tứ đại cả Dương lẫn âm của nhà tôi bị thất lạc đã lâu rồi, như vậy hỏi kết phát ở chổ nào ? Chẳng lẽ lại phát “phú quý giật lùi”?

Năm Canh Thìn, theo số tử vi tính về Tứ Hoá thì ở cung phúc đức còn có sao Hoá Quyền (tuổi Giáp Dần) thế là thành bộ hoá quyền, lộc tồn ở cung quan lộc chiếu. Vậy mà ngay từ đầu năm, tôi đã phải khăn gói lên Hà Giang để kinh doanh.
Tôi tới tỉnh lỵ Hà Giang vào tháng 2. Nhờ có nghề may nên gặp ông Tô Tú Phương, còn có tên là Nã, thâu nhận. ông Phương là người Tàu lai, rất thích tử vi. ông ta tuổi Nhâm Tí, được sao Phá Quân thủ mạng tại thìn, nên có sao Hoá Quyền ở thiên di chiếu. Vì thế, cuộc đời của ông thật là : tay trắng làm nên sự nghiệp. ông Phương còn kể cho tôi nghe tính khôn ngoan do ảnh hưởng của sao Phá Quân đã giúp ông có cơ nghiệp ngay từ khi còn bé.

Phá Quân ở thìn của ông chủ tiệm may

Nghe ông Nã khoe sao Phá Quân ở thìn, tôi thầm nghĩ mình có sao Phá Quân ở tuất sao lại phải đi làm công cho loại Phá Quân thìn này ? Bởi vì, tuổi Giáp Dần còn tốt hơn nhờ lộc tồn, lại có sao Hoá Quyền tại mạng. Còn Phá Quân kia chỉ có sao Hoá Quyền chiếu, lại còn bị kình đà ám. Tôi không hiểu nổi lý do và còn nghi ngờ về sự quyết đoán tốt xấu trong tử vi.

ông Nã da trắng, mắt nhỏ, miệng nhọn, dáng đi hơi gù, bước nhanh. Theo dư luận, sỡ dĩ ông Nã khá là vì trong mấy năm nay, anh ông ta là ông Nhí bao thầu sòng bạc ở Yên Ninh. Hơn nữa, vợ ông ta có buôn bán các thứ thực phẩm cho Tây, đồ hộp, bách hoá …

Trong nhà ông Nã có tới 20 cái máy mai, mượn 20 người thợ. Những lúc phát đạt, được nhiều người mua sắm, ông Nã chiều chuộng thợ may lắm. Nhưng tới khi xong việc, ông ta xoay xở bằng mọi cách, như may quần áo bị gãy kim trừ nửa tiền mua kim mới (trừ 1 đ 50 vì kim máy 3 đ). Chỉ hết thì phải đem lõi lên mới được lãnh chỉ mới. Nếu làm mất lõi thì phải mua chỉ mà may. Lương công nhật một người thợ may chỉ có 1đ 50, vì vậy nếu không may mà bị gãy mất một cái kim hay bị mất lõi chỉ thị họ đi toi một hai ngày làm việc rồi !

Vốn biết thiên hạ hay dị nghị những ai có sao Phá Quân, ông Nã thường nói “Tôi Phá Quân ở thìn, nhưng tuổi Nhâm, sao Tử vi có Hóa Quyền chiếu nên mới quân tử, chứ còn các tuổi khá mà Phá Quân thì bất trị”.

Có nhiều lần ông lân la hỏi tôi sao nào thủ mạng, tôi nói dối sao Thiên Cơ thủ mạng ngộ Đào Hồng, làm ông vui cười đọc ngay câu phú :
” Đào Hồng mà gặp Thiên Cơ
Thì theo mũi chỉ đường tơ có tài”
(Phú Ma Thị)

Phá Quân tại tuất của tôi

Tôi cũng nhiều lần mưu mô lừa ông Nã, thế mà ông không hề biết. Chẳng hạn, tôi lấy cây kim bị gãy và lắp hờ vào, đợi lúc ông Nã đi ngang làm bộ đạp máy, thế là ông Nã tưởng tôi làm gãy kim và trừ tôi 1đ50 trong khi tôi mang cây kim ra phố bán được 2đ50. Lãi được 1 đồng. Rồi tôi còn mang lõi chỉ nhặt được ở hiệu khác, lên đổi lấy cuộn chỉ mới nguyên bán được 4đ. Thật là :
Kẻ gian hùng được người khen
Người thật thà bị mắng

Ở Hà Giang hai tháng, đến tháng tư tôi bị bệnh sốt rét. Thế là người tôi bị nóng lạnh, sức khoẻ sút kém, nhiều khi đi đứng không nổi. Lúc đó, chẳng hiểu vì túng thiếu hay vì bất nhân, chỉ biết giữa lúc đau nặng mà phải làm việc, tôi đã lừa ông Nã một lần nữa, mà lần này lợi tức hơi lớn:

Một bữa nọ, có đông khách đến may. ông Nã đưa mỗi người một tấm vải, phần tôi ông đưa cho tấm si mi li thứ vải đắt tiền để làm giá một mét 3dd50). Tôi nhìn các bạn chẳng thấy ai định ăn cắp vải, họ cứ hùng hục cắt xong là may liền! Tôi mới cắt ngay 5m vải dấu vào vali đồng thời đo 5m khác, đánh dấu cho có vẻ thật thà và bắt đầu cắt.

Tới chiều, ông Nã vào nhà trong lấy quần áo, ông hỏi mấy người thợ : “Các anh có biết cắt như thế mỗi bộ hết bao nhiêu vải không ?”. Họ chỉ trả lời là cứ đo theo khổ người khách rồi cắt, chứ không biết là hết mấy thước !.

Trong khi ông còn đang hỏi những người kia, tôi ngồi thản nhiên nghĩ: “chắc thể nào mình cũng bị ông ta hỏi cuối cùng, để rồi buộc tội cả lũ người kia vì “ngu dại”.

Quả nhiên tôi là người được hỏi sau cùng. ông Nã cười hỏi tôi: “Còn anh Quang, thế nào?” Tôi chưa kịp trả lời, ông tiếp: “Thấy anh có tướng học hành, hơn nữa lại bị đau nặng, tôi đã tán ông khách may vải simili, để đưa anh làm cho dễ và được công cao!”

Tôi đủng đỉnh, khẽ dở tấm vải ra tới mức đánh dấu, cầm thước đo. Số vải còn thừa lại hơn 20 phân. Tôi nói: “Thưa ông, tôi đo 5m rồi vạch dấu, như thế nào thừa 20 phân thì bộ quần áo kia phải tốn hết 4 thước 8 vải!”

ông Nã vỗ tay, nhìn các người thợ kia đang thộn mặt ra, ông nói ” làm ăn có mực thước như anh Quang thì thì tôi mới biết tính vốn mua vải, tính vốn tiền công, để bán cho người ta chứ! ”

Năm thước vải lấy ra tôi bán được 10đ, thêm 2 đ tiền công. Gom góp được một số vào số tiền sốt rét.

Trường hợp trên làm tôi rút kinh nghiệm và thấy rằng : Ở đời, có nhiều người thật thà lại bị chê bai nghi ngờ. Còn kẻ gian manh khôn khéo thường được tin dùng. Thế mới biết nhân tâm khó dò, người nào năm quyền mà không cao tay nhất định bị lũ đàn em bịt mắt như không.

Thuốc Tham Thiên Đường cũng không chữa được bệnh sốt rét. Bệnh tật đau buốt tận xương, không nhờ cậy được ai, đã có lúc tôi muốn tự hủy hoại thân thể mình, nhưng nghĩ đến cha già tôi lại gạt bỏ ý nghĩ bi quan đó. Một hôm, thân xác gầy còm thất thểu đi ngang qua nhà ông Phúc Đường, chẳng hiểu vì lẽ gì tôi lại được ông gọi vào nhà. Hỏi han một vài câu, nghe tôi trình bày cảnh ngộ, ông lấy ra ba tờ giấy 5đ và nói: ” Tôi xưa cũng cơ cực, may nhờ chúa Sơn Lâm phù hộ nên cũng mát mặt. Thấy cậu khôi ngô, tôi chắc không đến nỗi phải vùi thân nơi này đâu, này goi là có chút lòng đỡ cậu “. Tôi chỉ còn biết nói câu cảm ơn ông, rồi lếch thếch bước ra.

Tìm gặp ông Dự Thẩm

Bệnh nặng quá chỉ còn cách xin vào nhà thương thí nhưng tôi lại nghe người ta trong tỉnh nói rằng : ” Phải vào xin giấy quan Dự Thẩm, nhà thương mới chữa. ông quan Dự Thẩm này khó tính lắm, người nào vào xin giấy đi nhà thương phải lạy sống hai lạy mới được cho”

Nghe các câu nói trên, tôi nghĩ đến hành động của ông Phúc Đường thông cảm với hoàn cảnh cơ cực của tôi còn ông quan Dự Thẩm này cũng là công chức khác mà ông lại đòi hỏi hách dịch như vậy. Tôi phân vân trong việc lễ sống một người trong khi cha mình mà mình chưa lạy. Cuối cùng, tôi cũng đến Sơn Lâm, vào tòa Dự Thẩm. Quan Dự Thẩm là một người nhỏ thó, mắt nhìn gườm gườm. Tôi bước vào với dáng điệu mệt mỏi, hai tay chắp lại dơ cao trước mặt cuối đầu lơ lửng vái trời:
– Chào cụ lớn ạ
Một phút yên lặng trôi qua, tôi chờ đợi kết quả hành động thiếu sót của mình. ông Dự Thẩm cất tiếng : ” Xin vào nhà thương thí phải không ? Người như vậy mà cũng đòi nằm nhà thương thí nghĩa là sao? ”
– Bẩm quan, tôi tự nghĩ kẻ nào khốn nạn cùng đường mới cầu xin để được nằm thí, chứ đâu phải vì lợi lộc gì mà mong mỏi chuyện này đâu ?

Tôi thấy ông ta đáng ghét, bèn vái một cái : ” xin chào quan lớn” rồi lê gót trở ra. Trên đường trở về, tôi lại nghĩ thấy giận mình quá? Chỉ vì tự ái mà bây giờ đói khổ bì bệnh tật mà không có thuốc. Chẳng hiểu có phải vì ảnh hưởng của sao Phá Quân tạo cho tôi cái tính như vậy chăng?

Cuộc đời trong ván cờ

Cuộc đời như thể ván cờ
Khéo khôn thì được, khù khờ thì thua!

Lúc này, bệnh sốt rét đã bợt. Tôi đi lang thang ra đầu phố Yên Biên, gặp mấy người Tàu ngồi đánh cờ. Bản tính mê cờ, tôi liền ghé vào xem và có mách một vài nước. Cờ tàn, một người trong bọn rủ tôi đánh cá 2đ một ván. Tôi đoán chắc cờ người này không cao lắm nên đồng ý liền.

Cuộc đấu cờ khai diễn. Được một lúc, thấy con mã của đối phương nằm ngay tầm pháo, tôi không hiểu đối phương lập thế cờ gì mà lại thí như vậy. Nhìn kỹ thấy không hại gì, tôi chém luôn con Mã. Mặt ông Tàu già đượm vẻ đăm chiêu, ngồi im bất động, làm tôi tưởng mình sắp bị nước cờ hiểm. Nhưng 10 phút sau, ông ta tỏ ý xin hoàn lại con mã. Hoàn thì hoàn, nước cờ phải ăn thì ăn chứ chẳng cao gì nên tôi đành lòng trả lại con mã cho đối phương. Đánh cờ mà ăn quân một cách lãng xẹt hoặc vì lầm lẫn thì chẳng hứng thú chút nào. Chỉ thích thú khi nước cờ mình cao và bí hiểm mà thôi. Kết cuộc tôi thắng ván cờ đó. Sau đó, tôi được ông mời vào nhà ngồi nói chuyện. ông ta nhìn tôi hỏi: “Nị ở đâu ? Làm nghề gì mà có vẻ đau yếu vậy ?.

Tôi kể lể hoàn cảnh, chẳng ngờ ông Tàu lại tỏ ý rủ tôi đi Phó bảng với ông ta. Tôi bằng lòng. ông liền lấy 5 tờ giấy 20đ trao cho tôi và nói :

-Tiền này cho nị để mua thuốc và ăn cơm trong hai tháng. Rồi đến Phó Bảng hỏi ông Voòng Si là ai ai cũng biết.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Vì lẽ gì ông cho tôi nhiều tiền vậy?, lỡ tôi trốn luôn thì sao ?
ông ta mỉm cười : “Xem nước cờ của nị thì biết rằng nị không dối ngộ.”

Sau đó, tôi được ông Voòng Si (làm nghề bảo tiêu) truyền dạy cho thuật tướng pháp. ông Voòng Si thường đánh cờ với tôi. ông luôn bảo “Cờ của con không cao nhưng có những nước gò bó và cởi mở đượm vẻ giang hồ chân thật. Thầy tin rằng, mai sau con sẽ nên người, nhưng con nghèo.”

Tôi không tin rằng chuyện tôi nghèo. Đến lúc này, đã ngoài 60 tuổi, tôi mới thấy lời tôn sư tôi nói đúng….

Qua mẩu chuyện trên, chắc các bạn đồng ý với tôi rằng sự đời vô cùng biến ảo không ai có thể hướng dẫn được định mạng, nếu có thì thuộc ngoại lệ rồi. Nhà tướng pháp chỉ có kể được vài điều về sự Phú Quí Bần Yểu của thân chủ, ít nhất ông Thày phải đoán vài câu về quá khứ để thân chủ kiểm chứng. Tuổi càng cao càng nhiều quá khứ. Nếu gặp phải thầy thực tài, đoán ra một vài điều xấu thì có lẽ các bạn nên tin rằng đó là số mạng. Chứ đừng ép buộc ông thầy phải đoán cho mình toàn những chuyện tốt đẹp. Các điều đoán xấu có thể là những mách nước giúp các bạn may ra tránh khỏi những chuyện không tốt đến với mình.

KHHB số 74L1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

70. Lá số và cuộc đời nghệ sĩ: nữ danh ca, cử nhân văn khoa Hoàng Oanh (KHHB số 12)

0

Lá số và cuộc đời nghệ sĩ: NỮ DANH CA, CỬ NHÂN VĂN KHOA HOàNG OANH

Sanh năm Ất Dậu, Tháng Chạp, ngày 14, giờ Tí, âm nữ, Thủy mệnh, Hỏa lục cục

Lê Thành Thái và tập đoàn phóng viên Khoa học huyền bí phụ trách

Luận về cách của một ca sĩ:

Mệnh, Thân đồng cung có Lộc, Quyền, Long, Phượng, Tuế, Cái, Hổ, Khốc, Khách. Và đắc cách Nhật, Nguyệt tranh quang; Nguyệt miếu ngộ Kị; Nhật miếu ngộ Long, Hổ.
Nếu số này Thiên Cơ ở Thiên Di không bị Tuần, Phúc Đức không bị Kiếp, Không, Cô, Quả, thì đây là số cực phú quí nhàn nhã suốt đời.

Luận về mệnh thân:

Mệnh Thủy đóng tại Thổ (Sửu) tính theo vòng Cục thì đây là Hỏa địa, đất quặng mỏ, dòng suối (Tuyền Trung Thủy) chảy qua, nước trong vắt, không hề bị sình lầy làm vẩn đục. Và cung Mệnh tọa thủ gặp nhiều Mộc tinh (Lương, Quyền, Phượng, Dưỡng) cho nên dòng suối được che mát. Lại sinh vào mùa Đông, ban đêm, được Thái âm ngộ Kị sinh phò, thành thử suối nước không bị lửa đốt khó cạn, dù phát nguyên từ một mạch nước nhỏ (Hoa Cái thuộc Kim) nhưng trong thời gian luân lưu được nước mưa (Thanh long, Hóa Kị) và thêm những phụ lưu nhỏ (Long Trì, Thiên Khốc) tăng trưởng: ấu thơ phải vất vả lận đận, nhưng trung và hậu vận sẽ hưởng phú quí.

Số này dù giàu sang phú quí cũng không được ngồi một chỗ để an hưởng, mà phải vất vả lo lắng suốt đời (vì cung Mệnh có nhiều Mộc tinh và Hỏa tinh, mà chỉ có một Kim tinh) cho nên tuy dòng suối được bóng rợp, nhưng rễ cây cũng hút nước không ít, nhất là cây ở vùng đất kho cằn.

Mệnh có sao Dưỡng, Phục binh, Quan phù: Phụ mẫu có Đà la, Kiếp sát ngộ Thất sát, may nhờ Trường sinh, Nguyệt đức cho nên năm lên 3, hạn Nhi đồng vào Tật ách, xung chiếu Phụ mẫu, bé Huỳnh Kim Chi (tên thật của Hoàng Oanh) mới thoát chết. Nhưng đến năm lên 9, hạn vào cung Tử tức lại gặp Đà, Sát ở Phụ Mẫu hội đủ La, Võng, Kình, Linh, Kiếp Sát. Nhờ có Thiên không mở lưới La, Võng rồi Quang, Quí ngộ Thiên Quan, tam Đức (Phúc, Thiên, Long đã đưa cô bé Huỳnh Kim Chi về sống với bà ngoại. Đó là thời kỳ con suối thoát nguồn, luân lưu để được gặp các phụ lưu làm cho tăng trưởng (song thân ở thôn quê, bà ngoại ở Sài gòn), mới có dịp học ca nhạc và bước dần lên nấc thang danh vọng bằng sự cố gắng luyện tập, chứ không nhờ dịp may do “đôi hia bảy dặm” mà bước vào đài danh vọng như các danh ca khác. Thành thử Hoàng Oanh không bị hậu quả của những vụ tình ái lăng nhăng gây ra những chuyện scandal làm tổn thương danh dự (Hoa Cái ngộ Quyền, Long, Phượng).

Nhìn qua các biến chuyển quan trọng

Tuổi ấu thơ, Hoàng Oanh phải lận đận vất vả là vì Thủy mệnh lại gặp những sao thụ mệnh là Mộc tinh, Kim tinh (Hoa cái, Thiên Lương, Quyền, Long, Phượng) sống trên đất khó cháy (Hỏa địa), nhờ sinh ban đêm có mặt Nguyệt được vầng mây năm sắc (Hóa Kị) phục dịch, nhờ sống với bà Ngoại, được Cậu Dì dạy dỗ và hướng dẫn. Và nhờ quê Ngoại ở chốn đô thị lớn, tiếp xúc với giới ca nhạc sĩ, giúp cho Hoàng Oanh bước vào ngưỡng cửa nghệ thuật và tự tạo cho mình một hào quang rực rỡ trên vòm trời ca nhạc (Cơ, Quyền, Lộc, Long, Phượng) như hiện nay.
Năm 1958, 14 tuổi, TIỂU HẠN ĐẾN NÔ BỘC: Năm này gặp Phá quân, Thiên tướng ở Tí, Ngọ miếu địa, đương số Thủy Mệnh là hợp. Cho nên năm này Hoàng Oanh bắt đầu lộ diện ở lĩnh vực ca nhạc: đầu năm hát trong Ban Thiếu nhi Quân đội, cuối năm hát Ban Tuổi xanh của Kiều Hạnh. Vì gặp Tuần cho nên vẫn còn bị nhiều cản trở.

Năm 1959, 15 tuổi, HẠN ĐẾN QUAN LỘC: Năm này gặp Thái Dương ngộ Thanh long, Bạch hổ phùng Long, Phượng, Quyền, Mã: Tiếng ngâm thơ của cô bé Hoàng Oanh mở đầu cho ba bài huyền sử ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương, thu đĩa nhựa do hãng đĩa Việt Nam thực hiện. Giọng ngâm thơ truyền cảm thiên phú này đã được nhạc sĩ Lê Thương mô tả trong một tạp chí chuyên phê bình văn học (xuất bản năm 1964): Dễ thương nhất có tiếng ngâm vượt núi của Hoàng Oanh, nõn nà cao vút đến mây xanh nghe mát mẻ như gió chiều hồ Lăng bạc. Lê Thương còn mô tả thêm về giọng hát của Hoàng Oanh: và giọng hát Hoàng Oanh dìu dặt dâng lên nỗi niềm u uất tự ngàn xưa vun vút lao về phủ nặng tâm tư, rồi êm ả quyện hương vị ngọt ngào của vườn cây trái bát ngát lúa đồng ve vuốt từng ngọn cỏ mềm khắp nơi hoang dã hun hút trong thâm u…

Chính vào dịp thu giọng ngâm đặc biệt đó (dù chỉ ngâm mấy câu thơ ngắn ngủi mở đường cho tiếng hát Duy Khánh) cũng đủ cho Hoàng Oanh chinh phục thính quan giới mộ điệu ca nhạc khắp miền năm nước Việt. Lan dần sang một số sinh viên hải ngoại, mua đĩa hát, nghe giọng Hoàng Oanh đỡ nhớ quê hương.

Cũng trong năm 1959, Hoàng Oanh gia nhập Ban Việt Nhi Nguyễn Đức. Từ đấy, giọng thiên phú và năng khiếu truyền thống thân phụ Hoàng Oanh là một nhạc công thiện nghệ về nhiều nhạc khí) nhờ sự dìu dắt của Nguyễn Đức, một nhạc sĩ nhiều thiện chí, nhiều kinh nghiệm về thiếu nhi; chẳng khác nào rồng mây gặp hội Thanh Long, Hóa Kị ngộ Thái Dương: và Mã, Cái, Long, Phượng hội)

Năm 1961, 17 tuổi, TIỂU HẠN ĐẾN PHúC ĐỨC: có song Lộc ngộ Mã, Tả, Hữu. Gốc đại hạn đã vào Phụ Mẫu ở Dần thuộc Mộc, và đây cũng là Mộc địa. Đương số Thủy mệnh, mới được Sát, Phá, Tham miếu vượng sinh phò. Đầu năm này (năm Sửu, Lưu Thiên Mã ở Hợi) Mã cố định và Mã lưu, đưa Hoàng Oanh trở về cuộc sống đoàn viên với cha mẹ. Cuối năm này, song Lộc và song Mã sinh phò, Hoàng Oanh ký giao kèo thu tiếng độc quyền cho hãng đĩa nhựa Việt Nam: bản nhạc thu đầu tiên là Nếu một mai anh biệt Kinh kỳ, và lần lượt: Xa vắng, Tình yêu còn đó, Ai ra xứ Huế, Xác pháo nhà ai…đã đưa Hoàng Oanh lên đài danh vọng.

Năm 1964, 20 tuổi, TIỂU HẠN VàO HUYNH ĐỆ: Tiểu hạn có Vũ, Tướng ngộ Khoa, Khôi, Việt, Hồng, Hỉ. Những tháng đầu năm này Hoàng Oanh gặp lương duyên (Liêm Trinh ngộ Đào, Hồng, Diêu, Thiên Hình) cuộc gặp gỡ đó kéo dài và sẽ thành hôn vào cuối năm 1972, theo dự định của gia đình đôi bên. Giữa năm này Hoàng Oanh đỗ Tú Tài toàn phần, ghi tên vào Đại học Văn khoa ban Anh văn.

Năm 1966, 22 tuổi, TIỂU HẠN VàO TỬ TỨC: Có thiên không gặp Kình, Đà, Linh, Kiếp: đương số buồn cahsn vì học ban sinh ngữ mà đi hát nhiều quá, không có thì giờ theo học thường xuyên, cuối năm bị rớt. Cũng trong năm này mãn giao kèo với hãng đĩa, vì một vài trục trặc, không ký giao kèo độc quyền với hãng địa Việt Nam nữa.

Năm 1967, 23 tuổi, HẠN ĐẾN TàI BẠCH: Tuế, Kị gặp Phá toái, Phục binh và Thái Dương ngộ Hóa Kị. Đáng lẽ bị đâm xe gây thương tích, nhưng nhờ có Lộc tồn, Giải thần, Thanh long thành thử có một cô gái hơi giống Hoàng Oanh bị đụng xe, dư luận xôn xao là Hoàng Oanh bị đụng xe gãy chân gần chết.

Năm này Hoàng Oanh đổi qua học ban Sử địa, và đeo đuổi mãi cho đến ngày tốt nghiệp Cử nhân.
Năm 1969, 25 tuổi, HẠN ĐẾN THIêN DI: Năm này Hoàng Oanh xuất ngoại, sang Pháp với phái đoàn Văn nghệ Việt Nam. Vì hạn đến Thiên Di, có Lộc tồn, Hóa lộc gặp Tả Hữu, Mã cố định gặp Mã lưu niên (năm Kỷ Dậu, Mã lưu ở Hợi).

Năm 1979, 26 tuổi, HẠN VàO Nô BỘC: Năm này có Phá quân miếu địa, gặp Thiên Tướng, hội chiếu vào Kim cung (cung Ngọ, theo vòng Cục đã là Kim chứ không phải thuần Hỏa) sinh phò cho Thủy Mệnh. Đại hạn vừa đổi đến Phúc Đức, có song Lộc ngộ Mã: Hoàng Oanh sắm ô tô, và được đạo diễn Đỗ Tiến Đức mời đóng vai chính trong phim Ngọc Lan. Nhưng sau khi đọc chuyện phim thấy có những xen phải diễn xuất cụp lạc với nam tài tử: nằm trên giường và ôm nhau…Hoàng Oanh rút lui (nhút nhát là bản tính của sao Thiên lương ngộ Phục binh).

Năm 1971, 27 tuổi, HẠN VàO QUAN LỘC: Thái Dương đắc Thanh long; Bạch hổ, Mã, Cái, Long, Phương hội Lưu Thiên mã tại đây: Hoàng Oanh đỗ cử nhân văn chương. Và trong năm này đi hát rất nhiều cho các hãng băng nhựa, đài phát thanh, băng đĩa. Và cuối năm, Hoàng Oanh xoay qua nghề Thương mại.

Năm 1972, 28 tuổi, HẠN ĐẾN ĐIỀN TRẠCH: Vì thời cuộc phần đông các ca sĩ đều chật vật sinh kế, riêng Hoàng Oanh đã xoay nghề từ cuối năm rồi, cho nên công việc làm ăn vẫn thông suốt. Và gia đình cũng định tác hợp hôn lễ cho Hoàng Oanh vào cuối năm (sau lễ Giáng sinh 1972).

Về chuyện hôn nhân, sở dĩ kéo dài là vì Quả tú chiếu Mệnh và Phu quân gặp Cô thần, hội Kiếp, Không, Hỏa, Tuyệt, Tang, Điếu. Cũng có vài lần lục đục, nhưng đại hạn 16-25 ở Phụ mẫu có Trường sinh, Đế vượng gặp Tử, Phủ, Hóa khoa cho nên vẫn kéo dài một cách tốt đẹp. Năm này, Đại hạn đổi đến Phúc đức có Thiên Đồng, Tả, Hữu, Mã Kị, Cô quả. Đó là những sao ngăn trở hôn nhân. Nhờ tiểu hạn có Tham lang, Xương, Khúc, Liêm, Tướng; Diêu, Thai; song Hỉ; mới tác thành hôn phối được. Tuy nhiên cũng chưa phải là suông sẻ. Vào giờ chót vẫn có nhiều trở ngại (Thiên không; Linh tinh; Kình dương phá tán). Nếu hoãn hôn lễ năm này; thì phỉa đến năm 1974 (Giáp Dần) mới thành hôn được.
Luận đoán vài nét đại cương về tương lai

Hoàng Oanh có 2 đại hạn rất tốt là 36-45 và 46-55 đi vào Thủy địa (Điền trạch, Quan lộc). 19 năm ở Điền trạch gặp Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Liêm, Tham hội Khôi, Việt, Xương, Khúc, Quan, Quí, Thai tọa ngộ Hóa khoa Tấu Thư, sẽ phát về công danh. Nếu trong thời gian này, ở Thủ đô hay ở ven đô có một trường Trung tiểu học tư thục nào đó do Hoàng Oanh làm hiệu trưởng hoặc giám đốc, rất là đúng theo lá số.

Riêng về chuyện chồng con, vì mệnh có quả tú, phu có cô thần hội hợp cho nên phải chịu trục trặc về hôn nhân.
Số này cũng muộn con, vì sao mộ đóng tại tử tức, phải ngoài 30 tuổi mới có con. Tuy nhiên lúc sinh nở cũng khó khăn (Kình, Hỉ). Con rất đẹp và thông mình, thành danh về sau (Xương, Khúc, Quang, Quí ngộ Thiên quan quí nhân, tuy hiếm con nhưng sinh quí tử).

Phối kiểm

Chúng tôi đến đưa lá số cho Hoàng Oanh và giải đoán cho cô nghe về các vận hạn đã qua cũng như sắp tới. Hoàng Oanh cho biết hầu hết các việc xảy ra đều đúng như sự giải đoán; tuy nhiên có chỗ nói Hoàng Oanh xoay nghề thì không đúng hẳn. Vì Hoàng Oanh vẫn không bỏ hát; vẫn cộng tác thường xuyên với đài Quân đội; Đài Tự do; hãng đĩa Sóng Nhạc và các hãng thu băng nhựa: Shortguns; Trường Sơn; Diễm Ca; Thanh Thúy…Mà chỉ thêm một công việc nữa về thương mại đó là hằng ngày Hoàng Oanh đi…đến đây; cô ca sĩ có đôi mắt sáng ngời này hóm hỉnh nói tiếp: ‘Thôi, khỏi phải nói, chắc nhà tướng số cũng biết rồi”

Lê Thành Thái
KHHB số 12

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

69. 1001 chuyện tử vi: ông Diệm,ông Nhu có thể tự cải số nếu chính mìình biết rành tử vi(KHHB số 11)

0

1001 chuyện Tử vi
ÔNG DIỆM, ÔNG NHU Có THỂ TỰ CẢI SỐ NẾU CHÍNH MÌìNH BIẾT RÀNH TỬ VI

Những nét chÍnh trong lá số ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình nhu
Nói về tư nghiệp và cộng nghiệp
Ảnh hưởng của một lá số nữ vào cuộc đời 2 ông Diệm Nhu

Hoàng Hạc

ông Ngô Đình Diệm sanh năm Canh Tí, tháng 5, ngày 13 giờ Tí.

ông Ngô Đình Nhu sanh năm Canh Tuất, tháng 9, mùng 5, giờ Thìn.

Hai lá số đó bổ túc nhau, thêm lá số thứ ba của bà Nhu tạo thành một “công nghiệp”
Mời các bạn coi bài này để biết thêm về Tử vi

Hồi 1963, cụ Hoàng Hạc có đến thăm “ông thầy Đà Lạt”. ông này rất hay, có cái thuật mò tay, lại đoán Tử vi rất hay. Bói Dịch cũng khá. Nhiều ông lớn cho mời ông về tận tư thất để xem.
Tôi có hỏi ông:
-Nghe nói có nhiều “Cụ” đến hỏi “kế” của ông, có chăng?
-Có, nhưng đừng nói lớn. Không nên.
-Ai? Có thể nào cho tôi biết không?
ông lắc đầu:
-Nói ra, tôi sẽ bị “mất đầu”
-Tại sao?
Họ to quá mà nghe mình nói xấu thì sống sao nổi.
-Vậy thì ông xem họ không có tốt chăng? Ngôi vị họ có trường cửu chăng?
Bấy giờ là vào khoảng tháng 3, tháng 4 gì đó, năm 1963.
ông nói:
-Ở đời có cái gì mà trường cửu đâu ông?
ông không biết Tử vi nó có chia vận mạng con người ra nhiều hạn: mỗi đại hạn là mười năm. Bất quá họ có thời trong một hạn là quá rồi! Tôi chưa từng thấy ai mà tốt luôn cả hai, ba hạn một lượt. Nè, nói nhỏ ông nghe thôi vì mình biết nhau, dừng nói lại cho ai nghe cả nghe không?
-Hứa chắc!
-Có ông Bộ trưởng…cậy tôi xem. Nhưng tôi đâu có nói thật. Tôi nói: số ông đỏ lắm. Thời vận tuy đen tối nhưng mà không sao đâu.
-Vậy thì sự thật là như thế nào? ông này là tay đắc lực nhất với “cụ” mà.
-Ừ! Đắc lực chứ sao không đắc lực. Tả phù hữu bật của các ông mà. Nhưng không bền.
-Chừng nào?
-Tôi không biết lá số các ông đầu não. Như cứ như ông này mà xem, mình có thể biết rõ số phận mấy người kia. Hạn 10 năm hết rồi. Tiêu luôn ông ơi! Trong năm nay là muộn lắm. Sợ qua không nổi. Nhưng mà đừng tiết lộ nghe cha.
-Số ông ấy có sao chăng? Chết không?
-Không chết mà cũng chết cha. Hết thời rồi. Thôi đừng nói nữa.
-Tại sao? Hạn ngộ Thiên không mà còn gì? Bộ ông không rõ câu “Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên không nhi táng quốc sao? ông này mà bao nhiêu. Tới hạn Thiên không rồi ông ơi! Tuy vậy cung Thiên Di tốt lắm. Tôi biểu ông xin xuất ngoại làm đại sứ đi, rủi có gì thì “chuồn” luôn.
-Bộ ông quÍ ông lắm sao? Mà chỉ đường cho ông đi.
-Thì ăn tiền phải làm phận sự. Mỗi lần xem, ông cho 2,3 ghim lận.

Trở lại câu chuyện ông Diệm và ông Nhu

Tham chiếu với các giả thuyết cho rằng ông Ngô Đình Diệm sinh năm Giáp Thìn, tháng 10, ngày 29, giờ Mùi như có một số báo đã đưa ra thì giờ sinh tháng đẻ ấy không đủ để chứng minh cái chết “bất đắc kỳ tử” của ông cũng như quãng đời chÍnh trị của ông mặc dù Phá quân thủ Mạng và Mạng Không thân Kiếp. Thật ra, ông Diệm sinh năm Canh Tí, tháng 5, ngày 13 giờ Tí. ông Nhu sanh năm Canh Tuất, tháng 9 mùng 5, giờ Thìn.

Không cần bàn đến giả thuyết nào là đúng. Tôi nhận thấy giả thuyết mà tôi vừa nêu lên để chứng minh rất đúng từng việc một của đời chÍnh trị của ông, luôn cả người em của ông.

Sao Phá quân miếu địa ở cung Ngọ của ông Diệm…thì cái lực lượng của sao Phá quân kể ra gấp đôi…
Sao này có những đặc tánh sau đây “nóng nảy, hồ đồ lại hay ưa nịnh. Khi đắc thời oai quyền lừng lẫy, quyền coi ba quân, nhưng rất cần phải có một bộ tham mưu giỏi giúp sức, nếu không mà cả nghe lời siểm nịnh thì ba quân sẽ tan vỡ. Khi vị ngộ, ai rủ đi ăn cướp thì thÍch chứ ăn trộm ăn cắp thì không thèm”.

Mạng và Thân cùng ở một cung, phải chăng là kẻ có tánh tự tung tự tác…giống như Hạng Vũ. Sợ bất đắc kỳ tử vì Phá quân ngộ Triệt, còn giải ách gặp phải Khôi Hình, nhưng có người bảo rằng: giả sử ông biết rõ được cái nhược điểm của tánh tình ông, cái nhược điểm có thể đưa ông đến sự thất bại chua cay mà quyết tâm không dùng đến thủ đoạn của sao Phục binh tại cung Thân cung Mạng, lại biết khôn ngoan như Hán Bái Công, biết chiêu hiền đãi sĩ, dùng kẻ hiền tài giúp nước thì sao lại đến phải chết. Có thể được lắm bởi cạnh sao Phá quân còn có sao Thiên Phúc, QuÍ nhân tức là vì sao của con người tu sĩ hay tu thiện đức. Có thể được lắm, nếu ông biết dùng kẻ hiền tài giúp nước vì cung Nô của ông có Thiên quan, QuÍ nhân.

Nhưng không đúng vì hiền tài tùy có mà bọn gian thần sủng nịnh cũng nhiều, vì Địa không Địa Kiếp đắc địa ở cung Nô. Dù muốn dù không, hễ dùng Hiền mà lại dùng luôn cả bọn tiểu nhân, tức là mình đuổi những bậc hiền tài. Cho nên, đại hạn 53-53 gặp Kiếp Không đắc địa nên nhờ vây cánh mà thành sự nghiệp, nhưng chÍnh vây cánh ấy nó giúp mình “lên như diều” thì chÍnh vây cánh đó cũng làm mình xuống như diều”. Đại hạn chỉ được có 10 năm, thì lại phải qua hạn Thiên Không. Sách có nói: Hạng Vũ anh hùng hạn Ngộ Thiên Không nhi táng quốc”. Năm 64 tuổi hạn Thiên không lại có cả “Khôi, Hình”, đại tiểu hạn trùng phùng thì khó mà thoát khỏi tai họa vong thân vong quốc như Hạng Vũ.

Biết sơ vẫn cải được

Trừ ra khi nào biết rõ số mình như thế, từ khước chÍnh trị bá đạo của bọn tiểu nhân tay chân bộ hạ của mình đi…hoặc đi tu theo cái hướng của Thiên quan QuÍ nhân, có lẽ sẽ không phải bị cái định mạng tang thương chẳng những cho ông mà cũng cho cả nhân dân tự do miền nam này.
Con đường thoát của ông Ngô Đình Diệm xem kỹ là ở cung Thiên Di (cũng như con đường thoát của ông Ngô Đình Nhu) và nếu biết thuận Mạng, thì bằng lòng xuất ngoại…vì có giải thần ở cung xuất ngoại.

Than ôi! Định mạng quả rất nặng nề vì hoàn cảnh thuận tiện cho cuộc cướp lấy chánh quyền đã giúp cho ông thành công và nhân đó Phá quân và Phục binh mới có được cơ hội phát hung vô độ. ông quả là người thụ động cho nên định mạng lôi kéo và bắt ông tuân theo một cách mù quáng.

Còn cộng nghiệp

Nhưng…lại còn có một cộng nghiệp bên ngoài chi phối ta nữa… Cộng nghiệp (Karma collectif ấy là cung Huynh đệ, cung Nô, cung Thê…Mấy cung này giúp mình nên mà cũng làm cho mình hư. Như vậy nếu là người khôn ngoan thì bao giờ cũng lo đề phòng.

ông Ngô có tÍnh tự phụ (Phá quân cư Ngọ thủ Mạng thủ Thân), nhưng với vì sao Thiên Phúc Quý nhân thì bản tâm cũng có khi hướng về lẽ Thiêng Liêng tÍn ngưỡng như người tu sĩ. Tại sao không theo con đường tu?

Tiếc vì hướng về Tu Thiện thì khó, hướng về ác rất dễ, lại được cung huynh đệ và cung Nô có (bị mất trang chỉ gõ được đến đây)

KHHB số 11

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

68. Tạp ghi về khoa tử vi: Sao đào hoa (KHHB số 27)

0

Tạp ghi về khoa Tử vi
SAO ĐÀO HOA

Phong Nguyên

Mỗi khi coi Tử-vi cho ai mà thấy sao Đào Hoa cư Mạng là tôi nhớ tới một mẫu chuyện vừa sai lầm, vừa vui, vừa ấm ức. Khi tôi mới biết võ vẽ về Tử-vi, một lần có một cô khá kiều diễm nhờ tôi coi lá số của cô ta ra sao. Cô ta đưa cho tôi lá số do chính cô ta lập lấy, nhưng không biết giải đoán, vì mới chỉ học cách lập thành. Tôi hãy còn nhớ rõ mạng của cô cư Dần có Vũ Tướng đồng cung hội Long Phượng, Xương Khúc, Riêu, Y, Thái Tuế, Mộc Dục lại có thêm Đào Hoa tọa thủ tại cung Mạng. Sau khi đoán trúng là cô ta hợp về ngành Y khoa hoặc Dược khoa và được “người đẹp ” khen đúng ( cô ta đã đậu bằng Dược) thì tôi lại bị cô ta chê hết mức khi tôi đoán là cô ta lãng mạng, đa tình. Cô ta quả quyết là từ khi trở thành một thiếu nữ đến lúc nhờ tôi coi số, không bao giờ cô nghĩ đến chuyện yêu đương, chứ chưa nói tới có mối tình nào và cô chỉ chuyên chú học hành cho đến khi thành Dược sĩ. Tôi lấy làm lạ và nghĩ là cô ta giấu diếm, vì thấy hình dáng kiều diễm và hơi cao của cô rất ứng vào các sao Vũ-Tướng ngộ Đào Hoa, nhất là Vũ-Tướng hợp với Mạng Thủy thì tại sao lại không ứng về tính nết. Tôi cũng hiểu rằng Vũ-Tướng là hai sao đứng đắn thì Đào-Hoa cũng chẳng có ảnh hưởng gì mạnh, nhưng tôi nghĩ rằng Đào Riêu Mộc chiếu Mệnh lại thêm Xương Khúc thì dù sao cũng phải lãng mạng một chút chứ. Do đó tuy nghi ngờ về sự phủ nhận của cô ta nhưng tôi cũng vẫn cố tìm ra lý do về phương diện Tử-vi. Trong khi tôi đang suy nghĩ thì cô ta hỏi tôi:

– Đào Hoa cư Dần là hoa nở ban mai có sương đọng nên tốt lắm phải không ? Vì có ông thầy nói với tôi như vậy.

Lúc bấy giờ tôi mới giật nẩy mình chợt nhớ là Đào-Hoa có bao giờ cư Dần đâu (vì sao này chỉ có ở 4 vị trí là Tí, Ngọ, Mão, Dậu) và tự trách mình sao sơ xuất và kém cỏi như vậy. Tôi cũng tức luôn cả ông thày nào đó đã đoán hấp tấp, chẳng chịu kiểm soát lại các sao. Số sui có sự an sao lộn là vì cô ta mới học lập thành nên đã lầm cung Dần với cung Mão và cô ta còn đổ thừa là tại hai cung đó gần nhau quá.

Bây giờ tôi xin trở lại một chút lá số trên khi đã biết Đào Hoa an tại Mão thay vì tại Dần. Kể ra hồi đó tôi cũng còn non nớt thật, vì đâu có cần phải Đào Hoa tại Mệnh mới kiều diễm vì Vũ Tướng hội Khôi Việt (tôi quên không nêu 2 sao này ở đoạn trên) cũng đủ “hoa nhường nguyệt thẹn” rồi. Theo kinh nghiệm của riêng tôi nhất là khi Vũ Tướng là các chính tinh hợp mệnh. Và khi không có sao Đào-Hoa tại Mệnh nữa thì đương nhiên các sao Mộc, Riêu, Xương Khúc mất phe đảng “lẳng lơ” mà chỉ còn ứng vào việc học Dược khoa. (Tôi cũng cần mở ngoặc nói thêm là không phải cứ có bộ sao như trên là học Dược khoa hay Y khoa mà chỉ có thể nói là có khuynh hướng về ngành đó mà thôi, vì Tử-vi đâu có thể có những công thức chính xác quá như vậy. Điều này ông Ân Quang cũng có nêu ra trong KHHB rồi. Do đó, cô ta đứng đắn và học chăm là đúng, vì Vũ Khúc chủ cô đơn, Thiên Tướng chủ tư cách, thông minh, quân tử lại thêm các sao Xương Khúc, Long Phượng, còn sao Đào Hoa chạy sang cung Phụ-mẫu. Ngoài ra, tôi cũng cần nói thêm là khi sau này chuyển sang cung Phụ-Mẫu (có Thái Dương tọa thủ chủ về cha) thì thật là ứng, vì cô ta có cho biết là ông thân sinh có hai vợ.

Vì bị lầm lẫn chua cay như trên, nên từ đó mỗi lần coi Tử vi tôi luôn luôn ghi nhớ tới những vị trí giới hạn của một số sao (vì cũng có nhiều sao thay đổi vị trí suốt cả 12 cung), chứ không riêng gì sao Đào Hoa, và thường thường tôi thích tự lập lá số hơn là căn cứ vào lá số đã có sẵn của người khác nhờ coi, vì chỉ sợ không phải do người thành thạo lập ra.

Vậy các bạn mới tập coi Tử-vi nên thận trọng về điểm này, tuy rất sơ đẳng nhưng nếu lầm lẫn một chút thì đoán trật nhiều. Và cũng vì “hận” sao này cho nên mỗi khi có dịp thảo luận hoặc học hỏi về Tử-vi tôi thường hay mổ xẻ sao “đa tình ” này. Do đó tôi cũng chưa chấm dứt bài này về sao Đào-Hoa mà còn nêu thêm một ít kinh nghiệm do một “cây tử vi” đã trao cho kẻ viết bài này về sao nói trên. Còn vấn đề đúng hay sai để các bạn xét đoán.

Vị này có nêu câu hỏi sau, với tôi trước khi “tán” về sao Đào Hoa:

-Trong 4 vị trí (Tí, Ngọ, Mão, Dậu) của sao Đào Hoa, anh thấy sao này ở cung nào tốt nhất ?

– Tôi trả lời liền là “ở Mão hay nhất” (không phải ở Dần đâu nghe!). Vì thường ai cũng biết là “hoa nở ban mai tươi đẹp”. Thế mà vị đó lại mỉm cười một cách hóm hỉnh và nói rằng theo kinh nghiệm của ông, thì Đào-Hoa ở Ngọ hay hơn cả. Tôi cứ ngẩn người ra và chẳng hiểu tại sao mà vị đó lại ngược đời như vậy.

Dưới đây là ý nghĩa sao Đào-Hoa ở 4 vị trí, do vị đó nêu ra để tiện việc so sánh (tôi xin nói thêm là đây chỉ nói riêng về sao Đào-Hoa nên sự ứng nghiệm chỉ tương đối, vì còn phải chế hóa với các sao khác hoặc yếu tố khác):

1- Đào Hoa cư Dậu

Có thể nói Đào Hoa nếu cư cung Đoài (Dậu) thì xấu nhất, vì Đào Hoa thuộc Mộc, cư cung Kim tức là cung khắc sao. Hơn nữa giờ Dậu là lúc bắt đầu tối, ai còn thấy vẻ đẹp của Hoa (vì Đào Hoa tượng trưng cho hoa, tình ái, đàn bà con gái … ) và cũng vào giờ này là giờ tạm gọi là lúc gái đi ăn sương bắt đầu hoạt động. Điểm xấu nữa là cung Kim không có gì gọi là nước để nuôi dưỡng hoa, nên hoa phải mau héo. Do những điểm này, nếu ai, bất luận nam hay nữ có cách này thường phải chịu những mối tình đau thương, dù yêu nhau tha thiết vì hay bị tan vỡ, hoặc có những mối tình bất chính, loạn luân. Nếu chẳng may gặp người mạng Hỏa (tức là Đào Hoa sinh mạng) thực là xấu xa hơn nữa, khổ hơn nữa vì cuộc đời luôn luôn xảy ra như vậy. Để tóm tắt điểm xấu xa của cách này, vị đó nói một câu thật chí lý là người mà ” đất chẳng dung ” ( vị đó ví cung là đất đứng của sao) thì làm sao mà sài nổi .

2- Đào Hoa cư Tí

Ở vào cung Tí (thủy) thì Hoa được nuôi dưỡng nên tươi mát, lâu héo. Ngoài ra, giờ Tí là lúc nửa đêm, chẳng phải là giờ hợp lý cho các cuộc ăn chơi mà chỉ là giờ đang ngủ. Vì thế ai có trường hợp này thường có nhiều mối tình đẹp, lâu dài, nhưng hơi khó (nghĩa là cũng có thể thực hiện được, sau khi bị trắc trở một hai lần) đi tới hôn nhân, vì đêm khuya sao làm lễ thành hôn được, chỉ ” lả lướt ” với nhau là thuận lợi. Như vậy, tuy hay mà còn gì đau khổ cho bằng yêu nhau tha thiết mà không lấy được nhau, càng nhiều mối tình càng tan nát con tim thêm. Tuy nhiên ai có cách này thường chung tình. Đó cũng là một điểm tốt về khía cạnh thực tế.


3- Đào Hoa cư Mão

Nếu ở cung Mão (cũng là cung Chấn tượng trưng cho Sấm) thuộc Mộc, tức là sao và cung tương hòa, và giờ Mão là giờ sáng sớm hoa có sương ban mai đọng nên cũng tươi mát nhưng khi mặt trời mọc là khô dần và héo đi. Ngoài ra hoa nở lúc có sấm thì cứ bị rung hoài, dễ bi tan tác. Do đó ai có trường hợp này thường được những mối tình tuy đẹp nhưng ngắn ngủi (không dài bằng nơi cư Tí được) và lại hay bị người ngoài cuộc đố kị ganh ghét, phá đám. Như vậy kể ra cũng không hay lắm.

4- Đào Hoa cư Ngọ

Cung Ngọ thuộc Hỏa, nhất là vào giữa trưa, mà Mộc (Đào Hoa) lại sinh cung nên Hỏa càng vượng càng làm hoa màu héo. Vì vậy bất luận Nam hay Nữ ở vào trường hợp này thường hay được người khác phái mê say, chạy theo mình, chiều chuộng mình, nhưng mình lại không thích kéo dài cuộc tình lâu dài mà chỉ ưa vui chơi trong khoảnh khắc (ban trưa còn gì là thơ mộng nữa, vì quá oi bức !)
Như vậy trên thực tế những người có thái độ đó dễ bị liệt vào loại sở khanh, bạc tình, nhưng đối với đương sự thì lại thơi thới hãnh diện vì có nhiều người yêu, không đau khổ về tình, vì có quan trọng hóa tình ái đâu. Vậy cái “hay” của Đào-Hoa cư Ngọ có tính cách chủ quan, ích kỷ. Tuy nhiên, tôi nghiệm thấy những người có cách này tuy có thể nói là bạc tình khi còn độc thân, nhưng sau khi kết hôn vẫn là người lo toan cho gia đình, miễn là đừng có sao Tham Lang đồng cung (nếu có Riêu lại càng hay, đừng sợ cách ” Đào Riêu “, theo phú vì chính cụ Hoàng Hạc có khen Riêu ở cung Ngọ như sen mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn).

Đến đây, tôi xin chấm dứt mục “Đào Hoa” và để các bạn phán đoán theo ý riêng của mình, vì về tình ái mỗi người có một quan niệm riêng (nhưng ĐÀO HOA cư Dậu nhất định là xấu rồi, các bạn dù có ngông cũng không nên ham cách này). Và tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa là các điều giải đoán trên chỉ đúng tương đối, vì còn nhiều yếu tố khác chế hóa. Ngoài ra, vì những điều này chỉ là ý kiến riêng của cá nhân chứ không do sách xưa (hoặc có thể vị này đã đọc được ở sách nào chăng) nên tôi mong ước được quý bạn bốn phương nghiên cứu về Tử-vi cho biết những nhận xét của mình, nếu có để cho mục này thêm linh động, hoành tráng thêm.

KHHB số 27

67. Cụ Hoàng Hạc trả lời bạn đọc: Các chính tinh ở “nhàn cung cũng như ông cò về hưu….(KHHB số 27)

0

Cụ HOÀNG HẠC trả lời bạn đọc

Các chính tinh ở “nhàn cung cũng như ông cò về hưu, nhưng ông nào dâm thì vẫn cứ dâm…

Trả lời các bạn hỏi về “nhàn cung”, các sách đều có nói về “nhàn cung”, ở đây chúng tôi xin định nghĩa cho rõ. Nhàn tức là nhàn rỗi, thanh nhàn, tuy có tên có tuổi và chức việc đó, nhưng mà nhàn rỗi, chả biết làm gì. Tức là “hữu danh mà vô thực”. Có tiếng đấy mà chẳng ăn nhằm gì. Nhàn cung tức là cung mà ỏ đó, chính tinh chẳng có tác họa hay tác phúc được gì.

Thí dụ như Phá quân, là sao phá hoại, có khi hay, có khi dở, tùy theo cung nó đứng. Nhưng nếu nó ở “nhàn cung” thì sao đó chẳng thiện, chẳng ác chi cả. Phá quân ở Tí Ngọ thì dũng mãnh, ở hãm địa thì phá hoại ghê gớm. Nhưng khi ở “nhàn cung” (như cung Tỵ, cung Thân), thì cứ như ông Cò về hưu, chẳng còn quyền gì, chẳng giúp được ai chẳng phá được gì, chẳng được việc gì hết.
Cái nghĩa thật là như vậy, chứ không phải là “ở nhàn cung, tức là ảnh hưởng lờ mờ, không mạnh như có sách nói.
Tử Vi, nhàn cung ở Tí và Thìn
Tham Lang, nhàn cung ở Dần và Thân
Thất sát, ở Tỵ và Hợi
Thiên Cơ, ở Tỵ
Vũ khúc ở Thân
Thiên Lương ở Tỵ và Dần
Thiên Tướng ở Thìn và Tuất
Cũng nên hiểu thêm rằng các sao đó ở nhàn cung, là kể như bị tước đoạt quyền hành, khả năng và chịu sự chi phối của các sao phụ.

Cũng vậy, các sao “quý nhân” mà ở nhàn cung thì không giúp ích được gì. Nhưng dù sao cũng bệ vệ, giữ được một hư vị và cũng có chút ít cái tiếng của mình.
Lại phải hiểu thêm thế này, là các sao trên ở nhàn cung thì không còn quyền tác họa, tác phúc, nhưng bản chất như thế nào thì vẫn còn giữ. Thí dụ như Tham Lang tại Dần, nhàn cung. Tham lang ở đó không còn bản chất dâm đãng của nó. Và người đàn bà có Tham lang tại Mạng, ở Dần, mà không có sao nào chế ngự, thì tuy không chịu sức họa phúc nào của Tham lang, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bản chất của nó, tức là người vừa đa dâm, vừa bạc tình. Cái lẽ đó dễ hiểu. Ông Cò về hưu thì hóa quyền sinh quyền sát, nhưng ông Cò mà dâm đãng tiểu nhân, ông ta là quân tử, thì vẫn là quân tử.

KHHB số 27

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

66. Chế tạo lá số để hỏi vợ (KHHB số 75-4-a)

0

Chế tạo lá số để hỏi vợ

Trong 1 dịp khác, tôi kể truyện cho Thi Thi nghe về làng Hàng thiện. Hồi xưa làng này có mấy ông thầy bói chuyên bán lá số. Mấy anh chàng đi hỏi vợ thường đến thầy mua lá số. Thấy bên vợ thích lá số quan văn, thầy bán lá số văn, bên vợ thích lá số quan võ, thầy bán lá số võ. Nhà vợ đòi niên canh bát tự, anh ta nộp niên canh lá số mua. Nhà vợ đi xem thầy nói tốt quá, gả ngay lập tức.

Thi Thi nghe truyện thích lắm. Nó áp dụng liền.

Một thân chủ tới văn phòng luật sư nhờ nó kiện gia đình vị hôn thê về tội bội tính. Thân chủ tuổi Ất Dậu không rõ ngày tháng sinh. Ông ta là một bác sĩ Quân Y, đã làm lễ hỏi một cô tuổi Quý Tỵ (1953), con nhà đại phú. Nhưng nhà vợ nhờ thầy coi tướng, Thầy bảo ông bác sĩ chết yểu và chẳng làm gì hơn nghề thầy thuốc. Nhà vợ kiếm cớ từ hôn. Ông bác sĩ cho biết ông và vị hôn thê yêu nhau đậm đà lắm.
Thi Thi đề nghị:
– Kiện thì đương nhiên nhà gái phải bồi thường cho bác sĩ rồi. Nhưng kiện làm chi để tỏ ra mình yếu quá. Nếu tôi hòa giải cho nhà gái gả vợ bác sĩ cho bác sĩ được không?
Trước tiên thù lao định là 150.00 đồng, vì là việc hộ tương đương với vụ ly hôn. Ông bác sĩ vui vẻ:
– Nếu cô làm được việc đó, tôi sẽ trả gấp 4 lần (tức 600.00 đồng)
– Đấy nhá, Bác sĩ thưởng cho tôi chứ tôi không đòi, không xin đâu nhé
– Vâng tôi cảm phục và biếu cô đấy chứ
Thi Thi bảo ông bác sĩ:
– Bác sĩ không biết ngày tháng sinh song tôi có cách tìm để biết số tử vi của bác sĩ.
Rồi nó bắt ông ta gần 2 cây tre đếm đếm nói nói, cuối cùng nó phán:
– Bác sĩ sinh năm Ất Dậu (1945) tháng 4 ngày 1 giờ Ngọ. Để tôi lấy cho bác sĩ một

Hôm sau Thi Thi mời bà mẹ vợ, vị hôn thê của ông bác sĩ tới văn phòng thông báo cho biết ông bác sĩ sẽ kiện bà đòi bồi thường. Bà giận lắm, móc ví lấy chi phiếu ra hỏi:
– Thưa cô luật sư, nó đòi bao nhiêu?
– Triệu rưỡi
– Tôi trả 3 triệu
Bà định lấy chi phiếu, Thi Thi ngán quá nói quanh:
– Thưa bà đành rằng tiền bạc xong rồi, song còn tình. Cô đây và ông bác sĩ yêu nhau thắm thiết, mà bà bắt 2 người xa nhau thì tội lắm.
Bà vẫn lắc đầu:
– Tôi đã đi coi ông thầy tướng L. Ông ta bảo nó chết yểu, chẳng làm nên sự nghiệp gì, vì vậy tôi không gả.
Thấy bà ta lọt bẫy, Thi Thi nói:
– Tôi không dám bảo ông L nói láo nhưng bà biết ông bác sĩ là “tiềm tướng”. Coi qua không thấy được, phải coi cách ăn, uống, đi, đứng mới rõ. Ông ta có tướng lấy vợ đẹp giàu.
– Sao cô biết?
– Tôi có học sơ. Sao bà không đi coi số tử vi của ông ta xem sao? Số tử vi xem mới đúng, chứ tướng chỉ đúng 1 phần thôi ( Xin lỗi mấy cụ xem tướng, đây là lời thuyết phục của luật sư, chứ không phải như vậy đâu). Bà có đọc giai phẩm Khoa Học Huyền Bí không?
– Thưa có, cả nhà tôi đều đọc
– Trên đó có mấy ông nghiên cứu tử vi thành danh. Bà nhờ mấy ông đó coi cho mới chắc.
– Nhưng thằng nhỏ không có số tử vi
– Thưa bà, ông bác sĩ có số đấy. Vì số của ông ta lấy vợ đẹp, nhà giàu, thanh niên tự ái, ông ta giấu lá số đi. Bà có thể nhờ cô gái hỏi, chắc ông bác sĩ đưa ra ngay. Rồi bà cho tôi đi theo xem thầy số nói sao.
Nghe nói: số lấy vợ đẹp, nhà giàu, bà mẹ vợ thích lắm. Nhất là nghe câu: thanh niên tự ái v.v…bà cho rằng con rể vì yêu con gái bà mà hỏi, chứ không vì tiền, Bà thích lắm.
Hôm sau cô con gái bà đã tìm ông bác sĩ lấy được lá số “chế tạo” sẵn. Bà đem con gái rủ Thi Thi đi xem tử vi. Bà lái xe tìm đến văn phòng cụ Đông Nam Á nhưng tìm không ra Hương Lộ 14. Cuối cùng bà đòi tìm giáo sư Trần Quang Đông, Thi Thi đành đưa bà tới nhà ông Đông. Trên đời này, người nó ngán nhất là tôi sau đó tới ông Đông. Tôi là chú nó còn ông Đông là thầy nó.
Vừa tới nhà trình bày tự sự, ông Đông giãy nãy lên rằng ông xem dở, tại sao không tới người khác. Nhưng rồi ông cũng coi giùm.
Lá số chế tạo thuộc loại dễ coi nhất:
– Mệnh Nguyệt Kị Mã tại Hợi, đẹp trai hiền lành cận thị khi chế tạo lá số, Thi Thi đã phải căn cứ vào sự kiện trúng đối thực mà sắp đặt.
– Quan: Lương Nhật Quyền Lộc tồn tại Mão. Là bác sĩ danh tiếng nhờ Quyền. Chữa bệnh mát tay nhờ Lương Lộc là hai phúc tinh.
– Di: Cơ, Hóa lộc tại tỵ ra ngoài được kính trọng.
– Tài: Tả Hữu được Nhật Nguyệt Quyền Lộc Long Phượng chiếu tại Mùi giàu có chồng chất
– Thê: Vô Chính Diệu Lương Nhật song Lộc chiếu, vợ chồng đẹp đôi, lấy vợ con nhà quyền quý, giàu có.
– Hạn năm Dần, đại hạn ở Thân gặp Phá mọi sự điên đảo, rối loạn chủ trương. Tiểu hạn tại Tỵ gặp Tham Hình Hồng Đào Hao và lưu niên Phục Binh lắm điều bị phản phúc. Nhưng nhờ Khoa ở Ngọ giải được.
– Năm Dần lưu Thái tuế, Lộ tồn ở Dần, Vũ Tướng được Thái tuế làm cho mạnh lên trấn áp Phá Hao Hình.

Tóm lại: đây là một bác sĩ đẹp trai, hiền lành phúc thọ, lấy vợ đẹp, con nhà giàu. Năm nay Giáp Dần sẽ lấy vợ , nhưng gặp chút phiền phức rắc rối, cuối cùng lấy được vợ.
Bà mẹ vợ thỏa mãn ra về, tuy vậy bà còn đến hai ba ông thầy tử vi khác coi, ông nào cũng giải đoán tương tự. Bà hối hận đã đối xử tệ với ông rể quý, Bà mời tới xin lỗi và cho cưới ngay. Đám cưới linh đình tốn mấy triệu bạc, diễn ra tại một nhà hang Chợ Lớn.
Thi Thi lãnh tiền thù lao của ông bác sĩ, nó nộp cho “sư phụ” hết 500.000, nó lấy 100.000. Nghe truyện Thi Thi kể, ông luật sư già giận lắm, ông la nó suốt nửa giờ. Nó cải bay cả lý luận của sư phụ:
– Bố chửi con là oan? Kết quả nội vũ con đem lại là gì? Bà mẹ vợ hoan hỉ, ông bác sĩ được vợ, cô gái được chồng. Ai cũng vui hết. Con không đòi tiền nhiều, ông bác sĩ thưởng cho con đấy chứ. Cổ nhân có câu: “Thính tụng ngô du nhân dã, tất xử vô tụng hồ”. Nghĩa là nghe người kiện nhau, ta cũng nghe được như ai. Nhưng làm sao cho người không kiện nhau mới giỏi. Con làm cho họ không kiện nhau, đúng với cổ nhân. Thế mà bố la oan con…
Sư phụ Thi Thi trả nó 600.000 đồng. Nó đang đắc chí thì bị tôi khám phá ra, tôi “chà sà bong” nó hơi kỹ ông Đông thì đọc cho nó “một bài văn tế cá sấu” dài hàng giờ. Cha của nó đòi đánh nó ít bạt tai, may mà nó nhanh chân vào phòng khóa cửa lại.
Khi tôi viết những dòng này, thì vợ ông bác sĩ sắp sinh con đầu lòng, bà được cha mẹ cho ngôi biệt thự, cho xe, cho tiền để mua một dưỡng đường, hầu đứng ra điều khiển. Âu cũng là duyên số.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

- Advertisement -