Nguyên văn:
Nguyệt lệnh đã được dụng thần, tất ngôi vị khác biệt tất có qua lại, như vua có tướng phò giúp vậy. Như Quan gặp Tài sanh, tất Quan là dụng, Tài là tướng; Tài vượng sanh Quan, tất Tài là dụng, Quan là tướng; Sát gặp Thực chế, tất Sát là dụng, Thực là tướng. Tuy phép nhất định mà thông biến kỳ diệu.
Nói tóm lại, phàm cách toàn cục, nhờ 1 chữ mà thành vậy, vua nên có tướng vậy.
Từ chú:
Tương thần còn gọi là hỉ thần. Tài Quan Thực Ấn, giúp đỡ qua lại là dụng, tất phải có chủ, chủ là dụng, giúp cho chủ là tương. Như ” tam mệnh thông hội ” Chánh quan cách, nên gặp Quan đón Tài, lấy Tài làm dẫn, tức lấy Tài làm tương vậy; lấy Ấn hộ vệ, tức lấy Ấn làm tương vậy; Chánh tài cách nên gặp Tài đón Quan, lấy Thực làm dẫn, tức lấy Quan lẫn Thực làm tương vậy. Không Tài và Ấn, không thể dùng Quan; không Quan hoặc Thực, không thể dùng Tài, toàn cục thành cách là thế. Suy ra, phàm lấy cứu ứng toàn cục để thành cách, đều nhờ tướng vậy.
Nguyên văn: Dùng Thương làm dụng thần rất đỗi thương thân, Thương tương thậm ư thương dụng. Như Giáp dùng Dậu Quan, thấu Đinh gặp Nhâm, tất hợp Thương giữ lại Quan để thành cách vậy, toàn là nhờ ở Nhâm giúp; Mậu dùng Tí Tài, thấu Giáp và Kỷ, tất hợp Sát giữ lại Tài để thành cách vậy, toàn là nhờ ở Kỷ giúp; Ất dùng Dậu Sát, năm Đinh tháng Quý, giờ gặp Mậu, tất hợp mất Ấn Quý lấy khiến Đinh có thể chế Sát vậy, toàn là nhờ ở Mậu giúp.
Từ chú: Tiết thành bại cứu ứng viết: “trong thành mà bại, tất nhiên đới kị; trong bại mà thành, toàn là nhờ cứu ứng “, thần cứu ứng tức là tương thần vậy. Hợp mất kị thần là tương, chế hóa kị thần giả cũng là tương. Như giáp dùng Dậu Quan, gặp Đinh là Thương, thấu Nhâm hợp Đinh, thấu Quý chế Đinh, hợp Thương hay chế Thương, đều là trừ cái kị để thành cách, đều là tương vậy. Mậu dùng Tí Tài, như có Kỷ kiếp tranh Tài, can thấu Canh Tân Thực Thương lấy hóa Kiếp để sanh Tài, cũng là tương (tiết xem thành bại cứu ứng). Trên đây đã luận can chi tương ở thiên can.
Nguyên văn: Quý sanh tháng Hợi, thấu Bính là Tài, Tài gặp tháng Kiếp, thêm Mão Mùi tới hội, tất hóa thủy ra mộc mà chuyển Kiếp để sanh Tài vậy, toàn nhờ ở Mão Mùi là tương (hỷ). Canh sanh tháng Thân, thấu Quý tiết khí, không thông nguyệt lệnh nên kim khí chẳng linh lắm, Tí Thìn hội cục, tất hóa kim ra thủy mà thành kim thủy tương hàm vậy, toàn nhờ ở Tí Thìn là tương. Các loại như thế, đều chủ yếu dùng tương thần vậy.
Từ chú: Như thế là cứu ứng bằng địa chi, tam hợp lục hợp, cùng 1 công dụng. Như Quý sanh tháng Hợi, không gặp Mão Mùi mà gặp Dần, tất Dần Hợi hóa mộc, chuyển ra sanh Tài, cũng là tương vậy. Có khi lấy hội hợp giải xung làm cứu ứng, như Canh dùng Ngọ Quan, gặp Tí xung cách Sửu, tất Tí Sửu hợp mà giải xung, Quan cách thành, thế là lấy Sửu làm tương vậy. Gặp Dần Mão, tất thủy sanh mộc, mộc sanh Ngọ hỏa để giải xung, tất Dần Mão cũng là tương vậy. Có khi Giáp dùng Dậu Quan, gặp Ngọ là Thương, được Tí xung mất Ngọ nên Quan cách thành, Tí là tương vậy. Thiên biến vạn hóa, cốt yếu tùy ở phối trí của cục. Đó là đã luận tương là địa chi vậy.
Nguyên văn: Tương thần không gặp phá, quý cách thành; tương thần bị thương, cách bại ngay. Như Giáp dùng Dậu Quan, thấu Đinh gặp Quý Ấn, chế Thương để hộ Quan hĩ, như lại gặp Mậu, Quý hợp Mậu không thể chế Đinh, tương là Quý thủy bị thương hĩ; Đinh dùng Dậu Tài, thấu Quý gặp Kỷ, Thực chế Sát để sanh Tài hĩ, như lại thấu Giáp, Kỷ hợp Giáp nên không chế Quý, tương là Kỷ thổ bị thương hĩ. Thế đều là có tình mà hóa ra vô tình, cách có dụng mà thành không có dụng vậy.
Từ chú: Phần trên đã nói trong thành mà bại, tất là đới kị, gặp kị mà không có thần cứu ứng, vậy là phá cách, hoặc thần cứu ứng bị thương, cũng là phá cách, gọi là tương thần bị thương vậy. Giáp dùng Dậu Quan, thấu Đinh gặp Quý, quý là ấn, chế Thương hộ Quan, là thần cứu ứng vậy, như lại gặp hợp Quý, tất cứu ứng bị thương hĩ. Không riêng thiên can như thế, địa chi cũng vậy. Như tiết trước Quý sanh tháng Hợi, thấu Bính là Tài, Tài gặp tháng Kiếp, gặp Mão tới hội, hoặc gặp Dần tới hợp, tất hóa Kiếp ra Tài mà thành cách; như Mão gặp Dậu xung, Dần gặp Thân xung, tất Dần Mão là hỷ bị thương thành ra phá cách hĩ. Xem tiết dụng thần biến hóa cùng thành bại cứu ứng.
Nguyên văn: Phàm bát tự an định, tất chỉ có 1 loại nghị luận, 1 loại tác dụng, 1 loại khí lấy, tùy nơi mà thay hình, khó mà để trống, người học mệnh giả không nên vì thế mà sao nhãng?
Từ chú: Phàm xem bát tự, tất hợp toàn cục, cái nào là dụng, cái nào là tương, tất chỉ có 1 loại lý luận, dụng tất cốt yếu nên hợp nhật nguyên không, tương tất cốt yếu có nên hợp dụng thần không. Phân cho minh bạch, tự thấy lý nhất định bất dịch vậy. Thí dụ như sau:
Kiếp | Quan | Nhật chủ | Kiếp |
Mậu | Giáp | Kỉ | Mậu |
Tuất | Tí | Tỵ | Thìn |
Hành vận: Ất sửu / bính dần / đinh mão / mậu thìn / kỷ Tỵ / canh ngọ / tân mùi
Nguyệt lệnh Thiên tài, là Tài của ta, vốn đáng lấy Tài là dụng, tiếc là sanh tháng 11, thủy hàn thổ đóng băng, điều hậu là cấp yếu, lấy Bính hỏa trong Tỵ làm dụng thần vậy. Hiềm vì Tỷ kiếp trùng trùng, tranh Tài là bệnh, Giáp mộc Quan tinh chế trụ Tỷ kiếp, khiến quần Kiếp không thể tranh Tài, kiêm sanh lấy Bính hỏa nên Giáp mộc là tương thần vậy. Vận hành đất mộc hỏa, phú quý kiêm toàn, xem thêm thiên tinh thần.
Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Bình Diệu Dụng