27 C
Hanoi
Thứ Sáu, 3 Tháng Năm, 2024
spot_img
Home Blog Page 9

MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU

0

Mệnh Vô Chính Diệu là khi Cung Mệnh không có 1 trong 14 Sao Chính ( Tử Vi, Thiên Phủ,

Vũ Khúc, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thái Dương và Cự Môn ).

Theo Cụ Thiên Lương :

1)       Mệnh Vô chính diệu như ngôi nhà mượn nóc dựa ghé vào nhà người lợp mái lên để ở, nếu không có cây xà, những đòn tay cứng đóng chắc làm sao chống chọi với mưa tuôn gió bão. Điều kiện trước nhất là phải có sát tinh hợp hành của Mệnh đắc địa làm nòng cốt thủ Mệnh mà không bị Tuần và Triệt xâm phạm tức là cách Hung Tinh độc thủ như trường hợp Vua Lê Thái Tổ anh hùng cứu quốc, tuổi Ất Sửu 1385 sinh giờ Tí ngày 6 tháng 8, Kim Mệnh đóng ở Cung Dậu ( Kim cung tam hợp Thái Tuế ) được Bạch Hổ khiếu Tây Phương cách ( Kim đắc địa).

2)      Thứ đến là cách Nhật Nguyệt tịnh minh ( Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi ) đồng chiếu lên Mệnh ở Mùi có Hóa Kị đắc Tuần là tinh anh của Nhật Nguyệt được Tuần câu hút với mây lất phất óng ánh trên nền Trời hư không ( như Lá Số của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tuổi Mậu Tí 1228 sinh giờ Ngọ ngày 30 tháng Chạp ).

3)      Phải là Hỏa Mệnh, có một Không đắc địa tọa thủ, hai Không tam hợp chiếu, không có Trung Tinh đắc cách mới là trúng cách Đắc Tam Không.

4)      Mệnh có một Không tọa thủ, hai Không ở Tam Hợp chiếu – mà có Hung Tinh hay Trung Tinh đắc cách là cách Kiến Tam Không ( đời chỉ là hình thức , không có miếng gì ).

5)      Mệnh có Sát Tinh khắc Mệnh, hai Không tam hợp chiếu là cách Ngộ Không ( yểu tử ).

6)      Mệnh không có Sát Tinh đắc địa tọa thủ, lại bị Sát Tinh khắc Mệnh toạ thủ hay hợp chiếu lại xung sát phải có Triệt ngay ở Mệnh mới mong giải thóat.

7)       Mệnh có Sát Tinh đắc cách tọa thủ, hợp chiếu lại có Trung Tinh đắc cách, nếu Mệnh có Tuần kể như hão huyền.

8)      Mệnh không có Sát Tinh đắc cách, không có Không, trong cậy vào hợp chiếu có Trung Tinh đắc cách không bị phá hư ( nghĩa là không có Tuần và Triệt ).

Tóm lại chỉ có người Hỏa Mệnh mới Đắc Tam Không ( trường hợp 3 ) và người Kim Mệnh được Sát Tinh đắc cách, đắc địa  độc thủ được hưởng Vô Chính Diệu trường hợp đặc biệt. Còn trường hợp được Nhật ( Mão ), Nguyệt ( Hợi ) đồng chiếu Mệnh ở Mùi – áp dụng cho tất cả mọi người.

Theo Tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang : Người có Mệnh Vô chính Diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng Hầu. Nếu là con vợ Cả, tất hay đau yếu, sức khỏe rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu Thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở bất chí.

Mệnh Vô Chính Diệu rất cần có Tuần Triệt án ngữ và Thiên Không, Địa Không hội hợp. Nếu không phải có nhiều Chính Tinh sáng sủa, tốt đẹp hội chiếu và nhiều Trung Tinh đắc cách rực rỡ quần tụ – như thế mới mong sống lâu được. Mệnh Vô Chính Diệu mà không gặp sự cứu giải của các Sao như đã kể ở trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi Thọ, tất phải làm con nuôi Họ khác, hay phải sớm xa gia đình.

Trong 6 Mẫu đã khảo sát – Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra ở 5 Mẫu : Tử Vi độc Thủ, Tử Tướng, Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham. Mẫu Tử Phủ không có trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu – vì 14 Sao Chính rải đều trên 12 Cung của Lá Số.

 

1) Trường Hợp I  – Mẫu Tử Vi độc Thủ  Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra khi Mệnh đóng ở Mùi, Dậu ( khi Tử Vi độc thủ tại Ngọ ) hay tại Mão, Sửu ( khi Tử Vi độc thủ tại Tí ).

–          a) Mệnh đóng tại Mùi : với các Tuổi thuộc Họ Giáp Thân được Tuần tại Mệnh, Nhật Nguyệt đắc cách chiếu Hư Không+Mệnh Hỏa (như Lá số của Hưng Đạo Vương – được 3 yếu tố Thiên Thời ( Thế Thủy đóng tại Thế Mộc ), Địa Lợi ( Mệnh Hỏa đóng tại Cung Thổ + hợp Can ), Nhân Hòa ( Cung Quan đẹp : Thái Âm đắc cách hội Khoa Quyền ). Với các Tuổi ( Hợi Mão Mùi )+ Cục Mộc – không sinh giờ Thìn Thân, tuổi Ất (tuy triệt tại Mệnh : thủa thiếu thời lận đận), tuổi Đinh, Kỷ ( tuy Kình tại Mệnh : dễ bị rủi ro, thương tích ) – tuy không được Hỏa hay Thổ Mệnh ( ăn về Thái Dương )- với Mệnh Thủy hay Mộc ( ăn về Thái Âm ) – cuộc Đời cũng được Qúy Hiển ở Hậu Vận !!.

–          b) Mệnh đóng tại Dậu : Nhật Lương, Cự Đồng, Cơ chiếu Mệnh với các Tuổi thuộc Họ Giáp Tuất được Tuần tại Mệnh, nếu Giáp Tuất, Kỷ Mão lại thêm Triệt – Các Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu ) được hưởng Vòng Thái Tuế – riêng Can Tân được hưởng thêm Vòng Lộc Tồn + Cục Kim được hưởng Vòng Tràng Sinh, không sinh tháng Giêng (Thiên Hình tại Mệnh ) không sinh giờ Dần Tuất (Không Kiếp tại Mệnh ), Tuổi Canh ( Kình tại Mệnh ) – mạng Thổ thì lợi hơn !.

–          c) Mệnh đóng tại Sửu : Vị Trí các Sao chính giống như Mệnh đóng tại Mùi, nhưng Nhật Nguyệt hãm, với các Tuổi thuộc Họ Giáp Dần được Tuần đóng Mệnh, nếu Tuổi Mậu Thìn thêm Triệt, Qúy Dậu thêm Triệt+Kình ( không sinh Giờ Dần Tuất ) – được Cục Kim ( Vòng Tràng Sinh ), sống xa nơi sinh trưởng thì cuộc đời cũng khá ).Với các tuổi ( Tỵ Dậu Sửu ) ; các Tuổi Can Bính, Mậu + Cục Kim + mạng Hỏa, Thổ không sinh giờ Dần , Tuất cuộc đời vẫn khá ở cuối đời khi sống xa nơi sinh trưởng.

–          d) Mệnh đóng tại Mão : với các Tuổi thuộc Họ Giáp Thìn được Tuần tại Mệnh, không sinh giờ Thìn, Thân, tuổi Giáp, nhất là các Tuổi (Hợi Mão Mùi ) với Can Ất +Cục Mộc – cuộc đời vươn lên từ Trung Vận khi sống xa nơi sinh trưởng.

 

2) Trường Hợp II – Mẫu Tử Tướng : Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra khi Mệnh đóng tại Mùi hay Dậu ( khi Tử Vi, Thiên Tướng đóng tại Thìn ) hay tại Mão, Sửu ( khi Tử Tướng đóng tại Tuất ).

–          a) Mệnh đóng tại Mùi : Cự Cơ + Thiên Đồng đắc cách – trừ tuổi Ất, Canh ( Triệt tại Mệnh ), Đinh, Kỷ ( Kình tại Mệnh), sinh giờ Thìn, Thân ( Không Kiếp tại Mệnh ), sinh tháng 11 (Thiên Hình tại Mệnh ). Với lứa Tuổi ( Hợi Mão Mùi )+ Can Ất ( được Vòng Thái Tuế + vòng Lộc Tồn ) + Cục Mộc ( Vòng Tràng Sinh, không có Hung Sát Tinh tại Mệnh cuộc Đời cũng được Qúy Hiển.

–          b) Mệnh đóng tại Dậu : Cự Cơ đắc cách + Nhật Nguyệt đồng Cung chiếu Mệnh – Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu ) được Vòng Thái Tuế +  Can Tân ( Vòng Lộc Tồn ), nếu được Kim Cục thêm Vòng Tràng Sinh – trừ tuổi Giáp, Kỷ, sinh tháng Giêng, sinh  giờ Dần, Tuất.

–          c) Mệnh đóng tại Mão :  Cự Cơ đắc cách + Nhật Nguyệt đồng cung chiếu Mệnh. Tuổi ( Hợi Mão Mùi ) với Can Ất + Cục Mộc được hưởng đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – trừ tuổi Đinh, Nhâm ( Triệt tại Mệnh ), Giáp ( Kình tại Mệnh ) sinh tháng 7 ( Thiên Hình tại Mệnh ), sinh giờ Thìn, Thân ( Không Kiếp tại Mệnh ) – không có Hỏa Linh, cuộc đời cũng được Qúy Hiển !!.

–          d) Mệnh đóng tại Sửu :  Cự Cơ đắc cách +Nhật Nguyệt đồng cung chiếu Mệnh. Tuần tại Mệnh với các Tuổi thuộc Họ Giáp Dần. Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu ) được Vòng Thái Tuế + Can Tân + Cục Kim được 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – trừ tuổi Mậu, Qúy, sinh tháng 5 hay sinh giờ Dần, Tuất.

       3) Trường Hợp III  – Mẫu Tử Sát : Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra khi Mệnh đóng tại 3 cung liền nhau Ngọ, Mùi, Thân hay cung Tuất ( khi Tử Sát đóng tại Tỵ ) hay 3 cung liền nhau Tí, Sửu, Dần hay Cung Thìn ( khi Tử Sát đóng tại Hợi ).

–  a) Mệnh đóng tại Ngọ : với các Tuổi thuộc Họ Giáp Thân được Tuần tại Mệnh, Nhật Nguyệt chiếu hư không, Mệnh Hỏa, Thổ, tuổi ( Dần, Ngọ, Tuất ) với Can Giáp + Cục Hỏa, không sinh giờ Tỵ, Mùi được hưởng 3 yếu tố Thiên Địa Nhân – cuộc đời cũng vinh hiển nơi sinh trưởng. Với tuổi Đinh Kỷ + Cục Hỏa tuy không được Vòng Thái Tuế, nhưng cũng được hưởng 2 vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh. Tuổi Ất, Canh ( Triệt tại Mệnh ), Bính, Mậu ( Kình tại Mệnh = Mã đầu đối Kiếm ) sinh giờ Tỵ Mùi thì kém hơn.

                – b) Mệnh đóng tại Mùi : với các Tuổi thuộc Họ Giáp Thân được Tuần tại Mệnh. Tuổi ( Hợi Mão Mùi ) được Vòng Thái Tuế ( + Phủ Tướng triều viên cách) – trừ Ất, Canh, Đinh, Kỷ sinh giờ Thìn, Thân.

               – c) Mệnh đóng tại Thân :  các Tuổi thuộc Họ Giáp Tuất được Tuần đóng Mệnh, Nhật Nguyệt đắc cách chiếu hư không ;  tuổi Giáp, Kỷ thêm Triệt – Tuổi Canh được Vòng Lộc Tồn ; Tuổi ( Thân Tí Thìn ) được Vòng Thái Tuế ; tuổi Cục Thủy hay Thổ được Vòng Tràng Sinh. Nếu được hưởng đủ 2 hay 3 Vòng –  trừ Triệt tại Mệnh ( Giáp, Kỷ ), Kình tại Mệnh ( Canh ), sinh giờ ( Mão, Dậu ) đều hưởng được Phú Qúy nơi sinh trưởng.

– d) Mệnh đóng tại Tuất : các Tuổi thuộc Họ Giáp Tí được Tuần đóng Mệnh + Cự Nhật, Cơ Lương đắc cách chiếu Mệnh ; tuổi Giáp, Đinh, Kỷ được Vòng Lộc Tồn, tuổi ( Dần Ngọ Tuất ) được Vòng Thái Tuế ; tuổi Cục Hỏa thêm Vòng Tràng Sinh. Nếu tuổi Nhâm thì Đà La ở Mệnh. Nếu được 2, trong 3 Vòng Chính, không sinh giờ Sửu, Hợi cũng được hưởng cách Mệnh Vô Chính Diệu nơi sinh trưởng !

               – e) Mệnh đóng tại Tí : với các Tuổi thuộc Họ Giáp Dần được Tuần tại Mệnh, tuổi Mậu, Qúy thêm Triệt – riêng Qúy thêm Kình – cũng cách Nhật Nguyệt chiếu hư không, nhưng sống xa nơi sinh trưởng thì lợi hơn !. Các tuổi ( Thân Tí Thìn ) được Vòng Thái Tuế, Cục Thủy hay Thổ được Vòng Tràng Sinh. Không sinh giờ Sửu, Hợi thêm 2 hay 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh ; Mệnh Mộc hay Thủy ( Địa Lợi ) cũng được hưởng Phú Qúy từ Trung Vận khi sống xa nơi sinh trưởng !!.

               – f ) Mệnh đóng tại Sửu : cũng như Mệnh đóng tại Tí có Tuần tại Mệnh với các tuổi thuộc Họ Giáp Dần, tuổi Mậu, Qúy thêm Triệt tại Mệnh, riêng Qúy còn vướng thêm Kình. Phủ Tướng Triều Viên cách, với Lứa Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu )+ Can Tân + Cục Kim được cả 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Tuổi Mậu Qúy ( Triệt tại Mệnh, riêng Qúy có thêm Kình ), sinh tháng 5 ( Thiên Hình tại Mệnh ), sinh giờ Dần, Tuất ( Không Kiếp tại Mệnh ). Được hưởng 2 trong 3 vòng, không có Triệt và Hung Sát Tinh tại Mệnh cũng được hưởng Phú Qúy từ Trung Vận khi sống xa Quê Hương !.

               – g ) Mệnh đóng tại Dần : Cự Nhật, Đồng Âm chiếu Mệnh, với Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Thìn được Tuần tại Mệnh ; tuổi ( Dần Ngọ Tuất ) được hưởng Vòng Thái Tuế ; Can Giáp được hưởng Vòng Lộc Tồn ; Cục Hỏa được hưởng Vòng Tràng Sinh. Tuổi Đinh, Nhâm bị Triệt ở Mệnh, sinh tháng 6 ( Thiên Hình tại Mệnh ), sinh giờ Mão Dậu ( Không Kiếp tại Mệnh ). Nếu tránh được Triệt cùng Hung Sát Tinh tại Mệnh ( hay Tam Hợp ) cuộc đời vẫn khá khi sống xa nơi sinh trưởng!

                4) Trường Hợp IV – Mẫu Tử Phá : Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra khi Mệnh đóng tại Tỵ hay Thân ( khi Tử Phá đóng tại Mùi ) hay tại Dần, Hợi ( khi Tử Phá đóng tại Sửu ).

– a) Mệnh đóng tại Tỵ : Phủ Tướng triều viên cách ; với lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Ngọ được Tuần tại Mệnh ; lứa Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu ) được Vòng Thái Tuế – lứa Tuổi Tân, Bính Mậu + Cục Kim được 2 Vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh – tuy nhiên Bính Tân bị Triệt tại Mệnh. Nếu sinh tháng 9 ( Thiên Hình tại Mệnh ) ; sinh giờ Ngọ ( Không Kiếp tại Mệnh ). Được 2 trong 3 Vòng Chính và không có Hung Sát Tinh tại Mệnh hay Tam Hợp Mệnh thì cuộc Đời vẫn khá !

– b) Mệnh đóng tại Thân : được Cự Nhật và Đồng Lương đắc cách chiếu Mệnh thêm Tuần đóng Mệnh khi ở Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Tuất. Lứa Tuổi ( Thân Tí Thìn )+Can Canh+Cục Thủy hay Thổ được hưởng đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Không có Triệt tại Mệnh ( Giáp, Kỷ ), Thiên Hình ( sinh tháng chạp ), Không Kiếp ( sinh giờ Mão, Dậu ) và các Hung sát Tinh khác – cuộc Đời  được Qúy hiển nơi Sinh Trưởng !.

 c) Mệnh đóng tại Hợi : Phủ Tướng Triều Viên cách ; với Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Tí được Tuần đóng tại Mệnh. Với Lứa Tuổi ( Hợi Mão Mùi )+ Can Ất + Cục Mộc được hưởng 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – cuộc Đời cũng được Qúy Hiển khi sống xa Quê Hương – trừ tuổi Qúy sinh tháng 3, giờ Tí.

– d) Mệnh đóng tại Dần : Đồng Lương đắc cách, Cự Nhật hãm chiếu Mệnh, thêm Tuần tại Mệnh khi ở Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Thìn. Lứa Tuổi ( Dần Ngọ Tuất ) + Can Giáp+Cục Hỏa được hưởng đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – Tuổi Đinh Kỷ +Cục Hỏa được hưởng 2 Vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh, nhưng Đinh, Nhâm bị Triệt tại Mệnh, sinh tháng 6 ( Thiên Hình tại Mệnh ), sinh giờ Mão, Dậu ( Không Kiếp đắc địa tại Mệnh ). Trường Hợp này kém hơn trường hợp Mệnh đóng tại Thân.

 

5) Trường Hợp V – Mẫu Tử Tham :

Mệnh Vô Chính Diệu chỉ sảy ra khi Mệnh đóng tại Thân, Dậu ( khi Tử Tham tại Mão ) hay tại Dần, Mão ( khi Tử Tham đóng tại Dậu ).

–          a) Mệnh đóng tại Dần : Thái Dương cư Ngọ đắc cách, Cự Môn cư Tuất hãm, Cơ Âm cư Thân chiếu Mệnh – với Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Thìn được Tuần tại Mệnh. Lứa Tuổi ( Dần Ngọ Tuất ) + Can Giáp+ Cục Hỏa được hưởng đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Lứa Tuổi Đinh Kỷ + Cục Hỏa được hưởng Vòng Lộc Tồn và Tràng Sinh, riêng Đinh ( và Nhâm ) bị Triệt tại Mệnh. Không sinh tháng 6, giờ Mão, Dậu +Tam Hợp Mệnh Thân không có Hung Sát tinh, cuộc Đời không Phú cũng Qúy !!.

–          b) Mệnh đóng tại Mão :Phủ Tướng Triều Viên cách+Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Thìn hay Lứa Tuổi ( Hợi Mão Mùi )+Can Ất+Cục Mộc , trừ Đinh, sinh tháng 7, sinh giờ Thìn, Thân đều đắc cách.

–          c) Mệnh đóng tại Thân : Cự Nhật, Cơ Âm đều hãm chiếu Mệnh ( sống xa nơi sinh trưởng có thể khá hơn ) ; với Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Tuất được Tuần đóng tại Mệnh. Lứa Tuổi ( Thân Tí Thìn )+Can Canh+Cục Thủy hay Thổ được hưởng đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Nếu được 2 trong 3 Vòng Chính, không phải Can Giáp, Kỷ, sinh tháng Chạp, giờ Mão Dậu – cuộc Đời vẫn khá !.

–          d) Mệnh đóng tại Dậu : Phủ Tướng Triều Viên cách + Lứa Tuổi thuộc Họ Giáp Tuất hoặc Lứa Tuổi ( Tỵ Dậu Sửu )+Can Tân+Cục Kim – nếu không phải Giáp Kỷ, sinh tháng Giêng, giờ Dần Tuất, không có Hung Sát Tinh xâm phạm Mệnh Thân cuộc Đời vẫn khá khi sống xa Quê Hương !.

HẾT

GS Phạm Kế Viêm- Paris

Đại Thi Hào NGUYỄN DU Dưới Lăng Kính Tử Vi

0

1) Lá số Tử Vi

MỆNH đóng Cung Dậu ( Kim ) với Thái Tuế, Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Quyền – Thái Âm, Long Phượng hội chiếu. Tam giác ( Mệnh, Quan, Tài ) được Vòng Thái Tuế ( Danh Vọng và Quyền Thế ). THÂN cư Thiên Di nằm trong Tam Giác ( Di, Phúc Đức, Thê ) ở Thế Tuế Phá, nhưng được Vòng Lộc Tồn ( Lộc Trời cho, dù không giầu cũng hưởng mọi sự may mắn khác, hóa giải mọi bế tắc, rủi ro và tật bệnh ). Cung Huynh Đệ nằm trong Tam Giác ( Huynh Đệ, Điền Trạch, Tật Ách ) được Vòng Tràng Sinh ( hình bóng của 2 Vòng Thái Tuế và Vòng Lộc Tồn kết hợp ). Cung Phụ Mẫu với Sát Phá Tham hội Thiếu Dương, Tứ Đức, Ân Qúy, Văn Tinh + Đào Hồng : Cha lúc nhỏ thông minh học giỏi, lớn lên tài thao lược Văn Võ song toàn ( từ Võ « Sát Phá Tham+Địa Kiếp đắc địa » ra Văn : ở ngôi Tể Tướng 15 năm ) ở vị trí nào cũng có tài ứng biến, sắp đặt gọn ghẽ mọi việc bề bộn ; được cả Vua lẫn Chúa khen là người Nhân Đức và Tài Trí. Với Văn Tinh + Đào Hồng : nổi danh về thơ phú, ca hát cả Cha lẫn Mẹ. Cung Phúc Đức với Cơ Âm Cự Đồng hội Song Lộc, Xương Khúc, Tướng Ấn, Mã Khốc Khách được Vòng Lộc Tồn : dòng Họ Nội Ngoại nhiều Đời Danh Vọng, Giàu có ( Công Hầu Khanh Tướng ) – một Thời Vang Bóng !. Cung Huynh Đệ đóng tại Thân ( Kim hợp Mệnh Thủy ) đưọc Vòng Tràng Sinh với Tử Phủ Vũ Tướng hội Hóa Khoa, Tả Hữu, Khôi Việt, Thai Toạ ( anh em xuất thân từ các Dòng Họ Đại Qúy Tộc, Công Danh « thành đạt + nổi danh về Văn Thi Nghiệp » điển hình Anh Cả Nguyễn Khản tuổi Giáp Dần 1734 hành Thủy và Nguyễn Đề tuổi Tân Tỵ 1761 hành Kim đều hợp với Thủy Mệnh của Nguyễn Du – nên thời trẻ anh em có nhiều gắn bó liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng với Bộ Hung Sát Tinh : Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa Tinh cũng gây cho Anh Chị Em nhiều sóng gió trong cuộc Đời – kể cả Đương Số !).

 Tuổi Ất Dậu với Can Ất đứng vào hàng đầu hàng Can với Thái Tuế tại Mệnh là người thông minh hơn người trong bất cứ Lãnh Vực nào, lúc trẻ cũng vượt trội bạn đồng trang lứa, mẫu người nhiều tham vọng, nặng lòng với Quê Hương, Đất nước, có tình nghĩa với Đồng Bào và bà con Dòng Họ. Nhật Nguyệt + Tứ Linh « Long Phượng Hổ Cái » : sống lý tưởng, có tài về Văn Chương Nghệ Thuật. Mệnh ứng với thời trẻ trước 30t ở Đại Vận ( 2-11t ) khi sinh ra Cha đang làm Tể Tướng nên sống trong giàu sang Phú Qúy, lên 3 tuổi được Tập Ấm ( Hòang Tín Đại Phu, xuất thân Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc Bá ). Với hàm ấy Nguyễn Du đã đứng vào hàng Sĩ Tịch của Triều Đình của Triều Đình Lê – Trịnh, mặc dù chưa phải là một Vị Quan tại chức !. Tướng Mạo khôi ngô, thông minh ( Nhật Nguyệt+Tứ Linh ), lên 6t bắt đầu học chữ Hán, sách vở chỉ xem qua 1 lần là nhớ. Có lần Quận Việp Hòang Ngũ Phúc đến nhà chơi thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường bèn tặng ông 1 thanh Bảo Kiếm. Dù Mệnh được Vòng Thái Tuế + THÂN cư Thiên Di được Vòng Lộc Tồn nhưng Nhật ( tượng Cha ), Nguyệt ( tượng Mẹ ) gặp Hóa Kị, Phục Binh, THÂN ( ứng với thời gian từ Trung Vân đến Hậu Vận ) nằm ở Vòng Tuế Phá ( gặp nhiều ngang trái, bất mãn, có tinh thần cách mạng, nhưng nhờ Lộc Tồn +Mã Khốc Khách « Nghị Lực cao » đã vượt qua nhiều Sóng Gió của Cuộc Đời ).

 Từ năm Ất Mùi 1775 khi đi vào Hạn La Hầu 10t+Triệt, Ông đã chịu nhiều mất mát : anh trai Nguyễn Trụ cùng Mẹ tuổi Đinh Sửu 1757 qua đời vào Hạn La Hầu 19t+Kình Đà, cũng vào cuối năm đó Cha đau bệnh mất vào Hạn Thái Bạch 67t+Kình Đà. Hai năm sau Mẹ tuổi Canh Thân 1740 mất năm Mậu Tuất 1778 vào lúc Vận Số của Ông đi vào Năm Tuổi 13t+Hạn Thái Bạch+Kình Đà ( nên nhớ Mệnh của ông ở Dậu với Mệnh của Phụ Mẫu ở Tuất : Dậu và Tuất ở Thế Nhị Phá và Thế Hỏa khắc Thế Kim + Cha Mệnh Hỏa, con Mệnh Thủy ). Mồ côi cả Cha lẫn Mẹ cuộc sống trở nên khó khăn vào Thời Điểm này nằm trong Đại Vận ( 12t-21t ) tại Cung Huynh Đệ, ông phải về sống với Anh Cả Nguyễn Khản, người Anh cùng Cha khác Mẹ hơn Ông 31t rất tài hoa, làm Quan to tại Triều được Chúa ưu đãi. Đời sống của người Anh Cả đã có ảnh hưởng nhiều đến ông trên đường Sự Nghiệp !.

Năm Canh Tí 1780 Nguyễn Khản đang làm Trấn Thủ Sơn Tây bị khép vào tội mưu lọan trong Vụ án năm Canh Tí ( phò Thế Tử Trịnh Khải âm mưu phế bỏ Trịnh Cán ) bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận Công. Lúc này Nguyễn Du được người bạn thân của Anh Cả là Đoàn Nguyễn Tuấn ( là Anh Vợ sau này ) đón về Sơn Nam Hạ ( Nam Định ) nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu Binh phế Trịnh Cán tôn Trịnh Khải lên ngôi Chúa. Nghĩ tình Thầy Trò, Trịnh Khải đón Nguyễn Khản về Triều với chức Thượng Thư Bộ Lại còn Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây.

 Năm Qúy Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam đậu Tam Trường ( Tú Tài ) vào năm 18t. Cũng trong năm này Nguyễn Đề ( anh cùng Mẹ tuổi Tân Tỵ 1761 ) đỗ Giải Nguyên khoa Thi Hương ở Điện Phụng Thiên và Anh Cả Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo cuối năm thăng chức Tham Tụng ( Tể Tướng ).

 Sau sự kiện Kiêu Binh đốt cháy Dinh Thự của Anh Cả ở Phường Bích Câu ( Thăng Long ). Hòan cảnh khó khăn nên Anh Cả đành xin cho ông làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên năm Bính Ngọ 1786 – đó là năm đầu của Đại Vận ( 22t-31t ) tại Cung Thê gặp Tuần+Triệt. Tiểu Vận năm Bính Ngọ 1786 đi vào Vận Đào Hồng Hỉ, Ông lập gia đình với bà Đoàn Thị Huệ, con gái Tiến Sĩ Đòan Nguyễn Thục đang làm Ngự Sử tại Triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam ( nay là tỉnh Thái Bình ). Năm Đinh Mùi 1787, Tây Sơn tiến quân ra Bắc, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp Triều Thần bàn chuyện chống Tây Sơn, nhưng việc chưa thành thì ông bị bệnh mất tại Thăng Long. Nguyễn Du theo Vua không kịp, phải chạy trốn về Quê Vợ ở nhờ nhà anh vợ Đòan Nguyễn Tuấn tại Thái Bình ( Vận Số đi vào Hạn Thái Bạch 22t+Kình Đà +Vận Triệt ).

 Đại Vận ( 22t-31t ) tại Cung Thê nằm trong Tam Giác ( THÂN cư Di, Thê, Phúc ) tuy gặp Vòng Lộc Tồn, nhưng ở Thế Tuế Phá, Ông có tập hợp Hào Mục để tính chuyện Phục Quốc, nhưng chí không thành !. Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu Quê Vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Ông, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng Thời Gian này là Mười năm gió bụi « Thập tải Phong Trần ». Hàng ngày Ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì mà đã rơi vào cảnh cùng khổ !. Thời gian này nhà Vợ, bố vợ và anh vợ đều mất, ông đành trở về Quê Cha đất Tổ ở Tiên Điền. Trở lại Quê nhà, thấy nhà cửa tan hoang, anh em lưu lạc khắp nơi, Ông đã phải thốt lên « Hồng Lĩnh vô Gia, Huynh Đệ tán ». Tuy vậy ở Tiên Điền vẫn còn bà con thân thuộc – nên Ông được bà con chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong nhung lụa của một Gia Đình Đại Qúy Tộc nên về Quê, Ông chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở Thánh Hiền !. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột rúc chạy trên đống sách khiến tâm trạng lại càng thêm buồn tủi. Để khuây khỏa Ông thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu nai hay xuống sông Lam bắt cá.

 Năm Kỷ Dậu 1789 Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Đòan Nguyễn Tuấn ra hợp tác với nhà Tây Sơn giữ chức Thị Lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở Quê Vợ ( Quỳnh Côi, Thái Bình ). Tháng 10 năm Tân Hợi ( 1791), Nguyễn Quýnh, người anh thứ 4 cùng cha khác mẹ của Ông do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, Dinh Cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị phá hủy !.

Năm Quý Sửu 1793 Ông về thăm Quê ở Tiên Điền, cuối năm Ông vào Kinh thăm anh ruột Nguyễn Đề đang làm Thái Sử ở Viện Cơ Mật và anh rể Đòan Nguyễn Tuấn.

 Mùa Đông năm Bính Thìn ( 1796 ), ở năm đầu của Đại Vận ( 32t-41t ) tại Cung Tử Tức gặp Tuần +Triệt, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Chúa Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận Công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng ở Nghệ An, may nhờ anh ruột Nguyễn Đề quen với Thận nên được tha ( Hạn Thái Bạch 31t+Kình Đà ). Trong thời gian ở Tù, Ông có làm bài Thơ My trung mạn hứng « Cảm hứng trong Tù ».

2) Thời Kỳ tham chính

 Đại Vận ( 32t-41t ) nằm trong Thế Thiếu Dương +Sát Phá Tham+Đào Hồng Hỉ + Tuần Triệt : 10 năm nhiều sóng gió, sau bế tắc, nhờ Triệt tháo gỡ, vào các năm cuối của Đại Vận, cuộc đời đã đi vào trang Sử mới.

 Năm Nhâm Tuất 1802 Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn ; khi ra Bắc Hà có xuống chiếu mời các Quan Chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nguyễn Du được truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được làm quan. Tháng 8 cùng năm được bổ làm Tri Huyện Phù Dung ( thuộc Khóai Châu, Sơn Nam ). Tháng 11 được thăng Tri Phủ Thường Tín. Mùa Đông năm Qúy Hợi 1803 để tiếp Sứ Thần nhà Thanh sang phong sắc cho Vua Gia Long, Ông được cử cùng các Tri Phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên ; Tri Phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên ; Tri Phủ Tiên Hưng là Trần Lân ra Cửa Nam Quan nghênh tiếp Sứ Thần.

       Mùa Thu năm Giáp Tí 1804 lấy cớ bị bệnh ( Hạn Thái Bạch 40t+Tam Tai+Kình Đà ) Ông xin từ chức về Quê. Con đường Hoạn Lộ với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với Triều Đại này !. Về Quê chưa được bao lâu thì Vua Gia Long có chỉ triệu vào Kinh Đô. Mùa Xuân năm Ất Sửu 1805, Tiểu Vận vào Quan Lộc (+Hạn Thái Dương 41t+Tướng Ấn, Song Lộc, Mã Khốc Khách) được thăng Đông Các Đại Học Sĩ, tước Du Đức Hầu. Đây là ân sủng lớn mà Triều Đình dành riêng cho Ông ; vì Ông chỉ đỗ Tam Trường ( Tú Tài ) mà thời đó phải đỗ Hương Cống ( Cử Nhân ) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ Triều Đình đặc cách phong cho Ông vì thấy Ông là người có tài ; hơn nữa Ông lại xuất thân trong 1 Đại Gia Đình Khoa Bảng lỗi lạc một thời gian dài là Giường Cột của Triều Lê. Hơn nữa với mục đích trọng dụng những người như Ông có thể thu phục được nhâm tâm của Sĩ Phu Bắc Hà khi còn luyến tiếc Triều Lê!.

 Tuy làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Ông chẳng lấy thế làm vui, mà lại thêm buồn vì thời thế đã đổi thay, lại thương cho Số Phận của mình. Những đêm mưa rả rích ở Xứ Huế, một mình nhìn về Phiá Bắc Đèo Ngang, lòng càng thêm đau sót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách ( Thập khẩu đề cơ Hòanh Lĩnh bắc « Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang » ).

 Năm Đinh Mão ( 1807 ), năm đầu của Đại Vận ( 42t-51t ) tại Cung Tài Bạch tuy là Đại Vận Thái Tuế +Tứ Linh, nhưng Nhật Nguyệt gặp Hóa Kị, Phục Binh+THÂN Tuế Phá : 10 năm được vài năm đầu ưng ý, thỏa mãn với vài ước vọng thủa thiếu thời, nhưng nhìn cảnh Quan Trường còn đầy rẫy kẻ xu thời trục lợi chỉ thích vơ vét cho đầy túi tham, hơn nữa lòng còn vọng tưởng Cố Quốc một thời Danh Vọng của Đại Gia Đình. Ông càng cám cảnh cho thân phận cá chậu chim lồng của mình !.

 Tháng 9 năm Đinh Mão ( 1807 ) được bổ làm Giám Khảo trường Thi Hương ở Hải Dương. Xong việc Ông xin về Quê được Vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tỵ ( 1809 ) Vua lại có chỉ bổ Ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Qủang Bình. Trong 4 năm giữ chức Cai Bạ mọi việc trong Hạt như : lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng Thuế, Ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được Sĩ Phu và nhân dân yêu mến.

 Tháng 9 năm Nhâm Thân ( 1812 ) Ông xin tạm nghỉ 2 tháng về Quê xây mộ cho anh Nguyễn Đề. Tháng 2 năm Qúy Dậu ( 1813 ) có chỉ triệu về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại Học Sĩ ( Vận Thái Tuế ), sau đó được cử đi Sứ Trung Quốc với tư cách Tuế Cống Chánh Sứ cùng 2 Phó Sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần văn Đại và Nguyễn văn Phong.

 Trong dịp đi Sứ sang Tàu, có dịp trở lại Thăng Long ; bạn bè mở tiệc tiễn đưa ở Dinh Tuyên Phủ có gọi mấy chục Nữ Nhạc đến giúp vui. Trong đám Nữ Nhạc, Ông có nhận ra 1 người mà 20 năm trước, khi Ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Đề đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Nhìn dung nhan tiều tụy, chạnh lòng nghĩ đến Thế Sự đổi thay, Ông buồn bã thốt lên : « Than ôi ! Sao người ấy lại đến nỗi này. Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống ngậm ngùi cho cảnh xưa nay ». Lòng cảm thương vô hạn, Ông đã gửi vào bài thơ Long Thành cẩm giả ca. Trong thời gian đi Sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi qua đền chùa, các Danh Lam Thắng Cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, Ông thường ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Võ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can…qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trầm mình, Ông làm bài thơ Phản Chiêu Hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về Dương Gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, Ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết Trung Thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng bạc mệnh, Ông làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận Mình « Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như ».

 Tháng 4 năm Giáp Tuất ( 1814 ) trở về nước, Ông có làm tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa Hạ năm Ất Hợi ( 1815 ) Ông được phong chức Hữu Tam Tri bộ Lễ tước Du Đức Hầu. Năm Kỷ Mão 1819 Ông được cử làm Đề Điệu trường Thi Quảng Nam, Ông dâng biểu xin nghỉ được nhà Vua chuẩn y. Thời Điểm này là năm đầu của Đại Vận ( 52t-61t ) tại Cung Tật Ách ở Thìn ( Thổ khắc Mệnh ) có Kình Dương ( Kim ) rất độc với Can Ất ( Mộc ), lại Nhị Hợp với Mệnh ( Nhật Nguyệt gặp Hỏa Linh, Hóa Kị : Tinh Thần mệt mỏi luôn luôn lo lắng đến sức khỏe ). Năm Canh Thìn 1820 Vua Gia Long băng hà, Minh Mệnh lên ngôi, có lệnh sai Ông đi làm Chánh Sứ sang Tàu cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất vì bệnh Dịch Tả ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ( 16/9/1820 ) tại Kinh Thành Huế khi Tiểu Vận vào Tật Ách gặp Kình, Vận Số đi vào Hạn La Hầu 55t+Kình Đà, Không Kiếp.

 Bệnh Dịch Tả này là trận Dịch lớn xuất phát từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta, phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lan ra Bắc, người chết không biết bao nhiêu mà kể, cả thành thị lẫn thôn quê đều náo loạn !.

 Hiện nay Nhà Thờ của Đại Thi Hào Nguyễn Du ở Tiên Điền có gắn 4 chữ ( Địa Linh Nhân Kiệt ) và Nhà Lưu Niệm trong đó có Tượng Đài của Ông được xây tại tỉnh Hà Tĩnh.

3) Tác Phẩm

a- Chữ Hán

– Thanh Hiên Thi tập gồm 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan Triều Nguyễn.

– Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài ngâm nga lặt vặt lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía Nam Hà Tĩnh.

– Bắc Hành tạp lục gồm 131 bài Thơ ghi chép các sự kiện khi đi Sứ sang Tàu.

b- Chữ Nôm

– Đoạn Trường Tân Thanh ( truyện KIỀU ) gồm 3254 câu Thơ theo thể Lục Bát viết bằng chữ Nôm có nội dung dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân ( người Tàu ) xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính- một cô gái có Tài Sắc nhưng Hồng nhan bạc phận.

– Văn Chiêu Hồn : Văn Tế 10 loại chúng sinh theo thể Thơ Song Thất Lục Bát.

– Thác lời Trai phường Nón : 48 câu Thơ thể Lục Bát với nội dung thay lời anh con Trai Phường Nón làm thơ tỏ tình với Cô Gái phường Vải.

– Độc Tiểu Thanh ký viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn của Trung Quốc, 16t bị gả làm vợ lẽ của nhân vật thuộc nhà quyền qúy. Vì Vợ Cả hay ghen nên đuổi nàng ra sống một mình ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ, không bao lâu bị bệnh chết ở tuổi 18t. Trước khi chết, nàng có để lại nhiều bài Thơ và Họa, nhưng hầu hết bị người vợ cả đốt !. Bài thơ viết theo thể Thất ngôn Bát cú Đường Luật.

– Văn Tế sống Trường Lưu nhị Nữ : gồm 98 câu viết theo lối Văn Tế để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với 2 cô gái Phường Vải.

 Sáng tác của Nguyễn Du không nhiều về số lượng, nhưng có Vị Trí đặc biệt quan trọng trong Di Sản Văn Hóa Dân Tộc. Từ Kiệt Tác Truyện KIỀU đã nảy sinh biết bao những hình thức Sáng Tạo Văn Học và Văn Hóa khác nhau : thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh ; rồi vô số dạng thức của Nghệ Thuật Dân Gian : đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài Bình Luận, những Công Trình Phê bình ( từ xưa đến nay ), kể cả Nghiên Cứu.

 Dưới mắt người ở nước ngoài : Nguyễn Du là Nhà Thơ lớn của Thế Giới lúc bấy giờ, họ coi Ông là Vị Thánh của nền Thi Ca Việt Nam. Họ qúy trọng Ông vì đã đóng góp công vào nền Thi Ca Thế giới. Ông là nhân vật kiệt xuất của thơ ca Việt Nam. Năm 1965 Ông được Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới của UNESCO công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới và quyết định Kỷ Niệm trọng thể nhân dịp Kỷ Niệm 200 năm, năm sinh của Ông.

 Paris Mùa Xuân năm Mậu Tuất 2018

 Phạm Kế Viêm

Vòng Thái Tuế – Vòng Tràng Sinh – Vòng Lộc Tồn

0
  1. I)Vòng Thái Tuế

Thái Tuế là tên gọi của một Sao bao giờ cũng đóng tại Cung có cùng Tên với Tuổi. Như tuổi Tí thì Thái Tuế đóng tại Cung Tí, tuổi Thìn thì Thái Tuế đóng tại Cung Thìn…suy ra các tuổi còn lại trong 12 tuổi cũng vậy !.Nghĩa đen của Thái Tuế : Tuế là tuổi, Thái là tối cao ở vị trí cực đại, trái với Thiếu là còn non trẻ. Sao Thái Tuế thuộc hành Hỏa đứng đầu Vòng Thái Tuế gồm 12 Sao, chia thành 4 Tam Hợp :

Tam Hợp I ( Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ ),
Tam Hợp II 
( Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức ), Tam Hợp III ( Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn ), Tam Hợp IV ( Trực Phù, Thiếu Âm, Long Đức ).


1) Tam Hợp I ( Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ )

 

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Thái Tuế hành Hỏa chủ về :

– Biết xét đóan, ưa lý luận, có tài Hùng Biện, cao ngạo, tự tôn, khinh bạc, lạnh lùng, không thích giao thiệp, ít tình cảm. Gặp Sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp thì nói năng đanh thép, hùng hồn, chủ về Phú Qúy, có Uy Quyền thích hợp với vai trò Lãnh Đạo, nếu có thêm Tử Phủ, Vũ Tướng+Trung Tinh đắc cách lại càng chắc chắn .

– Gặp Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc kết thành Bộ Văn Tinh : lợi cho việc học hành, thi cử « dễ đỗ đạt », công việc làm ăn, thăng tiến trong Công Danh !.

– Gặp Kình Đà, Hình Kị : dễ bị ngăn trở mọi công việc, gây rắc rối, tổn hại đến Công Danh, quyền thế, tài lộc. Chủ về thị phi, kiện cáo, tranh chấp, giam cầm, bệnh tật, tang thương.

– Gặp nhiều Hung Sát Tinh hay Tuần  Triệt : chiết giảm Phúc, Thọ, tổn hại đến Công Danh, Quyền Thế, Tài Lộc. Gây ra nhiều chuyện chẳng lành. Chủ về Thị Phi, kiện cáo, tù tội, bệnh tật, tai nạn, tang thương.

  1. b)Quan Phù hành hỏa, chủ về xét đóan, lý luận, hay giúp đỡ, gặp Sao tốt hành động chính danh thận trọng, suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động !. Gặp Sao xấu « Đà, Kị » tổn hại đến Công Danh, chủ tật bệnh, tai họa, kiện cáo.
  2. c)Bạch Hổ hành Kim, đắc địa ở Dần Thân – nhất là ở Thân ( Bạch Hổ khiếu Tây Phương ) gắng công làm việc chính đáng bất kể giá nào để đi đến thành công !. Hiển đạt về Võ Nghiệp – Có khiếu về ăn nói, chuyên về Pháp Lý « Quan Tòa, Luật Sư » dễ nổi danh !. Gặp Sao xấu bạo ngược, chung thân cùng khốn, cô đơn, khắc hại người thân, bệnh tật khó chữa, dễ gặp tai nạn, thường vướng vào lao lý khi đi vào Năm Xung Tháng Hạn ( Năm Tuổi+Tam Tai+La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch !, nhất là theo Người Xưa : Nam La Hầu, Nữ Kế Đô !).

Theo Cụ Thiên Lương :

Trang 1

Thái Tuế là ngôi vị có tính cách thịnh vượng cao cả của người thọ lãnh nhiệm vụ, chủ quyền chỉ huy công việc có ảnh hưởng bao trùm sâu rộng trong Quần Chúng. Mệnh nào đóng trúng Thái Tuế hoặc trong Tam Hợp Tuổi của mình là người đó đã được sắp xếp mọi sự thỏa mãn như mình ở đất nhà mình, dầu tốt xấu gì cũng thuộc về mình, mình có toàn quyền sử dụng theo ý muốn không phải e dè ai như là người ở nhờ hay thuê mướn, tức là thỏa mãn, hài lòng tùy theo vị trí mức độ để mình thụ hưởng, dĩ nhiên nhà mình, mình ra công bù đắp, chứ không có ý phá hoại. Đó là tư cách của Cá Nhân ở vị trí Thái Tuế.

Người tuổi Dần, Ngọ, Tuất Mệnh ở Tam Hợp ( Dần Ngọ Tuất ); người tuổi Thân, Tí, Thìn Mệnh ở Tam Hợp ( Thân Tí Thìn) ; người tuổi Tỵ Dậu Sửu Mệnh ở Tam Hợp ( Tỵ Dậu Sửu ) ; người tuổi Hợi, Mão, Mùi Mệnh ở Tam Hợp ( Hợi Mão Mùi ).

Lá Số nào cũng có 12 Cung chia thành 4 Tam Giác : Tam Giác MỆNH ( Mệnh, Quan, Tài) ;
Tam Giác PHỤ MẪU
 ( Phụ, Nô, Tử ) ;
Tam Giác PHÚC ĐỨC 
( Phúc, Di, Phối ) ;
Tam Giác ĐIỀN TRẠCH
 ( Điền, Ách, Bào).

Tam Giác THÂN chỉ trùng với 2 Tam Giác Mệnh và Tam Giác Phúc Đức tùy thuộc vào Giờ Sinh :

  1.  a) trùng với Tam Giác MỆNH : khi sinh giờ Tí, Ngọ THÂN cư Mệnh ; sinh giờ Dần Thân THÂN cư Quan Lộc ; sinh giờ Thìn Tuất THÂN cư Tài Bạch.
  2.  b) trùng với Tam Giác PHÚC ĐỨC : khi sinh giờ Sửu, Mùi THÂN cư Phúc Đức ; sinh giờ Mão, Dậu THÂN cư Thiên Di ; sinh giờ Tỵ, Hợi THÂN cư Phối ( Phu hay Thê ).

Mệnh coi như là Định Mệnh sắp đặt cho Cá Nhân mang Lá Số chỉ Cá Tính, bản chất của người đó khi sinh ra có thể ở vào « tình cảnh nào đó » tùy thuộc vào vị trí và các Bộ Sao ( Chính Tinh, Trung Tinh, Hung Sát Tinh và Bàng Tinh ) đóng tại cung Mệnh : giàu hay nghèo, sang hay hèn, nhàn hạ hay vất vả – thời gian ứng vào phần lớn ở Tiền Vận « trước 30t ». THÂN trên Lá Số khác với Cung Thân ( Kim ) trên Địa Bàn chỉ về Hành Động và kết qủa của Sự Tranh Đấu ứng với thời gian bắt đầu từ Trung Vận. THÂN cư Cung nào có ảnh hưởng 2 chiều : Thí Dụ sinh giờ Dần, Thân thì THÂN cư Quan Lộc, cá nhân này coi Quan Lộc ( việc làm, chức vụ …) là cứu cánh, coi công việc làm rất quan trọng, ưu tư nhiều về việc làm trong cuộc sống ; nếu đã đặt ra 1 mục tiêu cho cứu cánh thì quyết không bỏ cuộc nửa chừng !. Ngày xưa Cổ Nhân, một số người, thường hay chế diễu cá nhân nào có Lá Số THÂN cư Thê ( sinh giờ Tỵ hay Hợi ) là nể Vợ ( thậm chí là Sợ Vợ – với hình ảnh có bộ Râu quặp !) điều đó nhiều khi không sai, vì những ai có Lá Số THÂN cư Thê thường lập gia đình ở Trung Vận ( nếu trước đó đang khó khăn, với Cung Thê đẹp hơn Mệnh cuộc Đời trở nên khá giả hơn, hoặc lấy được Vợ Giàu Có, nhờ ảnh hưởng Gia Đình bên Vợ khá giả hơn nên trong Cuộc Sống, Vợ có ảnh hưởng nhiều đến Cá Nhân đó – điều này cũng là dễ hiểu – thí dụ Mệnh Sát Phá Tham, THÂN cư Thê có Tử Phủ Vũ Tướng thì ảnh hưởng của Thê mạnh hơn trong cuộc sống !. Khi Tam Giác ( Mệnh, THÂN ) trùng với Tam Hợp I ( Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ ) thì cuộc đời của Cá Nhân đó được Đời ưu đãi từ nhỏ, được sinh ra với lòng tự hào, coi như mình có sứ mạng làm việc chánh đáng cho Gia Đình và Xã Hội. Nếu Mệnh THÂN được Sao Thái

Tuế + bộ Tử Phủ Vũ Tướng gặp nhiều Trung Tinh đắc cách xa lánh Hung Sát Tinh thì từ thời trẻ, việc học hành Thi Cử thênh thang rộng bước, khi lớn lên gặp Môi Sinh thuận lợi thường ở vai trò Chỉ Huy, Lãnh Đạo cuộc Đời không Qúy cũng Phú ( nếu có thêm Lộc Tồn và Tràng Sinh nằm trong Tam Giác Mệnh thì kể như chắc chắn – như trường hợp tuổi Giáp « Dần, Ngọ, Tuất » có Mệnh THÂN đóng tại 2 Cung « Dần,Tuất », tuổi Canh « Thân, Tí, Thìn » có Mệnh THÂN đóng tại Cung Thân, tuổi Ất « Hợi, Mão, Mùi » đóng tại Cung Mùi, tuổi Tân « Tỵ, Dậu Sửu » đóng tại Tỵ đều được hưởng 3 Vòng trong Tam Giác Mệnh, tuy nhiên với tuổi Ất, Tân không tốt bằng Giáp vì Mệnh ngộ Triệt ! ). Gặp các Bộ : Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Sát Phá Tham cũng có Địa Vị Danh Vọng trong Xã Hội. Trường hợp Tam Giác Mệnh, THÂN trùng với Tam Hợp I của Vòng Thái Tuế với Bộ Chính Tinh và Trung Tinh đắc cách xa lánh Hung Sát Tinh với một trong 2 Sao Lộc Tồn và Tràng Sinh hiện diện là Mẫu Người thành công trong Xã Hội bất kể ở ngành nào. Trường hợp Sao Thái Tuế ngộ Triệt như tuổi Giáp Thân khi Mệnh đóng tại Cung Thân, tuổi Mậu Tí khi Mệnh đóng tại Cung Tí, tuổi Bính Thìn khi Mệnh đóng tại Cung Thìn, tuổi Canh Ngọ khi Mệnh đóng tại Cung Ngọ, tuổi Nhâm Dần khi Mệnh đóng tại Cung Dần, tuổi Kỷ Dậu khi Mệnh đóng tại Cung Dậu, tuổi Qúy Sửu khi Mệnh đóng tại Cung Tí, tuổi Đinh Mão khi Mệnh đóng tại Cung Mão, tuổi Tân Tỵ khi Mệnh đóng ở Cung Tỵ, tuổi Ất Mùi khi Mệnh đóng tại Cung Mùi tuy thuả thiếu thời lận đận nhưng Trung Vận cũng phất lên một thời Danh Vọng dù không bền vững như các trường hợp nói trên !. Kể cả các Trường Hợp khác với Mệnh nằm trong Tam Hợp I gặp nhiều Hung Sát Tinh khi gặp vận Bĩ dễ gặp Qúy Nhân giúp đỡ để vượt qua cuộc Đời tuy không thành công nhiều như các trường hợp trên nhưng Tư Cách và Cuộc Sống vẫn được người Đời trọng nể !.


2)  Tam Hợp II (Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức)

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a) Thiếu Dương hành Hỏa ( coi như Mặt Trời nhỏ ) chủ về Thông Minh, vui vẻ, hòa nhã, nhân hậu, từ thiện, giải trừ tai họa nhỏ gặp Thái Dương kết thành bộ Lưỡng Dương +Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) thủa trẻ Đào Hoa, dễ nổi danh, nhưng không bền !.Gặp Hóa Khoa ( khoa bảng, dễ trúng Thầu, thắng lợi trong các Cuộc Ganh Đua ; gia tăng Phúc Thọ, cứu khổn phò nguy, giải trừ tai họa).
  2. b)Tử Phù hành Hỏa chủ về buồn thảm, tang thương gây rắc rối, ngăn trở mọi việc.
  3. c) Phúc Đức hành Thổ có đức độ, đoan chính, hòa nhã, nhân hậu, từ thiện.Giải trừ bệnh tật hay tai họa nhỏ. Gặp Thiên Đức, Nguyệt Đức và Long Đức kết thành Bộ Tứ Đức ( Phúc Thiên Long Nguyệt ) chế hóa được tính hoa nguyệt, dâm đãng của Đào Hồng !

Mệnh, THÂN có Thiếu Dương tọa thủ là người rất thông minh, khôn ngoan, thích hơn người, thời trẻ dễ nổi danh, gặp Hung Sát Tinh , nếu không biết dùng Tứ Đức hành động đức độ, đạo đức biết nhường người thì dễ bị kẹt ở cuối Đời ( cô đơn, phá sản ). Phần lớn nếu biết thức tỉnh thường đi vào Đạo Giáo thì tránh được nhiều Nghịch Cảnh ( với ai có bộ Sát Phá Tham + Hung Sát Tinh tại Mệnh, THÂN thì nên lưu ý tu tỉnh – không nên qúa tham vọng làm nhiều điều ác đức – nếu không – sẽ dễ có nhiều hối lẫn ở Cuối Đời !).

 Trang 3

Nếu Mệnh, THÂN gặp Tam Hợp II dù khôn ngoan lanh lợi, nhiều ưu thế lúc trẻ, tuy sớm có thành công ở Tiền Vận, cũng nên biết kiềm chế Dục Vọng, phát huy Tứ Đức thì dễ tránh được Nghịch Cảnh ở cuối Đời !.

3)  Tam Hợp III (Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn)

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

 

  1. a)    Tuế Phá hành Hỏa chủ về ngang ngược, phá tán. Mệnh có Tuế Phá : răng xấu, hay đau yếu, bất mãn, không hài lòng như ý nguyện, thuả thiếu thời hay chống đối, phản kháng, phá bỏ có Tinh Thần Cách Mạng từ thời Trẻ – nếu với Bộ Sát Phá Tham+Hung Sát Tinh dễ thành công bước đầu nhưng nhiều nguy hiểm sau đó.
  2. b)       Điếu Khách hành Hỏa hay khoe khoang, khinh người, nói năng không cẩn thận, thường dùng lý lẽ phân trần để thuyết phục. Chủ về bệnh tật, đau yếu, tai nạn, tang thương ( Tang Môn ) nếu gặp nhiều Hung Sát Tinh như Kình Đà, Không Kiếp, Hỏa Linh, Thiên Hình thì dễ có nhiều rủi ro hay tật bệnh thường gặp khi vận số đi vào Đại, Tiểu Vận.
  3. c)       Tang Môn hành Mộc là Bại Tinh chủ về gây tang thương, bệnh tật, tai họa. Đóng tại Mệnh : vẻ mặt u buồn sầu não, tính hay lo lắng và cẩn mật, Tinh Thần dễ bất an, giao động !. Trong Đại Vận hay Tiểu Vận với nhiều Hung Tinh, Bại Tinh hội hợp dễ đưa đến buồn thương.

Mệnh, THÂN gặp Tam Hợp II ( Tam Hợp Tuế Phá ) của Vòng Thái Tuế thuộc Mẫu người thường ưa phản kháng, bất mãn, hay lo lắng dễ phiền muộn khi gặp Nghịch Cảnh ( nhất là Tuế Phá tại Mệnh : ít được lòng người hay phê bình tranh luận). Nhưng trong Vòng này khi Mệnh tại Tứ Sinh ( Dần, Thân Tỵ, Hợi) thường gặp Bộ ( Mã Khốc Khách ), nếu biết dùng Nghị Lực ( Thiên Mã ) để vươn lên, tránh : bất mãn, đả phá, tránh nặng lòng lo toan tính toán thì khi vào Tiểu Vận thường có Thái Tuế, Lộc Tồn hay Tràng Sinh cũng dễ thành công để hãnh diện với Đời.

4)      Tam Hợp IV ( Trực Phù, Thiếu Âm, Long Đức )

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)      Trực Phù hành Hỏa dễ buồn thảm, chủ tang thương, gây rắc rối. Phải chịu thiệt thòi mà không được hưởng thù lao xứng đáng – dù có tài !.
  2. b)     Thiếu Âm hành Thủy coi như Mặt Trăng nhỏ gặp Thái Âm ( Lưỡng Âm ) thông minh, hòa nhã, nhân hậu từ thiện, gặp Hóa Khoa gia tăng Phúc Thọ. Tuy nhiên vì hiền lành, bản chất không thích ganh đua, nên đôi khi qúa tin người mà thành khờ dại !. Gặp Chính Tinh và Trung Tinh đắc cách +Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) vẫn dễ nổi danh được Đời biết đến !.
  3. c)        Long Đức hành Thủy có đức độ, đoan chính, hòa nhã, nhân hậu và từ thiện. Giải trừ bệnh tật và tai họa nhỏ. Gặp Phúc Đức, Thiên Đức và Nguyệt Đức kết thành Bộ Tứ Đức ( Phúc Thiên Long Nguyệt ) chế hóa được tính hoa nguyệt, dâm đãng của Đào Hồng !. Dù có thua thiệt trong cuộc Sống, cũng không nên bon chen, biết tu tỉnh nhường người, cam chịu thua thiệt thì dễ được Trời ưu đãi ở Hậu Vận !.

Do 4 Tam Hợp nói trên của Vòng Thái Tuế ( thuộc Hỏa – lợi cho các người Mệnh Hỏa, Thổ ) nếu Tam Hợp I trùng với Tam Giác Mệnh, THÂN – đặc biệt với Thái Tuế tại Mệnh không bị Tuần hay Triệt với Bộ Chính Tinh +Trung Tinh đắc cách, xa lánh Hung Sát Tinh thì Cuộc Đời được ưu đãi từ nhỏ, đầy lòng tự hào coi mình như có Sứ Mạng làm việc chính đáng, không những cho riêng Mình mà còn cho Gia Đình và Xã Hội ( nếu thêm Cung Phúc Đức hay Cung Phụ Mẫu đẹp thì càng chắc chắn ). Dù khi Vận Số mà Đại Vận hay Tiểu Vận vào Tam Hợp xấu vẫn dễ qua khỏi nhờ gặp Qúy Nhân, khi Đại Vận hay Tiểu Vận đến Tam Hợp I Thái Tuế chiếc Xe Đời lại đi vào Đại Lộ thênh thang, không rào cản ; trong Xã Hội vẫn thành công, thường có địa vị Lãnh Đạo hay bậc Trưởng Thượng được nể vì.

Trong Đại Tiểu Vận khi gặp Vòng Thái Tuế luôn luôn có Bộ Tứ Linh ( Long Phượng Hổ Cái ) đi kèm – nếu vắng bóng Hung Sát Tinh – đó là Thời Điểm rất thuận lợi cho Công Danh được thỏa mãn với những Ước Vọng như Ý Nguyện !.

Nếu Mệnh THÂN nằm trong Tam Hợp II với Thiếu Dương tại Mệnh +Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) dễ nổi danh từ thời trẻ, thông minh hơn người. Với Nữ nổi danh Tài Sắc một thời !. Nếu qúa hiếu thắng, lấn lướt người – bỏ quên Bộ Tứ Đức ( Phúc Thiên Long Nguyệt ) bất qúa cũng được 1 Thời Danh Vọng với Đời – rồi Thiên Không thi hành sứ mạng, nếu không biết tu tỉnh, kiềm chế dục vọng, khi đến Đại Vận xấu ( gặp nhiều Hung Sát Tinh ) rồi không rủi ro, phá sản, cũng yếu đau, bệnh tật, rốt cục cuộc Đời cũng trở thành KHÔNG !.

Nếu Mệnh THÂN nằm trong vòng Tam Hợp III với Tuế Phá tại Mệnh thủa nhỏ đã nhiều bất mãn không hài lòng, luôn luôn làm ngược với điều Cha Mẹ muốn khi còn bé, lớn lên luôn luôn phản kháng trong tranh luận, đôi khi dẫn đến xô sát dễ đưa đến thưa Kiện – với Bộ Sát Phá Tham +Hung Sát Tinh dễ đi vào xa ngã ở Lứa Tuổi từ 16 đến 22 ( nếu không được Gia Đình quan tâm, kiềm chế – với Nam Mạng cần lưu ý ở Hạn Kế Đô 16t âl, La Hầu 19t, Thái Bạch 22t, với Nữ Mạng : La Hầu 15t, Thái Bạch 17t, nhất là Kế Đô 19t, các Hạn trên đều tính theo Âm Lịch !) đây là Thời Điểm dễ xuống Vực Thẳm trong cuộc Đời ( bụi đời, nghiện hút, trộm cắp, sa ngã …) nếu không được quan tâm lưu ý bởi Gia Đình và Học Đường. Với Tinh Thần Cách Mạng khi trưởng thành – biết dùng Nghị Lực ( Thiên Mã ) với Cố Vấn giỏi dù có thành công, nhưng nếu kiêu căng, phách lối ( Điếu Khách) không hòa nhã, biết điều lành, tránh điều dữ khi đến Vận Tang Môn gặp bầy Hung Sát Tinh cũng thành trắng tay với nhiều cay đắng !.

Nếu Mệnh THÂN nằm trong Tam Hợp IV với Trực Phù dù có thiệt thòi với công lao không được đãi ngộ xứng đáng cũng nên dùng Long Đức mà an ủi chịu thiệt thòi, không nên bon chen dễ bị lầm lẫn tin người vì bản tính Nhân Hậu, Từ Thiện của Thái Âm mà thành khờ dại !. Nên nhớ dù ở Tam Hợp nào Cuộc Đời của Cá Nhân nào cũng đều có 1 Đoạn dài ngắn bằng nhau – nếu tiến lên mau như Tam Hợp II thông minh, khôn ngoan, lấn lướt ăn người thì để trống Hậu Phương – với Tam Hợp IV biết an phận với Định Mệnh, tu tỉnh, biết nhường người, thì Trời sẽ dành ưu đãi ở Cuối Đời – đi đâu mà thiệt !. Nên nhớ trong Dịch Lý : Trong Vinh Quang đã có mầm Thất Bại, trong Gặp Gỡ đã có mầm Ly Biệt, trong Hạnh Phúc đã có mầm đau khổ – nếu biết « điều tiết trong Cuộc Sống » dùng thế « hòa hợp Âm Dương » thì Sống hay Chết, Vui hay Buồn, Hạnh Phúc hay Đau Khổ, nếu có, cũng chỉ sinh ra cùng 1 Gốc !


  1. II)Vòng Lộc Tồn

Lộc Tồn là tên của 1 Sao đóng ở Vị Trí theo Hàng Can của tuổi, phần lớn đóng ở các Cung trên Địa Bàn của Lá Số theo Ngũ Hành của Hàng Can như Giáp, Ất thuộc Mộc đóng tại Dần, Mão có cùng hành Mộc ; Canh, Tân hành Kim đóng tại Thân, Dậu cũng Hành Kim … ( trừ 2 tuổi Mậu, Kỷ đều hành Thổ đóng tại Tỵ, Ngọ đều là hành Hỏa ! ). Không những theo Vị Trí của Ngũ Hành còn để ý đến Vị Trí Âm Dương : như Giáp Can Dương đóng tại Dần ( Dương ) và Ất Can Âm đóng tại Mão (Âm). Nếu để ý về vị trí Âm Dương thì Ta thấy chỉ có 4 Lứa Tuổi Giáp, Ất, Canh, Tân trong Thập Can đặt đúng vị trí Ngũ Hành +Âm Dương. Còn các tuổi khác như Bính, Mậu, Nhâm thuộc Can Dương đóng tại Tỵ, Hợi thuộc Chi Âm và Đinh, Kỷ, Qúy thuộc Can Âm đóng tại Ngọ, Tí đều là 2 Cung Dương !. Lộc Tồn coi như Thiên Lộc ( Lộc do Trời ban cho « Đại Phú do Thiên » khác với Hóa Lộc « Tiểu Phú do Cần » ). Khi Lộc Tồn ở vị trí Thái Tuế như các Tuổi Giáp « Dần, Ngọ, Tuất », Ất « Hợi, Mão, Mùi », Canh « Thân, Tí, Thìn », Tân « Tỵ, Dậu, Sửu » thì Cá Nhân đó được hưởng trọn Thiên Lộc trong cuộc Đời Phú và Qúy ( kể cả các Tuổi có Lộc Tồn đóng tại Mệnh ), còn các tuổi khác chỉ khi nào gặp trong Đại Vận hay Tiểu Vận mới được thọ hưởng.

Cũng giống như Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn đứng đầu Vòng Sao có 12 sao chia thành 4 Tam Hợp :

Tam Hợp I ( Lộc Tồn, Tướng Quân, Bệnh Phù ), Tam Hợp II ( Lực Sĩ, Tấu Thơ, Đại Hao ),
Tam Hợp III 
( Thanh Long, Phi Liêm, Phục Binh) và  Tam Hợp IV ( Tiểu Hao, Hỉ Thần, Quan Phủ ).

1)     Tam Hợp I ( Lộc Tồn, Tướng Quân, Bệnh Phù )

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Lộc Tồn là Bắc Đẩu Tinh, Dương Thổ đới Thủy, là Qúy Tinh chủ về Quyền Bính, Tài Lộc, Phúc Thọ có tính chất thông minh, hiếu học, nghiêm cẩn nhưng Cô Độc, nhân hậu, từ thiện, cứu khổn, phò nguy, giải trừ tai nạn, bệnh tật, gia tăng tài lộc, phúc thọ – triệt tiêu tính Dâm Đãng hoa nguyệt của Đào Hồng, đóng đồng Cung với Sao Bác Sĩ hành Thủy thông minh, khoan hòa, nhân hậu, lợi ích cho việc học hành thi cử, giải trừ bệnh tật.

 

  1. b)Tướng Quân hành Mộc can đảm, dũng mãnh, hiên ngang, kiêu căng có óc Lãnh Tụ, thích chỉ huy và cầm đầu. Lợi ích cho việc cầu Công Danh.

Chủ về : uy quyền, nhất là những việc có liên quan đến Quân Sự. Gặp Thiên Tướng đồng cung ( cách Lưỡng Tướng ) uy quyền hiển hách. Gặp Tuần, Triệt, nhất là Triệt ( Tướng mất đầu, đang uy quyền khi vận hạn đến dễ mất chức hay mất việc – trái lại đang « thất nghiệp » dễ gặp may mắn trở nên hanh thông !) – dễ gặp tai nạn « xe cộ hay dao súng ». Với Phái Nữ có Tướng Quân thủ Mệnh : tính hay ghen.

 

  1. c)Bệnh Phù hành Thổ đới Mộc chủ về bệnh tật, đau yếu, buồn phiền ; nhất là khi đồng cung với một trong các Hung Sát Tinh ở Mệnh, THÂN hay Cung Tật Ách – nếu không có nhiều Sao giải !.

 

Trường hợp Tam Hợp I của Vòng Lộc Tồn trùng với Tam Hợp I của Vòng Thái Tuế, nếu thêm được Tam Hợp I của Vòng Tràng Sinh : thuộc mẫu người Con cưng của Thần Tài và Danh Vọng gặp Môi Sinh đắc địa uy quyền hiển hách, dù đến Vận Hạn xấu vẫn dễ dàng qua khỏi. Với Lộc Tồn ở Mệnh tuy độc đóan và cô đơn – dù gặp Hung Sát Tinh vẫn được No Đủ cả đời !. Trong Tam Hợp này tuy có 2 Sao Lộc Tồn và Tướng Quân kèm theo Bác Sĩ là 2 Cát Tinh, nhưng hiện diện Bệnh Phù ( là chiếc thắng của Xe Định Mệnh – phải nương theo Quan Niệm của Dịch Lý : không có điều gì hòan tòan tốt « trong Vinh quang đã có mầm thất bại !» phải biết tiết chế không chủ quan thì khi gặp Vận xấu – nếu có đề phòng – độ rủi ro cũng nhẹ ). Nên nhớ Lộc Tồn đứng kề bên 2 Sao : Tiền KÌNH DƯƠNG, hậu ĐÀ LA đều là Bắc Đẩu Tinh, âm Kim chủ Sát Phạt đó là 2 khắc Tinh của lứa Tuổi Giáp Ất và Bính Mậu khi gặp trong Vận Số !. Tuổi Giáp ( năm Mão, năm Sửu tháng 2 và tháng Chạp ) ; Tuổi Ất ( năm Dần, năm Thìn, tháng Giêng và tháng Ba) ; Tuổi Bính, Mậu ( năm Ngọ, tháng 5 : Mã đầu đối Kiếm « Gươm treo Cổ Ngựa ! »).

Tính chất chung của Tam Hợp I của Vòng Lộc Tồn : gặp Tam Hợp Thái Tuế dễ trở thành Đại Phú ; ở Thế Chủ Chốt, Quang Minh, Nhân Hậu ( Bác Sĩ ), Hiên Ngang có óc Lãnh Tụ ( Tướng Quân ), nên nhớ , cũng dễ suy tàn ( Bệnh Phù ) nếu biết bớt độc đóan và chuyên quyền. Dù gặp Tam Hợp Tuế Phá, nếu được Lộc Mã đồng Cung cũng Danh Vọng Vang Bóng một Thời !.

 

2)                Tam Hợp II ( Lực Sĩ, Tấu Thơ, Đại Hao )

 Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)     Lực Sĩ hành Hỏa chủ uy lực, có sức mạnh, gặp Sao tốt làm cho tốt đẹp thêm ; đem may mắn nhanh chóng, gặp Sao xấu, xấu thêm, đem nhiều việc chẳng lành !. Luôn luôn đi kèm với Kình Dương hành Kim đới Hỏa, coi như Hình Tinh chủ về Sát Phạt. Kình Dương đắc địa ở Tứ Mộ « Thìn, Tuất, Sửu, Mùi » can đảm, dũng mãnh, qủa quyết, thích nhanh chóng là tay chân đắc lực của Bộ Sát Phá Tham đắc địa đem đến Vinh Quang, Quyền Lực. Ở vị trí hãm địa : liều lĩnh, hung bạo, độc ác hay giết chóc, phá họai, bệnh tật ( khi vận số gặp Kình : các Tuổi Giáp tháng 2 ở Mão, tuổi Ất tháng Ba ở Dần, tuổi Bính, Mậu tháng 5 ở Ngọ rất nguy hiểm về rủi ro tai nạn hay tật bệnh ).
  2. b)       Tấu Thơ hành Kim tính tình vui vẻ, nói năng khôn khéo, lợi ích cho Văn Chương và Nghệ Thuật. Kết hợp với Hỉ Thần vui vẻ đem lại may mắn đáng mừng. Lợi ích cho việc Cưới Hỏi và Văn Học Nghệ Thuật. Gặp Long Trì, Phượng Các : rất rực rỡ tốt đẹp, chủ vui mừng, lợi ích cho Thi Cử, Cầu Danh, Cưới Hỏi, Sinh Nở.
  3. c)      Đại Hao hành Hỏa coi như Bại Tinh nếu không đắc địa, kết hợp với Tiểu Hao ở vị trí đối diện tạo thành Cặp Song Hao :

–   Đắc Địa ở Dần Thân là người Thông Minh tuy ham chơi, thích ngao du, nhưng cũng ham học đến Vận may cũng hiển đạt được hưởng giàu sang. Gặp Cự Cơ ở Mão Dậu dễ có uy quyền hiển hách, danh tiếng lừng lẫy một thời.

–   Gặp nhiều Sát Tinh hội hợp dễ mắc tai nạn về dao, súng.

–   Gặp Hỏa Linh dễ mắc bệnh nghiện hút.

–   Mệnh vô Chính Diệu gặp Hao, Tuyệt ( Vòng Tràng Sinh ) là người mưu mô xảo quyệt và rất keo kiệt và tham lận.

3)    Tam Hợp III ( Thanh Long, Phi Liêm, Phục Binh )

 Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Thanh Long hành Thủy vui vẻ, hòa nhã, lợi ích cho việc cầu Công Danh, cưới hỏi, sinh nở. Giải trừ bệnh tật, tai họa nhỏ.

–   Toạ thủ tại Tứ Mộ ( Thìn, Tuất, Sửu, Mùi ) gặp Hóa Kị : Rồng gặp Mây chủ Phú Qúy, uy quyền đem lại sự may mắn đáng mừng !.

–   Gặp Lưu Hà : Rồng vùng vẫy trên Sông lớn rất rực rỡ tốt đẹp. Lợi ích cho việc Thi Cử, cầu Công Danh.

  1. b)Phi Liêm hành Hỏa : vui vẻ nhanh nhẹn, không lợi ích cho sinh nở. Gặp Sao tốt đem lại may mắn nhanh chóng. Gặp Sao xấu đem xấu xa nhanh chóng. Gặp Việt, Hỏa, Linh : đâm chém, bắn giết !. Tọa thủ tại Cung Tử Tức : giảm bớt số con ; tại Cung Huynh Đệ : giảm bớt số anh chị em. Gặp Bạch Hổ coi như Hổ mọc cánh : may mắn, nhẹ bước trên đường Công Danh.
  2. c)Phục Binh hành Hỏa chủ việc liên quan đến Quân Sự – có tính hay giúp đỡ hay phò tá khi gặp Sao tốt. Trái lại nếu gặp Sao xấu : xảo quyệt lừa đảo, trộm cắp làm nhiều việc ám muội. Gặp trong Đại Tiểu Vận coi như gặp Tiểu Nhân, cần nhiều cảnh giác !.

Mệnh có Thanh Long thủa thiếu thời việc học hành, thi cử thênh thang nhẹ bước nếu vị trí được ở Tam Giác Thái Tuế – với Phi Liêm khi gặp may thường vội vã cướp thời cơ không để ý kẻ Tiểu Nhân ( Phục Binh ) chờ sẵn giăng bẫy, lại vụng tính nghi ngờ (đa nghi ) – dù có kết qủa cũng chỉ là nhất thời !.

4)      Tam Hợp IV ( Tiểu Hao, Hỉ Thần, Quan Phủ )

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

 

  1. a)Tiểu Hao giống như Đại Hao hành Hỏa thuộc bại tinh chủ về hao tán, gây ly tán, xa cách. Được ở vị trí đắc địa ( Dần Thân, Mão Dậu ) cũng vênh vang 1 thời, nếu không vung tay qúa trán !
  2. b)Hỉ Thần hành Hỏa chủ sự vui mừng, lợi ích cho thi cử, cầu công danh, kể cả cưới hỏi và sinh nở. Kết hợp với Tấu Thơ tạo thành 1 cặp có lợi cho Văn Học Nghệ Thuật – Gặp Khôi Việt, Long Phượng đem lại may mắn đáng mừng và kết qủa rực rỡ !.
  3. c)Quan Phủ hành Hỏa chủ về ngăn trở công việc, gây rắc rối phiền nhiễu, đi cặp với Đà La giống như Kình Dương thuộc Bắc Đẩu Tinh, Âm Kim đới Hỏa – là Hình Tinh chuyên đem rủi ro và tật bệnh khi ở vị trí hãm địa. Ở Tiểu Vận gặp Kình Đà, Quan Phủ khi ở Năm Xung Tháng Hạn ( Năm Tuổi, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch ), nhất là các Tuổi Tứ Mộ nên đề cao cảnh giác !.

Khi Tam Giác Mệnh, THÂN gặp Tam Hợp IV của Vòng Lộc Tồn dù gặp Hỉ Thần cũng không nên tỏ vẻ Hào Phóng mà vung tay qúa trán ( Tiểu Hao ) – nên nhớ Quan Phủ + Đà La luôn luôn chờ sẵn đem đến Thị Phi Đàm Tiếu, đôi khi còn mang họa vào thân !.

 

III)          Vòng Tràng Sinh

Vòng Thái Tuế được ấn định theo Địa Chi ( Địa Lợi cùng Môi Sinh ), Vòng Lộc Tồn được ấn định theo Thiên Can ( Thiên Thời ). Vòng Tràng Sinh được sắp xếp theo Cục ( vị trí của Mệnh + Thiên Can ) nên được coi như « kết qủa phụ thuộc » của 2 Vòng Thái Tuế và Lộc Tồn – biểu hiện chuỗi Thời Gian nối tiếp nhau, rất lớp lang từ khi chào đời ( Tràng Sinh ) đến lúc Tuyệt tưởng là hết !, nhưng lại gặp Thai, Dưỡng tiếp nối Tràng Sinh để luân chuyển bất tận có thể coi như Luân Hồi của 1 Kiếp Nhân Sinh !. Do đó ta có thể coi Vòng Tràng Sinh là hình bóng của 2 Vòng Thái Tuế và Lộc Tồn hợp nhất. Dù Mệnh hay THÂN không được Vòng Thái Tuế ( có vị trí cao cả để hưởng lợi trong Xã Hội ) và Vòng Lộc Tồn ( Tài Lộc do Trời đem đến hay may mắn trong hành động ), nhưng với Vòng Tràng Sinh ở Tam Giác Mệnh THÂN cũng được an ủi về Phú Qúy ở mức Trung Bình của 2 Vòng nói trên !. Vòng Tràng Sinh cũng chia thành 4 Tam Hợp :

Tam Hợp I ( Tràng Sinh, Đế Vượng, Mộ ),
Tam Hợp II 
( Mộc Dục, Suy, Tuyệt ),
Tam Hợp III 
( Quan Đới, Bệnh, Thai ),
Tam Hợp IV
 ( Lâm Quan, Tử, Dưỡng ).


1)                Tam Hợp I ( Tràng Sinh, Đế Vượng, Mộ ) 
gọi tắt là Sinh Mộ Vượng.

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Tràng Sinh hành Thủy chủ về nhân hậu, từ thiện, có độ lượng, gia tăng Phúc Thọ. Gặp Thiên Mã ở 2 Cung Dần, Thân : công việc dễ dàng, may mắn, công danh thăng tiến. Gặp Mã ở Cung Hợi : trắc trở, vất vả, không lợi cho Công Danh. Đóng tại Cung Tật Ách gặp Sao mờ ám : đau yếu, bệnh tật triền miên.
  2. b)Đế Vượng hành Kim chủ uy nghi, đường bệ, vui vẻ, nhân hậu, từ thiện ; gia tăng phúc thọ, giải trừ tật bệnh, lợi ích cho Công Danh, Quyền Thế, Tài Lộc ; chủ sinh sản nhiều, mau chóng và thịnh đạt. Tính theo thời gian là lúc Cực Đại ( oanh liệt ). Gặp Sao Tử Vi tạo thành 1 cặp có tài Lãnh Đạo !.
  3. c)Mộ hành Thổ : ý nghĩa đen là chôn vùi, chủ nhầm lẫn, ngu si, đần độn, u mê. Trái lại đắc địa ở Tứ Mộ ( Thìn, Tuất, Sửu, Mùi : Mộ cư Mộ Điạ ) gặp Cung Phúc Đức rất rực rỡ tốt đẹp : trong Họ có âm phần đã kết phát ba, bốn đời giàu sang vinh hiển !. Gặp Bộ Sát Tham đắc cách là Tướng Lãnh tài ba, nhà Kinh Doanh thành công và quyền thế !.

Mệnh THÂN gặp Tam Hợp I của Vòng Tràng Sinh với Chính Tinh và Trung Tinh đắc cách xa lánh Hung Sát Tinh, tuy không được như Tam Hợp I của 2 Vòng Thái Tuế và Lộc Tồn nhưng cuộc Đời từ lúc khôn lớn ( Tràng Sinh ) đến Trưởng Thành ( Đế Vượng ) cũng gặp nhiều may mắn – dù gặp Môi sinh biến động ( giặc giã, tai họa ) + Tiểu Vận vào Mộ +Sát Tinh vẫn dễ gặp Qúy Nhân giúp đỡ để vượt qua dễ dàng cho đến Cuối Đời.
2)                Tam Hợp II ( Mộc Dục, Suy, Tuyệt )

 Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Mộc Dục hành Thủy theo nghĩa đen là thời gian ở tuổi Dậy Thì ; chủ tắm gội , làm dáng, sự đi xa. Tính hay thay đổi, thích canh cải, dễ chán nản, bỏ dở công việc. Gặp Đào Hồng, Riêu : dâm dật, u mê, dễ gặp tai họa, bệnh tật do sắc dục gây ra. Cung Mệnh xấu lại gặp Mộc Dục chỉ làm các nghề Thủ Công ( thợ vàng bạc, thợ rèn ) thì dễ yên phận !.
  2. b)Suy hành Thủy theo nghĩa đen là biếng nhược, yếu đuối, hèn kém ; chủ về sa sút, suy bại !.
  3. c)Tuyệt hành Thổ theo nghĩa đen là đứt đọan, chủ về bại hoại, tiêu tán, khô cạn, dễ bế tắc, chiết giảm Phúc Thọ. Trái lại ở Mệnh với nhiều Chính Tinh và Trung Tinh đắc cách lại là người khôn ngoan, đa mưu túc trí – ở vai trò Quân Sư, Cố vấn rất thành công !.

 Khi Tam Hợp II trùng với Tam Giác Mệnh THÂN với thời gian ở tuổi Dậy Thì không có kinh nghiệm sống dễ thay đổi lại gặp Suy, Tuyệt khi Vận Hạn đi vào Năm Xung Tháng Hạn, nếu không gặp được Môi trường tốt +sự khuyên giải, săn sóc của gia đình : rất dễ xa ngã !. Các Đại Tiểu Vận gặp Tam Hợp này : nên nhớ dễ sa sút, bế tắc khi thay đổi. Dù khôn ngoan túc trí đa mưu cũng không lại với Trời !.
3)                Tam Hợp III ( Quan Đới, Bệnh, Thai )

 Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)Quan Đới hành Kim chỉ lúc bắt đầu xây dựng Sự Nghiệp, chủ về chức vụ, quyền thế. Ham thích Công Danh – gặp nhiều Sao xấu : dễ gặp rắc rối phiền nhiễu ngăn trở công việc – gặp Sát Tinh, Bại Tinh : giống như Sợi dây thắt cổ, chủ sự trói buộc tự ải !.
  2. b)Bệnh hành Hỏa, với Mẫu Tự đã nói rõ tính chất ở thời điểm suy tàn (đau yếu, bệnh tật, suy nhược, buồn rầu, khờ khạo, nhầm lẫn ).
  3. c)Thai hành Thổ thời điểm Tái Sinh, chủ về giao hợp, thụ thai, sinh nở. Tính Chất : ngu muội, u mê, a dua, chơi bời dễ đắm chìm vào sắc dục. Gặp Tuần, Triệt +Sát Tinh : sinh thiếu tháng, đau yếu quặt quẹo.

 Thời Điểm gặp Tam Hợp III của Vòng Tràng Sinh rủi ( Bệnh, Thai ) nhiều hơn may ( Quan Đới ) cần nhiều nghiên cứu kỹ trước khi có quyết định để thực hiện những Dự Án quan trọng – cần phải tham khảo ý kiến của các Cố Vấn hay các bậc Trưởng Thượng nhiều Kinh Nghiệm đã kinh qua cuộc Sống !. Nên nhớ ham Công Danh dễ gặp nhiều khó khăn ( bệnh tật ) dù cố gắng bù đắp. Cần phải Tri Mệnh sẽ hưởng được lợi lộc ( với điều kiện tri túc, không qúa ham hố !).
4)                Tam Hợp IV ( Lâm Quan, Tử, Dưỡng )

Theo Định Nghĩa và Tính Chất :

  1. a)        Lâm Quan hành Kim thời điểm Hãnh Diện khi ra Đời có tính kiểu cách khi nói năng, thích làm dáng, lấy điệu hay khoe khoang. Gặp nhiều Sao sáng sủa thì vui vẻ và phát đạt. Trái lại với nhiều Sao xấu : công việc gặp phiền nhiễu và bị ngăn trở.
  2. b)     Tử hành Kim ở thời điểm Mãn Kiếp, chủ chết chóc tang thương sầu thảm. Ở số, tính thâm trầm, kín đáo, suy nghĩ sâu xa, đa sầu đa cảm dễ chiết giảm Phúc, Thọ. Đóng tại Điền Trạch hay Tài Bạch : có tiền bạc và Qúy Vật chôn dấu – biết giữ của và cần kiệm.
  3. c)       Dưỡng hành Mộc thời điểm bồi đắp để Tái Sinh, tính chăm chỉ, cẩn thận, chủ về nuôi nấng, phù trì, chăn giắt.

Ở Mệnh : được nhiều người yêu mến, nuôi gia súc dễ dàng. Ở THÂN : có nhiều con cháu. Ở Tử Tức : có con nuôi ; Huynh Đệ : anh chị em nuôi. Đóng tại Tật Ách +Sao xấu có nhiều Bệnh lâu khỏi.

Khi gặp Tam Hợp IV của Vòng Tràng Sinh dù gặp may mắn thành công cũng không nên tự hào và khoe khoang, dù có phát đạt cũng dễ gặp Sầu Thảm ( Tử ). Nên Tu Dưỡng, kín đáo sẽ được đền bù để bắt đầu gặp Tái Sinh ( Tam Hợp I ).

Kết Luận

Tử Vi cũng như nhiều Môn Dự Báo khác về Con Người cho biết một cách Tổng quát về Bản Chất và Cuộc Đời dựa trên Lá Số có 12 Cung. Về Bản Chất và Cá Tính phụ thuộc phần lớn vào 14 Chính Tinh và nhiều Trung Tinh tốt hay xấu ( Hung Sát Tinh, Bại Tinh…). Ba Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh mỗi Vòng đều có 4 Tam Hợp ( tốt và xấu ) có ảnh hưởng nhiều đến Cá Nhân trong Cuộc Đời và khi gặp trong Đại Vận ( 10 năm ) hay Tiểu Vận ( 1 năm ). Gặp Lá Số tốt nhưng Cá Nhân đó không gặp được Môi Trường tốt ( như hạt giống tốt gieo trên mảnh đất khô cằn không phân bón khác với khi được gieo trên mảnh đất màu mỡ có phân bón. Thí Dụ với Lá Số có Tử Phủ Vũ Tướng với nhiều Trung Tinh đắc cách, xa lánh Hung Sát Tinh – nếu ở Làng Xã bất qúa chỉ làm Xã Trưởng cùng lắm là bậc Trưởng Thượng được nể vì trong Thôn Xóm ; nhưng nếu được ở thành phố lớn hay Kinh Đô hay Bang rộng lớn có nhiều Hoạt Động được nhiều người chú ý dễ trở thành nhân vật Lãnh Đạo !. Với 1 số Tuổi Trẻ Việt Tỵ Nạn thành công rực rỡ trên các nước Tây Phương cho ta thấy ảnh hưởng của Môi Sinh trong cuộc Sống ). Lá Số của bất cứ Cá Nhân nào đều có đủ 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh gồm đầy đủ 4 Tam Hợp. Đại Vận ( 10 năm ) trong mỗi Lá Số đều dựa theo Cục như Hỏa Lục Cục thì Đại Vận ( 6t -15t ) là Đại Vận đầu tiên tại Cung Mệnh đi theo chiều thuận hay nghịch ( tùy theo Nam Nữ ) tiếp đến các Đại Vận ( 16t-25t)…( 86t-95t). Cũng tương tự với Thủy Nhị Cục : ( 2t-11t)…Mộc Tam Cục : ( 3t -12t )…Kim Tứ Cục : ( 4t-13t )…và Thổ Ngũ Cục : (5t-14t )…

Thí Dụ với 1 Lá Số Dương Nam Hỏa Lục Cục có Mệnh Thái Tuế với Đại Vận Thái Tuế (6t-15t ) tại Cung Mệnh phải mất 30 năm mới đến Đại Vận Thái Tuế tiếp theo ( 46t-55t ), nếu đến Đại Vận Thái Tuế tiếp theo ( 86t-95t ) chắc nhiều khi đã lìa trần hay không còn khả năng họat động. Như vậy bất cứ Cá Nhân nào về Đại Vận chỉ gặp được nhiều nhất 3 Tam Hợp của 1 trong 3 Vòng nói trên !. Về Tiểu Vận ( 1 năm ) có thể 3 năm gặp lại 1 Tam Hợp và có thể gặp cả 3 Vòng, nhưng ảnh hưởng của Tiểu Vận không mạnh như Đại Vận. Trong 1 Đại Vận dù tốt hay xấu, bất cứ Cá Nhân nào cũng gặp liền 3 Hạn Cửu Diệu xấu cách nhau 3 năm đối với Nam Mạng, 2 năm đối với Nữ Mạng ( La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch ) nhiều khi còn trùng với Năm Tuổi và Hạn Tam Tai. Các Hạn trên gặp lại sau 9 năm trong Đại Vận kế tiếp !.

Bộ Chính Tinh và Trung Tinh ( tốt hay xấu ) nằm tại Mệnh hay THÂN chỉ cho biết Bản Chất của người mang Lá Số nhưng Danh Vọng và Cuộc Đời theo Kinh Nghiệm, đều tùy thuộc vào Tam Hợp của 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh, đặc biệt là Tam Hợp I của 3 Vòng trùng với Tam Giác Mệnh và THÂN khi sinh vào các Giờ ( Tí Ngọ, Dần Thân, Thìn Tuất ), nhất là ở 4 Lứa Tuổi :

1)      Giáp ( Dần Ngọ Tuất ), Mệnh đóng tại Dần, Tuất

2)       Canh ( Thân Tí Thìn ), Mệnh đóng tại Thân.

3)     Ất ( Hợi Mão Mùi ), Mệnh đóng tại Mùi.

4)     Tân ( Tỵ Dậu Sửu ), Mệnh đóng tại Tỵ.

 

So sánh với 4 Lứa Tuổi trên thì Tuổi Giáp lợi thế hơn cả, vì Lứa Tuổi Canh với Canh Thìn thì Tuần tại Mệnh ; Lứa Tuổi Ất và Tân đều bị Triệt tại Mệnh !. Được cả 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh có Tam Hợp I trùng với Tam Giác Mệnh THÂN đồng cung, nhất là 3 Sao Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh tại Mệnh được Chính Tinh và Trung Tinh đắc cách xa lánh Hung Sát Tinh thì Cuộc Đời được hưởng Phú Qúy từ nhỏ cho đến Vãn Niên – dù Đại Tiểu Vận có gặp trắc trở cũng dễ dàng vượt qua. Với các Lứa Tuổi gặp được 2 Vòng tại Mệnh và 1 Vòng tại THÂN cũng « Công Hầu Khanh Tướng một Thời ». Với các Tuổi khác tuy không được Tam Hợp I của 3 Vòng trùng với Tam Giác Mệnh THÂN nhưng khi đến Đại Vận gặp 3 Vòng cũng Danh Vọng một thời !.

 

ST

Dịch Can Chi

0

Bài viết về Dịch Can Chi của cụ Hà Uyên.

CHU KỲ 1

……………………….. LY

……..TỐN…………………………….KHÔN

…CHẤN…………………+……………….ĐOÀI

…….CẤN……………………………..CÀN

………………………..KHẢM

1. Giáp Tí – Thuần Càn, hào 1

– “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

– “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4

– “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”

– “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”.

– Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” – Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.

3. Bính Dần – Thuần Cấn, hào 6

– “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”.

– “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.”

– Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối.

4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2

– “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong”

– “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.”

– Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực.

5. Mậu Thìn – Thuần Khảm, hào 2

– “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc”

– “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”.

– Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm.

6. Kỷ Tỵ – Thuần Ly, hào 6

– “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu”

– “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi.

– Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ.

7. Canh Ngọ – Thuần Chấn, hào 4

– “Cửu Tứ, chấn toại nê”

– “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”.

– Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy.

8. Tân Mùi – Thuần Tốn, hào 4

– “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm”

– “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua).

– Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao.

9. Nhâm Thân – Thuần Càn, hào 5

– “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”

– “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”.

10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6

– “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”

– “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”.

– Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” – Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.

11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6

– “Thượng Cửu, cang long hữu hối”

– “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”.

12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5

– “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát”

– “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”.

– Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”.

13. Bính Tí – Thuần Cấn, hào 5

– “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong”

– “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất.

– Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa.

14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3

– “Cửu Tam, lai đoài hung”

– “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”.

– Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

15. Mậu Dần – Tập Khảm, hào 1

– “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung”

– “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”.

– Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm.

16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1

– “Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”

– “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.”

– Tượng “lý thác chi kính, dĩ Tỵ cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi.

17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3

– “Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh”

– “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.”

– Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng.

18. Tân Tỵ – Thuần Tốn, hào 5

– “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát”

– “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.”

– Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”.

19. Nhâm Ngọ – Thuần Càn, hào 4

– “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”

– “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.”

20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1

– “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

– “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

– Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.

21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5

– “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”

– “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6

– “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”

– “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.”

– Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” – Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.

23. Bính Tuất – Thuần Cấn, hào 4

– “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu”

– “Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.”

– Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình.

24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4

– “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ”

– “Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng.

– Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” – Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy.

25. Mậu Tí – Thuần Khảm, hào 6

– “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung”

– “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm.

– Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm.

26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2

– “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát”

– “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.”

– Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch.

27. Canh Dần – Thuần Chấn, hào 2

– “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc”

– “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

– Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

28. Tân Mão – Thuần Tốn, hào 6

– “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung”

– “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

– Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm.

29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3

– “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”

– “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”

30. Quý Tỵ – Thuần Khôn, hào 2

– “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.”

– “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”

– Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” – Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.

31. Giáp Ngọ – Thuần Càn, hào 4

– “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”

– “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.”

32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1

– “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí”

– “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

– Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.

33. Bính Thân – Thuần Cấn, hào 3

– “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.”

– “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.”

– Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” – Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột.

34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5

– “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.”

– “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.”

– Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” – Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi!

35. Mậu Tuất – Thuần Khảm, hào 5

– “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.”

– “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.”

– Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn.

36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3

– “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.”

– “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.”

– Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài!

37. Canh Tí – Thuần Chấn, hào 1

– “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.”

– “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.”

– Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc.

38. Tân Sửu – Thuần Tốn, hào 1

– “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.”

– “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.”

– Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường.

39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2

– “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.”

– “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3

– “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.”

– “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”

– Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.

41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3

– “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”

– “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”

42. Ất Tỵ – Thuần Khôn, hào 2

– “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ”

– “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”

– Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” – Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.

43. Bính Ngọ – Thuần Cấn, hào 2

– “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.”

– “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.”

– Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái).

44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6

– “Thượng Lục, dẫn đoài.”

– “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”

– Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn.

45. Mậu Thân – Thuần Khảm, hào 4

– “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu”

– “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.”

– Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau.

46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4

– “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như”

– “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.”

– Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp.

47. Canh Tuất – Thuần Chấn, hào 6

– “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn”

– “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.”

– Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước.

48. Tân Hợi – Thuần Tốn, hào 2

– “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu”

– “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.”

– Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” – Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch.

49. Nhâm Tí – Thuần Càn, hào 1

– “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.”

– “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.

50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4

– “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”

– “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.”

– Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” – Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.

51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2

– “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân”

– “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3

– “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung”

– “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”

– Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.

53. Bính Thìn – Thuần Cấn, hào 1

– “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh”

– “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.”

– Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo.

54. Đinh Tỵ – Thuần Đoài, hào 1

– “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.”

– “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.”

– Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị.

55. Mậu Ngọ – Thuần Khảm, hào 3

– “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng”

– “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.”

– Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5

– “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát”

– “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.”

– Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công.

57. Canh Thân – Thuần Chấn, hào 5

– “Lục Ngũ, chấn vãng lai, lệ, ức vô táng, hữu sự”

– “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.”

– Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”.

58. Tân Dậu – Thuần Tốn, hào 3

– “Cửu Tam, tần tốn, lận.”

– “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.”

– Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái.

59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6

– “Thượng Cửu, cang long hữu hối”

– “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận

60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5

– “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

– “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

– Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”

CHU KỲ 2

…………………………..LỮ

….TIỂU SÚC…………………………..PHỤC

…DỰ……………………+………………….KHỐN

…….BÍ……………………………………CẤU

………………………….TIẾT

1. Giáp Tí – Thiên Phong Cấu, hào 1

– “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”

– “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

– Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.

2. Ất Sửu – Địa Lôi Phục, hào 4

– “Lục Tứ, trung hàng độc phục”

– “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.”

– Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.

3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6

– “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu”

– “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại”

– Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất.

4. Đinh Mão – Trạch Thủy Khốn, hào 2

– “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu”

– “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại”

– Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh.

5. Mậu Thìn – Thủy Trạch Tiết, hào 2

– “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung”

– “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm.

– Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp.

6. Kỷ Tỵ – Hỏa Sơn Lữ, hào 6

– “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung”

– “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm”

– Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết.

7. Canh Ngọ – Lôi Địa Dự, hào 4

– “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm”

– “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”.

– Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều.

8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4

– “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu”

– “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”.

– Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng.

9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5

– “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”

– “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.

– Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.

10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6

– “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”

– “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.

– Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.

11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59)

– “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”

– “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.

– Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.

12. Ất Hợi – Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60)

– “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”

– “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.

– Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.

13. Bính Tí – Sơn Hỏa Bí, hào 5

– “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát”

– “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”.

– Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” – Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng.

14. Đinh Sửu – Trạch Thủy Khốn, hào 3

– “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung”

– “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.

– Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” – Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành.

15. Mậu Dần – Thủy Trạch Tiết, hào 1

– “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu”

– “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”.

– Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng.

16. Kỷ Mão – Hỏa Sơn Lữ, hào 1

– “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai”

– “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”.

– Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa.

17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3

– “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối”

– “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”.

– Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

18. Tân Tỵ – Phong Thiên Tiểu súc, hào 5

– “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân”

– “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng”

– Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng.

19. Nhâm Ngọ – Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31)

– “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”

– “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.

– Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” – Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.

20. Quý Mùi – Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32)

– “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”

– “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.

– Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” – Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.

21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21)

– “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”

– “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.

– Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.

22. Ất Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22)

– “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”

– “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.

– Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.

23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4

– “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu”

– “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”.

– Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì.

24. Đinh Hợi – Trạch Thủy Khốn, hào 4

– “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung”

– “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”.

– Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” – Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện.

25. Mậu Tí – Thủy Trạch Tiết, hào 6

– “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong”

– “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”.

– Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” – Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng.

26. Kỷ Sửu – Hỏa Sơn Lữ, hào 2

– “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh”

– “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”.

– Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán.

27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

– “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”.

– “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6

– “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”.

– “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”.

– Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” – Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết.

29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41)

– “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”

– “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.

– Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).

30. Quý Tỵ – Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42)

– “Lục Nhị, hưu phục, cát”

– “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.

– Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.

31. Giáp Ngọ – Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19)

– “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”

– “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.

– Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” – Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.

32. Ất Mùi – Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20)

– “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”

– “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.

– Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” – Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.

33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3

– “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát”

– “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”.

– Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

34. Đinh Dậu – Trạch Thủy Khốn, hào 5

– “Cửu Ngũ, Tỵ ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự”

– “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”.

– Tượng “Tỵ ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng.

35. Mậu Tuất – Thủy Trạch Tiết, hào 5

– “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng”

– “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”.

– Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính.

36. Kỷ Hợi – Hỏa Sơn Lữ, hào 3

– “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”

– “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”.

– Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” – Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong.

37. Canh Tí – Lôi Địa Dự, hào 1

– “Sơ Lục, minh dự, hung”

– “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”.

– Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm.

38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1

– “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu? cát”

– “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu? Tốt lanh”.

– Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành.

39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51)

– “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.

– “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.

– Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.

40. Quý Mão – Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52)

– “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.

– “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.

– Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” – Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.

41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29)

– “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”

– “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.

– Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).

42. Ất Tỵ – Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30)

– “Lục Nhị, hưu phục, cát”

– “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.

– Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.

43. Bính Ngọ – Sơn Hỏa Bí, hào 2

– “Lục Nhị, bí kỳ tu”

– “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”.

– Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng.

44. Đinh Mùi – Trạch Thủy Khốn, hào 6

– “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”.

– “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành.

– Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” – Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.

45. Mậu Thân – Thủy trạch Tiết, hào 4

– “Lục Tứ, an tiết, hanh”

– “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”.

– Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng.

46. Kỷ Dậu – Hỏa Sơn Lữ, hào 4

– “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái”

– “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”.

– Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng.

47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6

– “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu”

– “Sáu Trên, đã thành hậu quẻ xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sơm thì không nguy hại”.

– Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” – Mệ muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài.

48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2

– “Cửu Nhị, khiên phục, cát”

– “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”.

– Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” – được quay trở lại đọa dương cứng, ở ngôi giữa, nói lân hào Chín Hai cũng có thể không để từ mất dương đức.

49. Nhâm Tí – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49)

– “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”

– “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”.

– Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.

50. Quý Sửu – Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50)

– “Lục Tứ, trung hàng độc phục”

– “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại”

– Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.

51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39)

– “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.

– “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.

– Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.

52. Ất Mão – Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40)

– “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.

– “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.

– Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” – Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.

53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1

– “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ”

– “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ”

– Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại.

54. Đinh Tỵ – Trạch Thủy Khốn, hào 1

– “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch”

– “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt.

– Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” – Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa.

55. Mậu Ngọ – Thủy Trạch Tiết, hào 3

– “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”

– “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”.

– Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa!

56. Kỷ Mùi – Hỏa Sơn Lữ, hào 5

– “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh”

– “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh.

– Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” – Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên.

57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5

– “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử”

– “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết”

– Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong.

58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3

– “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục”

– “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”.

– Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” – Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh.

59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11)

– “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”

– “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.

– Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.

60. Quý Hợi – Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12)

– “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”

– “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.

– Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.

CHU KỲ 3

…………………………..ĐỈNH

……GIA NHÂN…………………………..LÂM

…GIẢI……………………+…………………….TỤY

……ĐẠI SÚC…………………………….ĐỘN

…………………………..TRUÂN

1. Giáp Tí – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tí – N. Tí) (1 = 49)

– “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

– “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

– Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” – Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!

2. Ất Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50)

– “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”

– “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.

– Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.

3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6

– “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh”

– “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông”

– “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”.

4. Đinh Mão – Trạch Địa Tụy, hào 2

– “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược”

– “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh”

– Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi.

5. Mậu Thìn – Thủy Lôi Truân, hào 2

– “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”

– “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên”

– Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường.

6. Kỷ Tỵ – Hỏa Phong Đỉnh, hào 6

– “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi”

– “Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi”

– Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm.

7. Canh Ngọ – Lôi Thủy Giải, hào 4

– “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”

– “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”

– Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” – rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.

8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4

– “Lục Tứ, phú gia, đại cát”

– “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành”

– Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý.

9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21)

– “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”

– “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”

– Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.

10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22)

– “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”

– “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”

– Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.

11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59)

– “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”

– “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.

– Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.

12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60)

– “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”

– “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”

– Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” – Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.

13. Bính Tí – Sơn Thiên đại súc, hào 5

– “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát”

– “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”.

– Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” – cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng.

14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3

– “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”.

– “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”.

– Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng.

15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1

– “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”.

– “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”.

– Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” – Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân.

16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1

– “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu”

– “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”.

– Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” – Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới.

17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3

– “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”.

– “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”.

– Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được?

18. Tân Tỵ – Phong Hỏa Gia nhân, hào 5

– “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”.

– “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”.

– Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” – Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau.

19. Nhâm Ngọ – Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31)

– “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”

– “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.

– Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” – Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.

20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32)

– “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”

– “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.

21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9)

– “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”

– “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”

– Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.

22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10)

– “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”

– “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”

– Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.

23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4

– “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”.

– “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”.

– Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng.

24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4

– “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu”

– “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”.

– Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng.

25. Mậu Tí – Thủy Lôi Truân, hào 6

– “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”.

– “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”.

– Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2

– “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát”

– “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”.

– Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ.

27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

– “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”.

– “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch.

28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6

– “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát”

– “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”.

– Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình.

29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41)

– “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”

– “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.

– Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” – Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.

30. Quý Tỵ – Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42)

– “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”

– “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.

– Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” – Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.

31. Giáp Ngọ – Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19)

– “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”

– “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.

– Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” – Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.

32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20)

– “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”

– “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.

33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3

– “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng”

– “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”.

– Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” – Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên.

34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5

– “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”.

– “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”.

– Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” – Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn.

35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5

– “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung.

– “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”.

– Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” – Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng.

36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3

– “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát”

– Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”.

– Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa.

37. Canh Tí – Lôi Thủy Giải, hào 1

– “Sơ Lục, vô cữu”.

– “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”.

– Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại.

38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1

– “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”.

– “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”.

– Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi.

39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51)

– “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.

– “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.

– Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” – Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.

40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52)

– “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.

– “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.

– Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” – Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.

41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29)

– “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”

– “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.

– Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” – Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.

42. Ất Tỵ – Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30)

– “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”

– “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.

– Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” – Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.

43. Bính Ngọ – Sơn Thiên Đại súc, hào 2

– “Cửu Nhị, dư thoát phúc”.

– “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”.

– Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm.

44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6

– “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”.

– “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”.

– Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” – Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.

45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4

– “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”.

– “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

– Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” – Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết.

46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4

– “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”.

– “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”.

– Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.

47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6

– “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”.

– “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”.

– Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên.

48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2

– “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”.

– “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” – Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến.

49. Nhâm Tí – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1)

– “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

– “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

– Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” – Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!

50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2)

– “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”

– “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.

– Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.

51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39)

– “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.

– “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.

– Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” – Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.

52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40)

– “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.

– “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.

– Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” – Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.

53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1

– “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ”

– “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”.

– Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi.

54. Đinh Tỵ – Trạch Địa Tụy hào 1

– “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”.

– “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”.

– Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn.

55. Mậu Ngọ – Thủy Lôi Truân, hào 3

– “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”.

– “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”.

– Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn.

56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5

– “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”.

– “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”.

– Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” – Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc.

57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5

– “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”.

– “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”.

– Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” – Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước.

58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3

– “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”.

– “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”.

– Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” – Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà.

59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11)

– “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”

– “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.

– Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.

60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12)

– “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”

– “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”

– Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” – Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.

CHU KỲ 4

…………………………VỊ TẾ

……..ÍCH………………………………THÁI

…HẰNG…………………+…………………HÀM

…….TỔN………………………………..BĨ

…………………………KÝ TẾ

1. Giáp Tí – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49)

– “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

– “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

– Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” – Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông.

2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4

– “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.

– “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.

– Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.

3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6

– “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”.

– “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”.

– Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ.

4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2

– “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát”

– “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”.

– Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại.

5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2

– “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”.

– “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”.

– Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch.

6. Kỷ Tỵ – Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6

– “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”.

– “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo.

– Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết.

7. Canh Ngọ – Lôi Phong Hằng, hào 4

– “Cửu Tứ, điền vô cầm”

– “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”.

– Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

8. Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4

– “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”.

– “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”.

– Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công.

9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21)

– “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.

– “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).

– Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.

10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22)

– “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.

– “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.

– Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.

11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59)

– “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”

– “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.

– Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài!

12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60)

– “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.

– “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.

– Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.

13. Bính Tí – Sơn Trạch Tổn, hào 5

– “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”.

– “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”.

– Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ.

14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3

– “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”.

– “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”.

– Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn.

15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1

– “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”.

– “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”.

– Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại.

16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1

– “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”.

– “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”.

– Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa.

17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3

– “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận”

– “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”.

– Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân.

18. Tân Tỵ – Phong Lôi Ích, hào 5

– “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”.

– “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”.

– Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”.

19. Nhâm Ngọ – Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31)

– “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”

– “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.

– Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” – Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.

20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32)

– “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.

– “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.

– Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.

21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9)

– “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.

– “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).

– Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.

22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10)

– “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.

– “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.

– Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.

23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4

– “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu”

– “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”.

– Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào.

24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4

– “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”.

– “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”.

– Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” – Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn.

25. Mậu Tí – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6

– “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”.

– “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”.

– Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài!

26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2

– “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”.

– “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

– Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch.

27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

– “Cửu Nhị, hối vong”.

– “Chín Hai, hối hận tiêu hết”

– Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6

– “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”.

– “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”.

– Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến.

29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41)

– “Lục Tam, bao tu”.

– “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.

– Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” – Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

30. Quý Tỵ – Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42)

– “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.

– “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.

– Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.

31. Giáp Ngọ – Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19)

– “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”

– “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.

– Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” – Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.

32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20)

– “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.

– “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.

– Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.

33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3

– Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” – Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ.

– “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”.

– “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng”

34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5

– “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”.

– “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”.

– Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng.

35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5

– “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”.

– “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”.

– Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến.

36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3

– “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”.

– “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”.

– Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” – Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng.

37. Canh Tí – Lôi Phong Hằng, hào 1

– “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi”

– “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”.

– Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” – Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu.

38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1

– “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”.

– “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”.

– Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” – Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn)

39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51)

– “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.

– “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.

– Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” – Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.

40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52)

– “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.

– “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.

– Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” – Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”

41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29)

– “Lục Tam, bao tu”.

– “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.

– Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” – Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

42. Ất Tỵ – Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30)

– “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.

– “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.

– Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.

43. Bính Ngọ – Sơn Trạch Tổn, hào 2

– “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”.

– “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”.

– Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình.

44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6

– “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt”

– “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”.

– Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.

45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4

– “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới”

– “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”.

– Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” – Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ.

46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4

– “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”.

– “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”.

– Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” – Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”.

47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6

– “Thượng Lục, chấn hằng, hung”.

– “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”.

– Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” – Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích.

48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2

– “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”.

– “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”.

– Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến.

49. Nhâm Tí – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1)

– “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

– “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

– Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” – Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua.

50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2)

– “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.

– “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.

– Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.

51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39)

– “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.

– “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.

– Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” – Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.

52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40)

– “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.

– “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.

– Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” – Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”

53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1

– “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”.

– “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”.

– Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

54. Đinh Tỵ – Trạch Sơn Hàm, hào 1

– “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”.

– “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”.

– Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài.

55. Mậu Ngọ – Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46)

– “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”.

– “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”.

– Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt.

56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5

– “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”.

– “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành.

– Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” – Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành.

57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5

– “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”.

– “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”.

– Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm.

58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3

– “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê”

– “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”.

– Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” – Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn.

59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11)

– “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”

– “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.

– Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài.

60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12)

– “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.

– “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.

– Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.

CHU KỲ 5

………………………….MÔNG

…..VÔ VỌNG……………………….ĐẠI TRÁNG

…THĂNG……………….+………………..KIỂN

……KHUÊ……………………………..QUAN

………………………….CÁCH

1. Giáp Tí – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49)

– “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

– “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

– Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.

2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50)

– “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”

– “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”

– Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.

3. Bính Dần – Hỏa Trạch Khuê, hào 6

– “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.”

– “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.”

– Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” – Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan.

4. Đinh Mão – Thủy Sơn Kiển, hào 2

– “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.”

– “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.”

– Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” – Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi.

5. Mậu Thìn – Trạch Hỏa Cách, hào 2

– “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.”

– “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.”

– Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp.

6. Kỷ Tỵ – Sơn Thủy Mông – hào 6

– “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

– “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.”

– Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” – Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

7. Canh Ngọ – Địa Phong Thăng, hào 4

– “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.”

– “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.”

– Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc.

8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4

– “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.”

– “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.”

– Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài.

9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21)

– “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”

– “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”

– Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” – Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.

10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22)

– “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”

– “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”

– Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.

11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59)

– “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”

– “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”

– Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” – Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.

12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60)

– “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”

– “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”

– Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” – Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.

13. Bính Tí – Hỏa Trạch Khuê, hào 5

– “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.”

– “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được?

– Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” – Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui.

14. Đinh Sửu – Thủy Sơn Kiển, hào 3

– “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,”

– “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.”

– Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” – Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại.

15. Mậu Dần – Trạch Hỏa Cách, hào 1

– “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.”

– “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.”

– Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách.

16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1

– “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.”

– “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.”

– Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” – Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn.

17. Canh Thìn – Địa Phong Thăng, hào 3

– “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

– “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

– Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

18. Tân Tỵ – Thiên Lôi Vô vọng, hào 5

– “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

– “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.”

– Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” – tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy.

19. Nhâm Ngọ – Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31)

– “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”

– “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”

– Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” – Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.

20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32)

– “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”

– “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”

– Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” – Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.

21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9)

– “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”

– “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”

– Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” – Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.

22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10)

– “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”

– “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”

– Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.

23. Bính Tuất – Hỏa Trạch Khuê, hào 4

– “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.”

– “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.”

– Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” – Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê.

24. Đinh Hợi – Thủy Sơn Kiển, hào 4

– “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.”

– “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.”

– Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” – Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ)

25. Mậu Tí – Trạch Hỏa Cách, hào 6

– “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.”

– “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.”

– Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” – Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua.

26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2

– “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.”

– “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.”

– Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” – Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm.

27. Canh Dần – Địa Phong Thăng, hào 2

– “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

– “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.”

– Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” – Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6

– “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.”

– “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.”

– Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương.

29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)

– “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”

– “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”

– Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” – Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.

30. Quý Tỵ – Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42)

– “Cửu Nhị, trinh cát.”

– “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”

– Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.

31. Giáp Ngọ – Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19)

– “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”

– “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”

– Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” – Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.

32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20)

– “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”

– “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”

– Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” – Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.

33. Bính Thân – Hỏa Trạch Khuê, hào 3

– “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả Tỵ. Vô sơ hữu chung.”

– “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.”

– Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” – Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng.

34. Đinh Dậu – Thủy Sơn Kiển, hào 5

– “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.”

– “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.”

– Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính.

35. Mậu Tuất – Trạch Hỏa Cách, hào 5

– “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.”

– “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.”

– Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” – Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ.

36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3

– “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.”

– “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.”

– Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết.

37. Canh Tí – Địa Phong Thăng, hào 1

– “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.”

– “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.”

– Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”.

38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1

– “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.”

– “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.”

– Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ.

39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51)

– “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”

– “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”

– Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.

40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52)

– “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”

– “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”

– Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” – Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.

41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)

– “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”

– “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”

– Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” – Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.

42. Ất Tỵ – Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30)

– “Cửu Nhị, trinh cát.”

– “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”

– Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.

43. Bính Ngọ – Hỏa Trạch Khuê, hào 2

– “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.”

– “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.”

– Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê.

44. Đinh Mùi – Thủy Sơn Kiển, hào 6

– “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”

– “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

– Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.

45. Mậu Thân – Trạch Hỏa Cách, hào 4

– “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.”

– “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.”

– Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách.

46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2)

– “Lục Tứ, khốn mông, lận.”

– “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.”

– Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” – Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững.

47. Canh Tuất – Địa Phong Thăng, hào 6

– “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.”

– “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.”

– Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh.

48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2

– “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.”

– “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.”

– Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý.

49. Nhâm Tí – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1)

– “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

– “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

– Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.

50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2)

– “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”

– “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”

– Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.

51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39)

– “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”

– “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”

– Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.

52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40)

– “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”

– “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”

– Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” – Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.

53. Bính Thìn – Hỏa Trạch Khuê, hào 1

– “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.”

– “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.”

– Tượng “Kiến ác nhân, dĩ Tỵ cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên.

54. Đinh Tỵ – Thủy Sơn Kiển, hào 1

– “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.”

– “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.”

– Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” – Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ.

55. Mậu Ngọ – Trạch Hỏa Cách, hào 3

– “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.”

– “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.”

– Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên!

56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5

– “Lục Ngũ, đồng mông, cát.”

– “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.”

– Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” – Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy.

57. Canh Thân – Địa Phong Thăng, hào 5

– “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

– “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

– Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” – Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân.

58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3

– “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

– “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

– Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” – Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu.

59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11)

– “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”

– “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”

– Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” – Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.

60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12)

– “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”

– “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”

– Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” – Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.

(Nguồn: sưu tầm)

Kinh Phòng với Kinh Thị Dịch truyện

0

Kinh Thị Dịch truyện

Đặc trưng của Dịch học Kinh Phòng là chiêm nghiệm, Kinh thị Dịch học mở đầu cho phái tượng số, là gốc của tượng số, gốc của thuật số. Bốn cống hiến lớn của Kinh Phòng là: Bát cung quái thuyết; Nạp Giáp thuyết; Quái khí thuyết; Âm dương ngũ hành thuyết. Do làm rõ được về tai dị nên được nhà Vua ban thưởng. Với đặc điểm học thuật chiêm nghiệm khí số cho xã hội thông qua tai dị trong thiên nhiên trên nền tảng “thiên nhân cảm ứng”.
Bát cung quái thuyết lấy cơ sở về thứ tự các quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn-Khôn-Tốn-Ly-Đoài của “Thuyết quái”. Trong đó 4 quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn là 4 cung Dương, còn 4 quẻ Khôn-Tốn-Ly-Đoài là 4 cung Âm.

Căn cứ vào sự phân vạch của quẻ, 8 quẻ thuần là quẻ “thống suất” gọi là quẻ mẹ, các hào của quẻ “thống suất” đều cố định không biến, 7 quẻ bị “thống suất” đều gọi là “kiến quái”, gọi là quẻ con, vì những hào của chúng đều có biến đổi. Kinh Phòng căn cứ vào Dịch nói: “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”. Quy luật biến đổi là hào Dương biến đổi thành hào Âm, hào Âm biến đổi thành hào Dương.

Quẻ Đời 1 lấy hào 6 là hào bất biến.

Gọi là quẻ Đời 2, là từ 8 quẻ mẹ mà Dịch gọi là “Bát thuần”, do hào đầu tiên biến đổi mà thành.

Quẻ đời 3 là do sự niến đổi của 2 hào đầu của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 1 biến đổi hào 2 mà thành.

Quẻ Đời 4 là do sự biến đổi của hào 1-2-3 của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 2 biến đổi hào 3 mà thành.

Quẻ Đời 5 là do sự biến đổi của hào 1-2-3-4 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 3 biến đổi hào 4 mà thành.

Quẻ Đời 6 là do sự biến đổi của các hào 1-2-3-4-5 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 4 biến đổi hào 5 mà thành.

Quẻ Đời 7 được gọi là quẻ Du hồn, căn cứ từ quẻ Đời 6 mà biến đổi hào 4

Quẻ Đời 8 được gọi là quẻ Quy hồn, căn cứ từ quẻ Đời 7, biến đổi cả 3 hào hạ quái quẻ Du hồn mà thành.

Kinh Phòng căn cứ vào cấu tạo ngôi vị của quẻ 6 hào, lấy hào Sơ (hào 1) làm Khởi đầu (chung), lấy hào Trên (hào 6) làm Kết thúc (thủy), với nền tảng Càn Khôn làm đầu cuối của Âm Dương, nên hào 6 của quẻ “Bát thuần” không biến đổi.

Chữ “đời” ở đây là gọi là Thế là do hào biến đổi làm chủ của quẻ biến, gọi là hào “cư Thế”. Quẻ Đời 1-2 gọi là Địa dịch, quẻ Đời 3-4 gọi là Nhân dịch, quẻ Đời 5-6 gọi là Thiên dịch. Quẻ Du hồn và Quy hồn gọi là Quỷ dịch. Quẻ Đời 1 ở đây lấy hào bất biến làm chủ, tức là hào 6 của quẻ “bát thuần”.

Về phương diện ngôi vị hào, hào đầu gọi là Nguyên sĩ, hào 2 gọi là Đại phu, hào 3 gọi là Tam công, hào 4 gọi là Chư hầu, hào 5 gọi là Thiên tử, hào 6 gọi là Tông miếu, gọi như vậy với mục đích để phân rõ đẳng cấp tôn ti.

Gọi là Thế – Ứng, tức là chỉ sự tương ứng của 3 hào dưới với 3 hào trên trong mỗi cung, tức là hào đầu tương ứng với hào 4, hào 2 tương ứng với hào 5, hào 3 tương ứng với hào trên. Trong đó, hào làm chủ là hào “cư thế”, thì khi chiêm nghiệm, hào Ứng phải theo hào làm chủ, đó là hào Thế, hào Ứng (để phán đoán) là hào có quan hệ mật thiết với đối tượng chiêm nghiệm, ví như giữa vợ chồng, giữa anh em, vì giữa họ có tình cảm tương ứng với nhau. Định cát hung thì lấy hào cư Thế làm chủ.

Thuyết nạp giáp

Càn Khôn là gốc của Âm Dương, là đầu cuối của Âm Dương 64 quẻ cho nên lần lượt nạp Giáp Ất Nhâm Quý. Khi nạp Thiên can vào quẻ thì căn cứ theo số thứ tự Tiên thiên bát quái của quẻ phối với thứ tự của 10 Thiên can như sau: Càn 1 đứng đầu nạp Giáp mộc đứng đầu của Thiên can, Càn thuộc dương nạp Giáp cũng thuộc dương. Tiếp đến Đoài 2 phối với cặp Thiên can Bính-Đinh thuộc Hỏa, Đoài thuộc Âm nên phối với Đinh cũng thuộc Âm. Tiếp đến Ly 3 phối với cặp Thiên can Mậu-Kỷ thuộc Thổ, quẻ Ly thuộc Âm nên phối với can Kỷ thuộc âm. Tiếp đến Chấn 4 phối với cặp Thiên can Canh-Tân thuộc Kim, quẻ Chấn thuộc Dương nên phối với can Canh thuộc Dương. Càn Khôn đối ứng, trời đất định vị, Giáp dương nạp Càn dương, nên Ất âm nạp vào Khôn âm. Cấn Đoài đối ứng, núi đầm thông khí, Đoài âm nạp can Đinh âm, nên Cấn dương nạp can Bính dương. Khảm Ly đối ứng, Thủy Hỏa tương tề, Ly âm nạp Kỷ âm nên Khảm dương nạp Mậu dương. Chấn Tốn đối ứng, sấm gió cùng nhau, Chấn dương nạp can Canh dương, nên Tốn âm nạp can Tân âm. Còn lại cặp Nhâm Quý thuộc Thủy, nạp vào 2 quái phụ mẫu Càn Khôn, Nhâm dương nạp theo Càn dương, Quý âm nạp theo Khôn âm. Kinh Phòng căn cứ theo thứ tự Ngũ hành Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy phối ứng với số Tiên thiên Ngũ hành 3-2-5-4-1, cặp số 3-2 thuộc Xuân-Hạ mà Dương trước Âm sau, cặp 4-1 thuộc Thu-Đông mà Dương sau Âm trước.

Thuyết nạp địa chi

“Định cát hung chỉ lấy tượng của một hào”.

Kinh Phòng lần lượt cho 6 hào của 64 quẻ đối ứng với 12 địa chi, với quy luật phân theo Chi âm và Chi dương tương ứng với số chẵn lẻ rồi cho đối ứng với 384 hào. Chi dương đi thuận chiều vì dương chủ tiến, Chi âm đi ngược chiều vì Âm chủ lùi, vì 8 quẻ thì có 4 quẻ thuộc dương, 4 quẻ thuộc âm, mà 12 Chi lại có những 6 chi dương và 6 chi âm. Âm theo Ngọ, Dương theo Tí, Tí-Ngọ phân đường đi, Tí đi phía trái, Ngọ đi phía phải. Tháng 11 tháng 5 là tháng Tí Ngọ lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 quẻ Càn. Tháng 12 và tháng 6 là tháng Sửu Mùi lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 của quẻ Khôn, vì căn cứ theo “thuyết quái” nói Càn Khôn là quẻ Cha Mẹ. Thể của quẻ Dịch phải đủ 6 vạch mới thành, 6 vạch lại phân chia ngôi âm ngôi dương mới thành quẻ, mới phản ánh cụ thể mối quan hệ sinh khắc giữa Bố Mẹ và Con của 8 cung quái với vị trí 6 hào. Như quẻ Càn thuộc Kim là quẻ Bố Mẹ, hào Sơ thuộc Thủy, Kim sinh Thủy, mẹ sinh con, cho nên là cát, hào 4 thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim, con khắc mẹ là hung. Như vậy có nghĩa là tương sinh là thuận, tương khắc là hung, mẹ sinh con là đại cát, con khắc mẹ là đại hung. Kinh Phòng nói: Quỷ bát quái là hào “học”, tài là hào “chế”, trời đất là hào “nghĩa”, phúc đức là hào “bảo”, đồng khí là hào “chuyển”.

 Thuyết quái khí

Kinh Phòng lấy 64 quẻ 384 hào ứng với 1 năm, nói “ hào đầu trên, hào hai giữa, hào ba dưới, số của tháng 3 thành ra tháng 1. Hào đầu 3 ngày, hào hai 3 ngày, hào ba 3 ngày, tất cả là 9 ngày, còn dư ra một ngày gọi là ngày nhuận. Mười ngày của hào đầu là Thượng tuần, mười ngày của hào hai là Trung tuần, mười ngày của hào ba là Hạ tuần, 3 tuần là 30 tích tuần”.

“Thành tháng, tích tháng thành năm, 8 lần 8 là 64 quẻ, chia ra 64 quẻ phối với 384 hào thành 32 x 360 = 11520 thẻ. Khí dịch 24 tiết khí phối hợp với Ngũ hành, thì mọi việc từ đạo Trời, đến vận mệnh con người, đến Trăng, Sao, ta đều có thể thấy được mọi chuyện cát hung rõ ràng”.

Âm sinh dương tiêu, dương sing âm diệt, hai khí giao nhau, thì vạn vật mới sinh ra. Dương nhập vào âm, âm nhập vào dương, hai khí giao hỗ không ngừng, cho nên gọi thế là “sinh”. Dương trong âm, âm trong dương, hai khí âm dương hòa vào nhau mà thành “tượng”. Kinh Phòng căn cứ vào âm dương khí hóa, âm dương thăng giáng và âm dương tiêu trưởng chuyển hóa đưa ra nguyên lý quẻ ẩn – hiện, trong đó quẻ “hiện” là quẻ hướng ngoại, lộ mặt, còn quẻ “ẩn” thì hướng nội, tiềm ẩn. Nói chung, tượng quẻ dương phần nhiều là quẻ “hiện”, tượng quẻ âm phần nhiều là quẻ “ẩn”. Ví như quẻ Càn có tượng thuộc dương, phối Thiên thuộc Kim, nó với quẻ Khôn là một cặp đối ứng “ẩn – hiện”. Quẻ Khôn có tượng thuộc âm, phối hợp với Địa thuộc Thổ, khi phối với quẻ Càn là một cặp đối ứng “ẩn – hiện”. Nguyên lý “ẩn – hiện” trong tượng hào của quẻ vốn “ngụ hàm” với nhau, như hào Sáu đầu của quẻ Khôn nói “ lý sương kiên băng chí” thích là “ rồng đánh nhau ở cánh đồng, máu chúng chảy ra đen vàng”. Rồng tính dương là đặc tính của Càn dương, nói nên mối quan hệ “ẩn – hiện” của hai quẻ Càn – Khôn, cấu thành cặp quẻ đối ứng với nhau. Không những hai quẻ Càn Khôn đối ứng với nhau, mà giữa 64 quẻ cũng cấu thành từng cặp “ẩn – hiện” với nhau. Khi chiêm nghiệm theo “ẩn – hiện”, ta có thể từ hai mặt chính – phản, tăng lượng thông tin về chiêm nghiệm được nhiều hơn, đó là mối quan hệ giữa hai mặt chính – phản của âm – dương. Theo Kinh Phòng, sự biến hóa âm dương là nguyên nhân khiến cho các thiên thể trong vũ trụ vận động, âm dương thăng giáng là quy luật vận động của Vũ trụ, sự chuyển hóa âm dương tiêu trưởng phản ánh mối liên hệ nội bộ âm dương.

Kinh Phòng nhấn mạnh rất nhiều vào sự chiêm nghiệm, ông cho rằng mục đích của sự nghiên cứu Dịch quái là ở chỗ “định cát hung, rõ được mất”, do đó ông sáng tạo ra quẻ 8 cung, phát huy mối quan hệ ngang dọc, là cốt để “định dự cát hung”. Ông nói “ Nghĩa về cát hung, bắt đầu ở Ngũ hành, kết thúc ở Bát quái. Nghĩa lý về âm dương là sự phân định về Năm, Tháng. Một khi Năm, Tháng đã phân định thì sẽ đoán định được cát hung”. Phần lớn vật chất dương là “hư”, vật chất âm là “thực”, “hư” là bề ngoài của dương, “thực” là bên trong của âm, “hư” là bề gnoài của “thực”, “thực” là phần bên trong của “hư”.
Thuyết Quái khí là sự đối ứng giữa 64 quẻ và 34 tiết khí, bao gồm Tứ thời và 24 khí, thuyết này bắt nguồn thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, bao gồm ba nội dung sau:

– Thuyết quái khí Tứ chính quái: lấy bốn quẻ Khảm – Chấn – Ly – Đoài làm tượng ứng với 24 tiết khí, mỗi quẻ có 6 hào ứng với 6 tiết khí. Trong đó, quẻ Khảm ứng với 6 tiết khí từ tiết Đồng chí đến tiết Kinh trập. Quẻ Chấn ứng với 6 tiết khí từ tiết Xuân phân đến tiết Mang chủng. Quẻ Ly ứng với 6 tiết khí từ tiết Hạ chí đến tiết Bạch lộ. Quẻ Đoài ứng với 6 tiết khí từ tiết Thu phân đến tiết Đại tuyết. Trong bốn quẻ này, 6 hào của mỗi quẻ, từ hào Đầu đến hào Trên, lại phân ra làm chủ 6 tiết, như hào Đầu quẻ Khảm, làm chủ việc của tiết Đông chí, hào 2 tiêt Tiểu hàn, hào 3 tiết Đại hàn, hào 4 tiết Lập xuân, hào 5 tiết Vũ thủy, hào Trên tiết Kinh trập.

– Thuyết Thập nhị bích quái (nguyệt quái): là thuyết 12 quẻ ứng với 12 tháng. Mỗi một quẻ ứng với 2 tiết khí, 12 quẻ ứng với 24 tiết khí.

8 ĐIỀU TÂM PHÁP – TỬ VI NAM PHÁI

0
8 ĐIỀU TÂM PHÁP – TỬ VI NAM PHÁI

Tử vi Nam phái, là một hệ thống tử vi luận mệnh dựa trên các quan điểm truyền thống, cơ bản của tử vi, dựa trên “đẩu số toàn thư” và “thập bát phi tinh” làm gốc gác. Có 8 điều tâm pháp như sau:

1. “Trọng chư tinh miếu hãm” – quan trọng nhất là sự miếu hãm của chư tinh. Nam phái rất nghiêm ngặt trong vấn đề này. Cùng 1 sao, nhưng Miếu – hãm khác nhau thì dẫn đến tính chất khác nhau.

2. “Tối trọng tính lý chư tinh” – Tính lý chư tinh là cốt lõi của tất cả các vấn đề khác. Học tử vi không thể không biết, nhất là Nam phái.

3. “Tối trọng cách cục” – Nam phái định hình có vài trăm cách cục, người xem tử vi không thể không biết. Nó là phần rắc rối nhất của tử vi. Dựa theo vị trí của tử vi và tương quan cung Mệnh, có tất cả 144 thế cục chính mà phát triển thêm ở phụ tinh thành ra các trường hợp cụ thể khác nhau. Đây cũng là tinh túy của Nam phái.

4. “Trọng Nam Bắc đẩu tinh” – Phân chia Nam Bắc đẩu tinh rõ ràng, luận đoán vận hạn cũng chú trọng Nam-Bắc nhập hạn, Nam-Bắc sinh nhân. Dương nam-Âm nữ lấy Nam đẩu làm CÁT, nhập đại hạn chủ về 5 năm sau, lưu niên chủ về nửa năm sau. Âm Nam-Dương nữ lấy Bắc đẩu làm CÁT, nhập đại hạn chủ 5 năm đầu, lưu niên chủ nửa năm đầu.

5. “Trọng Mệnh cung CUNG KHÍ” – Cung khí của Mệnh cung là tổ hợp nạp âm của cung theo ngũ hành, lục thập giáp Tí lập mệnh trên 12 cung vốn có cát hung khác nhau. Ví như Thìn cung lập mệnh, thì Mậu thìn – Mộc tam cục tối kị nhập Ngọ hạn, mà Canh thìn thì tối kị nhập Tí hạn v.v….

6. “Trọng song tinh tổ hợp cát hung” – các sao đều có Âm Dương phối ngẫu, nếu chỉ cô dương, cô âm ắt chẳng sinh thành, tác dụng vì thế mà thay đổi theo.

7. “Trọng Tứ hóa – Quý nhân” –Nam phái rất trọng Tứ Hóa và Quý nhân, định hình cách cục thành bại không thể thiếu.

8. “Trọng Cát hung nhị tính” – Tinh đẩu chia thành Hung-Cát hai phe, luận đoán phải cân nhắc nhiều ít nặng nhẹ. Tam Cát-Lục Cát-Bát Quý là THÀNH mà Lục Sát-Lục Bại-Tứ hung-Tứ sát là bại v.v..

Chương 33. Luận Tài

0

Nguyên văn:

Tài là vật bị ta khắc chế để sử dụng, có thể sinh Quan, cho nên là điều tốt đẹp. Tài là tài bạch (tiền bạc), là thê thiếp, là tài năng, là Dịch mã, đều thuộc Tài.

Từ chú thích:

Tài là vật ta khắc chế, nên thân phải cường vượng thì mới có thể khắc chế nó được. Nếu thân nhược, tuy có Tài cũng không thể gánh được, trái lại Tài là họa. Tài là thứ không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, nhưng nhất định phải có tài năng và thế lực thì mới giữ vững để vận dụng, mới có thể bảo vệ phúc phận; ngược lại, nếu không bị tiểu nhân hãm hại, cũng là hạng vướng lao lý, tù tội mà thôi. Ở cách cục, dùng một mình Tài (đơn dụng Tài) rất ít, như thân cường lộ Quan, dụng Tài sinh Quan; thân cường Sát nhược, dụng Tài sinh Sát; thân cường Ấn vượng, dụng Tài chế Ấn. Trường hợp thân cường mà hỉ Thực Thương, dụng Thực Thương sinh Tài; Tài vượng thân nhược, dụng Tỷ Kiếp tranh Tài thì tốt đẹp. Tất cả đều không dùng duy nhất Tài.

Nguyên văn:

Tài hỉ rễ sâu (căn thâm), nhưng không nên quá lộ, được một Tài thấu ra làm dụng là thanh thuần, gọi là “thanh dụng”, cách này tối hỷ, không gọi là lộ. Nghĩa là không phải dụng thần nguyệt lệnh, như (tháng) dần thấu Ất, mão thấu Giáp, v.v…, nếu chỉ có một cũng không quá mức, quá nhiều thì gọi là lộ. Song Tài vượng sinh Quan, lộ cũng không kị, vì lộ để phòng Kiếp, sinh Quan thì Kiếp thoái, ví như kho tiền lương ở phủ có quan canh giữ, cho dù để lộ ra thì ai dám cướp giật? Như mệnh quan Tham chính họ Cát: Nhâm Thân / Nhâm Tí / Mậu Ngọ / Ất Mão. Chẳng lẽ không phải Tài lộ sao? Chỉ vì sinh Quan cho nên không kị.

Từ chú thích:

“Rễ sâu”, nghĩa là tàng ở trong địa chi, nếu thiên can là Tài, mà vô căn ở địa chi là thành “phù Tài” (tài sản luôn hoán đổi/của nổi, trong ý “của chìm của nổi”), không đủ để làm dụng. Dụng là Tài thì không thể bị cướp đoạt, nếu chỉ dùng một mình Tài làm dụng thì không được gặp Tỷ Kiếp.

Nhâm Thân / Nhâm Tí / Mậu Ngọ / Ất Mão

Cát mệnh Tí thân hội cục, Nhâm thủy thông căn đắc khí, thời thấu Ất mão Quan tinh, thân vượng tọa Ấn, lấy Tài sinh Quan làm dụng, có Quan hộ Tài, đương nhiên không kị Tỷ Kiếp. Thuật Tử bình lấy đề cương làm trọng, nguyệt viên Tài tinh nắm lệnh, nên thuộc về Tài, chứ thực tế không phải lấy Tài làm dụng, Tài chỉ làm hỷ thần mà thôi. Đối với dụng Thực Thương sinh Tài không kị Tỷ Kiếp vì có Thực Thương hóa Kiếp.

Nguyên văn:

Quý cục của Tài cách không như nhau, như đối với trường hợp Tài vượng sinh Quan thì thân cường mà không thấu Thương Quan, không hỗn tạp Thất sát là quý cách.

Từ chú thích:

Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Quan, nên phải không thấu Thương Quan, không hỗn Thất sát thì tốt. Còn như lấy Tài là dụng thần thì phải hỷ Thương Quan sinh Tài tinh.

Như:
Kỷ Tỵ / Quý dậu / Bính dần / Canh dần

Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Tài, mặc dù thấu Kỷ thổ Thương Quan và Tỵ dậu củng hợp, khí Kỷ thổ tiết cho kim, nghĩa là Thương Quan sinh Tài, Tài sinh Quan, hơn nữa mừng Quan gần Tài (Quý lâm dậu), không kị Kỷ thổ tổn hại, thành ra danh lợi lưỡng toàn.

Nguyên văn:

Trường hợp Tài dụng Thực sinh nghĩa là thân cường và Quan không lộ, mang một chút ít Tỷ Kiếp càng thấy hữu tình.
Như:
Nhâm dần / Nhâm dần / Canh thìn / Tân Tỵ
Đây là mệnh quan Thị lang họ Dương. Thấu Quan thân nhược, thì cách phá hư vậy.

Chú thích bổ sung:


Tài cách kiến Thất Sát vốn e ngại đảng Sát, hỷ kiến Thực Thần thì Tỵ hỏa hóa thành Thiên Quan, Kiếp tài không đủ lực, nguyên luận trọng tâm ở Thực Thần hóa Kiếp, phao tin Tỵ hỏa bất luận, hơi thiên lệch.

Thực Thương hỷ Tài sinh tất lấy Tài tinh làm dụng, khi thành dụng bất hỷ Quan Sát tương lâm thành tổ hợp bát tự không đương nổi, Quan sát tiết Tài thành bất mỹ. Như Thân cường có Tỉ Kiếp thì bất kị Tài vượng, khả dĩ nhậm Tài, nếu như vô Tỉ Kiếp và Tài tinh chế Ấn thì xấu. Dương tạo nguyệt lệnh Tài vượng, nhật nguyên tọa Thìn thổ Tân kim bang Thân, đủ để nhậm Tài. Địa chi Quan Ấn tương sinh hữu tình.)

Từ chú thích:

Thực thần sinh Tài thì dụng ở Thực thần, nên không lấy việc lộ Quan tinh làm quý. Tỷ Kiếp sinh Thực Thương, càng thấy hữu tình. Nếu dụng Tài chả lẽ hợp với Tỷ Kiếp ư? Tứ trụ họ Dương Canh kim tọa Ấn, tiết tú cho Nhâm; mùa xuân mộc mới manh nha nảy mầm, dựa vào thủy để bồi dưỡng, tú khí lưu thông; dần Tỵ tàng hỏa, khí tượng ấm áp, mộc được nuôi dưỡng. Nếu Bính hỏa thấu thì thích hợp dụng Quan, không thể lấy Thực thần sinh Tài làm dụng.

Nguyên văn:

Trường hợp Tài cách bội Ấn (đeo Ấn), là vì Tài đơn độc sẽ không hiển quý, khi bội Ấn sẽ trợ giúp cho thân, tức Ấn góp phần làm cho quý hiển.

Như:
Ất mùi / Giáp thân / Bính thân / Canh dần
Mệnh của quan Tham chính họ Tăng có cách này và Tài Ấn nên cùng tồn tại.

Như:
Tài Ấn Kiếp
Ất mùi / Kỷ mão / Canh dần / Tân Tỵ
Ất và Kỷ không phục nhau, dù có chổ tốt tiểu phú mà thôi.

Từ chú thích:

Tài ấn sử dụng đồng thời rất khó, không như Tài ấn cùng sử dụng trong chính Quan cách cùng dùng Quan làm dụng; cần phải bội ấn hẳn là thân nhược, mà tứ trụ lại không thể lấy cái khác trong khi Tài ấn tương chiến, bất đắc dĩ phải dụng. Nhưng Tài ấn cả hai đều thanh thuần, cách ly nhau và không phải e dè nhau thì thường đắc phú quý; chẳng phải thấy bội ấn thì có dấu hiệu quý hiển, mà vì vô ấn thì Tài nhiều thân nhược, lộ thêm Quan sát, thì phải bỏ mệnh để tòng mà thôi. Thân nhược đắc Ấn thì dụng thần quyết định ở Ấn, theo đó hành vận Quan sát là tốt đẹp, vừa có thể tiết Tài khí, lại có khả năng sinh Ấn, cũng là một phép hòa giải (Tài vs Ấn). Mệnh họ Tăng có Giáp Ất thông căn ở dần, Tài Ấn song thanh, hứa hẹn sẽ tốt đẹp. Xem một mệnh gần giống sau đây:

Ấn Ấn Tài
Quý Tỵ / Nhâm tuất / Ất Tỵ / Mậu dần

Cũng là Tài ấn song thanh, ở giữa được ngăn cách bởi Ất mộc, nên cả hai không phải dè nhau. Nhâm Quý dù không thông căn nhưng tiến khí, thổ Thương quan ám tàng nhưng vượng khiến thổ thiếu nước làm mộc khô héo, không thể không dụng thủy Ấn tinh. Đây là một người rất thông minh, hồi nhỏ đã được hưởng phúc ấm, ra xã hội làm đến Cục trưởng đường bộ toàn tỉnh; chết ở vận tuất, năm hợi, tháng hợi, ngày thân, giờ thân là Tài phá Ấn lại gặp tứ xung.

Thêm một mệnh:
Tài Tài Ấn
Quý dậu / Quý hợi / Mậu Tí / Đinh Tỵ

Tài ấn song thanh, cả hai cũng không phải e dè nhau, trụ giờ phùng Quy Lộc. Hành vận Tỷ Kiếp phát tài mấy triệu đồng, trở thành một thương gia lớn ở Chiết Giang, là do Kiếp bảo hộ Ấn chia Tài mà dùng.

Nguyên văn:

Trường hợp dụng Thực mà kiêm dụng Ấn, Thực và Ấn cũng không e ngại nhau, hoặc có ám Quan mà khử Thực hộ Quan, đều là quý cách.

Như mệnh một Bảng nhãn họ Ngô:
Thực Tỉ Ấn
Canh tuất / Mậu Tí / Mậu Tí / Bính thìn
Canh và Bính cách nhau bởi hai Mậu nên không khắc nhau, Thực và Ấn cũng không e ngại nhau.

Hoặc như Bình Giang Bá mệnh:
Thực Ấn
Nhâm thìn / Ất Tỵ / Quý Tỵ / Tân dậu
Tuy Thực Ấn khắc nhau, mà muốn bảo vệ Mậu Quan tinh trong Tỵ thì phải khử Thực hộ Quan, nếu không thì giảm phúc.

Từ chú thích:

Đoạn này đủ gây rối loạn người đọc, như mệnh họ Ngô, tháng Tí Chính Tài nắm lệnh với dư khí Quan tinh Ất mộc trong thìn là Tài vượng tự sinh Quan, đây gọi là Ám Quan. Năm là Canh kim nhàn thần, Tài tự vượng không cần Thực sinh, Thực cũng không thể làm tổn hại đến Ám Quan, ở giờ thấu ra Bính hỏa khử đi là tác dụng phụ mà thôi. Giữa đông thủy hàn thổ đống (nước lạnh đất đóng băng) làm sao có thể sinh mộc? Đắc Bính hỏa sưởi ấm, thủy lưu thông, mộc có sức sống, ở đây điều hậu hết sức cần thiết, mà dụng Bính hỏa thì phải vô Thực thần nên cũng thích hợp dụng Ấn, chả nhẽ để không e ngại nhau mà dụng Ấn ư?

Mệnh Bình Giang Bá, Quý thủy nhật nguyên, niên có Nhâm thân, thời gặp Tân dậu, cho dù tháng tư thủy lâm tuyệt địa, còn Ấn vượng thân cường, Ất mộc vô căn, kiêu ấn đoạt Thực, hiển nhiên lấy Tài (Bính) trong Tỵ phá Ấn sinh Quan làm dụng. Ất mộc sinh Tài, không hề ngại Quan, tại sao phải dùng Kiêu Ấn khử Thực hộ Quan?

Nguyên văn:

Trường hợp Tài dụng Thương Quan, Tài không quá vượng còn Tỷ cường thì lấy một vị Thương Quan để hóa (Kiếp sinh Tài).
Như:
Giáp Tí / Tân mùi / Tân dậu / Nhâm thìn

Giáp thấu ra ở mùi khố, gặp Tân là bị cướp đoạt, được Nhâm hóa Kiếp sinh Tài, đây là mệnh Uông Học sĩ, Tài vượng không có Kiếp mà thấu Thương ngược lại thành bất lợi, bởi do Thương Quan vốn không phải vật tốt lành, vì Tài nhẹ thấu Kiếp bất đắc dĩ phải dùng. Tài vượng mà lộ Thương, tội gì phải dụng nó (Thương)? Dụng nó chỉ khiến chỉ vì Tài gặp được Thương mà khiến Quan sống dở chết dở, sao có thể yên tâm tìm phú quý.

Từ chú thích:

Lý luận này chưa được hợp lý, Tỷ Kiếp vượng mà Tài khinh, đương nhiên lấy Thực Thương sinh Tài là tốt, bởi Tài Quan Ấn Thực chẳng qua là tên gọi áp đặt cho sinh khắc ngũ hành, cái khắc Quan gọi tên là Thương quan mà thôi. Trường hợp dụng Thương Quan thì thiếu gì mệnh phú quý, sao lại gán cái ác cho cái tên rồi đâm ghét nó? Mệnh Uông học sĩ quả thực Tỷ Kiếp khá vượng, sinh trong tháng sáu, thổ táo kim giòn, cần thủy để nhuận, cũng tức là dùng điều hậu; sau nữa là tiết kim, hóa Kiếp sinh Tài, nên mới lấy Thương Quan làm dụng. Tài vượng không có Kiếp mà thấu Thương, thì nên bội ấn; nếu không có Kiếp và không có Ấn thì trường hợp này Tài nhiều thân nhược sao mong phú quý được? Nên cái gọi là “làm cho Quan sống dở chết dở” chẳng qua là lời quanh co bảo thủ mà thôi.

Nguyên văn:

Trường hợp Tài mà đới Thất sát, hoặc hợp Sát tồn Tài, hoặc chế Sát sinh Tài, đều là quý cách cả.

Như mệnh Mao Trạng nguyên:
Ất dậu / Canh thìn / Giáp ngọ / Mậu thìn, là trường hợp “hợp Sát tồn Tài”;

Còn mệnh Lý Ngự sử:
Canh thìn / Mậu Tí / Mậu dần / Giáp dần, là trường hợp chế Sát sinh Tài.

Từ chú thích:

Mệnh của Mao Trạng nguyên, Ất Canh hợp nhưng Sát (khí kim) vẫn còn, thìn dậu hợp để Tài hóa sát, nên gọi là “hợp Sát tồn Tài”, ý nghĩa này chưa hợp lý lắm. Giáp mộc sinh ở tháng ba, mộc dư khí, hỏa tiến khí, nhưng kim hưu tù. Đinh hỏa trong ngọ hiển dương uy thế, chế Sát làm dụng, và hành vận Kỷ mão, Mậu dần, Đinh sửu, Bính Tí đều chế Sát giúp cho bản thân, cho nên mới quý, chả lẽ đây lại là ý nghĩa “hợp Sát tồn Tài” trong nguyên văn ư?

Mệnh của Lý Ngự sử, tự thân và Sát cả hai đều vượng, Thực thần chế Sát làm dụng, càng mừng ở chổ thổ kim thủy mộc sinh trợ khắc chế lẫn nhau, thần khí trong mệnh lưu chuyển thông suốt, chế Sát sinh Tài, đây chính xác mới là biểu hiệu của hiển quý, chứ không phải chỉ có Tài làm dụng mới quý.

 

Nguyên văn:

Trường hợp Tài dụng Sát Ấn, bè đảng Sát là kị thần, dùng Ấn để hóa chúng, cách liền trở thành các cục giàu có (phú cục), nếu thổ mùa đông gặp trường hợp này cũng là quý cách.Như mệnh Triệu Thị lang:
Ất sửu / Đinh hợi / Kỷ hợi / Ất hợiỞ đây hóa Sát tức là hóa giải đóng băng, thêm không lộ Tài mà tạp Ấn cho nên quý hiển. Nếu Tài dụng Sát Ấn mà chỉ có một Ấn, Tài Sát đều thấu, không những không hiển quý mà còn chẳng giàu có.

Từ chú thích:

Mệnh Triệu Thị lang, Tài tàng và không phá Ấn, Đinh hỏa hóa Sát giải trừ băng giá, ứng với mệnh phú quý. Then chốt là ở Ấn, dụng thần là Ấn không được có Tài, nếu Tài thấu ra thì hùa với bè đảng Sát để phá Ấn, sao có thể hi vọng phú quý được.

Nguyên văn:
Còn trường hợp Nhâm sinh ngọ nguyệt, Quý sinh Tỵ nguyệt, Tài đơn thấu mà vẫn quý hiển, lại thêm nguyệt lệnh ám Quan. Như mệnh Lâm Thượng thư: Bính dần / Quý Tỵ / Quý mùi / Nhâm tuất, thuộc trường hợp này.

Lại có trường hợp Nhâm sinh Tỵ nguyệt, Tài đơn thấu mà cũng quý hiển là vì nó thấu Bính tàng Mậu, bỏ Sát mà đến với Tài, giống như giữ lại cái đẹp, mà bỏ cái người ta tặng vậy. Như mệnh Vương Thái phó thuộc trường hợp này:

.. Tài……….Kiếp …………………….. Tỉ
Bính thìn / Quý Tỵ / Nhâm tuất / Nhâm dần
…………..Bính-Mậu-Canh………….
…………..Tài – Sát – Kiêu

Từ chú thích:

Hai mệnh họ Lâm và họ Vương, đúng là đơn dụng Tài. Tỵ nguyệt thấu Bính hỏa, chân thần đắc dụng, đương nhiên quý hiển. Nhưng Nhâm Quý gốc yếu (căn khinh), vận hỉ giúp cho thân, vào tuổi trung niên, vận trình phương tây bắc (Bính thân, Đinh dậu, Mậu tuất, Kỷ hợi, Canh Tí, Tân sửu), thể dụng phù hợp. Thời trẻ vận Giáp ngọ Ất mùi đều không đẹp, hai người tương tự nhau. Nếu bảo do ám Quan mà quý hiển, thì vận thích hợp với Tài Quan; còn cho rằng bỏ Sát mà quý hiển thì Sát vốn chẳng cần phải bỏ, tựa như lý luận không đầy đủ vậy.

Nguyên văn:

Về phần Kiếp Nhận quá mạnh, bỏ thì phải Tài theo Sát, như mệnh một quan Thượng thư: Bính thìn / Bính thân / Bính ngọ / Nhâm thìn, đã biến hóa rồi lại còn biến thêm vậy.

Từ chú thích:

Mệnh này nhật nguyên tọa Nhận, Sát lộ Nhận tàng, thân cường địch được Sát dù thủy mùa thu thông nguồn; còn thân lại vượng, nếu không có Kiếp Nhận trùng điệp trợ giúp cố nhiên không thể dụng Sát; thêm vào đó trung niên vận trình tây bắc, hóa Sát thành quyền, Tài theo Sát mà hóa, nên cần quy về Thiên Quan cách. Nay từ Tài cách mà luận ra, đúng là biến của biến rồi.

Chương 40. Luận Thất Sát thủ vận

0

Nguyên văn: Thiên quan thủ vận, tức là lấy Thiên Quan chỗ thành cục phân ra mà phối hợp. Sát dụng Thực chế, Sát trọng Thực khinh thì trợ Thực, Sát khinh Thực trọng thì trợ Sát, Sát Thực quân bình mà thân nhược thì trợ thân. Kị có Chính Quan hỗn tạp, sợ Ấn thụ đoạt Thực vậy.

Từ chú: Sát dụng Thực chế, tức là Thực thần chế Sát cách vậy. Không luận Sát khinh Thực trọng, hay Sát trọng Thực khinh, đều lấy thân cường là quan trọng hàng đầu.
Sát khắc thân, Thực tiết khí, lấy địch chế địch, không phải thân cường thì không thể dùng vậy. Thân chủ cường kiện, Sát vượng Thực cường, thì mệnh cực quý. Nếu thân chủ nhược, thì không thể không dụng Ấn để chế Thực hóa Sát. Như tứ trụ không có Ấn, nhất định mệnh không tốt. Về phần thân chủ cường, mà Sát trọng Thực khinh, thì hỉ hành vận Thực Thương chế Sát, kị Quan Sát hỗn tạp, sợ có Ấn đoạt Thực, kị Tài sinh Sát. Nếu Sát khinh Thực trọng, Quan Ấn Tài vận, không phải đặc biệt không kị, mà là chủ nhiều mừng vui. Như có một vài mệnh quý như sau:

Tỉ Tỉ Nhật chủ Thực
Ất Hợi Ất Dậu Ất Mão Đinh Sửu
Nhâm, Giáp Tân Ất Kỷ,Tân,Quý
Ấn,Kiếp Sát Tỉ T.Tài,Sát,Kiêu
Tử Tuyệt Lộc Suy

Đại vận: Giáp Thân/Quý Mùi/Nhâm Ngọ/Tân Tỵ/Canh Thìn/Kỷ Mão
Là thân cường Sát vượng, dụng cách Thực thần chế Sát. Vận hành Nam phương, Thực thần đắc địa, kim thủy không thông căn là tốt. Nhưng đến Nhâm vận hợp Đinh khứ Thực, Tỵ vận hội Dậu Sửu, Sát cường, nhất định không thể có, Canh Thìn hợp Ất Dậu trợ Sát đều là vận không tốt vậy.

Nguyên văn: Sát dụng Ấn thụ, không lợi gặp đất Tài; Thương Quan vận đẹp, Ấn thụ, thân vượng đều là vận đẹp.

Từ chú: Sát dụng Ấn thụ, đóng khóa ở Ấn, tối kị Tài phá Ấn là đả thương dụng thần vậy. Thương quan là tốt, câu này sợ lầm. Đã dụng Ấn hóa, không nên tiết khí tiếp tục, đặc biệt có Ấn hồi khắc, không lấy Thương quan là kị vậy. Ấn thụ thân vượng đều là phúc địa, hỉ nhất là Ấn thụ, mà Tỉ Kiếp cũng tốt vậy. Như mệnh của Thoát Thừa tướng:

Sát Kiêu Nhật chủ Thực
Nhâm Thìn Giáp Thìn Bính Tuất Mậu Tuất
Mậu,Quý,Ất Mậu,Quý,Ất Mậu,Tân,Đinh Mậu,Tân,Đinh
Thực,Quan,Ấn Thực,Quan,Ấn Thực,Tài,Kiếp Thực,Tài,Kiếp
Quan đái Quan đái Mộ Mộ

Đại vận: Ất Tỵ/Bính Ngọ/Đinh Mùi/Mậu Thân/Kỉ Dậu/Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tí/Quý Sửu/Giáp Dần.
Tạp khí thấu Sát, tứ trụ thổ nhiều, là chế Sát thái quá, hỉ được tháng ba có Giáp mộc thấu chế Thực bảo vệ Sát, kiêm để hóa Sát, là Thực trọng thấu Ấn vậy. Hành Quan Sát vận, có Giáp mộc dẫn hóa, trái lại là vận tốt, tối kị Tài vận phá Ấn vậy. Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi là đất của Ấn thụ thân vượng, đều tốt, Đinh Nhâm hợp Sát vô hại, Mậu Thân là hậu vận đều không tốt vậy.

(Lâm chú: Mậu Thân vận, Thân Thìn ám củng hợp Tí thủy, Nhâm thủy được vượng; Kỷ Dậu vận, Thìn Dậu hợp kim, Nhâm thủy được nguyên thần sinh, duy chỉ có Giáp mộc bị Kỷ thổ hợp bán; Vận Canh Tuất, thiên can Canh kim sinh thủy; cùng về sau một mạch thủy vận. Đến Quý Sửu vận, Mậu Quý hợp, hai Tuất hình một Sửu, phương có mời Thiên Quốc, thọ đến ngoài 80 tuổi, câu “Mậu Thân hậu vô giai vận”, nói như vậy là không đủ tin tưởng. Mệnh này thiên can thủy mộc hỏa thổ thuận sinh, một mạch thông suốt, ngũ hành đều có thể dẫn hóa, là dấu hiệu cực quý. (Mời xem “Tích Thiên Tủy xiển vi”, Tiết Nguyên lưu)

T.Tài Sát Nhật chủ Ấn
Bính Dần Mậu Tuất Nhâm Tuất Tân Sửu
Giáp,Bính,Mậu Mậu,Tân,Đinh Mậu,Tân,Đinh Kỷ,Quý,Tân
Thực,T.tài,Sát Sát,Ấn,Tài Sát,Ấn,Tài Quan,Kiếp,Ấn
Bệnh Quan đái Quan đái Suy

Đại vận: Kỷ Hợi/Canh Tí/Tân Sửu/Nhâm Dần/Quý Mão/Giáp Thìn.
Vốn là Hà Tham Chính mệnh, nhật chủ nhược mà Sát trọng, lấy can giờ có Tân là Ấn thụ hóa Sát làm dụng, may mắn ở Bính hỏa Tài sinh Sát mà không phá Ấn, cả hai đều không ngại, là Sát Ấn có tình vậy. Lấy vận Canh Tí, Tân Sửu là tốt nhất, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn cũng tốt. Cái không hại Ấn, tổng hợp lại đều vô ngại vậy. Sát dụng Thương quan, hành vận cùng với Thực là giống nhau ( Thực Thương cùng loại).

 

Nguyên văn: Thất Sát dụng Tài, lấy Tài khứ Ấn mà lưu Thực, không lợi có Kiếp Tài, Thương thực là tốt, hỉ Tài sợ Ấn, thấu Sát cũng thuận.

Từ chú: Thất Sát dụng Tài, Phương thức dùng thì không giống nhau. Như thân cường Thực trọng mà Sát khinh, dụng Tài tiết Thực thương để sinh Sát, cũng có thể dụng Tài. “Tích Thiên Tủy” có nói “Tài tư nhược Sát”, có nghĩa là Tài sinh cho Sát nhược vậy. Có thân cường dụng Thực chế Sát, mà thấu Ấn đoạt Thực, dụng Tài khứ Ấn, là lấy Bệnh Dược thủ dụng vậy. Như mệnh của Chu Thừa tướng, chỗ này kiêm dùng cả hai phương pháp:

Thương Ấn Nhật chủ Tài
Mậu Tuất Giáp Tí Đinh Mùi Canh Tuất
Mậu,Tân,Đinh Quý Kỷ,Đinh,Ất Mậu,Tân,Đinh
Thương,T.Tài,Tỉ Sát Thực,Tỉ,Kiêu Thương,T.Tài,Tỉ
Dưỡng Tuyệt Quan đái Dưỡng

Đại vận: Ất Sửu/Bính Dần/Đinh Mão/Mậu Thìn/Kỷ Tỵ/Canh Ngọ
Một thủy bốn thổ, là chế Sát thái quá, vốn là có thể dụng Giáp mộc chế thổ, không như mùa Đông lực mộc yếu, không đủ khai thông thổ, mà Tài Ấn cùng thấu, không có Kiếp hộ vệ, cũng không có thể dụng Ấn. Đinh hỏa thông căn ở Tuất, Mùi có thổ hộ vệ mà thân cường, trái lại lấy Ấn là bệnh. Dụng Canh khứ bệnh, tiết Thương sinh Sát làm dụng. Vận hành Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, đất của Thực thương, có Tài tiết khí, không sợ Thực trọng. Nguyên cục Sát khinh, dụng thần ở Tài tinh, thấu Quan Sát cũng thuận, duy chỉ sợ đất Kiếp Tài mà thôi.

(Lâm chú: Đinh hỏa ở mùa Đông, mộc không đủ nhiều; Mệnh này phải biết là dụng Giáp mộc sinh thân, lấy Ấn hóa Sát, Canh kim là bệnh, mộc hỏa là hỉ dụng. Một mạch vận trình mộc hỏa, cho nên quý mệnh trở thành Thừa tướng. Từ thị ( Từ thị nói sai lầm)

 

Nguyên văn: Lấy Tài mà trợ Sát không đủ, Tài lấy đủ thỉ hỉ có Thực Ấn cùng trợ cho thân; Tài chưa đủ, thì hỉ Tài mà lộ Sát.
Từ chú: Lấy Tài mà trợ Sát không đủ, tức là lấy Tài sinh cho Sát nhược vậy. Đã lấy Tài thì hỉ Thực Ấn cùng trợ cho thân, tức là dụng Ấn hóa Sát, ở ví dụ trên mệnh của Hà Tham Chính, Tài không đủ thì hỉ Tài vượng lộ Sát, như ở trên mệnh của Chu Thừa tướng, tức ở ví dụ thứ nhất. Lại có Ấn trọng Sát khinh mà dụng Tài, như mệnh của Lưu Vận Sử:

Kiêu Ấn Nhật chủ T.Tài
Giáp Thân Ất Hợi Bính Tuất Canh Dần
Canh,Mậu,Nhâm Nhâm,Giáp Mậu,Tân,Đinh Gíap,Bính,Mậu
T.Tài,Thực,Sát Sát,Kiêu Thực,Tài,Kiếp Kiêu,Tỉ,Thực
Bệnh Tuyệt Mộ Trường sinh

Đại vận: Bính Tí/Đinh Sửu/Mậu Dần/Kỷ Mão/Canh Thìn/Tân Tỵ
Dần Tuất củng Ngọ mà thấu Bính, tức là hỏa cục, Dần Hợi lại hợp thành mộc, Sát hóa thành Ấn, Giáp Ất cùng thấu, Ấn trọng thân cường, lấy Tài phá Ấn làm dụng, không lấy Sát luận. Mậu Kỷ vận Thực thương sinh Tài, là vận tốt; Dần Mão Ấn thái vượng, bất lợi; Tốt nhất là Canh Thìn Tân 15 năm, Tỵ vận hình xung hợp đều gặp, không khỏi gặp nhiều chuyện. Nhâm vận, lộ Sát không kị, mà đến đất Kiếp tài là tối kị.

Nguyên văn: Sát mang Chính Quan, không luận khứ Quan lưu Sát, hay khứ Sát lưu Quan, thân khinh thì hỉ trợ thân, Thực khinh thì hỉ trợ Thực. “ Mạc khứ thủ thanh chi vật, vô thương chế Sát chi thần”, có nghĩa là Đứng khử mất đi vậy thủ thanh, không thương tổn chế Sát thần.
Từ chú: Quan Sát hỗn tạp, lấy thanh là quý. “ Mạc khứ thủ thanh chi vật, vô thương chế Sát chi thần”, hai lời nói trên thực ra là lấy vận khống chế mà nói.
Như mệnh của Nhạc Thống chế:

Thương Quan Nhật chủ Tỉ
Quý Mão Đinh Tỵ Canh Dần Canh Thìn
Ất Bính,Mậu,Canh Giáp,Bính,Mậu Mậu,Ất,Quý
Tài Sát,Kiêu,Tỉ T.Tài,Sát,Kiêu Kiêu,Tài,Thương
Thai Trường sinh Tuyệt Dưỡng

Đại vận: Bính Thìn/Ất Mão/Giáp Dần/Quý Sửu/Nhâm Tí/Tân Hợi
Tỵ tàng Bính hỏa là Sát, Đinh hòa là Quan, Đinh lấy Tỵ là gốc, là không hỗn tạp vậy ( Xem Tiết Được thời không vượng, mất thời không nhược). Đặc biệt, Đinh theo Tỵ thấu, Quan lấy Sát luận, lấy Quý thủy chế Sát làm dụng vậy. Tối kị gặp Mậu Kỷ thổ, gọi là “ Vô thương chế Sát vi thần” vậy. Vận Ất Mão, Giáp Dần, tuy không tốt lắm, mà cũng không có phương ngại, bởi vì không có thương hại dụng thần vậy. Quý Sửu,Nhâm Tí,Tân Hợi, dụng thần đắc địa, có thể được thuận lợi.

Quan Tài Nhật chủ Tỉ
Bính Tí Giáp Ngọ Tân Hợi Tân Mão
Quý Đinh,Kỷ Nhâm,Giáp Ất
Thực Sát,Kiêu Thương,Tài T.Tài
Trường sinh Bệnh Mộc dục Tuyệt

Đại vận: Ất Mùi/Bính Thân/Đinh Dậu/Mậu Tuất/Kỷ Hợi/Canh Tí.
Mệnh của Thẩm Lang Trung, lấy Tí Ngọ xung là khứ Sát lưu Quan, hình như luận chưa chính xác, Ngọ cũng coi như là gốc của Bính hỏa, không phải hỗn tạp vậy. Quan lấy Sát luận, cùng mệnh trên tương đồng, đặc biệt Tân kim không thông căn, thân nhược Ấn khinh, không thể không hành đến đất bang trợ thân. Chế Sát tuy tốt, ở trên hoàn toàn là chưa tốt, may mắn chỗ hành vận Thân vốn là đất Tỉ kiếp, Mậu Tuất Kỷ Ấn địa, đủ để bang thân hóa Sát, bổ túc cho kỳ không đủ vậy.
Ghi chú: Cả hai tạo này, đều không thể lấy Quan sát hỗn tạp mà luận, xem “Tích Thiên tủy chinh nghĩa” tiết Quan Sát tương hỗn.

Nguyên văn: Sát không có Thực chế mà dụng Nhận gánh Sát. Sát khinh Nhận trọng, thì hỉ trợ Sát; Nhận khinh Sát trọng, thì hỉ chế phục; không có Thực được đoạt, Ấn vận vì sao gây hại? Thất Sát đã thuận, hỗn tạp Quan thì không lợi.

Từ chú: Sát không có Thực chế, hoàn toàn là thân cường, phương có thể địch Sát, thân cường nhất định là dụng Nhận vậy. Nhưng Nhận khinh Sát trọng, vẫn cần có vận chế Sát, nguyên cục không có vận Thực Ấn cũng tốt. Sát khinh Nhận trọng, Quan vận không tổn thương, Sát trọng Nhận khinh, Quan vận có hại.

Như mệnh của Triệu Viên ngoại:

Tỉ Sát Nhật chủ Tỉ
Mậu Thìn Giáp Dần Mậu Dần Mậu Ngọ
Mậu,Ất,Quý Giáp,Bính,Mậu Giáp,Bính,Mậu Đinh,Kỷ
Tỉ,Quan,Tài Sát,Kiêu,Tỉ Sát,Kiêu,Tỉ Ấn,Kiếp
Quan đái Trường Sinh Trường Sinh Đế vượng

Đại vận: Ất Mão/Bính Thìn/Đinh Tỵ/Mậu Ngọ/Kỉ Mùi/Canh Thân
Thân cường Sát vượng, mà đúng nơi hành vận, đều là đất Ấn Kiếp bang thân là vận tốt nhất vậy. Sát tuy thuần mà nhật nguyên lại vượng, cho nên Ất Mão là đất của Quan thì có ngại, mà Canh Tân chế Sát là không tốt vậy.

 

Chương 39. Luận Thiên Quan

0

Nguyên văn: Sát dùng tấn công thân, giống như không phải là vật dụng tốt, mà cách là đại quý thì phần đa đều có tồn tại Thất Sát. Nếu khống chế thích hợp thì Sát thành cái cho Ta dùng, như đại anh hùng, đại hào kiệt, giống như khó mà tiết chế được cả phương xa, mà nơi ở có phương hướng, thì việc kinh thiên động địa bỗng nhiên mà hoàn thành. Mệnh các bậc Vương Hầu phần đa đều có tồn tại Thất Sát vậy.

Từ chú: Quan Sát là đồng loại, nhưng cách dùng thì có khác. Quan là dương với âm, hoặc âm với dương, khác loại mà hút nhau; còn Sát là dương với dương, âm với âm, đồng loại mà đẩy nhau. Cho nên Quan Sát tuy có giống nhau, là vật khắc thân mà có phân biệt có tình hay vô tình. Quan không thể hại mà Sát cần có chế, đều lấy chỗ này vậy. Quan nhiều thân nhược, Quan cũng như Sát; Sát nhẹ thân cường, thì Sát cũng giống như Quan. Chỗ này thì không thể không biết vậy.

Nguyên văn: Cách cục Thất Sát cũng không như nhau: Sát dụng Thực chế, là thượng cách; Sát vượng, Thực cường mà thân kiện, là cách cực quý. Như Ất Hợi/ Ất Dậu/Ất Mão/Đinh Sửu là cách cực quý vậy.

Từ chú: Sát vượng Thực cường, can dương và can âm là khác nhau. Can âm không sợ Sát vượng, chỉ cần có Thực chế; Can dương nhất định cần thân vượng, nếu không, khắc tiết xảy ra, không dụng Ấn thì không thể vậy. Mệnh trên, Hợi Mão hội, Dậu Sửu hội, đúng thực là cách cục hợp chế Sát; Tứ trụ thanh thuần, không có một Nhàn thần lẫn tạp, phù hợp với mệnh cực quý vậy. ( Xem lại Tiết luận Dụng thần cao thấp, chương sáu mệnh của Thương Diêm)

Nguyên văn: Sát dụng Thực chế không nên lộ Tài thấu Ấn, lấy Tài có thể chuyển Thực sinh Sát, mà Ấn có thể khứ Thực hộ Sát vậy. Nhưng mà trước Tài sau Thực, Tài sinh Sát mà Thực để chế vậy. Hoặc Ấn trước, Thực sau, Thực thái vượng mà Ấn chế, thì cách thành đại quý. Như Thoát Thừa tướng mệnh, Nhâm Thìn/Giáp Thìn/Bính Tuất/Mậu Tuất, Thìn trong có ám tàng Sát, Nhâm thấu xuất, Mậu tọa bốn chi, Thực thái trọng mà thấu Giáp Ấn, lấy làm tổn hại thái quá, sao không phải quý cách? Nếu Sát cường Thực tiết mà Ấn lộ, thì phá cục vậy.

Từ chú: Sát dụng Thực chế, không nên có Tài Ấn cùng thấu, chỗ này là rất thuần túy. Dẫn chứng mệnh của Thoát Thừa tướng, Thực thần tiết khí quá nặng, lấy Giáp Ấn làm tổn kỳ thái quá, lại kiêm dùng lấy sinh trợ nhật nguyên, cho nên hành Bính Ngọ, Đinh Mùi trở thành mệnh đại quý. Khí Nhâm thủy tiết ở Giáp, không thể dùng lại, mà thiên can Nhâm Giáp Bính Mậu,đều thuận theo tương sinh, càng là dấu hiệu của quý mệnh vậy. Về phần Tài trước Thực sau, như hiện thời mệnh của Trình tổng tham mưu trưởng: Nhâm Ngọ/Quý Mão/Kỷ Tỵ/Tân Mùi, cách này là hợp xác thực, trụ năm tháng có Tài sinh Sát vượng, can giờ có Thực lấy chế Sát, mà Kỷ thổ đắc lộc ở Ngọ, thông căn ở Mùi. Thân vượng, Thực Sát đều thanh, quả thật là dấu hiệu của đại quý vậy. Nếu Tân ở trụ năm tháng, tức là Thực thần sinh Tài, là cục Tài sinh Sát; Ngọ trong có Đinh Ấn mà thấu xuất, thì là Thực kém mà Ấn lộ, Kiêu thần đoạt Thực hộ Sát, đều là phá cách.

(Lâm chú: Mệnh của Tổng tham mưu trưởng Trình Tiềm, chính là thân nhược, là cách Sát Ấn tương sinh, lấy dụng thần nhật chủ tọa ở dưới Tỵ hỏa, đại vận Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu một mạch hỏa thổ là dụng, nên đại quý. Từ thị lấy kỳ là Thực thần chế sát, thử hỏi Mão mộc Sát tinh, can giờ là Thực thần làm sao mà chế nguyệt chi là Sát. Để lại cho người cười bậc thầy!)

 

Nguyên văn: Có Thất Sát dụng Ấn, Ấn có thể hộ Sát, vốn không là thích hợp, mà Ấn thì có tình, thì là quý cách. Như mệnh Hà Tham Chính, Bính Dần/Mậu Tuất/Nhâm Tuất/Tân Sửu, Mậu cùng Tân đều thông nguyệt lệnh, là Sát Ấn có tình vậy.

Từ chú: Quan Sát đều lấy Tài Ấn phụ giúp, nhưng Tài Ấn đều không dụng. Mệnh họ Hà đẹp ở Tài ở can năm, Tài sinh Sát, Sát sinh Ấn, Ấn lại sinh thân. Tài không phá Ấn, vị trí phối hợp rất phù hợp, liền là quý cách. Nếu Tân Sửu, Mậu Tuất đổi chỗ, liền thành Tài phá Ấn, Sát công thân, là cách cục bần tiện vậy.

Nguyên văn: Cũng có Sát trọng thân khinh, dụng Thực thì thân không thể gánh nổi, không bằng ngược lại theo Ấn, tuy không thông căn nguyệt lệnh, cũng là vô tình mà có tình, cách cũng được quý nhưng không lớn mà thôi.

Từ chú: Thực thần chế Sát lấy thân cường làm điều kiện, thân nhược thì khắc tiết nảy sinh, thân không thể đảm đương, duy chỉ có ngược lại là theo Ấn. Như mệnh Thường Quốc công, Tân Mão/Tân Mão/Quý Dậu/Kỉ Mùi ( xem lại Tiết luận Thực Thần), tức Sát trọng thân khinh, khí Thực theo Ấn, dụng Ấn hóa Sát vậy. Cách cục thanh thuần, thống nhất mà dụng.

Nguyên văn: Có Sát mà dụng Tài, Tài cùng phe với Sát, bản chất là không tốt, mà hoặc có Thực bị chế, không thể khuất phục Sát, mà Tài thì khứ Ấn để lưu Thực, thì là quý cách. Như mệnh Chu Thừa tướng, Mậu Tuất/Giáp Tí/Đinh Mùi/Canh Tuất, Mậu bị chế nên không thể khuất phục được Sát, trụ giờ thấu Canh Tài, thì lấy Thực thanh, không đủ sinh Sát. Sinh Sát tức là lấy chế Sát, cả 2 đều dụng, càng là đại quý.

Từ chú: Tài Ấn đều làm phù trợ cho Sát, thân cường Sát nhược, dụng Tài sinh Sát, không phải là không có thể vậy. Như Kỷ Dậu/Bính Dần/Canh Thìn, Canh kim cực vượng, Bính hỏa căn khinh, tất nhiên phải cần dụng Tài sinh Sát. Hành Đông Nam mộc hỏa vận, Quan lộ hiển hách, tức là lý lẽ ức cường mà phù nhược vậy. Như mệnh Chu Thừa tướng, dụng Tài khứ Ấn lưu Thực, chính là Bệnh Dược thủ pháp vậy. Tuất Mùi bên trong đều tàng chứa Đinh hỏa, nhật nguyên không nhược, Bát tự bốn thổ một thủy, là chế Sát thái quá, là kỳ bệnh thứ nhất; Tí thủy đơn độc gặp Giáp lại sợ bị tiết khí, là kỳ bệnh thứ 2; Giáp mộc không có căn, khí Ấn theo Tài, tiết khí thổ, nảy sinh Sát nhược, thành là được dùng cả hai. Sách nói: “ Hữu bệnh phương vi quý”, có giải cứu là Dược, tức là dấu hiệu của Quý cách.

Nguyên văn: Lại có thân trọng Sát khinh, Sát lại bị Ấn hóa, dụng thần không thanh, mà giúp Tài lấy cách thanh, cũng là quý cách. Như Giáp Thân/Ất Hợi/Bính Tuất/Canh Dần, là mệnh của Lưu Vận Sử.

Từ chú: Mệnh họ Lưu, Dần Hợi tuy hợp, mà được Thân ở xa xung nên giải hợp, Ất hợp Canh kim, xa mà gần, thông khí Thân cung, Dần Tuất củng hợp Bính hỏa, nhật nguyên rất vượng, cũng là Tài sinh Sát làm dụng, mượn Tài để thanh cách cục. Nhưng mà không phải không thể thân trọng vậy.

Nguyên văn: Lại có tạp khí Thất Sát, can đầu không thấu Tài để dụng thanh, cũng có thể lấy quý cách.
Từ chú: Thông thường lấy Thất Sát làm dụng; ngoại trừ Tài sinh, Ấn hóa, Thực thần chế, ba phép trên còn có tạp khí Thất sát, sao có thể là ngoại lệ?
Như mệnh của Từ Nhạc Ngô, Bính Tuất/Nhâm Thìn/Bính Thân/Bính Thân.
Là tạp khí Thất Sát, can không thấu Tài, tức là không có thể lấy Tài sinh Sát, cũng không có thể lấy Thực; Ất mộc là dư khí tàng trong Thìn, lại vừa lạc Không Vong, hóa Sát không có lực, nhưng yêu cầu để phối hợp, vẫn lấy Ấn làm dụng, tức là thông quan ( Xem “Mệnh giám”). Ấn như có lực, vẫn có thể lấy quý cách. Can đầu không thấu Tài thanh dụng, cho nên không giới hạn ở tạp khí. Như ở trên mệnh của Thoát Thừa tướng, dụng Ấn chế Thực lưu Sát mà lấy quý, không phải nhất định cần thấu Tài vậy.

 

Nguyên văn: Có Sát mà lẫn tạp Quan, hoặc là khứ Quan, hoặc là khứ Sát, lấy thanh thì quý. Như mệnh của Nhạc Thống chế, Quý Mão/ĐinhTỵ/Canh Dần/Canh Thìn, là khứ Quan lưu Sát vậy. Nói đến Quan là quý khí, khứ Quan sao như khứ Sát? Sao biết Nguyệt lệnh Thiên Quan, Sát làm dụng mà Quan thì không dụng, đều do tòng là trọng. Nếu Quan cách tạp Sát, mà khứ Quan lưu Sát, không thể là thanh vậy. Như mệnh Thẩm Lang Trung, Bính Tí/Giáp Ngọ/Tân Hợi/Tân Mão, 39 tuổi mất, luận Thương Quan xung Ngọ mà khắc Sát, là khứ Sát lưu Quan vậy.

Từ chú: Quan Sát tuy cùng loại, mà đều có phân biệt vậy. Ví như huynh đệ, đối ngoại là một nhà, mà đối nội thì anh là anh, em là em, đều có phân biệt gia tộc, không thể hỗn tạp được. Cho nên lấy thông căn mà nói, Tỵ Ngọ Mùi Dần Tuất đều là gốc của Bính Đinh, mà nói khi ứng dụng, thì đều tòng theo làm trọng, là lấy được mùa nắm lệnh vậy. Bát tự lấy thủ thanh làm quý, không luận khứ Quan hoặc khứ Sát. Lưỡng mệnh họ Nhạc và họ Thẩm, đều là Sát cách tạp Quan, mà vinh hiển có thấp cao, nguyệt lệnh Thất Sát thì Thất Sát là chân thần. Mệnh Nhạc Thống chế, Quý thủy khứ Đinh, mà dùng Tỵ chứa Bính Hỏa là khứ Quan dụng Sát, là chân thần đắc dụng; Mệnh Thẩm Lang Trung, Tí xung Ngọ hỏa, là khứ kỳ chân thần nắm lệnh, mà lưu niên ở trên có Bính hỏa, chỗ này là khứ chân thần vậy. “Tích Thiên Tủy” nói: “Chân thần đắc dụng cả đời quý, dụng thì cuối cùng chỉ là người tầm thường”. Nhưng mà điều này gắn liền chuyên dựa theo khứ lưu thủ thanh mà nói, nếu dựa vào toàn cục mà luận thì mệnh họ Nhạc tuy có đủ Dần Mão Thìn, Tài sinh Sát vượng, mà Thìn là thấp thổ, Tỵ là trường sinh, thân cường chế ít, vận hành đến đất chế Sát, hóa Sát thành quyền. Mệnh họ Thẩm tuy cũng Tài vượng sinh Quan, mà Tân kim vô căn, nếu không có Tí thủy xung khứ Ngọ hỏa, thì Sát vượng tấn công thân, chỗ nhờ cậy vận hành Tây phương Thân Dậu Tuất Mậu Kỷ vận ngang bằng, trợ thân mà hóa Quan Sát. Cả hai mệnh rõ ràng có phân ra cao thấp, không chỉ phân ra khứ Quan hay khứ Sát vậy.

Nguyên văn: Có Sát, không có Thực chế mà đang dụng Ấn, như Mậu Thìn/Giáp Dần/Mậu Dần/Mậu Ngọ, mệnh của Triệu Viên ngoại.

Từ chú: Tạo này Sát vượng nắm lệnh, chân thần đắc dụng, Dần Ngọ củng hội, hóa Sát sinh thân, dụng thần rất là rõ ràng, cũng thanh thuần mà có thể lấy quý.

Nguyên văn: Thậm chí sách nói có chế Sát thì không nên thái quá, tuy cũng có lý, nhưng mà vận hành Tài Ấn thì cũng có thể phát phúc, không nên chấp nhất vậy. Là nếu khí mệnh Tòng Sát, thì phải luận theo ngoại cách.

Từ chú: Chế Sát thái quá, lấy thái quá thành bệnh vậy. Đến kỳ khứ bệnh, tự nhiên có thể phát phúc. Nhưng mà dụng Tài dụng Ấn cũng có phân biệt. Thân vượng thì hỉ Tài mà không hỉ Ấn, thân nhược thì hỉ Ấn mà không hỉ Tài. Như Nhâm Thìn/Bính Ngọ/Bính Ngọ/Nhâm Thìn, thân cường, có hai Sát mà có bốn chế, gặp kim vận mà người phát, là hỉ Tài mà không hỉ Ấn vậy. Lại như Giáp Dần/Mậu Thìn/Nhâm Thìn/Nhâm Dần, chế Sát thái quá mà thân nhược, gặp kim vận mà phát phúc, chính là cần Ấn mà không cần Tài vậy. Cũng như Tiết luận Thực Thần, mệnh Hồ Hội Nguyên, Mậu Tuất/Nhâm Tuất/Bính Tí/Mậu Tuất, cũng là chế quá Thất Sát mà thân không vượng, cần Ấn mà không cần Tài vậy ( Xem lại Tiết luận Thực thần). Tài Ấn không thể cùng tồn tại, hỉ Tài thì không thể hỉ Ấn vậy.

Tử Vi Việt Nam Sưu  Tầm – Theo Tử  Bình Diệu Dụng

Chương 42. Luận Thương quan thủ vận

0

Chương 42. Luận Thương quan thủ vận

Nguyên văn: Thương quan thủ vận, tức lấy Thương quan chỗ thành cục rồi phân ra mà phối hợp. Thương quan dụng Tài, Tài vượng thân nhẹ, thì lợi ở Ấn Tỉ. Thân cường Tài nhẹ, thì hỉ Tài vận, Thương quan vận cũng tốt.

Từ chú: Trong bát cách, thì cách Thương quan là biến hóa nhiều nhất, thủ vận cũng nhiều biến hóa ( Xem lại Tiết Phối khí hậu được mất). Thương Quan cùng Thực thần là giống nhau vậy. Thương quan sinh Tài, là chính cách vậy. Lấy thân khinh, trọng, xu hướng là khác nhau.

Như mệnh của Sử Xuân Phương:

T.Tài Kiếp Nhật chủ Thực
Nhâm Ngọ Kỷ Dậu Mậu Ngọ Canh Thân
Đinh,Kỷ Tân Đinh,Kỷ Canh,Mậu,Nhâm
Ấn,Kiếp Thương quan Ấn,Kiếp Thực,Tỉ,T.Tài
Đế vượng Tử Đế vượng Bệnh

Đại vận: Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tí/Quý Sửu/Giáp Dần/Ất Mão
Giờ Canh Thân gặp ngày Mậu Ngọ, cũng là chuyên lộc cách vậy ( Xem Thực cách, mệnh của Tạ Các lão), mà Nhật nguyên tọa Ấn, Kỷ thổ thấu can, cũng có thể luận Nhận cách, so với mệnh họ Tạ càng cường. Nhâm thủy là Tài, tuy được trường sinh ở Thân, mà cách ly quá xa. Vận hỉ Thực thương Tài địa, Tân Hợi, Nhâm Tí, Quý Sửu 30 năm liền, hoa tròn gấm đống, quả thật là không dễ gặp. Đúng là dấu hiệu thân cường, Tài nhẹ, vận hỉ Tài địa, Thương quan cũng cần vậy.

C.Tài T.Tài Nhật chủ Ấn
Giáp Tí Ất Hợi Tân Mùi Mậu Tí
Quý Nhâm,Giáp Kỷ,Đinh,Ất Quý
Thực Thương,Tài Kiêu,Sát,T.Tài Thực
Trường sinh Mộc dục Suy Trường sinh

Đại vận: Bính Tí/Đinh Sửu/Mậu Dần/Kỉ Mão/Canh Thìn/Tân Tỵ
Đây là mệnh của La Trạng nguyên. Kim thủy Thương quan, vốn là hỉ kiến Quan, mệnh này sinh ở tháng Hợi là rất ít khí dương, Mùi trong tàng chứa hỏa không lo lắng khí hàn lạnh, Hợi Mùi củng hợp, thấu ra Ất mộc, thì Thương quan hóa thành Tài vậy. Trụ năm và trụ giờ có 2 Tí, vẫn là Thực thần sinh Tài cục, duy chỉ có nhật nguyên quá yếu, vận hỉ Ấn Tỉ bang thân. Vận Canh Thìn Tân, 15 năm là những năm tốt nhất; Mậu Dần, Kỷ Mão, 20 năm rút cuộc là Tài vượng, thân nhược . Lại còn là cục kim thủy, vốn là hỉ có hỏa sưởi ấm, trước mắt tuy nguyên cục không thấy Quan tinh, mà vận hành Đông Nam là vùng đất làm ấm mệnh, khí ấm áp, có thể lấy bỗ trợ cho kỷ không đủ. Nói đến vận thì nhất định phải nghiên cứu hợp lại cùng với nơi ở.

Thương Kiếp Nhật chủ T.Tài
Kỷ Mão Đinh Sửu Bính Dần Canh Dần
Ất Kỷ,Quý,Tân Giáp,Bính,Mậu Giáp,Bính,Mậu
Ấn Thương,Quan,Tài Kiêu,Tỉ,Thực Kiêu,Tỉ,Thực
Mộc dục Dưỡng Trường sinh Trường sinh

Đại vận: Bính Tí/Ất Hợi/Giáp Tuất/Quý Dậu/Nhâm Thân/Tân Mùi
Mệnh này cũng là Thương quan sinh Tài cách, thân vượng Tài nhẹ, cùng mệnh trên thì trái ngược. Sửu là kim khố, Kỷ Canh cùng thấu, là Tài Thương có tình vậy. Dậu Thân Tân ba vận là tốt nhất. Vận Nhâm Quý là Thương quan kiến Quan, dù vậy thân vượng cũng không là kị, rút cuộc cũng không là vận tốt. Tài là hỉ nhất, mà Thực Thương thì có phân biệt, Mậu Tuất Mùi là táo thổ, không bằng Kỷ Sửu Thìn là thấp thổ, lấy thấp thổ có thể tiết khí hỏa mà sinh kim vậy.

Nguyên văn: Thương quan bội Ấn, cần vận hành Quan Sát, Ấn vận cũng tốt, Thương Thực không sợ, Tài địa thì hung.

Từ chú: Thương quan bội Ấn, Một là do nhật nguyên nhược, Thương quan tiết khí quá nặng, lấy chế Thương phù thân mà dụng Ấn; Hai là mùa Hạ mà thủy gặp hỏa, thân cường không nhược, mà hỏa vượng mộc khô, nhất định cần có thủy để nhuận trạch. Là bởi vì điều hòa khí hậu mà dụng Ấn vậy.

Thiên Ấn Thực Nhật chủ Thiên Ấn
Nhâm Thân Bính Ngọ Giáp Ngọ Nhâm Thân
Canh,Mậu,Nhâm Đinh,Kỷ Đinh,Kỷ Canh,Mậu,Nhâm
Sát,T.Tài,Kiêu Thương,Tài Thương,Tài Sát,T.Tài,Kiêu
Tuyệt Tử Tử Tuyệt

Đại vận: Đinh Mùi/Mậu Thân/Kỉ Dậu/Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tí
Mệnh của La Bình Chương, kiêm chế Thương phù thân cùng điều hòa khí hậu dụng cả hai, được lực gấp bội. Thân Dậu Canh Tân trái lại là tốt, lấy kỳ Ấn sinh vậy. Vận Mậu Kỷ là hung, may mắn là Tây phương ở đất Thân Dậu, nguyên cục có Thiên Ấn lại vượng, trên không trở ngại lớn, mà Tuất vận nhất định là không tốt vậy. Thực Thương hỏa vận, có Nhâm thủy hồi khắc nên không sợ.

 

Nguyên văn: Thương quan mà kiêm dụng Tài Ấn, tức là Tài nhiều mà mang Ấn thì vận hỉ trợ Ấn, Ấn nhiều mà mang Tài thì, vận hỉ trợ Tài.

Từ chú: Thương quan mà kiêm dụng Tài Ấn, tức là Tài cách mà dụng Ấn, hoặc Ấn cách mà dụng Tài vậy. Tuy nguyệt lệnh là Thương quan, mà khí Thương quan để tiết cho Tài, cho nên mấu chốt là ở Tài mà không ở Thương vậy. Tài Ấn không thể dùng chung được, nhưng can đầu lưỡng thanh, cũng có thể thủ dụng ( Xem tiết Tài cách dụng Ấn). Lại hoặc có Tài Ấn một ở can và một ở chi, cả hai đều không gây trở ngại nhau, cũng lấy thanh mà luận. Như hai mệnh sau:

Ấn Kiếp Nhật chủ T.Tài
Đinh Dậu Kỷ Dậu Mậu Tí Nhâm Tí
Tân Tân Quý Quý
Thương Thương Tài Tài
Tử Tử Thai Thai

Đại vận: Mậu Thân/Đinh Mùi/Bính Ngọ/Ất Tỵ/Giáp Thìn/Quý Mão
Nhất, mệnh của Đô Thống chế, Tài đa thân nhược, hỉ Tài Ấn không gây trở ngại lẫn nhau ( Xem lại tiết luận Thương quan), là Tài vượng dụng Ấn phù thân, kiêm lấy điều hậu. Vận hành Đinh Mùi, Bính Ngọ, Ấn địa cho nên tốt; Ất Tỵ, Giáp Thìn, vận Quan Sát cũng tốt là do Quan Sát sinh Ấn, cùng thông với khí Tài Ấn vậy.

T.Tài Kiếp Nhật chủ Ấn
Nhâm Tuất Kỷ Dậu Mậu Ngọ Đinh Tỵ
Mậu,Tân,Đinh Tân Đinh,Kỷ Bính,Mậu,Canh
Tỉ,Thương,Ấn Thương Ấn,Kiếp Kiêu,Tỉ,Thực
Mộ Tử Đế vượng Lộc

Đại vận: Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tí/Quý Sửu/Giáp Dần/Ất Mão
Nhị, Mệnh của 1 Thừa tướng, là Ấn nhiều mà dụng Tài ( Xem tiết luận Ấn) . Hỉ được Đinh Nhâm không hợp, dụng Tài tổn Ấn, dụng thần ở Tài, vận hành Tân Hợi, Nhâm Tí, Quý Sửu Tài địa là tốt nhất; Giáp Dần, Ất Mão, Quan Sát vận không tốt, là do Quan Sát tiết khí Tài mà sinh Ấn vậy.

Nguyên văn: Thương quan mà dụng Sát Ấn, Ấn vận là tốt nhất, Thực Thương cũng hanh thông, hỗn tạp Quan là không tốt, gặp Tài thì nguy.

Từ chú: Thương quan kiêm thấu Sát Ấn, cũng có phân biệt thân cường nhược, thân nhược dụng Ấn phù thân, như mệnh Hạ Quý phi:

Ấn Sát Nhật chủ Sát
Kỷ Mùi Bính Tí Canh Tí Bính Tí
Kỷ,Đinh,Ất Quý Quý Quý
Ấn,Quan,Tài Thương Thương Thương
Quan đái Tử Tử Tử

Đại vận: Ất Hợi/Giáp Tuất/Quý Dậu/Nhâm Thân/Tân Mùi/Canh Ngọ
Canh kim khí bị tiết mà nhược, dụng Ấn chế Thương phù thân. Tháng 11 là kim thủy Thương quan, khí đủ hàn lạnh, dụng hỏa điều hậu. Tức ý là kim thủy Thương quan hỉ kiến Quan, kiêm lấy Ấn cùng vậy. Can năm Ấn thụ đắc dụng, mà thiếu niên cô khổ vô cùng; Giáp hợp Kỷ thổ, Tài hóa thành Ấn thụ, Tuất vận Ấn địa, cho nên chỗ này có 10 năm liền rất tốt. Quý Nhâm Thực Thương vận, có Ấn hồi khắc không sợ. Vận Thân Dậu trợ thân, bản thân cũng khả hành. Hỗn tạp Quan tinh có Ấn hóa, phương cũng vô ngại, gặp Tài phá Ấn thì thân nhất định gặp nguy vậy.

Sát Kiếp Nhật chủ Sát
Nhâm Dần Đinh Mùi Bính Dần Nhâm Thìn
Giáp,Bính,Mậu Kỉ,Đinh,Ất Giáp,Bính,Mậu Mậu,Quý,Ất
Kiêu,Tỉ,Thực Thương,Kiếp,Ấn Kiêu,Tỉ,Thực Thực,Quan,Ấn
Trường sinh Suy Trường sinh Quan đái


Đại vận:
Mậu Thân/Kỉ Dậu/Canh Tuất/Tân Hợi/Nhâm Tí/Quý Sửu.
Mệnh của Hạ Các lão, ( Xem thêm ở “ Mệnh Giám”), tuy Sát Ấn cùng gặp mà thân cường Ấn vượng, Mùi là mộc khố, Đinh Nhâm cùng hợp hóa mộc, ( Xem tiết Thâp can phối hợp tính tình), mùa Hạ hỏa thổ không phải dùng thủy nhuận thổ, không dùng điều hậu. Càng mừng gặp Thìn là thủy khố, lại là thấp thổ, có thể dùng để tiết khí Bính hỏa đang khô nóng, là gốc của Nhâm thủy, cho nên có thể dùng. Vận Tây phương Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tí, Quý Sửu, kim thủy là đất Tài Sát, hiển nhiên là phú quý. Kiếp Ấn Thực Thương đều không tốt vậy.

Nguyên văn: Thương quan mang Sát, hỉ Ấn kị Tài; nhưng mà Thương trọng Sát khinh, vận hỉ Ấn mà Tài cũng tốt. Duy chỉ có Thất Sát căn trọng, thì vận hỉ Thực Thương, Ấn thụ, thân vượng cũng tốt, mà gặp Tài thì hung vậy.

Từ chú: Thương quan mang Sát mà nguyên cục không có Ấn thụ, nói chung là hỉ có Ấn hóa Sát chế Thương phù thân, là vận tốt nhất. Như mệnh của Nhạc Ngô vậy ( Xem tiết luận Thiên Quan tạp khí Sát) . Nếu Thương quan trọng mà Sát khinh, thì thành chế Sát thái quá, có Ấn bảo vệ Sát, cho nên Ấn vận là tốt, Tài vận cũng tốt. Ví dụ minh họa:

Tài Thực Nhật chủ Thương
Tân Mão Mậu Tuất Bính Thìn Kỷ Hợi
Ất Mậu,Tân,Đinh Mậu,Ất,Quý Nhâm,Giáp
Ấn Thực,Tài,Kiếp Thực,Ấn,Quan Sát,Kiêu
Mộc dục Mộ Quan đái Tuyệt

Đại vận: Đinh Dậu/Bính Thân/Ất Mùi/Giáp Ngọ/Quý Tỵ/Nhâm Thìn
Mậu Tuất Thìn Kỷ là bốn thổ, Thương quan nặng, mà trụ giờ gặp Hợi thủy chỉ có đơn độc mỗi Sát, lấy Sát làm dụng, Thân vận tiết thổ sinh thủy là tốt. Cục đến gặp Mùi, Hợi Mão Mùi ám hợp mộc cục, chế thổ mà hộ Sát, khoa Giáp liên tục bước lên. Đến vận Giáp Ngọ, Giáp Kỷthổ hợp hóa Thương, lưu niên Kỷ Tỵ xung khứ Hợi thủy mất lộc.

Thất Sát căn trọng, như tỉnh trưởng tỉnh Chiết Giang, mệnh Trương Tái Dương:

Thương Tài Nhật chủ Sát
Quý Dậu Ất Sửu Canh Dần Bính Tí
Tân Kỷ,Quý,Tân Giáp,Bính,Mậu Quý
Kiếp Ấn,Thương,Kiếp T.Tài,Sát,Kiêu Thương
Đế vượng Mộ Tuyệt Tử

Đại vận: Giáp Tí/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân/Kỷ Mùi/Mậu Ngọ
Mệnh này tuy không phải nguyệt lệnh Thương quan, mà tháng 12 dư khí ( tháng Sửu), giờ Tí, năm Quý lộ Thương cũng lấy tạp khí Thương quan luận. Bính hỏa Thất Sát thông căn ở Dần là căn trọng. Vận Quý Hợi đến Kỷ Mùi, Thương Ấn Tỉ Kiếp đều là vận tốt. Đến đất Tân Dậu, Canh Thân, vận thân vượng, thì lại càng tốt. Đặc biệt là không được lại tiếp tục đến đất Tài Sát mà thôi.

Nguyên văn: Thương quan dụng Quan, vận hỉ Tài Ấn, Thực Thương không lợi, Nếu trong cục Quan lộ, mà Tài Ấn đều vượng, thì Tỉ Kiếp Thương quan chưa phải là tốt.

Từ chú: Thương quan dụng Quan, đại đa số là lấy điều hậu thủ dụng. Dụng Quan thì hỉ đấtTài, chế Thương hộ Quan, Ấn vận cũng tốt, toàn bộ là do ở tứ trụ sắp đặt thích hợp vậy. Như:

Kiêu T.Tài Nhật chủ Quan
Mậu Thân Giáp Tí Canh Ngọ Đinh Sửu
Canh,Mậu,Nhâm Quý Đinh,Kỉ Kỉ,Quý,Tân
Tỉ,Kiêu,Thực Thương Quan,Ấn Ấn,Thương,Kiếp
Lộc Tử Mộc dục Mộ

Đại vận: Ất Sửu/Bính Dần/Đinh Mão/Mậu Thìn/Kỉ Tỵ/Canh Ngọ/Tân Mùi
Mệnh của một Thừa tướng, lấy Thương sinh Tài, lấy Tài sinh Quan, nếu ở dưới Thương cùng thấu thì không đáng lấy vậy. Lấy Quan làm dụng, vận hỉ đất Tài, mà hành Ấn vận cũng tốt. Cho nên, vận Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỉ Tỵ, Canh Ngọ đều là vận tốt vậy.

Quan Tài Nhật chủ Thực
Giáp Tí Nhâm Thân Kỷ Hợi Tân Mùi
Quý Canh,Mậu,Nhâm Nhâm,Giáp Kỷ,Đinh,Ất
T.Tài Thương,Kiếp,Tài Tài,Quan Tỉ,kiêu,Sát
Tuyệt Mộc dục Thai Quan đái

Đại vận: Quý Dậu/Giáp Tuất/Ất Hợi/Bính Tí/Đinh Sửu/Mậu Dần
Tuy nguyệt lệnh Thương quan, mà Tí Thân hội cục, Thương hóa thành Tài, lấy Tài vượng sinh Quan mà luận, không lấy Thương Quan dụng Quan luận. Hành vận Quan Ấn trợ thân là tốt. Tài lấy vượng, không nên gặp lại, Thương quan gặp cũng không tốt. Đây là mệnh của Đan Thừa tướng vậy.

Tử Vi Việt Nam Sưu  Tầm – Theo Tử  Bình Diệu Dụng

- Advertisement -

BÀI VIẾT KHÁC