15 C
Hanoi
Chủ Nhật, 23 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 47

Luận dụng thần

0

Tác giả: Hoàng Đại Lục

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là “thần” có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn “Tứ trụ bác quan” do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn “Tường luận dụng thần” có nói: “Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành ” Một chữ sai, toàn bàn sai hết”. Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn “Tứ trụ bác quan” rằng: “Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay… Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v… vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ “Bát tự chân quyết khởi thị lục” là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài “Nghiên cứu hỷ dụng thần” đã cảm khái nói: “Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá.”

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà “nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá”! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v…, muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn “Tế phê chung thân tường giải” đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của “Kim Bất Hoán” (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v… hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như “Diễn cầm phu thê – tử nữ biểu”.

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: “Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa”. Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong “Kim Điếu Thùng” thì nói: “Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được.” Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tí Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tí, địa chi Thân Tí Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: ” Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh”. Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc “Lữ thị bát tự mệnh lý” là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: “Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?”

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển “Uyên Hải Tử Bình”, “Tam Mệnh Thông Hội” và “Thần Phong Thông Khảo”, không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như “Uyên Hải Tử Bình” v.v… lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại “dụng thần” có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn “Uyên Hải Tử Bình” sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn “Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học” rằng: “Dụng thần là linh hồn của bát tự”, “Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v…”. Thế nhưng cổ nhân trong “Tứ Ngôn Độc Bộ” lại chỉ ra rằng: “Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng”. Ý của “Hà sầu tổn dụng” chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong “Nguyệt Đàm Phú” cũng nói: ” Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí”. Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong “Tích Thiên Tủy” nói: “Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo”. Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. “Cùng Thông Bảo Giám – Tam xuân Giáp mộc luận” nói: “Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay”. Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong “Tam Mệnh Thông Hội”. Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong “Tử Bình Chân Thuyên” viết: “Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã”. Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên” lại chỉ rõ: “Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng”. Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. “Ngũ Ngôn Độc Bộ” lại nói: “Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần”. Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong “Bảo Pháp – Quyển nhị” cũng nói: ” Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín”. Chú ý nhé, ở đây nói “Thủ cách bất định” chứ không nói “Thủ dụng bất chuẩn” nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của “Tinh Vi Thiên” nói: “Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa”. Ở đây chỉ cường điệu “Chuyên luận cách cục” chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói “Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín”? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ “khả dụng” này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

“Tử Bình Chân Thuyên – Luận dụng thần” nói rằng: “Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên”. “Thần Phong Thông Khảo – Thủ cách chỉ quyết ca đoán” nói rằng: “Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan”. “Bảo Pháp – Quyển nhị” nói: “Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách”. Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng “dụng thần quá nhiều”, dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu ” dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi” và “ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)”, thế mới xuất hiện cách cục câu “Khí Ấn tựuTài”, “Khí Quan tựu Thực” v.v… Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên “Ngũ Ngôn Độc Bộ” mới nói ” Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng”, là bởi vì “Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng” ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong “Thần Phong Thông Khảo” tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có “Bệnh dược thuyết” trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói “Dược” chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện “Dược thần” mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: “Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã”. Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước “Dụng Tài”, sau đó mới nói “Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược” hay sao? Câu sau “Như dụng Thực Thần Thương Quan”, cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là “Tướng thần” mà “Tử Bình Chân Thuyên” đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong “Tích Thiên Tủy” để phản bác lại, Nhậm nói: “Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng…”. Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn “Tích Thiên Tủy” và các sách cổ điển như “Uyên Hải Tử Bình” là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn “Tích Thiên Tủy” đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn “Tích Thiên Tủy”: “Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kị, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng”. (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kị của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp “Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh”, “Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách” trong “Tử Bình Chân Thuyên”. Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này (“Tích Thiên Tủy” luận cách không kỹ càng bằng “Tử Bình Chân Thuyên”), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương “Bát cách” lại nói rằng: “Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn…, không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được”. Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích “Tích Thiên Tủy” mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương “Thể dụng” của “Tích Thiên Tủy” nguyên chú thích nói rằng: “…nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo”. Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành “Khí Ấn tựu Tài” cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của “Cùng Thông Bảo Giám” nói “Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay”. Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: “Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!”. Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: “Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn “Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)”. Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú “Tích Thiên Tủy” nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là “Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét”, dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học — DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước……

Lão Tử nói rất hay, “Ngũ sắc khiến người ta mù”. Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng “Tử Bình Chân Thuyên”, hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý “Uyên Hải Tử Bình”, “Thần Phong Thông Khảo”, “Tam Mệnh Thông Hội”, “Tử Bình Chân Thuyên” và “Tứ Ngôn Độc Bộ”. Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như ” Tứ Ngôn Độc Bộ”, “Ngũ Ngôn Độc Bộ” và “Nguyệt Đàm Phú” v.v…, nhưng ông không hề biết Tí gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất…

“Tử Bình Chân Thuyên – Luận dụng thần” nói rằng: “Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên”. “Thần Phong Thông Khảo – Thủ cách chỉ quyết ca đoán” nói rằng: “Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan”. “Bảo Pháp – Quyển nhị” nói: “Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách”.

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: ” Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục”.

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: “Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan”.

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: ” Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)

Tự học tứ trụ

0

01. LỊCH PHÁP

(Tuvivietnam – siêu tầm)

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Để giúp các bạn tiếp cận với môn Tứ trụ – giải đoán Mệnh số, các bạn nên hiểu thêm về lịch pháp

Dương lịch

Dương lịch là lịch mặt trời, tức là công lịch hiện hành, là lịch pháp quốc tế.

Khi mặt trời đi qua điểm xuân phân, theo hướng đông của Hoàng đạo đi một vòng trở về điểm xuân phân, trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là một năm hồi quy. Lấy tròn 365 ngày là một năm, còn thừa 5 giờ 48 phút 46 giây, tính sau 4 năm lại gần đủ một ngày. Cho nên cứ 4 năm lại tăng thêm một ngày, theo vị trí thêm vào tháng 2. Tháng 2 năm bình thường có 28 ngày, năm nhuận sẽ có 29 ngày, và như vậy năm bình thường có 365 ngày và năm nhuận có 366 ngày. Nếu 4 năm có 1 năm nhuận thì (5 giờ 48 phút 46 giây ) x 4 = 23 giờ 15 phút 04 giây. Như vậy một lần nhuận lại quá lên 44 phút 56 giây, dồn 25 lần nhuận (100 năm) là 17 giờ 58 phút, tức bằng khoảng 3/4 ngày, và cứ 100 năm bỏ một lần nhuận thì 400 năm sau lại không bỏ nhuận. Nếu cứ 4 năm có một nhuận và cứ 400 năm giảm 3 nhuận, tính bình quân, mỗi 365 ngày 5 giờ 49 phút 12 giây, thì 3000 năm sau sẽ có độ sai lệch là hai ngày.

Phương pháp bố trí nhuận là nhằm trên cách lấy kỷ nguyên dương lịch, tính số của năm chia cho 4 để lấy năm nhuận, năm không nhuận. Số năm của thế kỷ chia hết cho 4 thì là năm nhuận. Dương lịch mỗi năm là 12 tháng, từ tháng 1 tới tháng 7 tháng số lẻ là 31 ngày, tháng số chẵn là 30 ngày, từ tháng 8 tới tháng 12 tháng số lẻ là 30 ngày, tháng số chẵn là 31 ngày

Hình mô phỏng đó là đúng thực tế, người xưa quy định phía trên tờ giấy là Nam, phía dưới tờ giấy là Bắc, phía trái tờ giấy là Đông, phía phải tờ giấy là Tây. Quả đất quay quanh mặt trời với một hình Elip gần như tròn, như vậy hình elip này sẽ được xác định có 2 tâm. Điển phình ra của hình elip này sẽ được thể hiện một chiều quay lên phía trên tờ giấy và một chiều theo hướng ngược lại, tức phía dưới tờ giấy. Quả đất ở vào vị trí gần Mặt trời nhất là ở phía trên tờ giấy nên điểm O chính là vị trí mặt trời cần để xác định thời điểm mùa Hạ, và ngược lại với phía dưới tờ giấy, mặt trời sẽ có khoảng cách xa nhất so với điểm O nên là mùa Đông.

Về hình học thuần túy. Bạn có thể coi bất cứ điểm nào O hoặc O* là vị trí mặt trời đều đúng, nếu bảo nó là O thì bỏ O*, nếu bảo nó là O* thì bỏ O, cả hai đều xảy ra tương tự việc mặt trời khi gần nhất với điểm này (hạ) thì đối diện qua tâm phía bên kia là khoảng cách xa nhất (đông), hai bên còn lại là khoảng cách trung bình (xuân + thu) và bạn có xoay nó thế nào thì khoảng cách và chu vi của hình elip đó vẫn không đổi, và nó không ảnh hưởng gì tới tính toán cả, tôi đưa ra thông tin này trước đó với câu hỏi: “Tâm quỹ đạo quay của trái đất là ở đâu để xem khả năng nội suy thông thường của các bạn đọc tới đâu thôi, nó chẳng có gì ghê ghớm cả.

Trân trọng

Nguyễn Nhuận

02. LỊCH PHÁP

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Để giúp các bạn tiếp cận với môn Tứ trụ – giải toán Mệnh số, các bạn nên hiểu thêm về lịch pháp

Âm lịch

Âm lịch còn gọi là lịch mặt trăng, lập theo biểu kiến mặt trăng quay quanh trái đất

Trái đất quay một vòng quanh mặt trời mất 365 ngày 6 giờ 9 phút 9 giây. Từ xuân phân trở về xuân phân cần 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây. Quỹ đạo vận hành của mặt trăng gọi là Bạch đạo. Bạch đạo và Hoàng đạo là hai quỹ đạo tròn lớn trên thiên cầu, giao lệch nhau 5 độ 09 phút. Mặt trăng quay một vòng quanh trái đất, hiện khuất hai lần với hoàng đạo, qua 27 ngày 7 giờ 43 phút 11 giây ½ là thời gian cần thiết cho một vòng quay của mặt trăng, gọi là tháng hằng tinh.

Khi mặt trăng quay quanh trái đất, do trái đất quay nên vị trí với xích đạo thay đổi tới khoảng 27 độ, còn mặt trăng mỗi ngày dịch chuyển 13độ 15phút, cho nên mặt trăng tự quay hết một vòng quanh trái đất, trở lại chu kỳ cần 29 ngày 12giờ 44phút 2giây 8/10, gọi là tháng sóc vọng. Bởi vì số ngày trong mỗi tháng không kể thêm mấy giờ mấy phút… nên lấy theo tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày

Âm lịch, mỗi tháng, ngày lập lại chu kỳ là mồng một, tới khoảng ngày 15 trăng tròn. Mỗi năm, lấy ngày sóc (mồng 1) tiếp cận Lập xuân làm ngày đầu năm. Vì rằng trái đất quay một vòng quanh mặt trời thì mặt trăng quay quanh trái đất 12 + 1/2lần. Để làm tròn số, mỗi năm có 12 tháng, với 354 ngày thiếu 11 ngày, trong 3 năm sẽ dư khoảng 32 ngày, cho nên cứ 3 năm lại phải bù thêm một tháng. Cứ 19 năm phải bổ xung 7 tháng nhuận, vì vậy tháng nhuận là tháng hữu tiết vô khí. Năm có tháng nhuận là năm nhuận. Nói chung năm bình thường có 12 tháng, năm nhuận có 13 tháng

Một năm có 24 tiết khí, gồm 12 tiết, 12 khí. Sự sắp xếp tiết, khí xen kẽ nhau, 1 tiết, 1 khí lệch nhau cỡ 15 + 2/10 ngày, cho nên mỗi tháng có 1 tiết và một khí. Nếu đối chiếu tiết khí với tháng, bình quân hai tiết hoặc hai khí lệch nhau khoảng 30 ngày + 4/10 ngày, mà theo âm lịch số ngày trong mỗi tháng chỉ khoảng 29 ngày, nên cứ 34 tháng sẽ gặp 2 tháng hữu tiết vô khí với hữu khí vô tiết.

Cho nên, những tháng hữu khí vô tiết thì không thể là tháng nhuận, tháng hữu tiết vô khí mới là tháng nhuận của âm lịch.

03. LỊCH PHÁP

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Quyết 24 tiết khí (tạm lược)

Lập xuân Mậu thổ ngũ triều vinh, thập nhật bính hỏa kiến sơ sinh

Vũ thủy chi trung giáp mộc vượng

Nghĩa là: Từ Lập xuân đến hết ngày thứ 5, Mậu thổ nắm quyền, từ ngày thứ 6 đến hết ngày thứ 14 Bính hỏa nắm quyền, từ ngày thứ 15 tới hết tháng – Giáp mộc nắm quyền.

Kinh trập dương mộc cập trung minh

Xuân phân Ất mộc manh nha địa

Nghĩa là: Từ Kinh trập đến hết ngày thứ 10, vẫn Giáp mộc nắm quyền, từ ngày 11 tới hết tháng Ất mộc nắm quyền.

Thanh minh Ất mộc thất nhật năng. Bát nhật Quý thủy quy thìn gốc

Cốc vũ tiền tam Mậu thổ tình (thịnh)

Nghĩa là: Từ Thanh minh đến hết ngày thứ 7, Ất mộc nắm quyền, từ ngày thứ 8 tới hết ngày thứ 15, Nhâm + Quý thủy nắm quyền, từ ngày thứ 16 đến hết tháng là Mậu thổ nắm quyền.

Lập hạ mậu thổ quy lộc ngũ, thập nhật Canh kim tại kỷ sinh

Tiểu mãn đản minh Bính hỏa thịnh

Nghĩa là: Từ Lập hạ tới hết ngày thứ 5, Mậu thổ nắm quyền, từ ngày thứ 6 đến hết ngày thứ 14 Canh kim nắm quền, từ ngày thứ 16 tới hết tháng Bính hỏa nắm quyền.

Mang chủng Kỷ thổ lộc quy đình

Hạ chí âm sinh Đinh hỏa cục

Nghĩa là: Từ Mang chùng tới ngày thứ 10 Bính hỏa nắm quyền, từ ngày thứ 11 tới hết tháng Đinh hỏa nắm quyền.

Tiểu thử Đinh hỏa thất triều minh, Bát nhật Ất mộc quy vượng địa – Đại thử thời lai Kỷ thổ hưng

Nghĩa là: Từ Tiểu thử đến hết ngày thứ 7 Đinh hỏa nắm quyền, từ ngày thứ 8 tới hết ngày 15 Giáp Ất mộc nắm quyền, từ ngày thứ 16 tới hết tháng Kỷ thổ nắm quyền.

Lập thu Mậu thổ khôn sinh ngũ, thập nhật Nhâm thủy bán cung sinh

Xử thử Canh kim quy Lục địa

Nghĩa là: từ Lập thu đến hết ngày thứ 5 mậu thổ nắm quyền,từ ngày thứ 6 tới hết ngày thứ 14 nhâm thủy nắm quyền, từ ngày thứ 15 tới hết tháng Canh kim nắm quyền.

Bạch lộ trực thị thái bạch kim

Thu phân chính vượng Tân kim địa

Nghĩa là: Từ Bạch lộ tới hết ngày thứ 10 Canh kim nắm quyền, từ ngày thứ 11 tói hết tháng Tân kim nắm quyền.

Hàn lộ Tân Kim thất nhật sinh, bát nhật Đinh hỏa Quy vượng xứ

Sương giáng Mậu thổ hướng thịnh dương

Nghĩa là: từ Hàn lộ tới hết ngày thứ 7 Mậu thổ nắm quyền, từn ngày thứ 8 tới tới hết ngày 15, từ ngày thứ 16 tới hết tháng Mậu thôt nắm quyền.

Lập đông Giáp mộc sơ sinh hợi

Tiểu tuyết Nhâm thủy vệ phương hành

Nghĩa là: từ Lập đông đến hết ngày thư 5 Mậu thổ nắm quyền, từ ngày thứ 6 tới hết ngày thứ 14 Giáp mộc nắm quyền, từ ngày thứ 15 tới hết tháng Nhâm thủy nắm quyền.

Đại tuyết dương sinh Đinh hỏa cục

Đông chí Quý thủy lục quy manh

Nghĩa là: từ Đại tuyết tới hết ngày thứ 10 Nhâm thủy nắm quyền, từ ngày thứ 11 đến hết tháng Quý thủy nắm quyền.

Tiểu hàn Quý thủy thất nhật vượng, bát nhật Tân kim sửu tàng hình

Đại hàn Kỷ thổ bán minh nguyệt, tứ minh bát tiết tồn tế kinh.

Nghĩa là: từ Tiểu hàn cho tới hết ngày thứ 7 Quý thủy nắm quyền, từ ngày thứ 8 tới hết ngày thứ 15 Canh kim nắm quyền, từ ngày thứ 16 tới hết tháng Kỷ thổ nắm quyền

Theo tiêu chí những ngày nguyệt lệnh nắm, ứng dụng với thiên can địa chi, có thể phân định sự mạnh yếu của can và chi, nó có tác dụng rất lớn trong việc dự đoán.

04. LỊCH PHÁP

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Để giúp các bạn tiếp cận với môn Tứ trụ – giải toán Mệnh số, các bạn nên hiểu thêm về lịch pháp

Huyền Sóc, Vọng Hối

Mặt trăng chuyển động quanh trái đất, góc độ lệch giữa mặt trăng và trái đất mỗi ngày đêm ước chừng 13độ 10phút. Do độ lệch góc mặt trăng, theo chu kỳ sáng dần đến tối dần và ngược lại. Khi mặt trăng ở vào vị trí giữa mặt trời và trái đất, lúc ấy mặt trăng và mặt trời cùng kinh độ. Chúng ta chỉ nhìn thấy ánh sáng phía sau của mặt trăng nên sinh ra hiện tượng mờ tối và gọi là ngày sóc (ngày mồng một); và sau đó cỡ 5 ngày thì độ độ lệch của mặt trăng với mặt trời là khoảng 60độ, lúc này mặt trăng có hình lưỡi liềm gọi là Huyền, và đến 7, 8 ngày sau đó độ lệch này cỡ 90độ thì ánh sáng mặt trăng là một nửa hình tròn đầy gọị là bán nguyệt Thượng huyền. Khi độ lệch là 180độ, mặt trăng và mặt trời thẳng hàng cùng một kinh độ, ánh sáng mặt trăng được thấy nguyên hình tròn, gọi là Mãn nguyệt (Vọng). Sau khi trăng tròn, phần sáng mặt trăng dần dần nhỏ khuyết lại thành Hạ huyền, dần đến tối hẳn và chu kỳ lập lại tròn một tháng.

Trái đất tự quay một vòng là một ngày, còn gọi là ngày mặt trời. Chúng ta dùng đồng hồ để tính giờ, gọi là giờ mặt trời trung bình. Tai sao gọi là giờ mặt trời trung bình ? Vì trái đất quay với tốc độ không có quy tắc biến hóa gì nên mới lấy trung bình. Mặt trái đất hướng về mặt trời là ban ngày, mặt trái đất quay lưng về phía mặt trời là ban đêm.

Sau tiết xuân phân, mặt trời chiếu bắc bán cầu dần dần dài thêm. Cho nên bắc bán cầu đêm ngắn ngày dài. Còn Nam bán cầu thì trái ngược lại. Sau tiết thu phân, mặt trời chiếu nam bán cầu dần dần dài thêm, nên Nam bán cầu ngày dài đêm ngắn còn bắc bán cầu trái ngược lại.

Theo sự phân bố ngày đêm, lịch mặt trời chia ra 24 giờ. Mỗi giờ có 4 khắc, mỗi khắc 15 phút, cộng là 60 phút. Trong một ngày một đêm là 1440 phút. Mỗi phút 60 giây nên một ngày có 86.400 giây.

Âm lịch (lịch mặt trăng) chia một ngày một đêm là 12 giờ, mỗi giờ này ứng với hai giờ dương lịch. Mỗi một giờ lại chia làm đầu giờ và chính giờ. Hợp tính một giờ là 8 khắc, tức đầu giờ 4 khắc và chính giờ 4 khắc. 12 giờ lấy địa chi là đại diện (danh xưng).

05. LỊCH PHÁP

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Để giúp các bạn tiếp cận với môn Tứ trụ – giải toán Mệnh số, các bạn nên hiểu thêm về lịch pháp

Can Chi

Can Chi là gọi chung Thiên can và Địa chi.

Người xưa dùng để ghi năm, tháng, ngày. Nghĩa của Can là cành nhánh cây cối. Lần lượt lấy thiên can phối với địa chi, mười can và 12 địa chi phối hợp một vòng là 60 năm thì khép kín. Tục gọi là giáp Tí xoay vần trở về ban đầu, sử dụng tuần hoàn… Ý nghĩa ban đầu của Can, Chi và cách sắp xếp thứ tự là để chỉ một quá trình Sinh, Trưởng, Hóa, Thu, Tàng của vạn vật, dùng để chỉ sự sinh sản, phát triển, suy thoái diệt vong của vạn vật, phục hồi luân chuyển một quá trình sống. Người thời nay cho Can Chi là Lượng, Số lượng, cùng cụ thể hóa tính chất thời, không, sinh vật hướng lượng.

Là một hệ thống tập hợp có tính độc lập, có hàm ý sâu xa về bối cành thời gian – không gian,thể hiên tính tương đối và tính nhất quán của thiên văn học cổ.

Địa chi còn gọi là thập nhị chi, thời trung cổ cũng dùng để biểu thị ngày, tháng, năm; ; gọi chung là: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Ý nghia ban đầu và cách sắp xếp của địa chi cũng để chỉ quá trình sinh trưởng hóa thu tàng của sự vật, thể hiện sự phát sinh, phát triển, diệt vong của cả quá trình hoàn chỉnh của sự vật

Địa chi phố âm dương, phương vị, ngũ hành, thời gian, bát quái, Hà Lạc .v.v. thể hiên tư tưởng đầy đủ của “ trời người tương ứng” với quan hệ hữu cơ giữa các sự vật với nhau

Cách tính Can chi của năm

Từ ngày xưa, người ta đã dùng can chi để tính năm. So với công nguyên, năm thứ 4 công nguyên là năm Giáp Tí. Vì thễ lấy năm theo công nguyên trừ đi ba, chia cho 60 (60 là một vòng hoa giáp), số dư là số thứ tự của can chi.

Công thức; (số năm ta cần tìm – 3) : 60 = thương và số dư. Số dư là số thứ tự của can chi theo bảng dưới:

Hoặc bạn muốn đơn giản hơn. Vào dịch vụ Viettel Plus – Xã hội – Lịch âm dương – Nhập chỉ số ngày tháng âm hoặc dương cần tra cứu, sẽ được thông tin bạn cần dùng.

Địa chi của giờ là cố định không đổi. Từ 23 giờ tới 1 giờ là giờ Tí, từ 1- 3 là Sửu, từ 3 – 5 là Dần, từ 5 – 7 là Mão, từ 7 – 9 là Thìn, từ 9 – 11 là Tỵ, từ 11 – 13 là Ngọ, từ 13 – 15 là Mùi, từ 15 – 17 là Thân, từ 17 – 19 là Dậu, từ 19 – 21 là Tuất, từ 21 – 23 là Hợi.

Thiên can giờ thì dựa vào thiên can ngày để tính. Bởi một ngày bắt đầu từ giờ Tí lúc nủa đêm. Sau đó theo chu kỳ lục thập hoa giáp, Giáp Tí, Ất sửu… tuần tự kết thúc cho nên ta biết can chi của giờ cho chùng ngày

Can chi của giờ không được dịch vụ trên cung cấp, bạn có thể theo khẩu quyết dưới dây để tự tính:

Giáp, Kỷ Hoàn giáp Tí, Ất Canh Bính tác sơ

Bính Tân Sinh Mậy Tí, Đinh Nhâm Canh Tí thủ,

Mậu Quý Khởi Nhâm Tí, chu nhi phục khởi cầu.

06. DỰ BÁO MỆNH SỐ

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Lời dẫn nhập

Hy Di Trần Đoàn là một đạo sỹ nổi tiếng đầu đời bắc Tống. Là một nhà Dịch học lớn. Ông soạn ra Vô cực đồ, tiên thiên đồ, ông cho rằng vạn vật nhất thể, chỉ có “Nhất đại pháp lý” vượt hẳn vạn hữu là tồn tại. Tư tưởng của ông sau được Chu Đôn Di, Thiệu Ung suy diễn thêm trở thành bộ phận cấu thành Lý học đời Tống, nó là một cống hiến tương đối lớn trong sự phát triển của lịch sử tư tưởng và triết học cổ. Người xưa hay gọi ông là Trần Đoàn Lão Tổ.

Những kiến thức làm ông nổi tiếng đương thời là thuộc về khoa Lý Số mà các học giả đời sau nhất nhất khẳng định ông là tổ sư, là người sáng lập. Đây là một khoa nghiên cứu và tiên đoán về con người, đời người, dựa trên yếu tố chính là năm tháng ngày giờ sinh của một con người.

Dòng chảy nảy được khởi thủy, hình thành khoảng 4000 năm trước công nguyên, và thẩm thấu đến tận hôm nay.

Năm tháng ngày giờ sinh là một tiêu chí mà từ đó một vài nhánh học thuật khác khai thác. Từ sự diễn đạt quy luật của vũ trụ, với nền tảng học thuyết âm dương ngũ hành, nó được sử dụng như một phương tiện truyền đạt thông tin. Năm tháng ngày giò sinh còn gọi là Bát Tự, hay bát tự Hà Lạc, hay Tứ Trụ, Nó dùng thiên can địa chi để biểu diễn quy luật khác nhau của sinh mệnh, sinh mệnh con người do từ trường của trái đất, lực hấp dẫn và các loại trường cảm ứng, tương tác khác gây nên với mỗi quy luật riêng và bối cảnh khong thời gian cụ thể nào đó, nó gắn liền với một quy luật Sinh Lão Bệnh Tử của con người, nó cũng giống như một quy luật phổ biến của bốn mùa chẳng hạn, hoặc tươi tốt, hoặc già cỗi và chết.

Khoa dự đoán lý số hay khoa dự đoán tứ trụ đêu là một nhánh thuật phát sinh từ Dịch. Nó là một môn học vấn xem xét sự cân bằng tổng thể của các can chi từ tám chữ thiên can địa chi trong năm tháng ngày giờ sinh để nói lên quy luật sinh mệnh của con người. Nó giống như các môn dự đoán khác là có thể do lường được.

Đã có nhiều sự so sánh khác nhau, giữa xem tướng đoán mệnh chẳng hạn rằng cái nào hơn cái nào? nó là một hay là hai môn thuật? Vì sao từ tám chữ Can Chi lại hình thành họa phúc một cuộc đời? Biết được mệnh vận thì tốt hơn hay không biết thì tốt hơn? Biết hay không biết thì có thể làm thay đổi phần nào về mệnh vận của mình không ? Những điều này hình thành nỗi buồn vui của một cuộc sống, và do vậy nó là nguyện vọng của nhiều người muốn tìm hiểu khám phá nó.

Chúng tôi cũng sẽ trích lọc một vài mảng kiến thức cơ bản và các yếu lĩnh trong nghệ thuật dự đoán cần được quy nạp tương đối hệ thống để bạn đọc tham khảo, với quan niệm rằng: chúng tôi sẽ cố gắng để đạt tới mức độ cao nhất tới các bạn.

Cuộc sống là người thầy vĩ đại nhất đễ chúng ta kiểm chứng và học tập.

07. TAM NGUYÊN CỦA TỨ TRỤ

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Mỗi người chúng ta sống trong thế giới này, vì sinh vào các trạng thái khác nhau của vũ trụ nên được hưởng một khí âm dương bẩm sinh trong đục, vượng suy khác nhau. Bát tự hà lạc hay năm tháng ngày giờ sinh của một người còn được gọi là Tứ trụ, lấy sự vượng suy của can Ngày trong tứ trụ làm trung tâm, còn những can chi khác theo hành khí ngũ hành mà có thể sinh khắc phù trợ hay hạn chế can ngày sinh để tổ hợp thành một hệ thống. Tổ hợp của can ngày sinh với các can chi khác trong tứ trụ là biểu tượng của âm dương ngũ hành cấu tạo thành đặc điểm của một con người cụ thể. Phú quý, phúc họa của con người đều xuất phát từ can ngày sinh và thông qua nó để thể hiện trạng thái của người đó được chung kết lại trong vũ trụ, do đó can ngày sinh được gọi là “Nhật nguyên” hay “Nhật chủ”.

Nhật chủ xác định mười thần. Nhật chủ là tôi, là chính mình. Quan hệ giữa thuộc tính ngũ hành đối với Nhật chủ với ngũ hành của các can chi còn lại hiển thị trong một tứ trụ không ngoài: Chính – Thiên – Sinh – Khắc.

Can ngày là dương gặp các can dương khác là sự gặp gỡ đồng tính nên gọi là Thiên;

Can ngày là dương gặp các can âm khác là sự gặp gỡ khác tính nên gọi là Chính;

Can ngày là âm gặp các can khác là âm đó là sự gặp gỡ đồng tính nên gọi là Thiên;

Can ngày là âm gặp các can dương khác là sự gặp gỡ khác tính nên gọi là Chính;

Các can khác với Nhật chủ còn có năm một quan hệ: Ngang bằng tôi; Sinh tôi; Tôi sinh; Khắc tôi và Tôi khắc.

* Cái sinh ra tôi là nghĩa Cha Mẹ nên đặt tên là Ấn thụ. Ấn tức là âm, tụ tức là được. Ví dụ cha mẹ có ân đức thì che chở cho con cháu, con cháu dduwwcj hưởng phúc của cha mẹ. Nhà nước cho làm quan phong cho chức tước là được nhận Ấn quyền – quyền quản lý trong tay. Quan không có Ấn là không có chỗ dựa, cũng như người ta không được nương tựa vào cha mẹ vậy.

* Cái tôi sinh nghĩa là con cái nên đặt tên là Thực thần. Côn trùng ăn hoa quả làm tổn thương cây cối, Nhưng con ngườ ăn của cải lại tạo ra của cải.

* Cái khắc tôi là tôi bị khốn chế, bị ràng buộc, nên đặt tên là Quan Sát. Nhà nước phong quan cho tức là mình thuộc người nhà nước, phải phục vụ mãi đến già mới thôi. Như thế tuy được chức quan nhưng vì đó mà bị ràng buộc vậy.

* Cái tôi khắc là cài bị tôi khống chế, ràng buộc nên đặt cho tên là Thê Tài. Như người ta lấy vợ lại được của hồi môn là gia trang điền thổ, tài sản cấp cho dùng tức vợ đãi cho tôi. Tôi được vợ là nội trợ trong nhừ nên giảm bớt khó khăn.

* Cái ngang hòa tôi là anh em. Nên đặt tên là Ngang vai hoặc Huynh Đệ.

Trong các mổi quan hệ sinh khắc, chế hóa ở trên, khi can nhật chủ của tôi là dương gặp các can âm khác của tứ trụ là Chính, gặp các can dương khác là Thiên. Ví dụ: Can Nhật chủ dương gặp can Âm cử tứ trụ sinh tôi là Chính Ấn, nếu gặp can dương của tứ trụ sinh tôi là Thiên Ấn. Như vậy mối quan hệ ngũ hành trong tứ tru sẽ có sự phát sinh 10 thần.

— Sinh tôi là cha mẹ. Can âm sinh tôi dương, Can Âm sinh tôi dương là Chính Ấn.

Can dương sing tôi dương, can âm sinh tôi âm là Thiên ấn

— Tôi sinh là con cái. Tôi âm sinh can dương, tôi dương sinh can âm là Thương quan. Tôi âm sinh can âm, tôi dương sinh can dương là Thực thần

— Khắc tôi là Quan sát. Can âm khắc tôi dương, can dương khắc tôi âm là Chính quan. Can âm khác tôi âm, can dương khắc tôi dương là Thất sát

— Tôi khắc là thê tài. Tôi âm khắc can dương, tôi dương khắc can âm là Chính tài. Tôi âm khác can âm, tôi dương khắc cam dương là thiên tài.

— Ngang hòa tôi là anh em. Can âm gặp tôi âm, can dương gặp tôi dương là ngang vai gọi là Tỷ. can âm gặp tôi dương, cam âm gặp tôi dương gọi là Kiếp tài.

08. THIÊN NGUYÊN VÀ CÁCH XÁC LẬP

MỘT LÁ SỐ THEO TỨ TRỤ

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Các can và chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương, trong đục của trời đất. Thiên can chủ về lộc. Địa chi chủ về thân. Con người là vật trong trời đất, trong địa chi vốn đã tàng chứa khí trung hòa bẩm sinh của âm dương ngũ hành, là chủ mệnh. Sự phán đoán tổng hợp là một thể thống nhất trong mệnh lý học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thông qua sự khảo sát về can chi của một người, ta có thể chỉ ra gần như toàn bộ cát hung, tiền đồ, họa phúc, thuận nghịch của cả đời người đó. Bản thân mệnh của con người vốn gắn chặt với các thông tin từ tứ trụ – “Đó là tổng hợp của mọi phép tắc”. Tất cả mọi suy đoán đều lấy Can Chi trong tứ trụ làm cơ sở. Nếu kết hợp với tướng tay, tướng mặt trạch vận…thì có thể đạt tới sự chính xác, và chi tiết tới kỳ diệu.

Thiên nguyên tức là hàng can trong năm tháng ngày giờ sinh trong tứ trụ. Địa nguyên là hàng chi trong năm tháng ngày giờ sinh. Và nhân nguyên là khí trung hòa bẩm sinh của âm dương ngũ hành trong địa chi – Nó tựa như Can tàng trong chi vậy. Sự suy đoán về thiên nguyên, chủ yếu thông qua sự luận đoán về sự hóa hợp hình xung sinh khắc của ngũ hành giữu can ngày với ba can còn lại, cũng là sự ước đoán vè mười thần, nó là sự suy luận để phán đoán về sự mạnh yếu tổn hại hay có ích của sự việc tương úng mà can Ngày làm chủ được lộ tra trong tứ trụ.

Từ trong thiên tượng, có thể thấy được mức độ trong sáng, nặng nhẹ của khí bẩm sinh con người. Trong mười thần lộ ra, dưới điều kiện tiên quyết với độ mạnh yếu, vượng hay suy của tứ trụ không bị phá vỡ bởi sụ xung khắc hay hình hại thì tổ hợp đó trong sáng.

Tứ trụ lộ ra là Thực (thương) sinh Tài; Tài sinh Quan (sát); Quan (sát) sinh Ấn; và Ấn sinh Thân (nhật chủ) – Hoặc giả là Thực thần chế Sát – Thương quan hợp Sát; Thương quan (thực thần) mang Ấn (phủ ấn) – Nghĩa là sự trình diễn của của ngũ hành qua nguyên tắc sinh khắc chế hóa là có tình (thuận quy tắc) – Đó là những yếu tố ám chỉ một mệnh số Phú Quý.

Những tổ hợp còn lại thì cần căn cứ vào sự khác nhau mà kết luận.

Thiên can lộ ra tức là thiên can của tứ trụ xác định mười thần.

09. Đề xuất mẫu một lá số tứ trụ

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Ví dụ: một người sinh hồi 2g ngày 13 tháng 12 năm 1973 âm lịch.

Thuật dự đoán tứ trụ thiết lập một mẫu bảng biểu như ở dưới:

Khôn tạo – sinh lúc 02:00 ngày 5 tháng 1 năm 1974 (Dương lịch) (13/12/1973 ÂL)

Tiểu hàn vào hồi 0g16′ ngày 7 tháng 1 (Dương lịch)

Mạng: Tang đồ mộc Thai nguyên: Ất Mão Sinh vào mùa: Đông

Mệnh: 6 Bạch Cung mệnh: Ất Mão

Nó bao gồm một bảng biểu bốn cột dọc và hai cột ngang:

Tính từ trái qua phải:

— Cột dọc thứ nhất: ghi nhận các thông tin xuất hiện liên quan tới năm sinh – gọi là trụ năm

— Cột dọc thứ hai: tương tự cho trụ tháng

— Cột dọc thứ ba: tương cho trụ ngày

— Cột dọc thứ tư: tương thự cho trụ giờ.

Tính từ trên xuống dưới:

— Hàng ngang thứ nhất:

+ Dòng thứ nhất ghi mười thần lộ ra theo bốn can của năm tháng ngày giờ sinh của người đó – Độ vượng suy của 12 cung ký sinh theo trụ tháng

+ Dòng thứ hai ghi trị số của năm tháng ngày giờ sinh của người đó và tên gọi Can chi của năm tháng ngày giờ sinh (ghi theo âm lịch).

+ Dòng thứ ba ghi các Can tàng phục trong chi theo các chi từng cột dọc tương ứng.

+ Dòng thứ tư ghi mười thần theo các can tàng trong chi theo các cột tương ứng.

— Hàng ngang thứ hai: Ghi các sao hoặc thần xuất hiện theo các can chi với các quy nạp khác.

Các cột dọc tương tự nhau, lần lượt ghi:

— Dòng 1: Giới hạn tuổi bước vào vận, tên Can Chi của vận

— Dòng 2: Mười thần đương quyền, độ vượng suy của nhật chủ theo chi vận

— Dòng 3 (hoặc 4 hoặc 5): Những năm gặp thiên khắc địa xung với từng trụ: năm tháng ngày giờ, kèm theo trị số tuổi của năm đó.

Lập thêm quẻ Dịch để tăng bổ, nếu ta biết về Dịch. Ở đây ta dành thêm một cột ghi các sao không hiện ra theo Can Chi của tứ trụ, chờ tăng bổ ở vận hoặc lưu niên để suy đoán

 

10. Thử luận giải một lá số

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

– Xét mối cân bằng về ngũ hành, Người này thân nhược chứ không thể là thân vượng được, bởi lực làm hao tổn khắc chế xì hơi mạnh áp đảo lực sinh trợ. Dụng thần thứ nhất là Kiêu (Giáp) lại bị hợp nên mất. Dụng thần thứ hai là Kiếp tàng trong Ngọ lại bị xung nên cũng mất

– Đặc điểm lớn nhất của người này là nhiệt tình hướng ngoại (Bính hỏa mùa đông được mộc sinh vượng)

– Mệnh có hợp xung hình hại đan xen là quan hệ xã hội phức tạp. Tài tàng và chỉ là dư khí thôi nên người này không thể giàu dù rất tiết kiệm

– Thích đẹp và “thích cả tiền”. Lãng mạn và chọn lọc theo cả hai tiêu chí. Khoảng từ 21 tới 30 có thể buông thả trong tình dục – Từ 51 tới 60 cũng vậy.

– Bạo ngôn. Ly hôn và tái giá (Thương – Quan trùng lặp lại gặp Kình dương và âm dương sai lệch)

– Cội nguồn không rõ ràng (Kiêu ở ngôi Tí là không có mộ tổ)

– Không giàu, nhưng ngày ba bữa cơm vô lo. Có lối sống kiểu mệnh phụ

– Tuổi thọ có thể không cao

11. QUY TẮC HỢP HÓA – SINH KHẮC

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Đầu tiên là can chi hợp. Ở đây có sự phân biệt giữa sự hợp có hóa và sự hợp không hóa.

Thiên can có hợp hóa được hay không phải lấy can ngày làm chủ. Can tháng hoặc can giờ làm hợp, chi tháng thấu ra ngũ hành giống nhau thì mới gọi là hợp hóa.

Ví dụ: Giáp hợp với Kỷ, Giáp hoặc Kỷ phải là can ngày, can tháng hoặc can giờ là can hợp. Khi can ngày là Giáp thì can tháng hoặc can giờ là Kỷ, hoặc khi can ngày là Kỷ thì can tháng hoặc can giờ phải là Giáp. Giáp kỷ hợp – hành mà nó hóa là thổ nên chi tháng phải là thổ, nó có thể là thổ của Thìn Tuất Sử hoặc Mùi.

Còn hai trường hợp cũng có thể hóa: một là thiên can của năm và tháng cùng hợp, chi năm là cùng hành với hành mà can hợp đòi hỏi hóa, hai là can ngày và can tháng, hoặc can ngày và can giờ hợp nhưng hành của chi tháng không đáp ứng hành mà nó hóa, nhưng ngũ hành mà nó đòi hỏi để hóa lại được thể hiện ở tam hợp cục hoặc hội cục trong các chi của tứ trụ thì cũng được coi như sự hợp có hóa.

Ví dụ ngày Canh hợp với tháng Ất, chi tháng không phải là Thân hoặc Dậu, nhưng trong tứ trụ có tam hợp Thân Tí Thìn hoặc hội cục Thân Dậu Tuất.

Địa chi hợp có hóa được hay không là do hai chi kề sát nhau, can đồng hành chi trong đó phải lộ ra hành mà nó đòi hỏi để hóa. Ví dụ Mão hợp với Tuất hành nó đòi hỏi để hóa là Hỏa, vậy hàng can đồng hành của hai chi này phải thể hiện là Bính hoặc Đinh hỏa – Ở đây, một phải là Đinh mão hoặc phải là Bính tuất. Những sự hợp không nằm kề liền nhau thì dù có hóa nhưng lực giảm đi nhiều.

Khi là thiên hợp, hoặc địa hợp, thì sau khi hợp hóa, hành mà nó hóa ra đã làm mất đi tác dụng của hành ban đầu đơn lẻ. Khi gặp hợp mà không hóa thì ngũ hành của nó vẫn độc lập giữ nguyên, nhưng khi đến đại vận hoặc lưu niên cùng mang hàn khí mà nó có thể hóa thì hợp lực đó được xác định, sức mạnh của nó tăng lên.

Thiên can tương sinh – Sự tương sinh của các can kề liền cho lực mạnh hơn các can cách nhau. Sự tương sinh của can đồng tính mạnh hơn can khác tính. Can sau khi sinh thì sức mạnh sẽ bị giảm, can được sinh thì khí mạnh lên.

Thiên can tương khắc – Hai can khắc nhau thì đều bị tổn thương, can bị khắc sẽ tổn thương lớn hơn. Khắc cách ngôi mà có can ở giữa hóa khắc thì không gọi là khắc nữa. Ví dụ Bính khắc Canh, nhưng tứ trụ có Mậu Kỷ thồ, thì Bính xì hơi sinh thổ, để thổ sinh kim, nêm gọi là liên tục tương sinh.

Trong khắc có hợp. Hợp mất sự khắc thì không còn là khắc nữa. Ví dụ Bính khắc Canh, nhưng trong tứ trụ có Tân thì nõ hợp Tân mà không khắc Canh nữa.

Can ngày bị một can nào đó khắc, nhưng can khắc đó lại bị một can khắc chế ngự (khắc nó), như vậy can ngày không bị khắc nữa.. Ví dụ can ngày là Canh, Canh bị Bính khắc nhưng Bính lạ bị Nhâm khắc – Như thế gọi là Nhâm Bính khắc nhau.

Các bạn nhớ cho là: Nó có thể tham hợp mà quên khắc, nó có thể tham hợp mà quên sinh. Chỉ khi hành đủ sức mạnh mới khắc nổi hành khác, nó là điềm gốc như gốc tọa độ vậy. Và một chân lý đơn giản phải nhớ là: “Tôi” khắc được “anh” thì anh không đủ sức để khắc “nó” – Nó là cái thứ ba được sinh thoát mà phát triển. Tôi là hành khí được xác định là khởi đầu cho một lẽ sinh hay khắc nào đó.

12. QUY TẮC HỘI CỤC – HỢP XUNG

“Hãy bắt đầu từ những điều đỏ nhất”

Thiên can hợp hóa là khí tốt. Địa chi hợp cục là phúc đức. Can hợp Chi hợp là hòa thuận, hài hòa, nói chung tốt nhiều hơn xấu. Tứ trụ có hình hại, xung là biểu hiện can chi của mệnh cục không hòa thuận, xấu nhiều hơn tốt. Đi vào cụ thể thì cần phải phân tích sự hợp đó là tốt hay có hại cho dụng thần; hình hại xung là có ích hay làm tổn thương dụng thần.

Trong các cách cục, tam hình và lục hại gặp hợp không nhiều. Nhìn chung hình hại xung chỉ có thể là từng cặp một hoặc cái hình xung hoặc hai đối với ba cái. Thông thường các trường hợp trong cách cục xuất hiện tam hội, tam hợp cục bán hợp cục, lục xung và lục hợp. Nói chung lực của tam hội cục lớn hơn lực của những cái khác, vì tam hội sẽ hình thành khí cùng một phương. Sau đó mới tới tam hợp cục. Chỉ cần ba chi của hội cục hoặc tam hợp cục đầy đủ thì chi còn lại không thể gây ra trở ngại gì đối với chúng. Khi tam hội gặp lục xung thì vẫn được xem là hội cục mạnh hơn. Khi tam hợp cục gặp lục xung thì trừ trường hợp Tí Ngọ Mão Dậu trong hợp cục bị chi liền đó xung phá ra, còn các trường hợp khác vẫn đều được xem là hợp (hợp đó tồn tại). Các chi của tam hợp cục vượng, hợp lại với nhau thì được xem là trường sinh đế vượng. Đế vượng hợp với bán mộ kho (như Hơi với Mão và Mão với Mùi). Trường sinh và mộ kho gặp nhau thì không phải là bán hợp vượng (Hợi với Mùi). Khi chi vượng bán hợp với chi liền cạnh, nhưng lại gặp chi vượng liền cạnh xung thì cũng bị xem là xung. Bán hợp bị chi vượng bên cạnh xung, nhưng xung không động thì cũng được xem là bán hợp. Bán hợp gặp chi cách ngôi xung thì bị xem là xung.

Trong bán hợp cách ngôi, nếu chi ở giữa không quan trọng, ngũ hành mà bán hợp thấu ra như bán hợp Hợi Mão chẳng hạn, chi khác là chi không quan trọng thì bán hợp đó vô dụng, nhưng tam hợp cục là hóa mộc, nếu can thấu Giáp hoặc thấu Tí thì có thể được, là có ích thì bán hợp đó được xem là có ích, ngược lại là bán hợp vô dụng. Bán hợp mà chi vượng gặp lục hợp trừ khi lục hợp đó có lực ra, nếu không thì vẫn được xem là xung (như năm Mùi, tháng Ngọ, Ngày Tí – Ngọ mùi hợp thổ, Mùi có lực thì khôn được xem là Ngọ bị xung). Khi các chi xung có Tí Ngọ Mão Dậu là sự xung của khí gốc. Tí xung Ngọ, Tí làm chủ khắc, Ngọ bị khắc, nớ có tính tương tranh, rất kịch liệt. Lực xung của Dần Thân Tỵ Hợi yếu hơn. Sự xung của Thìn Tuất Sửu Mùi là sự xung khí gốc của thổ, vì được kích lên mà vượng nên có nghĩa chỉ xung chứ không khắc. Song trong đó, quan hệ giwuax bản khí và dư khí củ can tàng trong chi được xem là sinh hoặc khắc. Sự xung cách ngôi là xung không có lực nên khôn đáng kể. Nguyên tắc là khi gặp Tam hội cục, tam hợp cụn, bán hợp vượng bán hợp mộ thì khí của hợp cục có lợi cho tứ trụ thì được xem là hỉ và ngược lại là kị. Khi xung có lợi cho tứ trụ thì dduwowccj xem là hỉ và ngược lại là kị thế thôi.

13. NHẬT NGUYÊN CỦA TỨ TRỤ

“ Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Trong mệnh lý cho dù là can ngày vốn đã yếu không được phù trợ, hay can ngày vốn đã vượng lại còn được phù trợ, đều chứng tỏ đó là mầm mống của mầm bệnh. Tứ trụ đó có được bổ cứu hay không cần phải xem xét Dụng thần

Khi can ngày yếu, nên được sinh phù. Can ngày mạnh, nên được khống chế làm hao tán hoặc xì hơi. Nhưng tứ trụ chỉ có tám chữ. Giống như một cái cân, bên này nặng thì chìm xuống và bên kia nhẹ thì ngóc lên. Dụng thần chính là cái dùng để bù thêm vào bên nhẹ hoặc làm bớt đi ở bên nặng. Vận tốt là lúc dụng thần đến quyền, nó mang lại khí đủ để cân bằng đối với tứ trụ bị mất cân bằng, nó ví như được dịch chuyển điểm đặt cái đòn gánh trên vai về trước hoặc sau để được cân bằng cho đôi quang ở hai đầu. Lúc gặp được dụng thần như thế, gọi là mệnh cục gặp được dụng thần đắc lực, vận trình đó là thời kỳ tốt đẹp nhất của cuộc đời.

Trong mệnh có dụng thần thì vận mệnh gặp nhiều thuận lợi. Dụng thần có lực thì cuộc sống nhẹ nhàng, dụng thần yếu thì cuộc sống vất vả hơn. Dụng thần bị phá hại thương tổn thì gian nan càng nhiều. Dụng thần đã yếu lại còn bị khắc chế thì chẳng khác gì, thậm chí còn tồi tệ hơn cả không có dụng thần, lúc đó phải nhờ dụng thần ở vận hoặc mong chờ và lưu niên để bổ cứu. Can ngày vượng tức thân vượng, hoặc ngược lại là thân nhược. Sự phán đoán thân vượng hay thân nhược lầ bước đầu quan trọng để tiếp tục phát triển các giai đoạn dự đoán phía sau.

Sự phán đoán cát hung của cả cuộc đời được bắt đầu từ đây.

Can ngày vượng bao gồm bốn mặt: Được lệnh, đắc địa, được trường sinh, được sinh và được trợ giúp.

* Được lệnh: Can ngày được vượng khí theo chi tháng khi rơi vào các cung: Trường sinh, Mộc dục,Quan đới, Lâm quan, và đế vượng

* Đắc địa: Can ngày gặp được trường sinh ở các chi còn lại – Với điều kện can ngày phải dương; gặp Lộc, Kình dương (khí gốc của can ngày tàng trong chi là tỷ hoặc kiếp, hoặc gặp mộ kho (can ngày dương gặp mộ kho là có gốc, can ngày âm là không có gốc hay vô khí)

* Được sinh: Can ngày được chính ấn hay thiên ấn của các chi khác trong tứ trụ tương sinh thì gọi là được sinh.

* Được trợ giúp: Can ngày và các can khác trong tứ trụ cùng loại gọi là gặp tỷ hòa hay kiếp tài trợ giúp thân, như thế gọi là được trợ giúp.

Trong mệnh cục của tứ trụ, muốn biết can ngày vượng hay không, trên mức độ lớn là phải xem can ngày theo lệnh tháng ở trạng thái như thế nào. Can ngày sinh vượng ở lệnh tháng là được lệnh, nhưng nếu không đác địa, không được sinh, không được trợ giúp thì tất sẽ bị khắc cho xì hơi, sự hao tổn lớ hơn phần được trợ giúp nên nhật chủ từ vượng có thể biến thành nhược.Tuy nhiên nếu can ngày rơi vào tháng suy, tức là không được lệnh tháng nhưng lại nhận được sự sinh trợ nhiều mà vượng thì can ngày không phải là nhược nữa.

14. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐOÁN THÂN VƯỢNG – NHƯỢC

“Hãy bắt đầu ừ những điều nhỏ nhất”

Đầu tiên là can ngày phải được lệnh, đó là điều quan trọng nhất để phán đoán thân vượng.

Thứ hai, dưới tiền đề can ngày được lệnh tháng, còn phải được một trong ba điều: đác địa, được sinh hoặc được trợ giúp, và những yếu tố đó cũng phải vượng tức có lực. Thì có thể khẳng định là thân vượng, nếu được cả ba điều thì thân quá vượng – Vượng đến cực độ

Thứ ba, trong trường hợp can ngày không được lệnh, nhưng lại có được hai diều trở lên trong số ba điều: được sinh, đắc địa, được trợ giúp, những yếu tố đó có lực mạnh thì cũng được xem là thân vượng, hoặc rất cường vượng.

Thứ tư, trong trường hợp tuy can ngày không được lệnh tháng và nó cũng chỉ được một trong ba điều được sinh, đắc địa, được trọ giúp, nhưng tam hợp cục hoặc tam hội cục trong tứ trụ là ấn cục sinh thân hoặc tỷ cục trợ giúp cho can ngày thì cũn được gọi là thân vượng

Thứ năm là trong trường hợp tuy can ngày không được lệnh tháng nhưng lại có được hai trong ba điều: đắc địa, được sinh, được trợ giúp mà hai điều đó lực lại mạnh thì vẫn được coi là thân vượng. Nhưng nếu trong các thành phần đắc địa, trường sinh, lộc, kình dương, mộ chiếm ít thì thành phần địa chi khắc tôi làm hao tán, xì hơi tôi sẽ nhiều. Can ngày sẽ rơi vào tình trạng nửa vượng nửa nhược, rất khó cân bằng, như thế rất khó tìm dụng thần, vận tốt xấu cũng khó lượng trước được. Trong trường hợp như thế, ta căn cứ thêm vào một vài điểm sau đây để lựa chọn:

a/ Nếu các ngũ hành hợp hóa của thiên can hoặc các ngũ hành hợp hóa của các địa chi là sinh phù, trợ giúp nhật chủ thì được xem là thân vượng, nếu khác chế thật chủ thì phải coi là thân nhược.

b/ Nếu bán hợp hay bán hội của địa chi, sinh phù hoặc trợ giúp nhật chủ thì được xem là thân vượng và ngược lại

c/ Nếu những khí khắc, là hao tán nhật chủ không đủ lực (không được lệnh tháng). Còn những khí sinh phù trợ giúp cho nhật chủ lại vượng địa thì gọi là thân vượng, ngược lại là thân nhược.

d/ Các can chi khắc chế, làm hao tán hoặc xì hơi mình, gặp xung hoặc được chế phục, bị hợp mất hoặc cách xa thì xem là thân vượng; ngược lai là thân nhược. Đối với các thành phần là các can chi được sinh nhiều hay ít cũng theo cách lý giải tương tự.

Số thành phần thiên can được trợ giúp là bao nhiêu cũng được hiểu theo nguyên lý này. Ví dụ, can ngày Giáp thân nhược được các thiên can khác là tỷ kiếp trợ giúp thì được xem là có trợ giúp, mức độ trợ giúp hữu ích là bao nhiêu thì phải xem nó có bị hợp làm giảm lực hay hợp làm tăng lực trợ giúp nhật chủ, tức là xem sự tăng hay giảm lực trợ giúp thực tế của tỷ kiếp…

Điều kiện để phán đoán thân vượng, nhược là sau khi có bản lĩnh về phán đoán, trên cơ sở nắm vững những điều kiện tiên quyết nên. Việc phán đoán thân nhược hay thân vượng là then chốt trong thuật suy đoán theo tứ trụ. Sự phức tạp của vấn đề là ở chỗ ngoài sự dự liệu từ can ngày, người dự đoán phải biết cân đong đo đếm tính tương hỗ lẫn nhau về hành khí trong tám chữ, để ước lượng sự hữu ích của các hành khí với nhau, không câu lệ rằng nó là sinh phù, trợ giúp, hay khắc chế hao tán thân cái nào tốt hơn cái nào. Bản lĩnh dự đoán cao hay thấp, đúng hay sai đều dựa vào năng lực của cá nhân người thực hành dự đoán. Đây là điều thật khó giảng giải, khó truyền thụ được uyển chuyển cho nhau. Nó là cái duyên và bản lĩnh của người học.

15. VƯỢNG SUY – SINH KHẮC CỦA MƯỜI THẦN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Mười thần là chỉ Tôi – Tài – Quan – Ấn – Thực theo mười can lộ ra, trong đó bao gồm cả các can tàng trong địa chi. Mối quan hệ sinh khắc giữa chúng cũng tức là quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Mười thần nghiêng về phân tích người và sự việc, ngũ hành nghiêng nghiêng về phản ánh mức độ khí chất bẩm sinh của con người. Cả hai cái bổ xung cho nhau, không được xem nhẹ bên nào, tuy rằng có lúc chúng được bàn chung hoặc có lúc được tách ra để bàn riêng.

Tương sinh của mười thần là: Tài sinh Quan sát – Quan sát sinh Kiêu Ấn – Kiêu ấn sinh Tỷ Kiếp của Nhật chủ – Tỷ Kiếp sinh Thương Thực và Thương Thực quay trở lại sinh Tài.

Tương khắc của mười thần là: Tài khắc Kiêu Ấn – Kiêu Ấn khắc Thương Thực – Thương Thực khắc Quan Sát – Quan Sát khắc Tỷ Kiếp tức Nhật chủ. Rồi Nhật chủ khắc tài. Đồ hình tương tự đồ hình sinh khắc chế hóa của ngũ hành vậy.

Sinh hoặc khắc của mười thần, không phải hễ thấy sinh là tốt, thấy khắc là xấu. Mệnh tốt hay xấu cũng không hẳn là lấy sinh hặc khắc để mà bàn.

Phàm sinh hay khắc, cho dù là âm dương hay ngũ hành đều có thể sinh có thẻ khắc. Ví dụ Giáp mộc có thể sinh Bính hỏa nhưng cũng có thể sinh Đinh hỏa. Giáp khắc Mậu Kỷ, nhưng giáp sinh Bính hỏa hoặc khắc Mậu thổ là dương sing dương hoặc dương khắc dương tương sinh hoặc tương khắc đồng tính thì lực lớn.

Phàm bàn về Mệnh, khi nói đến sinh khắc theo mười thần lộ ra, lực sinh hoặc khăc của chúng mạnh hay yếu (to hay nhỏ) là căn cứ vào sự sinh khắc hợp hóa của các thiên can và ngũ hành để định đoạt, tổng hợp giữa địa nguyên và nhân nguyên, giữa các thiên can mà không bàn đến xung.

Sự sinh khắc của mười thần cũng có quy tắc giống như quy tắc sinh khắc của âm dương ngũ hành – Quan hệ tương sinh thì theo tuần hoàn kề ngôi – Quan hệ tương khắc thì theo vòng tuần hoàn cách ngôi hình dưới.

MườI thần lộ ra trong tứ trụ, trong đó bao gồm mười thần của các can tàng trong địa chi. Sau khi xác định rõ can ngày có được lệnh, đắc địa, được sinh được trợ giúp hay ngược lại – Tức xác định thân nhược hay vượng được thể hiện rõ,nhưng cũng cần xác định được rằng vượng hay nhược đến mức nào ?

1/ Xem hai bên phải trái của can ngày theo những điều kiện ở trên xem can ngày đóng dưới địa chi nào, tưc là can ngày được chi ngày sinh trợ hay khắc chế, làm xì hơi hao tổn. tức là xem chúng là hỷ hay kị. Đồng thời còn phải xem can tháng can giờ cũng là hỷ hay kị, như thế mới có thể đo lường được mức độ hữu ích cho can ngày là được bao nhiêu. Nếu là hỷ thì đó là thân vượng, và nếu là kị thì đó là thân nhược. Việc tiếp tục xem sự hỷ kị nếu được nếu được hợp sinh hay hợp mất hỷ, hoặc bị xung khắc hoặc thiên khắc địa xung, hoặc bị khắc chế hay hình hại. Cuối cùng mới xét đến những can chi khác ở xa hơn nó là hỷ kị như thế nào tương tự đới với can ngày rồi tăng thêm hay giảm đi độ vượng suy của nhật chủ.

2/ Xem mức độ vượng suy của các can chi khác đến đâu ? Lầm lượt xem xét can năm can tháng can giở theo lệnh tháng rơi vào trạng thái nào trong 12 cung ký sinh. Xong xem các chi khác đóng dưới các can xem nó là hỷ hay là kị của tùng can trong tứ trụ. Nghĩa là tổng hợp mức độ vượng suy của Tài Quan Ấn Thực mới có khả năng xác định năng lực sinh trợ hay chế áp của các hỷ kị tới nhật chủ hoặc dụng thần.

3/ Cuối cùng là tổng hợp mối quan hệ. Nếu các can năm tháng giờ có lực mạnh, có quan hệ là làm tổn hao, chế áp nhật chủ thì nó làm cho nhật chủ có thể từ vượng trở thành nhược hoặc nhật chủ vốn đã nhược thành quá nhược. Mối quan hệ của tài quan là mối quan hệ tương sinh thực lực khắc chế nhật chủ. nhật chủ có đủ sức chịu đựng hay không đủ sức chịu đụng sự khắc chế hoặc làm tổn hao này.

Phương pháp ước lượng sự vượng suy của nhật chủ biến hóa trong vòng 60 giáp Tí có tới khoảng 520.000 dạng thức có thể xảy ra theo tứ trụ. Chúng ta phải nắm vững và thuần thục phép cân bằng khí của nhật chủ theo 10 thần với mối quan hệ sinh phù hay áp chế để diều hầu cân bằng cho tứ trụ để tìm ra phép luận đoán chính xác.

16. CÔNG NĂNG CỦA MƯỜI THẦN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Công năng của Chính Quan

Chính quan là cái khắc chế tôi (nhật can). Can dương gặp can âm hoặc can âm gặp can dương là khắc. Chức năng của Chính Quan là quản những điều tốt, ví dụ đối với con người phải chịu sự ràng buộc và phải tuân thủ Pháp luật của nhà nước. Chính quan nói chung được coi là cát thần.

Năng lực phù trợ hay áp chế của Chính quan là bảo vệ Tài, sinh Ấn, áp chế Thân (nhật chủ), khắc chế Kiếp. Thân cường Tài nhược thì tốt nhất là có Chính quan để bảo vệ Tài. Thân cường Ấn nhược thì chính Quan sẽ sinh Ấn. Nhật can cường vượng thì chính quan sẽ hạn chế. Nhật chủ cường vượng, Tỷ Kiếp nhiều thì chính quan sẽ khắc chế Kiếp.

Trong tứ trụ được hiển thị chung bời một chữ QUAN

Công năng của thất sát

Thất sát là cái khắc chế tôi. Dương gặp dương, âm hoặc âm thì khắc. Chức năng của thất sát là chuyên tấn công Nhật chủ. Nếu nhật chủ vô lễ thì bị khắc chế nên nhật can bị tổn thương. Vì vậy nếu nó n bị khắc chế, tức có thương quan thực thần chế ngự thì gọi là thiên quan, khi không có chế ngự thì gọi là Thất sát – Thất sát nói chung được coi là hung thần.

Năng lực sinh phù hay chế áp của thất sát là làm tổn hao Tài, sinh Ấn, công phá Thân, khắc chế Kiếp. Nhật can cường vượng mà tài yếu thì Thất sát là tổn hao Tài. Nhật can Cường vượng mà Quan Ấn yếu thì nó phò trợ quan, sinh Ấn. Ấn Quan yếu tài cường vượng thì thát sát công phá thân. Nhật can mạnh mà Kiếp yếu thì thất sát khắc chế Kiếp

Trong tứ trụ được hiển thị chung một chữ SÁT

Công năng của chính tài, Thiên tài

Thiên tài và Chính tài là cái bị tôi khắc chế. Chính tài là can dương gặp nhật can âm hoặc can âm gặp nhật can dương là khắc. Thiên tài là dương gặp dương, âm gặp âm khắc.

Chức năng của chính tài, thiên tài, là vật dưỡng mệnh, người người cần có, nhưng không phải ai ai cũng có được, xưa nay đều như thế. Chính tài, thiên tài nói chung được xem là cát thần.

Năng lực phù trợ hay chế áp của tài tinh là sinh Quan, làm xì hơi thương thực, áp chế Kiêu thần. làm hại Chính ấn. Nhật can vượng mà Quan Sát nhược thì Tài sinh Quan Sát. Nhật can vượng mà kiêu thần vượng thì Thiên tài chế áp Kiêu thần. Nhật can vượng mà chính ấn vượng thì chính tài làm hỏng chính ấn.

Trong tứ trụ được hiển thị chung là TÀI, cũng có thể hiển thị rõ là Chính tài hoặc Thiên tài

Công năng của Thiên ấn, Chính ấn

Thiên ấn và chính ấn là cái sinh tôi. Chính ấn là can dương gặp can ngày âm – Can âm gặp can ngày dương thì sinh. Thiên ấn là can dương gặp can ngày dương hoặc can âm gặp can ngày âm thì sinh.

Chức năng của thiên chính ấn là nguồn khí của tôi, như cha mẹ sinh ra tôi. Chính ấn nói chung là cát thần, thiên ấn nói chung là hung thần. Thiên ấn gặp thực thần thì sẽ cướp đoạt nên gọi là kiêu thần.

Năng lực phù trợ hay chế áp của chính ấn thiên ấn là sinh thân, là xì hơi quan sát, chống lại thương thực. Nhật can nhược mà quan sát mạnh thì ấn tinh là xì hơi quan sát và sinh thân. Nhật can yếu mà thực thương mạnh thì Chính ấn chống lại thương thực

Trong tứ trụ được hiển thị chung là Ấn và Kiêu

Công năng của Thương quan, Thực thần.

Thương quan, Thực thần là cái do tôi sinh ra. Thương quan là dương gặp can ngày âm hoặc âm gặp can ngày dương là sinh. Thực thần là dương gặp can ngày dương hoặc âm gặp can ngày âm là sinh.

Chức năng của Thương quan, Thực thần. Thương gặp Quan thì khắc, ngoài trường hợp nhật can thuận theo đạo lý (luật pháp), nói chung nó được coi là hung thần. Thực thần gặp Sát thì có thể chế ngự làm cho nhật can được yên ổn không bịn ti họa nên nói chung được coi là cát thần.

Năng lực phù trợ hay áp chế của thương thực là làm xì hơi thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm tổn thương quan. Thân vượng mà tài quan nhược thi thực thần sinh tài, thân nhược mà quan sát vượng thì thực thần sẽ đối địch với thất sát thương làm tổn hại quan.

Trong tứ trụ được hiển thị chung là Thương hoặc Thực.

Công năng của Tỷ Kiếp

Tỷ kiếp là cái cùng vai với tôi. Kiếp tài là dương gặp can ngày âm hoặc âm gặp can ngày dương. Ngang vai (Tỷ) là dương gặp dương hoặc âm gặp âm.

Chức năng của tỷ kiếp là đối địch của Tài. Nếu Nhật can vượng nói chung được coi là hung thần

Năng lực phù trợ hay chế áp của Tỷ Kiếp là: Giúp thân, phù trợ quan sát, hóa xì hơi kiếp đoạt tài. Nhật can nhược có tỷ kiếp giúp thân. Nhật can nhược có tỷ kiếp phù trợ quan sát, nhật can nhược có tỷ kiếp thì không sợ bị xì hơi. Nhật can can nhược có tỷ kiếp thì có thể đoạt được tài.

17. TÂM TÍNH CỦA MƯỜI THẦN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Các thiên can lộ ra mười thần, trong dự đoán còn được hiểu là thiên tính lộ ra, giống nhưng tính chất của ngũ hành đại biểu cho tính của con người. Các tài tinh quan tinh, ấn tinh lộ ra trong thiên can hoắc các can tàng trong địa chi đều là những tiêu chí về sự sinh khắc của sự vật, sự việc (các can tàng tron địa chi thì được coi là ẩn chư không coi là lộ ra). Trong mệnh cục của tứ trụ, tôi đã khắc được anh thì không còn lực để khắc “nó”, nên “nó” sẽ sinh thoát (xuất hiện). “Nó” này là đại biểu cho tâm tính xuất hiện sau khi anh bị khắc, bị phá hại. Nó trong tứ trụ đóng vai trò gì ? Có thể là Nhật can, cũng có thể là các thiên can khác. Ở đây bàn về tâm tính của “nó” không phải từ ý đồ muốn bảo vệ cho tâm tính của nhật chủ mà chỉ là khi sự cân bằng của tứ trụ xuất hiện bên này khắc bên khác, bên khác vì thế không có lực để khắc bên thứ ba, nên bên thứ ba được phát triển, và vì thế tâm tính của nó được lộ ra.

Rõ ràng bên thứ ba đã được sinh thoát ra nên trong sự cân bằng của tứ trụ, nó phải là bên có sức sống. Ví dụ: Thương quan vì bị phá hoại (khắc) nên không khác nổi Chính quan, do đó Chính quan có cơ hội xuất hiện. Cái khắc Thương quan ngoài nó bị hình xung hợp ra thì chủ yếu là Chính ấn. Chính quan nhờ thương quan bị khắc chế mà xuất hiện, mối quan hệ phù trợ hay áp chế của nó đối với nhật can tất nhiên sẽ đóng một vai trò chủ đạo là tốt hay xấu, trên cơ sở đó mà xác định cát cách hay bại cách của tứ trụ.

Mối quan hệ của tâm tính mười thần là : “Phá thì Lập”. Ấn khắc Thương, Thương không khắc được Quan – Tâm tính Chính quan xuất hiện. Kiêu đoạt Thực, Thực không chế ngự được Sát – Tâm tính Thất sát xuất hiện. Kiếp tranh Tài, Tài không làm tổn thất được Ấn – Tâm tính Chính ấn xuất hiện. Tỷ đoạt Tài, Tài không khắc được Kiêu – Tâm tính Kiêu thần xuất hiện. Thương khắc Quan, Quan không chế ngự được Kiếp – Tâm tính kiếp tài xuất hiện. Thực chê áp Sát, Sát không chế ngự được Tỷ, nên tâm tính Ngang vai xuất hiện.

Tài làm tổn ấn, Ấn không khắc được thương – Tâm tính Thương quan xuất hiện. Tài áp chế Kiêu, Kiêu không đoạt được thực – Tâm tính thực thần xuất hiện. Quan khắc Kiếp, Kiếp không phá được Tài Tâm tính Chính tài xuất hiện. Sát Chế áp Ngang vai, Ngang vai không kiếp được Tài – Tâm tính của Thiên tài xuất hiện.

Ví dụ: nếu Nhật can vượng, can năm là Tài, can tháng là Ấn, can giờ là Thương. Nếu tài có đủ lực thì có thể khắc chế được Ấn, Ấn không có lực để khắc chế Thương nữa, bản thân nhật chủ vượng lại không bị tổn hao nên sinh phù Thương – Tâm tính Thương quan lộ rõ là điều chắc chắn.

Người thương quan lộ rõ thì tâm tính hiên ngang, thanh tao, không sợ quỷ thần, nếu thân vượng thì tính nóng gấp đến độ hung hăng, dám chửi cả quỷ thần., người này tính nết xấu, bề trên không dám đụng đến nó, kẻ tiểu nhân thì sợ hắn mà lánh xa. Thương quan trong mênh cục của tứ trụ này nhờ có thân vượng, nó là hỷ thần của dụng thần (tài tinh). Khi hành đến vận tài thì phú quý tự nhiên đến. Nhưng đối với người thân nhược thì tính tình vẫn là Thương quan, chỉ có điều không ghê gớm bằng người thân vượng mà thôi, mức độ hung hăng giận dữ giảm đi, nhưng khi nổi cơn thì cũng làm nhiều người khiếp sợ.

Có người từ khi tuổi nhỏ đã có bản lĩnh kinh doanh, cho dù văn hóa của họ rất tấp, nhưng tính toán rất nhanh, khá chuẩn làm nhiều người nể phục. Loại người đó trong mệnh cục lộ rõ tâm tính của Chính tài. Theo mệnh lý mà nói, Tài vượng thì khắc Ấn, Ấn chủ về Văn, nên người tài vượng thì văn hóa ít, không cao. Loại người này không ham đọc sách, đi làm kiếm tiền rất sớm. Đó là vì quy luật Tài khắc ấn chỉ dạng người thân nhược. Người thân vượng có thể thắng tài, nếu thân vượng tài ít thì không hành nghề buôn bán được, nhưng ấn vượng lại học giỏi nên hy vọng khắc ấn để tránh khỏi kiếp tài. Tài thấu có ý nghĩa là khảng khái, phong lưu nhưng hay hoang phí. Nói chung thân và Tài ngang nhau thì tài là dụng thần. Chúng ta nên quan sát từ hiện tượng này ở ngoài xã hội để kiểm nghiệm thêm trong quá trình nghiên cứu học thuật.

TÂM TÍNH CỦA CHÍNH QUAN

Chính quan đại biểu cho chức quan, chức vụ thi cử bầu cử, học vị danh dự, địa vị. Phụ nữ thì đại biểu cho tình cảm với chồng và đường con cái. Nam giới đại biểu cho đường tình cảm với vợ.

Tâm tính của Chính quan là chính trực, có tinh thần trách nhiệm, đoan trang nghiêm túc, làm việc có khoa học, có đầu có cuối và nghiêm túc. Song dễ bảo thủ cứng nhắc, thái quá lại trở thành người không kiên định.

TÂM TÍNH CỦA THIÊN QUAN

Thiên quan đại biểu cho chức vụ về quân cảnh han hành pháp, tư pháp, đại diện cho ti cử bầu cử. Nữ cũng là tình cảm với chồng, với con cái, nam giới đại biểu cho tình cảm với vợ và con cái.

Tâm tính của Thiên quan là hào hiệp năng động, thiến thủ, đại diện cho sự uy nghiêm, nhanh nhẹn. Nhưng dễ bị kích động. Thái quá sẽ trở thành ngang ngược thậm chí sa vào sự trụy lạc

TÂM TÍNH CỦA CHÍNH ẤN

Chính ấn đại biểu chi chức vụ, quyền lợi, học hành, ngề nghiệp, học thuật, sự nghiệp, danh dự, địa vị, phúc thọ và đại biểu cho tình mẹ

Tâm tính của chính ấn là thể hiện sự thông minh, lòng nhân từ, không tham danh lợi, thể hiện sự chịu đựng nhung vì thế mà ít tiến thủ. Thái quá thành chậm chạp trì trệ.

TÂM TÍNH CỦA THIÊN ẤN

Thiên ấn đại biểu cho quyền uy trong ngề nghiệp, năng lực trong nghệ thuật, biểu diễn diễn xuất, y học, luật sư, tôn giáo kỹ thuật , nghể tự do, hoạt động dịch vụ, còn thể hiện tình mẹ kế (dì ghẻ).

Tâm tính của Thiên ấn là tinh thông tay nghề, phản ứng nhanh nhạy, nhiều tài nghệ, nhưng dễ cô độc, thiếu tình cảm, thái quá tì ích kỷ, ghẻ lạnh.

TÂM TÍNH CỦA NGANG VAI

Ngang vai đại biểu cho tay chân, cấp dưới hoặc đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ khắc cha. Nữ đại biểu cho tình tình chị em. Nam đại diện cho tình aanh em.

Tâm tính của ngang vai là chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm hoặc lòng dũng cảm, tính tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hòa nhập, có thể đơn côi.

TÂM TÍNH CỦA KIẾP TÀI

Kiếp tài cũng đại diện cho tay chân cấp dưới hoặc bạn bè. Còn đại biểu cho sự hao tổn tài, bị đoạt vợ, khắc cha, hay tranh giành quyền lợi, thích lang thang. Nữ đại diện cho tình anh em, Nam đại biểu cho tình chị êm.

Tâm tính của Kếp tài là Nhiệt thành thẳng thắn, có ý chí và kiên nhẫn. Phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiển cận mù quáng, thiếu lý trí, thái quá hay manh động liều lĩnh.

TÂM TÍNH CỦA THỰC THẦN

Thực thần đại biểu cho phúc thọ, dáng người, về hưu, lộc. Nữ đại biểu cho tình cảm với con gái. Nam đại biểu cho tình cảm với con trai.

Tâm ính của thực thần là ôn hòa, rộng rãi với mọi người, hiền lành, thân mật, nhưng không thực bụng dễ biểu hiện bề ngoài, tài ẩn thì giả tạo.

TÂM TÍNH CỦA THƯƠNG QUAN

Thương quan đại biểu cho việc bất lợi cho chồng và cho người nhà, là biểu hiện cảu việ thất học, mất quyền chức hay mất ngôi. Thể hiện việc thi cử khó khăn, khó trúng tuyển. Nữ đại diện cho tình cảm với con trai. Nữ đại diện cho tình cảm với con gái.

Tâm tính của thương quan là thể hiện sự thông minh hợt bát, tài hoa dồi dào, hiếu thắng và dễ tùy tiện, thiếu sự kiên nhẫn kiềm chế, không muốn sự ràng buộc. Thái quá thì lại là kẻ tự do vô chính phủ.

TÂM TÍNH CỦA CHÍNH TÀI

Chính tài đại biểu cho tài lộc, sản nghiệp, tài vận tiền lương, tình cảm với vợ.

Tâm tính của chính tài là cần cù, tiết kiệm, chắc chắn thật thà, nhưng đôi khi có thể cẩu thả, thiếu tính tiến thủ. Thái quá lại là người nhu nhược, không có tài năng.

TÂM TÍNH CỦA THIÊN TÀI

Thiên tài đại biểu cho của riêng, trúng thưởng, sự phát tài nhanh, thể hiện sự vượt trội trong cờ bạc. đại diện cho quan hệ tình cảm với vợ lẽ.

Tâm tính của Thiên tài là khảng khái trọng tình, nhạy bén lạc quan, phóng khoáng

Nhưng thái qua lại trở thành ba hoa, thiếu sự kìm chế thậm chí phù phiếm

Trên đây là bàn về mối quan hệ “phá thì lập”. Nhưng có một loại “không phá cũng lập”, tức là một thiên can nào đó vượng nhưng không phá hại, như nhật chủ có nhiều tỷ kếp nhưng mệnh không có quan tinh tức là tỷ liếp không bị khắc chế thì tâm tính của Ngang vai lộ rõ – Nó tự độc vượng và tự lập.

18. VƯỢNG SUY CỦA QUAN – SÁT

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Chính quan

Chính quan là cái khắc tôi. Chính quan có nghĩa là quang minh chính đại. Quan tức là quản, là tự ràng buộc mình để làm điều tốt.

Chính quan thấu ra không có thiên quan (thất sát) thì thanh cao tinh túy. Khi thân vượng thì rất tốt. Nếu chính quan quá nhiều là sự khắc chế quá nhiều, sự trói buộc mạnh mẽ thì trở thành nhu nhược, không có năng lực, hơn nữa quan nhiều là bị sát, chủ về cuộc sống gia đình không đầy đủ, tiền đồ học tập gặp nhiều trắc trở, nếu không có Ấn Kiêu hóa giải hoặc cứu trợ – Quan sinh Ấn (quan xì hơi ở Ấn) – Ấn sinh thân thì càng có hại. Chính quan sợ nhất là gặp thương quan – Là họa trăm đường đến. Nhưng cũng có trường hợp Chính quan nhiều mong gặp được Thương quan.

Quan tinh gặp lệnh tháng ở trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng lại không bị hình xung, không, phá thì cấp quan sẽ cao, thích hợp cho những người công chức. Nếu gặp suy bệnh tử mộ tuyệt thì rất kém gặp thai dưỡng thì tạm được. * Chính quan xuất hiện ở trụ năm: người mệnh cục trụ năm gặp chính quan là nhờ âm đức tổ tiên lớn. Trụ năm chỉ lúc tuổi còn nhỏ nên sớm có ý chí, con đường học hành tốt. Đó có nghĩa là nhân tố tiên thiên tốt. Song còn phải phối hợp với sự cố gắng của các vận trình để tổng hợp. Nếu tiên thiên là người có khả năng học tập nhưng vận trình không tốt thì con đường học tập thi cử bị trắc trở. Người như thế thường đế tuổi trung niên, thậm chí tuổi cao mới có cơ hội đỗ đạt hay thành đạt. Can chi của trụ năm là chính quan nếu không bị hợp mất hoặc không gặp kị là hiển thị người đó xuất thân trong một gia đình tượng đối, ví dụ là gia đình quan chức hoặc có địa vị trong một vùng. Đồng thời cũng biểu thị bản thân người đó cũng có công danh địa vị.

* Chính quan xuất hiện trên trụ tháng: Can tháng hoặc chi tháng gặp được quan tinh xuất hiện, đó là người con được cha mẹ nuông chiều, cuộc đời ít khó nhọc. Là người chính trực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, trọng chữ tín nghĩa, học hành công danh có kết quả. Trụ tháng có cung phụ mẫu là người có nhiều anh em có phúc lộc và công danh.

* Chính quan xuất hiện trên trụ ngày: Quan tinh đóng ở trụ ngày hiển tgij người đó tông minh mưu lược, có tài ứng biến. Thân vượng lại gặp được Tài thì phát đại phúc. Đối với nam thì địa chi ngày là vợ là gặp được hỷ quan, vợ đơn trang hiền hậu. Đối với nữ trụ ngày gặp quan là gặp được chồng quý.

* Chính quan xuất hiện trên trụ giờ. Can giờ là con trai – Chi giờ là con gái. Trụ giờ có chính quan chủ về con cái hiếu thuận, bản thân cuối đời được hưởng hạnh phúc.

Hỷ quan ở đây chỉ thân và quan tinh tương đương, không đến nỗi bị khắc hay áp chế, như thế thân có thể thắng quan. Quan là lộc nên có công danh, thành đạt. Điều bạn đọc cẩn thấu ró là Quan là hỷ hay kị của thân chủ.

Vượng suy của Thiên quan

Thiên có nghĩa là không chính hoặc không phải là chính thống. Quan có nghĩa là quản. Mệnh cục có thực thần và thương quan chế ngự là thiên quan, không có chế ngự thì gọi là thất sát. Để tiện sắp xếp trong tứ trụ, thông thường người ta hay hiển thị là thất sát. Mệnh cục đã gặp thiên quan thi không nên gặp chính quan. Người có thực thần thương quan chế ngự chủ về túc kế đa mưu, có quyền uy. Thực thần chế sát, thương quan khắc sát. Hợp sát không nên nhiều vì như thế không còn là quý mà trở thành thấp hèn. Cho nên tứ trụ có thất sát thì chỉ khi thân sát tương đương thì mới là tốt.

Thân vượng, sát nhược, tài tinh vượng mới là mệnh tốt. Ngược lại thân nhược, sát vượng lại còn gặp tài tinh thì nghèo đói và nhiều tai ách, trầm trọng hơn thì có thể là tai họa sát thân. Đã có thiên quan thì không nên gặp chính quan, vì như thế là gặp quan sát hỗn tạp, dễ mắc họa lao tù hoặc kiện tụng, nghịch nhiều thuận ít, mọi việc khó thành hoặc trở thành kẻ tiểu nhân. Vì vậy tốt nhất là thực thần thương quan hoặc được chế ngự, hoặc hợp mất một quan, hoặc một sát để giảm bớt điều xấu. Thân nhược, sát vượng thì phải dựa vào quan ấn để hóa giải. Nếu trong tứ trụ thân và sát ngang nhau, Sát Ấn phùng sinh là chủ về công danh hiển đạt, sự nghiệp phát triển, văn võ song toàn, quyền uy nổi tiếng. Có sát mà không có ấn là có lực mà không oai phong, trung hậu đa tình, ít vui. Sát hặc quan nhiều khắc trụ ngày thì không tốt, chủ về tính cách nhu nhược, không có năng lực, không gặp tai nạn thì chết yểu, hoặc cơ thể chân tay có tật. Thiên quan ở trường sinh tới đế vượng thì vinh hoa phú quý. Thiên qua ở tử mộ tuyệt thì tiền đồ học hành trắc trở, quan lộc tổ thất.

— Thiên quan xuất hiện ở trụ năm: Con đầu nếu không phải là trai thì nó cũng đã có anh hoặc chị, xuất thân trong gia đình nghèo khó. Nếu có chế thì người đó có chức vụ và nổi tiếng. Thân nhược không có chế thì là người xuất thân trong gai đình đói khổ.

— Thiên quan ở trụ tháng: Can năm và can giờ có thực thần, thương quan chế ngự thì đó là quý mệnh.

— Thiên quan xuất hiện ở chi ngày: Người đó phần nhiều lấy được vợ (hoặc chồng) cương nghị quật cường, tiết tháo. Nếu không có thực thần chế ngự thì vợ chồng không hòa thuận, nếu gặp xung thì phần nhiều là gặp tai họa hoặc bệnh tật. khi có thực thần chế ngụ hoặc gặp được hợp để hóa thì có sự hòa giải.

— Thiên quan xuất hiện ở trụ giờ: là kị thần, phần nhiều con cái không hiếu thảo. Trong tứ trụ có thực chế ngự thì lại sinh được đứa con phú quý. Chi giờ chế ngự can giờ, Nhật nguyên lại vượng, lại có tài tinh, ấn tinh không bị xung phá đó là mệnh đại phú quý, là người nắm quyền tới cấp tướng (hoặc tương đương), là người có uy danh nổi khắp một vùng.

19. ẤN TINH

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Ấn tinh có tính chất che chở và bảo vệ, phù trì và bao dung, học tập và hấp thu. Ấn tinh là lực lượng “sinh và phù trợ cho bản thân mình”. Xét trên mối quan hệ xã hội, là người hướng dẫn và giúp đỡ, chăm sóc và quan tâm bảo vệ bản thân ta, có “địa vị lớn hơn bản thân ta” hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của Ấn tinh. Do đó, người đại diện cho ấn tinh là cha mẹ chú bác, cô dì, giáo viên, bề trên, là huấn luyện viên, là tăng ni cha đạo, là bậc hiền triết thiện sỹ. Chính ấn là lực lượng sinh trợ nhưng khác tính chất với nhật can. Lực sinh trợ của nó là sự tận tâm vô điều kiện. Thiên ấn là lực lượng sinh trợ có cùng tính chất với nhật can, lực sinh trợ của nó hư vô, không thực hoặc thường có điều kiện. Do đó, chính ấn đại diện cho người tận tâm giáo dục và có năng lực chỉ đạo, có thể giúp mình vô điều kiện. Thiên Ấn đại diện cho người không tận tâm giáo dục hoặc không có năng lực chỉ đạo, giúp đỡ mình luôn có điều kiện

Người có mệnh ấn tinh không tách khỏi người mẹ hoặc bề trên là nữ giới, giống như trẻ em được mẹ cưng chiều, cơm mang tận miệng, không biết tự mặc quần áo. Do đó mệnh này có nhiều khí “quý nhân”. Từ nhỏ được cưng chiều sẽ thành thói quen lười nhác, làm việc đầu voi đuôi chuột, làm việc gì cũng cần có người khác thúc dục. Kiểu người này giống như nhân vật A đẩu trong “Tam quốc diễn nghĩa”, nhu nhược yếu mềm, giống như đứa trẻ không thể trưởng thành, thiếu thực tế, không có tinh thần trách nhiệm, không có khả năng sáng tạo, mất tính cạnh tranh, không theo đuổi vật chất, phù hợp với tôn giáo, dễ béo phì hơn người bình thường.

CHÍNH ẤN

Chính ấn đại diện cho người mẹ và tất cả bề trên là nữ giới. Do chính ấn là sinh trợ bản thân mình nên người có mệnh chính ấn giống như đứa trẻ lười nhác, thường hay ngủ. Kiểu người này có khả năng khơi gợi tình mẫu tử của người khác mà không biết tự giác chăm sóc bản thân và mọi người. Trong cuộc sống, họ thường được sự trợ giúp, chuyển hung thành cát. Do đó người mẹ thường có tâm từ bi, là nội hàm tính cách của chính ấn, nên tận sâu trong nội tâm của kiểu người này thường có ước muốn “thế giới hào bình, mọi người vui vẻ, khỏe mạnh”

Họ thường dùng sự lương thiện hài hòa làm xuất phát điểm để đối đãi với người và sự vật khác, hiểu nguyên tắc “dùng sức cảm hóa”, tự mình làm gương để người khác noi theo mà không phải dùng biện pháp lấn át hay áp đặt. Do đó, mọi người luôn muốn tâm sự và giãi bày những khó khăn, khúc mắc trong lòng với họ. Họ có khí chất, tư tường mạnh mẽ, có văn hóa, da trắng, tướng mạo hiền hậu. Tuy nhiên suy nghĩ có phần cố chấp, kiên trì theo ý kiến của mình mà không để tâm đến quan điểm của người khác. Do khó trao đổi, quá cứng nhắc nên dễ ảnh hưởng đến quan hệ giao tiếp. Chính ấn cũng đại diện cho quyền lực, giống như sau khi đóng dấu mới được tính hiệu lực

Tính cách của chính ấn là trọng tình cảm, thích đọc sách, trung hậu thật thà, thiếu cảm xúc, khả năng linh hoạt và dung hòa. Biết điểm dừng, có tu dưỡng, không tham danh lợi, không thích thay đổi, thiếu chí tiến thủ, luôn khép mình, nghĩ cho người khác, không tranh đoạt quyền lợi, có thể mang đến an toàn và phúc khí. Ý thức tự bảo vệ mạnh, không dám đấu tranh với thế lực hung ác, tích cực đối với những việc từ thiện. Mệnh có quá nhiều chính ấn thường thiếu tinh thần độc lập

THIÊN ẤN

Thiên ấn đại diện cho tất cả các bậc bề trên là nữ giới có thể chăm sóc bản thân mình. Người phụ nữ có thể thay thế mẹ, ví dụ mẹ kế, dì. Người lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ kế luôn sớm trưởng thành, dễ hình thành lòng nghi kị trong các mối quan hệ. Trong mắt họ không nhìn thấy cái tốt, cái thân thiện của người khác, luôn nghi ngờ sự quan tâm của người khác, dễ cảm thấy mình bị thiệt thòi, dẫn đến vô tình vô nghĩa. Điểm này vừa đúng tương phản với chính ấn. Chính ấn ngây thơ lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Thiên ấn ngược lại, luôn nghi ngờ và có phần bi quan trước tương lai

Thiên ấn còn gọi là kiêu thần, tính tình cô lập, không tình nguyện cống hiến, bàng quan trước thời cuộc, nghiêm túc khiến người khác khó hiểu, tạo cảm giác khó tiếp cận, thường không hòa hợp với người khác. Tài năng thiên về sáng tạo, khả năng học tập và lĩnh hội tốt, mẫn cảm đối với sự vật, giỏi làm điều tra, tình báo, trinh sát. Thích hợp phát triển theo các lĩnh vực như tôn giáo, thuật số kỳ bí, kỹ nghệ đặc thù. Mệnh nữ có nhiều thiên ấn không có duyên với con cái.

Họ thường có tâm lý bất an, cô lập, thích suy nghĩ theo hướng ngược lại hoặc khác lạ so với người khác. Biết nhìn nhận và đánh giá chính xác, có khả năng nhìn sắc mặt để hành sự, phản ứng nhanh nhạy, năng lực học tập tốt, không theo quy tắc thông thường mà thường có kiến giải riêng. Thích hoạt động mang tính kích thích, mới mẻ, hay thay đổi, dùng sự tinh quái khôn khéo để lấy lòng mọi người. Dùng logic khác với nhiều người để có được sự chú ý. Mục dích là không để người khác hiểu suy nghĩ của họ. Nhạy cảm, có thể hiểu thấu tâm tình người khác. Đây không nhất định là việc tốt vì thiên phú này sẽ khiến họ không coi trọng người khác, tự cho mình là đúng, cô độc, từ đó phá hoại quan hệ giao tiếp. Họ dường như bất chấp tất cả, như hóa thân của chính nghĩa. Họ vừa chính vừa tà, người cùng chiến tuyến cho rằng họ có bản lĩnh, không quan tâm tới đàm tiếu của người khác, những người không cùng chiến tuyến sẽ thấy họ khẩu phật tâm xà, không giống ai, không theo luân thường đạo lý

20. THỰC THẦN VÀ THƯƠNG QUAN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Thực thương có tính chất biểu hiện, phát huy, sự lưu loát, sáng tạo và hao tiết. Thực thương là “lực lượng được mình sinh trợ”. Xét từ mối quan hệ xã hội, là người được nuôi dưỡng giáo dục, ủng hộ giúp đỡ, chăm sóc và chỉ dẫn, được quan tâm bảo vệ, mình có địa vị lớn hơn họ, hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của thực thương. Do đó người đại diện cho thực thương là con cháu, hậu bối, học sinh, đồ đệ, thậm chí còn là người già trẻ nhỏ, người cô độc, cô quả. Thực thần là lực lượng tiết hao cùng tính chất với nhật can, lực tiết hao lâu và chậm. Thương quan là lực lượng tiết hao khác tính chất với nhật can, lực tiết hao ngắn và nhanh. Do đó, thực thần đại diện cho người có ngôn từ hàm xúc, thái độ ôn hòa, tốc độ tiếp thu kiến thức chậm nhưng khá kiên trì nhẫn nại. Thương quan đại diện cho người có ngôn từ thiếu tính hàm xúc, vội vàng, tiếp thu nhanh nhưng thiếu nhẫn nại

THỰC THẦN

Dục vọng, ham muốn biểu hiện, nhu cầu tình dục cao, biết tự thỏa mãn với những gì mình có, lạc quan, đam mê tìm hiểu, dễ nổi trội trong lĩnh vực âm nhạc, mỹ thuật và vũ đạo, nhiếp ảnh. Thích ăn, có đồ ăn dễ thương lượng. Làm việc không huênh hoang, không để ý đến khen ngợi người khác, chỉ lặng lẽ hy vọng được tán đồng, không giả dối, không công kích, luôn muốn theo đuổi sự hoàn mỹ, không cho phép tác phẩm của mình có tỳ vết

Ưu điểm là lạc quan, tin tưởng nhưng do quá lạc quan sẽ dẫn đến thiếu chí tiến thủ và không cầu tiến. Họ thích tự mình làm, tự mình hưởng thụ. Thích hợp với các công việc mang tính sáng tạo cá nhân và không thích hợp làm việc theo nhóm. Điều này bắt nguồn từ khí chất ưu nhã hiếu học, ở nam giới rõ nét hơn nữ giới.

Thực thần luôn tự thỏa mãn với những gì mình có, rất lạc quan, tấm lòng rộng mở, cơ thể béo mập, hỷ nộ ai lạc dễ biểu hiện ra ngoài, không giữ được tâm sự trong lòng, thích đàm luận. Khi thực thần là dụng thần, hệ thống tiêu hóa tốt, khỏe mạnh, là người thông minh, đa tài đa nghệ, diện mạo tuấn tú. Nhật chủ yếu mà thực thần mạnh chủ về cả đời bệnh tật, thiếu tâm tiến thủ, không muốn sáng nghiệp, say sưa với vẻ đẹp hình thức mà quên đi cuộc sống thực tế

THƯƠNG QUAN

Khác với thực thần, thương quan không xem xét hay để tâm tới ý kiến người khác. Họ thích phê phán, lời nói sắc sảo, không khách khí, thường thẳng thắn, không thích nói nhiều. Dễ nhận ra khuyết điểm và thiếu xót của người khác. Do đó trong mệnh của các nhà bình phẩm lớn thường có thương quan. Hiếu thắng, tính công kích mạnh, lấn át, thích biểu hiện, khả năng biểu cảm phong phú, đa tài đa nghệ, lập dị, cá tính thoải mái, thích mới ghét cũ, cũng mong muốn được tán đồng. Nếu nói Thực thần là người đứng trong cánh gà, thì thương quan chính là người đứng trước sân khấu. Họ luôn muốn được thể hiện mình, hy vọng được chú ý, thích nổi trội, sợ người khác không biết dến sự tồn tại của mình. Họ rất nhanh trở thành tiêu điểm được chú ý. Tiếp thu nhanh, học một biết mười, phản xạ tốt, thích thử nghiệm

Thích biểu hiện, kiên trì quan điểm bản thân, có tinh thần khai thác nghiên cứu, không thích bó buộc, thích tự do biến hóa. Địa vị cao hơn người khác thì hà khắc nghiêm túc. Địa vị thấp thường không tuân thủ nguyên tắc.

Thực Thương là chỉ tài hoa phát tiết ra ngoài. Khi phát tiết thường ngạo mạn tự kiêu, coi thường người khác. Thực thần chủ về trầm mặc, tinh thần chuyên nhất. Thương quan coi trọng phát huy, bác học giỏi giang nhưng không tập trung khi học. Thực thần thường chú tâm tới lĩnh vực hứng thú. Thương quan lĩnh vực gì cũng muốn học. Họ có nhiều sáng kiến, khả năng tiếp thu cao, hành vi nhanh. Tuy nhiên thiếu kiên trì mà chỉ nhiệt tình nhất thời, có thể chuyên sâu vào một lĩnh vực và có nhiều thành tựu trong lĩnh vực này. Thương quan thường không nhìn nhận rõ thực lực của mình, tư tưởng tiêu cực thái quá. Khi hành động không được tán thành họ thường bi quan. Thường làm mất lòng người khác, dẫn dến quan hệ giao tiếp căng thẳng, tình cảm nam nữ. Trong tình yêu họ đặc biệt coi trọng tướng mạo và thân hình. Đôi khi duy trì mối quan hệ không phải tình yêu mà có hứng thú tìm hiểu về đối tượng khác giới

21. TỶ KIÊN VÀ KIẾP TÀI

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Tỷ Kiếp có tính chất cạnh tranh, động lực, ý thức, bổ trợ, thao tác, tổ chức. Tỷ Kiếp là lực lượng “giống mình”. “tương đương mình”. Xét trên mối quan hệ xã hội, người có địa vị ngang hàng mình, độ tuổi tương đương, thân phận và điều kiện tương đồng, chí hướng tương hợp hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi tỷ kiếp. Do đó, người đại diện cho tỷ kiếp là anh em, chị em, bạn bè bạn học, đồng nghiệp, người đồng hành, đồng đạo, đồng hương, đồng chí, đồng tộc đồng bào.

Tỷ là lực lượng tương trợ cùng tính chất với nhật can.

Kiếp là lực tương tương trợ khác tính chất với nhật can

Tỷ Kiếp tương đồng với mình, do đó có tính chất cạnh tranh, kích bác, không chịu thua, hiếu thắng, kiên định. Nhiều toan tính đôi khi quá chú trọng ý kiến của người khác, dễ tuột mất cơ hội tốt.

TỶ

Có ngũ hành tương đồng với mình, do đó lực lượng của nhật chủ tăng gấp đôi. Mọi việc lấy mình làm trung tâm, yêu cầu quá cao đối với bản thân, ý chí mạnh mẽ, tay trắng lập nghiệp. Lấn át, cao ngạo tự phụ, không thích giao tiếp, thích một mình xông pha, phấn đấu để có địa vị. Từ nhỏ họ đã so sánh với người khác, về chiều cao, tướng mạo, so sánh với bạn nam, bạn nữ, so sánh điểm xuất phát. Thích tìm đối thủ, đặc biệt nhạy cảm với thắng thua. Từ nhỏ đã có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào đều nghĩ cách đứng đầu “thằng thì tiếp tục duy trì, thua thì sau này có thể đuổi kịp bạn”. Nhưng nếu bại trận, họ dễ có tư tưởng chán chường tiêu cực, dễ bị lôi kéo, bạn bè khắp thiên hạ nhưng tri kỷ không có mấy người vì họ đặc biệt cẩn trọng đề phòng khi kết bạn. Không quan tâm cảm nhận của người khác, biết bản thân muốn gì, mục tiêu ở đâu. Chuyên tâm vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích. Quan minh chính đại, công bằng cạnh tranh. Họ dũng cảm xông pha, trên đường gặp nhiều đối thủ. Trong hoàn cảnh bị kẻ địch bao vây, họ sẽ ngang nhiên chống trả hoặc giữ thế thủ hòa hoãn. Trong môi trường an nhàn, họ có thể là người mạnh nhất nhưng cũng dễ có tư tưởng hạn chế “Ếch ngồi đáy giếng”, muốn thuyết phục kiểu người này cần có bản lĩnh lớn hơn họ

KIẾP

Kiếp tài và nhật chủ có thuộc tính âm dương tương phản, là khế hợp bổ xung. Trong quan hệ giao tiếp thường khôn khéo, mềm dẻo, vui vẻ giúp đỡ. Nhân duyên tốt, trọng tình nghĩa, động tĩnh đều hợp, vì danh lợi không tiếc cả tính mạng bản thân. Có thể quan tâm đến suy nghĩ và lập trường của người khác, hy vọng mọi người được hưởng niềm vui. Có tinh thần hợp tác và khả năng kêu gọi, năng lực ngoại giao tốt. Ở nhà dựa vào cha mẹ, ra ngoài dựa vào bạn bè”. Thích sỹ diện, bạn bè nhiều, nhiệt tình nhưng không ngạo mạn, không khiến người khác khó chịu do đó dễ thu hút người bên cạnh. Tuy nhiên, họ thường do dự không quyết định, nội tâm mâu thuẫn. Họ không thích đơn độc làm việc khi không có sự trợ giúp hỗ trợ người khác. Cũng giống như thập thần Chính tài, Thiên tài – Kiếp tài đều bị mê hoặc bởi tiền bạc, luôn tìm thấy niềm vui trong sự hưởng thụ. Kiếp tài không qua khỏi cửa ải của chữ ‘lợi”, muốn có được sự giúp đỡ của họ tốt nhất dùng lợi ích trao đổi. Kiếp tài không có quan niệm quản lý kinh tế tốt, khi hết tiền mới nhận ra tất cả những gì làm cho bạn bè đều không được ghi nhận, báo đáp. Nhưng họ không chỉ “bị người cướp tiền tài” mà còn “ cướp tiền tài của người”. Người trong tứ trụ có kiếp tài tình cảm thường gặp trắc trở, đầu tư không đúng chỗ mà cuối cùng thành trắng tay. Họ nên nhận thức được rằng: “ Có đầu óc đầu tư mới có thể làm giàu. Nếu Tỷ và Kiếp đồng thời xuất hiện, thường mệnh chủ không thích biểu đạt ý nguyện trọng tâm, không tin vào mình, thường hay thay đổi quyết định. Không nên nên mượn tiền của người khác, cũng không nên hợp tác, nếu không khó tránh bị lừa gạt. Bề ngoài lạc quan nhưng nội tâm nghĩ không thông. Khi ý niệm mới xuất hiện dễ làm việc theo trực giác, cả đời bị tình cảm chi phối do thân tâm khó được yên ổn. Suy nghĩ không chuyên nhất, dễ phân tâm, thường nghĩ đến điều không tốt, dễ cạnh tranh, tranh chấp tiền tài với bạn bè

Kiếp tài có ý thức cạnh tranh, tranh đoạt, Kiếp tài phù trợ không cần báo đáp. Nếu là dụng thần chủ về mệnh có nhiều bạn bè, giàu ý chí nghị lực. Không coi trọng dục vọng nhục thể, mạnh mẽ nhưng lỗ mãng. Có tính tranh đấu, hào hiệp nghĩa khí, có thể bất ngờ lật lại bạn bè

22. TÀI TINH

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Tài tinh có tính chất khống chế, chiếm hữu, điều khiển, mê đắm, cố chấp. Tài tinh là cái bị mình khắc và quản chế. Xét trên mối quan hệ xã hội, là người bị mình thao túng, chi phối và lấn át, hoặc tuyển dụng quản lý và giáo huấn, chịu bó buộc của mình, phụ thuộc vào của cải của mình hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình, giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của tài tinh. Dựa vào đặc tính đó,Tài tinh đại diện cho thê thiếp, tình nhân của mệnh nam, nhân viên, cấp dưới, người hầu, người làm thuê, thuộc hạ kỹ nữ hoặc nô lệ.

Chính tài là lực lượng trộm khí, khác tính chất với nhật can. Lực trộm khí là lưu tình và ít biến hóa

Thiên tài là lực lượng trộm khí, có cùng tính chất với nhật can. Lực lượng trộm khí mạnh mẽ, ít tình và nhiều biến hóa.

Do đó, chính tài có thể không làm mình phí tâm sức hoặc hành sự cẩn thận hoặc bình thường để trao đổi với mình. Thiên tài thường làm mình phí tâm sức hoặc làm việc thường hay thay đổi, khó lường trước, hoặc bình thường không thể trao đổi với mình. Do tài tinh chính là cái bị mình cai quản, nên lo lắng và phiền não của người mệnh tài tinh khá ít, vui vẻ nhiều. Tuy gặp việc đột ngột, cảm xúc cũng không chán nản quá lâu. Nếu cần giải quyết công việc gì đều biết cách sử dụng đồng tiền để tháo gỡ. Nếu được sự hỗ trợ về tiền bạc thường dễ tiến hành mọi công việc. Khi sự việc được giải quyết tinh thần đương nhiên không phiền não.

CHÍNH TÀI

Chính tài đại diện tiền bạc và thê thiếp đối với mệnh nam, chỉ đại diện tiền bạc đối với mệnh nữ. Chính tài đại diện tiền bạc do vất vả mà có được, bất động sản, thu nhập ổn định, cũng đại diện cho thói quen chăm lo gia đình, không thích thay đổi, bảo thủ, làm việc chắc chắn, khó có đột phá, thậm chí không thay đổi, khiến con người tránh xa. Nỗ lực phấn đấu, cần kiệm, bị ảnh hưởng của vợ (chồng) khá lớn. Họ không thiếu tiền và không sợ không có tiền, vì thế dễ có tâm lý hưởng thụ. Khi đối mặt với nguy cơ căng thẳng họ luôn biết cách để kiếm được lượng tiền đủ để vượt qua cửa ải khó khăn.

Cũng có nhiều người từ nhỏ hưởng thụ cuộc sống đầy đủ, tạo thành thói quen thích tiêu tiền nhưng luôn phung phí tiền, tiêu xài xa xỉ không đúng lúc đúng chỗ

Chính tài có đặc điểm thường suy nghĩ kỹ càng được mất, không dễ tin người khác, bản tính thành thực nhưng thiếu khôn khéo. Kinh doanh buôn bán thường đề ra những nguyên tắc cứng nhắc, không biết kinh doanh, thiếu linh hoạt, không thích đầu cơ mạo hiểm. Biểu hiện ở ở tiền tài là tiết kiệm, tuy nhiều tiền nhưng không lãng phí. Trong cuộc sống gia đình biết trân trọng vợ nhưng cũng trú trọng thực tế, có phương pháp sử dụng con người.

THIÊN TÀI

Thiên tài chỉ tất cả những người phụ nữ có thể thay thế địa vị của vợ như thiếp, tình nhân, bạn gái. Duyên khác giới của tài tinh đều tốt, hơn nữa thiên tài tốt hơn chính tài. Đa phần họ yêu vợ lẽ, tình nhân, không yêu vợ cả, tình cảm không chung thủy, thái độ lằng lơ, chìm đắm tửu sắc, phong lưu đa tình, xa xỉ lãng phí, trọng nghĩa khinh tài, khảng khái hào phóng, hành sự khôn khéo. Thiên tài duyên phận bạc với bề trên. Mệnh nam dù quan tâm đến người bố nhưng không biết cách thể hiện ra sao, luôn âm thầm giữ trong lòng.

Thiên tài thích đầu cơ, đoạt lợi, có đầu óc và mạo hiểm trong kinh doanh, không vì lợi nhỏ mà thỏa mãn. Cả đời họ luôn theo đuổi tiền bạc, không tách rời trò chơi tiền bạc, không thể khống chế tham vọng vật chất của mình, thích tiêu xài xa xỉ. Khả năng xã giao tốt, tiêu tiền hào phóng, do đó có nhiều mối quan hệ tốt. Nếu bạn muốn mở rộng quan hệ giao tiếp thì thiên tài là lựa chọn hàng đầu

Với mệnh nam, Thiên tài thể hiện tình cảm phong phú, đa tình thích theo đuổi mối quan hệ giao tiếp rộng. Không biết giữ chừng mực trong quan hệ nam nữ. Nếu không cẩn thận dễ dẫn đến thói đào hoa, trêu hoa ghẹo nguyệt, khiến người khác ghét bỏ.

Thiên tài có sở thích đầu cơ, dám mạo hiểm, trọng nghĩ khinh tài, khảng khái hào hiệp. Do đó có nhiều quan hệ tốt, có khả năng thích ứng với môi trường, không thích sự yên ổn, công việc đơn điệu, thích được bôn ba để kinh doanh. Luôn bận khai thác thị trường. Thiên tài cả đời có duyên cơ, đặc biệt về phương diện tiền tài hoặc phụ nữ, luôn có ly hợp được mất đầy kịch tính.

23. TIỂU LUẬN VẬN – LƯU NIÊN TỐT XẤU

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Vận và lưu niên tuẩn tự mà tới. Vận và lưu niên được coi như trụ thứ 5 và thứ 6 của mệnh, nó tham gia vào sự sinh khắc chế hóa với ngũ hành của tứ trụ mà tăng giảm sự cát hung. Nhìn chung chúng ta có thể nhận ra những diễn biến sau:

a. Sự sinh khắc chế hóa là có lợi cho dụng thần, tức là vận tốt, phú quý lập tức đến.

b. Tuy có lợi cho dụng thần, nhưng một chữ nào trong mệnh cục bị hợp đi hoặc bị hình, xung, hại, thì vận này chuyển lại bình thường.

Thí dụ: dụng thần là ất (mộc), đi hạn gặp quý (thủy) thì quý sinh ất chắc là tốt rồi, nhưng chẳng may trong mệnh cục có 1 chữ mậu (thổ), thì mậu, quý hợp, chữ quý mất nguyên chất của thủy, không thể giúp cho ất (mộc) được, thì bạn này cũng không có gì hay. Hoặc dụng thần là chữ ngọ trong địa chi, đi hạn gặp dần, mộc sinh hỏa, lại dần, ngọ tam hợp, ắt là vận tốt, nhưng chẳng may trong mệnh cục có 1 chữ thân, thì thân xung dần, như vậy vận này cũng không có gì tốt.

c. Bất lợi cho dụng thần, chắc chắn là vận xấu, nhưng trong mệnh cục có 1 chữ hợp hay xung khắc chỗ xấu đi, thì vận này cũng được bình thường không có gì xấu lắm.

Thí dụ: dụng thần là ất (mộc), hạn gặp chữ tân, thì tân khắc ất, ắt là vận xấu, nhưng nhờ trong mệnh cục có 1 chữ bính hợp tân, thì tân sẽ không khắc ất nữa. Hay dụng thần là ngọ trong địa chi, hạn gặp Tí là vận xấu, nhưng nhờ trong mệnh cục có chữ sữu hợp Tí, Tí sẽ không xung ngọ nữa, ấy là có cát thẩn cứu giải, cho nên cũng không xấu xa vậy.

Một vận có 10 năm, thường thì tác dụng thiên can 5 năm đầu là mạnh hơn. Địa chi 5 năm thể hiện rõ ràng hơn. Nhưng phải lấy địa chi làm trọng. Họa phúc cũng do nơi vận khiến, cho nên coi số là chỉ coi vận mà thôi, lấy dụng thần coi vận hạn, ấy là phép đoán số. Nay thêm bớt chút xíu để các bạn rõ hơn.

1. Nhật nguyên mạnh, thương quan, thực thần, gặp hạn có tài, không có quan tinh, chắc chắn mập lên, và tăng tài tiến lộc.

2. Chánh quan làm dụng thần, trong cục có thương quan phá cục nên nhập hạn phải có tài hay ấn, là vận tốt, việc làm như ý.

3. Dụng thần là thương quan nhưng quá nhiều, nếu gặp phải, vận nên có ấn.

4. Dụng thần thương quan ít, rất kị vận có ấn.

5. Dụng thần thương quan, rất kị gặp quan tinh chắc chắn có đại họa xảy đến như tù tội, bị đâm bởi vật kim khí hay tai họa khủng khiếp. Nếu có cát thần quý nhân cứu giải, cũng phải có bịnh nặng, hoặc đụng xe mang thương tích…v.v.

6. Dụng thần tỷ kiếp, trong mệnh có sẵn quan tinh, gặp hạn thực, thương tới khắc chế quan tinh, thì nguyên cục được sạch sẽ, hạn này tốt đẹp, làm giàu dễ dàng, công việc tiến bước, võ quan tiến chức.

7. Dụng thần thương quan hay cách cục là thương quan trong mệnh cục có ấn chế thương quan, thì không nên gặp hạn có tài, nếu có chắc là vận xấu bởi tài phá ấn, nên thương quan hoạnh hành, làm bậy, có việc phạm đến pháp luật.

8. Thương quan cách dụng thần. Là ấn, hạn gặp quan, sát hay ấn đều là tốt đẹp, nếu gặp thương quan cũng không trở ngại, chỉ kị vận tài thì xấu xa lắm.

9. Thương quan cách có nhiều ần chế hay nhiều tỷ, kiếp. Như vậy chắc là nhật nguyên mạnh, hạn gặp tài, hoặc thực, thương nên là vận tốt.

10. Nhật nguyên mạnh, trong cục lấy thương làm dụng thần, hạn gặp tài, chắc chắn phát đạt, danh lợi hưng thịnh, nếu mệnh cục có tài tinh, là thượng cách, dụng thần là tài, thì phát thêm lên nên tỷ phú.

11. Mệnh cục sát hay ấn cách, nguyên cục có thương quan, hạn gặp ấn là tốt, hoặc gặp thương cũng khác, chỉ sợ gặp vận tài, nếu gặp phải thì tính mạng sẽ lâm nguy.

12. Thất sát cách, nhật nguyên mạnh, là 1 cục mệnh quý phái, hạn gặp thương chế sát thăng quan, tiến tài.

13. Thất sát ở thiên can tại giờ sinh, cũng như ôm hổ mà ngủ, rất xấu xa, hạn gặp chế sát rất tốt (thực, thương chế sát).

14. Nhật nguyên có lộc hay có trường-sinh, nguyên cục có thất sát cũng có lộc. Thí dụ: ngày giáp gặp ngày giáp dần hay giờ hợi, canh sát là canh thân, ấy là sát vượng, nhật nguyên mạnh, hạn gặp ấn, thăng quan tiến chức, người thường phát tài mạnh khỏe.

15. Nhật nguyên mạnh, sát yếu, lại có thực, thương chế áp. Sát hoặc có ấn hóa sát, mệnh cục này là 1 người nghèo. Tuy có học thức cũng không được hiển đạt, nếu hạn gặp tài, thì tài sinh sát, phú quý sẽ đến, quyền uy hiễnhách vậy.

16. Nhật nguyên có kình, lại có sát gặp lộc, phú quý cực độ, nhưng kị có vận tài sinh sát, thì lập tức nguy khốn, tốt lắm là gặp ấn, phú quý song toàn.

17. Nhật nguyên yếu, sát mạnh, nhờ có ấn làm dụng thần, nên kị hạn gặp tài, rất xấu xa, có tang tóc của cha mẹ.

18. Nhật nguyên yếu sát mạnh, nguyên cục thiếu ấn hạn gặp phải mộ, tử, tuyệt tính mạng sẽ lâm nguy.

19. Nhật nguyên mạnh, sát yếu, hạn gặp sát, không có nguy hiểm, nhưng cũng bình thường mà thôi.

20. Nhật nguyên mạnh, sát cũng mạnh, nguyên cục không có thực, thương chế sát, đi hạn gặp sát, dễ bị mất chức, giáng chức,

21. Nguyên cục sát mạnh, nên có ấn hay thực, thương, thì sát bị chế hóa không làm hại. Nếu không có 2 thần đó thì đi hạn gặp quan hay sát, sẽ bị nghèo túng hay chết.

22. Thất sát cách, đi hạn gặp quan, ấy là hỗn tạp, hoặc thương quan chế sát quá mạnh, thì hạn nầy bị mất chức hoặc bị chết thê thảm.

23. Nguyên cục lấy thực làm dụng thần để chế sát, nhưng sát mạnh thực yếu, hạn gặp thực, thương là vận tốt. Trái lại, thực mạnh sát yếu, hạn gặp tài cũng là vận tốt.

24. Nguyên cục sát và thực đều quân-bình, nhưng nhật nguyên yếu, hạn gặp ấn, tỷ là vận tốt.

25. Nhật nguyên kị có quan, sát hổn lộc, có thực thì khứ sát lưu quan, có thương thì hợp sát lưu quan.

Thí dụ: ngày ất gặp phải canh tân ấy là quan, sát hỗn tạp có đinh (thực) thì khắc đi tân (kim), có bính (thương) thì bính, tân hợp, nhật nguyên yếu, hạn gặp ấn là vận tốt.

26. Nhật nguyên yếu, có ấn cũng yếu, sát mạnh đi hạn gặp tài, tai họa liên miên, tính mạng lâm nguy.

27. Nhật nguyên mạnh, sát cũng mạnh, đi hạn gặp ân là vận tốt.

28. Nhật nguyên mạnh, quan cục, đi hạn gặp quan thành cục. Thí dụ: ngày giáp sinh tháng dậu, đi hạn gặp sửu, nguyên cục có chữ tỵ, thì tam hợp tỵ, dậu, sửu, hạn này tiến chức, phát tài, (nhưng phải là ngày dần hay giờ dần mới tốt).

29. Nhật nguyên yếu, tài và quan mạnh, lại có sát hỗn tạp, hạn gặp phải tài, quan, sát, sẽ dễ bị tù đày.

30. Quan cách, thiên can lộ nhiều, hoặc cũng gặp sát tinh. hạn gặp quan, sát tai họa liên miên.

31. Quan cách, kị gặp hạn có sát (tỷ như quan là bính, hạn gặp đinh).

32. Nhật nguyên yếu tài quan mạnh, hạn gặp phải quan chắc chắn mắc phải bệnh nan y.

34. Nguyên cục lấy quan làm dụng thần, kị hạn gặp phải thương quan, hay cũng kị gặp hình, xung, phá, hại.

35. Quan cục, nhật nguyên yếu, hạn gặp ấn, tỷ thì tốt, gặp tài, quan thì xấu.

36. Thương quan, nguyên cục có quan tinh nên lấy ấn làm dụng thần, hạn gặp ấn thì tốt.

37. Thực thần cách, hay nguyên cục nhiều thực thần hạn gặp ấn là tốt, nếu thực ít kị hạn có ấn, gặp lộc hoặc trường sinh là 1 vận phát tài vô lượng. Chỉ kị gặp phải ấn phá hoại, không tốt.

38. Nhật nguyên mạnh, có ấn giúp, nên đi hạn gặp tài. Nhật nguyên yếu, có ấn giúp, đi hạn gặp sát cũng không có hại. Chính ấn hay thiên ấn cục, nguyên cục có tỷ, gặp hạn có tài không ngại, nếu không có tỷ, ắt là nguy khốn.

40. Chính ấn hay thiên ấn cục, nguyên cục có tài, hạn gặp tỷ, kiếp là tốt. Gặp tài là hạn chết

41. Nhật nguyên yếu, ấn kiêu tài cách, nên lấy ấn, tỷ làm dụng thần, hạn gặp ấn, tỷ chắc phát đạt.

42. Nguyên- cục ấn yếu, gặp hạn quan, sát. Nguyên cục ấn mạnh, hạn gặp tài.

43. Nhật nguyên yếu, tài mạnh, sợ gặp tài.

44. Nhật nguyên mạnh, tài yếu, nên gặp tài hay thực, thương.

45. Nhật nguyên yếu, tài mạnh, nên gặp tỷ, kiếp.

46. Nhật nguyên mạnh, nguyên cục không có tài, hạn gặp tài cũng không được hiễn đạt.

47. Nhật nguyên yếu, tài mạnh, hạn gặp quan chắc là vận xấu, họa nhiều.

48. Nhật nguyên yếu, tài mạnh, nên có ấn giúp nhật nguyên.

49. Nhậtnguyên mạnh, tài yếu, sợ tỷ, kiếp phá hại.

50. Nguyên cục nhiều tỷ, kiếp hạn gặp phải tỷ, kiếp nghèo túng khó khăn.

lưu niên (tiểu hạn mỗi năm)

(Chữ hạn dùng ở đây là viết giản tiện, nên hiểu đó là vận hoặc lưu niên)

Không phải thời gian đã trôi qua mà là chúng ta đã bước qua. Những gì chúng ta đang có là minh chứng cho sự hiện diện của chúng ta trong vũ trụ mênh mông này, nó phải hiện hữu một sự sống đầy năng lượng do sự cố gắng của chúng ta mà hình thành.

24. QUYỀN CỦA NGUYỆT KIẾN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Coi nguyệt kiến bất luận năm nào, tháng giêng là dần, nhưng lưu niên có 10 thiên can, cho nên luận nguyệt kiến nên lấy can đó mà giảng ra chữ nào dẫn đầu, thì lấy can chi đó làm chủ.

Thí dụ: năm giáp dần, chắc chắn tháng giêng là bính dần, các bạn cũng đã hiểu rõ rồi. Coi nguyệt kiến cũng là lấy can chi mà luận, chánh tài cục thích hợp với can chi của nguyệt kiến là tháng tốt, bất lợi cho dụng thần là tháng đó xấu. Nhưng có 1 điều nên chú ý:

1. Mùa xuân vượng về hành mộc, cho nên nguyệt kiến có giáp dần, ất mão, giáp thìn, thì mộc thêm cường mạnh. Gặp bính dần, đinh mão, bính thìn, thì mộc và hỏa thịnh. Gặp mậu dần, kỷ mão, thổ bị mộc khắc, hai hành mộc và thổ cũng không kiện toàn, ảnh hưởng cho dụng thần. Nếu lấy thổ, mộc làm dụng thần thì không tốt, không xấu. Gặp canh dần, tân mão, canh thìn, kim yếu, mộc mạnh, chỉ lấy hành mộc làm chủ động. Gặp nhâm dần, quý mão, nhâm thìn, thủy yếu mộc mạnh, lấy hành mộc làm chủ động.

2. Mùa hạ vượng về hành hỏa. Gặp đinh tỵ, bính ngọ, đinh mùi, hỏa thêm cường mạnh. Gặp kỷ tỵ, mậu ngọ, kỷ mùi, thổ mạnh gặp tân tỵ, canh ngọ, tân mùi, kim yếu, hỏa là chủ động. Gặp quý tỵ, nhâm ngọ, quý mùi, thủy yếu, hỏa mạnh. Gặp ất tỵ, giáp ngọ, ất mùi, mộc sinh hỏa, hỏa rất mạnh.

3. Mùa thu vượng về hành kim. Gặp canh thân, tân dậu, canh tuất, thêm cho kim càng mạnh. Gặp nhâm thân, quý dậu, nhâm tuất, kim thủy cả 2 đều mạnh. Gặp giáp thân, ất dậu, giáp tuất, kim làm chủ, vì mộc bị khắc. Gặp bính thân, đinh dậu, bính tuất, hỏa yếu, kim mạnh. Gặp mậu thìn, kỷ dậu, thổ bị kim rút khí, nên hành kim làm chủ động.

4. Mùa đông vượng về hành thủy. Gặp nhâm-Tí, quý-hợi, quý-sữu, thêm cho thủy càng mạnh. Gặp ất hợi, giáp Tí, ất sữu, mộc được thủy sinh, mộc làm chủ động. Gặp đinh hợi, bính Tí, đinh sữu hỏa bị thủy khắc, thủy làm chủ động. Gặp kỷ hợi, mậu Tí, thổ yếu, thủy làm chủ động. Gặp tân hơi, canh Tí, tân sữu, kim bị thủy rút khí. Thủy làm chủ động.

5. Trước tứ lập 18 ngày (lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông), vượng về hành thổ. Gặp mậu thìn, kỷ mùi, mậu tuất, kỷ sữu, thổ- tinh hành quyền mạnh lắm. Coi vận hạn, nên lấy đại vận là lưu niên làm chủ, nguyệt kiến phụ giúp, cộng là 6 can chi (Lục trụ), để so với dụng thần, nếu 6 can chi này hòa hợp, thì khá tốt.

Thí dụ : đại vận canh thân, lưu niên giáp dần, nguyệt kiến ất- ữu, đại vận khắc lưu niên, rất xấu, nguyệt kiến hợp đại vận. Nếu dụng thần là mộc, 10 năm xấu, trong năm giáp dần được bình thường, tháng sửu xấu. Dụng thần là kim, 10 năm tốt, trong năm giáp dần được bình thường, tháng sửu tốt. Các bạn thường suy-luận, chắc cũng để biết và tận dụng, họa phúc sẽ thấy ngay.

25. LỤC THÂN – NGƯỜI THÂN THIẾT

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Tứ trụ thể hiện thông tin về bản thân là rõ nhất, thông tin về lục thân kém rõ ràng hơn, phong thủy phần mộ tổ tiên là thứ ba, có phần hơi mơ hồ. Do đó xem về tình hình lục thân chỉ có thể đưa ra những luận đoán tổng quát, không thể chi tiết như dự đoán về bản thân

Mệnh Nam: Tỷ đại diện cho anh em, kiếp tài đại diện cho chị em. Chính ấn đại diện mẹ. Thiên ấn đại diện ông nội và mẹ kế. Thực thần đại diện bà ngoại. Thương quan dại diện bà nội. Chính quan đại diện con gái. Thất sát đại diện con trai. Chính tài là vợ, Thiên tài là cha hoặc thiếp.

Mệnh Nữ: Tỷ đại diện cho chị em, kiếp tài đại diện cho anh em và bạn bè khác giới. Chính ấn đại diện mẹ kế. Thiên ấn đại diện mẹ đẻ. Thực thần đại diện con gái. Thương quan dại diện con trai. Chính quan đại diện chồng. Thất sát đại diện người tình. Chính tài là cha, Thiên tài là bà nội.

Ngoài ra niên trụ đại diện cung phụ mẫu. Nguyệt trụ là cung huynh đệ kiêm cung phụ mẫu. Nhật trụ đại diện cung phu thê. Thời trụ đị diện cung tử nữ

Khi thập thần là dụng thần của mệnh cục bị khắc chế tất lục thân mà thập thần này đại diện có tai họa. Khi một thập thần là kị thần vượng tướng nếu bị khắc thì không thể đoán là lục thân do thập thần đó đại diện có tai họa, chỉ khi làm tổ thương đến dụng thần của nhật can mới có thể luận đoán như vậy.

Như thiên tài là hỷ thần của nhật can. Thiên tài bị tổn thương có thể luận là cha có tai họa, nhưng khi thân yếu. Thiên tài là kị thần, trường hợp này không thể luận như vậy.

Lục thân càng vượng ảnh hưởng càng lớn đến nhật can, lục thân yếu thì ảnh hưởng đến nhật can nhỏ. Khoảng cách giữa lục thân và nhật can càng gần thì ảnh hưởng càng trực tiếp và có lực, khoảng cách xa thì ảnh hưởng càng nhỏ. Ảnh hưởng tốt hay bất lợi cần xem hỷ kị của lục thân để xác định, hỷ thì ảnh hưởng tốt, kị thỉ ảnh hưởng bất lợi.

Trên thực tế, dụng thần của nhiều mệnh cục không phải cố định mà thay đổi theo Tuế Vận. Do đó Hỷ Kị của lục thân và cung vị cũng thay đổi theo tuế vận. Từ đó tình hình sang giàu nghèo hèn của lục thân cũng như quan hệ lục thân và mệnh chủ cũng thay đổi. Có thể là vào khoảng một vận trình nào đó, quan hệ với lục thân không tốt, bạn không được sự trợ ích nhiều của người đó. Sau khi vận trình thay đổi, quan hệ của hai người sẽ dần được hài hòa

Lục thân là dụng thần của nhật can chứng tỏ mệnh chủ và lục thân này có quan hệ hài hòa. Khi lục thân là kị thần của nhật can chứng tỏ mệnh chủ và lục thân này không thể sống hòa hợp bên nhau. Muốn biết tác dụng của dụng thần đối với nhật can nhiều hay ít trước tiên xem hỷ kị của cung vị của lục thân này, sau đó xem tổ hợp của lục thân trong mệnh cục có phát huy tác dụng hay không

Lục thân là dụng thần của nhật can nhưng yếu hoăc không có, chứng tỏ lục thân này muốn giúp mệnh chủ nhưng năng lực bản thân và điều kiện không tốt, chỉ có thể giúp mệnh chủ bằng việc khích lệ, động viên. Nếu lục thân nào đó là dụng thần của nhật can có lực nhưng do tổ hợp không giúp nhật can, chúng tỏ lục thân này có thể giúp đỡ, hỗ trợ mệnh chủ nhưng không có lòng muốn giúp.

Hỷ Kị của cung vị cũng đại diện tình hình giàu sang, nghèo hèn của lục thân. Cung vị nào đó là dụng thần chứng tỏ lục thân do cung vị này đại diện có điều kiện kinh tế tốt. cung vị nào đó là kị thần chứng tỏ lục thân do cung vị này đại diện có điều kiện gia đình kém, kị thần càng vượng càng tượng trưng cho sự nghèo khó. Mức độ giàu sang của lục thân không phải không thay đổi, cần kết hợp với đại vận mới có thể đoán định lục thân ở thời kỳ nào có hoặc không có tài lộc.

26. CUNG VỊ VÀ THẬP THẦN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Niên trụ đại diện cung Phụ mẫu, niên can đại diện ông nội, niên chi đại diện bà nội. Nếu niên can là Tỷ Kiếp, dù là hỷ thần hay kị thấn cũng nhất định khắc ông bà nội. không phải ông nội, người cha cả đời nhiều hung họa thì bản thân cũng sớm mất ông. Vì niên can là vị trí của ông nội, bị khắc tinh chiếm cứ tất ông nội chẳng thể yên ổn. Lại như mệnh nam có tỷ kiếp tọa nhật chi, dù là hỷ hay kị thần cũng nhất định hôn nhân không thuận. Mệnh nữ có thương quan tọa nhật chi cũng tương tự.

Hỷ kị của lục thân có thể chỉ cho thấy quan hệ mệnh chủ và lục thân này có được trợ ích hay không, còn hỷ kị của cung vị cho thấy tình hình giàu sang, nghèo hèn của lục thân.

Ví như niên, nguyệt can là dụng thần, chứng tỏ gia cảnh tổ tiên tốt. Nếu niên can là phụ mẫu (Thiên tài hoặc Chính ấn) chứng tỏ cha mẹ có tiền, điều kiện gia đình tốt, bản thân nhận được nhiều trợ giúp. Dụng thần càng vượng, trợ lực càng lớn. Nếu niên nguyệt can là kị thần mà phụ mẫu là dụng thần, chứng tỏ quan hệ giữa phụ mẫu và nhật can tốt. Mệnh chủ và cha mẹ tình cảm dung hòa nhưng cha mẹ ở điều kiện không tốt, muốn giúp con nhưng lực bất tòng tâm. Nếu niên, nguyệt can là dụng thần mà phụ mẫu là kị thân chứng tỏ cha mẹ điều kiện tốt, nhưng nếu quan hệ nhật can và phụ mẫu không tốt biểu hiện cha mẹ ít có sự giúp đỡ.

– Tài tinh là dụng thần: Lục thân được tài tinh này đại diện có điều kiện tốt, chủ về giàu có

– Quan tinh làm dụng thần: Lục thân được quan tinh này đại diện làm quan nắm quyền, chủ về sang quý, có thân phận dịa vị

– Thực thương là dụng thần: Lục thân được thực thương này đại diện thông minh tài hoa, phần lớn là mệnh nho nhã, ham hiểu biết.

– Ấn tinh là dụng thần; Lục thân được ấn tinh đại diện thích đọc sách, sinh bậc văn nhân, chủ về sang quý

– Tỷ Kiếp là dụng thần: Lục thân được Tỷ Kiếp đại diện sẽ tay trắng lập nghiệp mà trở nên giàu có

+ Quan tinh là kị thần: Lục thân được quan tinh đại diện sẽ gặp quan tai, nhiều bệnh tật hoạn nạn

+ Tài tinh là kị thần: Lục thân được tài tinh đại diện sẽ vì tiền bạc hoặc phụ nữ mà gặp tai ương hoặc bị bó buộc vì tiền tài

+ Thực thương là kị thần: lục thân được thực thương đại diện không thành tâm, có tài nhưng không gặp thời, nhiều bệnh thương tai.

+ Ấn tinh làm kị thần: lục thân được ấn tinh đại diện trung hậu, thật thà, sống cảnh thanh bần

+ Tỷ kiếp là kị thần: Lục thân được tỷ kiếp đại diện cả đời lao lực bôn ba. Phần lớn là lao động chân tay

Trong tám chữ hà lạc, chúng ta có thể tiến hành phân tich để tìm được các thông tin của người thân: Ông bà, cha mẹ, anh em, vợ con. Ngoài ra, có thể biết được quá trình phát triển của bản thân từ lúc ra đời đến khi mất

* Người sinh giờ Tí, Ngọ Mão Dậu: Là người thanh tú, anh tuấn. Đa số anh em là bạn, cha mẹ dung mạo bình thường – Sinh vào đầu giờ phần lớn cha mất trước. Sinh vào cuối giờ mẹ mất trước – Tài lộc vinh hoa cần nỗ lực, danh vọng địa vị vang khắp nơi

* Người sinh vào giờ Dần Thân Tỵ Hợi: Là người thông minh, giỏi văn chương. Sinh vào chính giữa giờ có 4-5 anh em. Sinh vào đầu giờ hoặc cuối giờ thường có 2 anh em – Cha mẹ thân sơ không có chỗ dựa. Tự nhiên phúc cao tọa hoa đường

* Người sinh giờ Thìn Tuất Sửu Mùi: Sinh vào chính giữa giờ phần lớn cha mất trước.

Sinh đầu giờ hay cuối giờ mẹ mất trước. Anh em không chỗ dựa, tổ nghiệp không giữ được. Khó làm quan, chỉ làm phục dịch, Nam là tăng đạo, nữ là ni cô

27. TÌNH HÌNH CHA MẸ – ÔNG BÀ

“Hãy bắt đẩu từ những điều nhỏ nhất”

Niên trụ là cung phụ mẫu, niên trụ đại diện cha mẹ, Niên Can là đại diện cha, niên Chi đại diện mẹ. Nếu niên can và niên chi tương sinh biểu hiện tình cảm cha mẹ dung hòa. Nếu niên can niên chi tương khắc biểu thị tình cảm cha mẹ không tốt, hay có mâu thuẫn, tình cảm không đủ hài hòa.

Ví như năm Nhâm Tuất. Tuất thổ mạnh khắc Nhâm thủy, biểu thị tính khí của người mẹ khá mạnh mẽ, chủ động khắc cha (lấn át). Dù cha có mạnh nhưng luôn sau mẹ, kết quả là cả hai đều bị tổn thương. Lâu dần không tổn thương đến sức khỏe cũng có thể chia đôi đường. Lại ví như năm Giáp Tuất. Giáp mộc mạnh khắc Tuất thổ, biểu thị tính khí cha không tốt, chủ động khắc mẹ, dù mẹ cũng đấu tranh nhưng luôn kém cha.

Can chi của niên trụ tương sinh biểu thị tình cảm dung hòa. Như năm Bính Dần. Dần mộc sinh Bính hỏa, phụ mẫu tương sinh biểu thị quan hệ hai người hài hòa, mẹ đảm đang, giỏi nội trợ, cha được nhiều trợ ích, quan hệ hai người hài hòa tốt đẹp. Như năm Nhâm Dần, Nhâm thủy sinh Dần mộc. Quan hệ hai người hài hòa, cha giỏi giang, mẹ đảm đang, quan hệ hai người bền chặt

Can chi niên trụ ngang hòa, biểu thị tình cảm bình tĩnh, Như năm Canh Thân, can chi đều là dương kim tuy có tranh cái nhỏ hoặc thiếu lãng mạn nhưng lại có thể duy trì hôn nhân, bầu bạn lâu dài. Lại như năm Quý hợi, can chi đều âm thủy, biều thị tình cảm hai người bình thường, có thể sống với nhau lâu dài

Thiên tài đại diện cha, nếu không có thiên tài dùng chính tài đại diện. Chính Ấn đại diện mẹ, nếu không có dùng thiên ấn dại diện. Thông qua việc xem xét quan hệ giữa dụng thần, kị thần của tài tinh, Ấn tinh và quan hệ mạnh yếu có thể phán đoán tình cảm giữ cha và mẹ. Nhưng tài tinh và Ấn tinh bản chất luôn tương khắc, tưc tài khắc Ấn. Ví nhu tài tinh là mộc. Ấn tinh chắc chắn phải là thổ. Mộc khắc thổ, biểu thị cha khắc mẹ. Phụ mẫu bản chất là tương khắc, không thẻ dùng sinh khắc để phán đoán, chỉ có thể xem xét sự mạnh yếu khi chúng là dụng thần hay kị thần để luận cát hung.

Nếu tài tinh là dụng thần, vượng mà gặp Ấn. Ấn tinh là kị thần, yếu mà bị chế phục. biểu thị cha mẹ hài hòa. Ngược lại nếu kị thần là Ấn vượng gặp sinh, dụng thần yếu bị chế phục biểu thị quan hệ hai người không tốt. Nếu Ấn tinh là dụng thần, vượng mà gặp sinh. Tài tinh là kị thần, yếu mà bị chế phục biểu hiện quan hệ cha mẹ khá hài hòa. Ngược lại nếu kị thần là phụ mẫu vượng gặp sinh, dụng thân Ấn yếu mà bị chế phục thì biểu thị quan hệ hai người không tốt.

HAI LOẠI SAO TỬ NỮ

Tử nữ tinh có hai hàm nghĩa, một loại chỉ bản thân mệnh chủ vì bản thân là con của cha mẹ; một loại chỉ con cái của mệnh chủ, đối với mệnh chủ mà nói là phận con cái. Xem quan hệ giữa cha mẹ chủ yếu là xem niên trụ, xem trạng thái phụ mẫu. nếu thông quan tử nữ tinh xem tình hình cha mẹ là tương đối phiến diện và mang tính võ đoán. Nếu phụ mẫu sinh trợ nhật chủ, có tác dụng tốt đối với nhật chủ, biểu hiện quan hệ cha mẹ dung hòa, có thể chăn lo cho con cái. Nếu phụ mẫu khắc hại nhật chủ, có tác dụng xấu đối với nhật chủ, biểu hiện quan hệ cha mẹ không đủ dung hòa.

Nếu thực thương sinh trợ dụng thần tài tinh, biểu thị quan hệ cha mẹ dung hòa. Nếu thực thương sinh trợ kị thần tài tinh biểu thị quan hệ cha mẹ không tốt. Nếu thực thương là dụng thần nhưng bị Ấn tinh khắc chế, biểu Tỵ quan hệ cha mẹ không đủ dung hòa. Nếu Thực thương là kị thần nhưng bị Ấn tinh khắc chế, biểu thị cha mẹ khá dung hòa

ĐIỂM TỐT LIÊN QUAN ĐẾN ÔNG BÀ CHA MẸ

– Niên can ấn tinh là dụng thần, ông cha là người có văn hóa

– Niên can nguyệt can và thời can xuất hiện nhiều ấn, từ nhỏ được người khác nuôi mà được dưỡng dục thành người

– Niên chi Ấn tinh là dụng thần, xuất thân danh giá, cha mẹ nhất định có người học rộng, hiểu biết nhiều

– Niên trụ là thiên tài tọa Dịch mã, dịch mã không bị hợp, cha là người sáng nghiệp ở xa.

– Niên chi là Quan tinh gặp tướng tinh, chủ về cha mẹ giàu có trung hậu.

– Trong trụ Ấn và Kiêu cùng xuất hiện, nhất định có mẹ nuôi hoặc mẹ kế

– Nhật chủ vượng khắc thiên tài, thực thương tọa niên can, nguyệt can, cha sống thọ khỏe mạnh

– Thiên tài tọa đào hoa, mộc dục, cha thông minh tuấn tú, nhiều tài nghệ

– Chính ấn tọa đào hoa mộc dục mẹ có dung mạo đẹp đa tình

– Thiên tài tọa trường sinh, cha khỏe mạnh, gia đình hòa thuận

– Niên can và nguyệt can có thiên tài trung hòa, cha nắm quyền trong nhà

– Niên can chính quan làm dụng thần ông bà làm quan cao. Con cháu có thể kế thừa tổ nghiệp. Quý khí hanh thông

– Niên chi chính quan bị thương quan khắc phà thì ông cha ốm yếu. Quan vượng thân yếu, quan có chế phục chủ về sinh quý tử, có thể làm rạng tổ tông

– Niên can nguyệt can có Sát Ấn tương sinh là dụng thần, cha có quyền thế, có uy và nhân từ. Niên can thuần sát là dụng thần cha có quyền uy

– Chính tài hoặc chính quan tọa niên can, niên chi làm hỷ thần và dụng thần, tổ nghiệp có nền tảng tốt, bản thân hưởng phúc tổ tiên, là kị thần thì không được tổ tiên phù hộ

– Tài quan tọa niên can và nguyệt can tương sinh, là hỷ thần, dụng thần cha hoặc anh có quan vận, thế lực, bản thân cũng làm quan nắm quyền

– Chính tài gặp thiên tài hoặc thực thương trên niên can nguyệt can, cha mẹ giàu có trường thọ

ĐIỂM KHÔNG THUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ÔNG BÀ CHA MẸ

– Chính ấn là dụng thần gặp Thương, mẹ vất vả, cả đời khốn khó bấp bênh

– Chính ấn bị khắc chế, khắc mẹ. Tài thái quá cha mẹ bất hòa

– Ấn thái quá lại tụ Nhẫn, mẹ mạnh mẽ, cha mẹ bất hòa

– Mệnh phạm Kiêu thần đoạt thực thần, bất hòa với mẹ khó hợp với con

– Thiên ấn gặp tọa chi Tỷ Kiếp, phần lớn là con nuôi

– Tỷ kiếp nhiều, chịu khắc lại không có thực thương cứu ứng thì khắc cha

– Nguyên cục có Nguyên thần đoạt thực thần, tài lại bị khắc, cha mẹ mất sớm

– Niên can thương quan dù là hỷ hay kị đều chủ về không được kế thừa nghiệp tổ

– Niên can là Nhâm Thời can là Ất hoặc niên can là Ất thời can là Nhâm mẹ là vợ lẽ

– Tứ trụ thuần dương, Ấn quá vượng hoặc quá yếu, mẹ mất sớm, thời can khắc niên can, khi còn nhỏ đã mất mẹ. Thời can không khắc niên can, trung niên mất mẹ.

– Tứ trụ thuần âm, tài quá vượng hoặc quá yếu, cha mất sớm, thời can khắc niên can, khi còn nhỏ đã mất cha. Thời can không khắc niên can, trung niên mất cha.

– Niên chi nguyệt chi nhật chi thời chi và thai chi đều khắc can, cha mẹ mất sớm.

– Tài nhiều, Ấn yếu hoạc tài nặng ấn nhẹ chủ về cha mẹ bệnh tật nhiều, thậm chí gặp hình khắc.

-Tài nhiều nhật chủ yếu, hành vận đại kị: tử mộ tuyệt bệnh suy haocj chỗ tài vượng, chủ khắc mẹ.

– Chi hội hợp tài cục mà nhật chủ yếu, xuất thân nghèo khó, sơm khắc cha mẹ

– Chính tài gặp tọa chi là kiếp tài, trong chi hợp tỷ kiếp cục hoặc sớm hành vận tỷ kiếp, cha mất sớm, gia nghiệp tổ tiên phá bại

– Chính tài gặp tọa chi là Ấn, tài vượng khắc ấn yếu, mẹ chồng nàng dau bất hòa. Khắc mẹ

– Niên trụ và nguyệt trụ đều có tài gặp Ấn, Tượng nhiều cha, cha hoặc bản thân xuất thân không tốt.

– Thiên tài gặp tọa chi là mộ mà tuế vận gặp kiếp tài, có họa mất cha.

– Thiên tài gặp tọa chi là Sát, nhật chủ yếu Thất Sát hao tài khắc chế nhật chủ. Phiêu bạt cùng cha, gặp biến cố nơi đất khách quê người.

– Thiên tài gặp tọa chi là tỷ kiếp, niên trụ phụ mẫu bất hòa, ch mẹ không hòa hợp.

– Thiên tài gặp tọa chi là kình, cha mạnh mẽ

– Niên chi và thười chi phạm phục ngâm: Khi sinh ông bà đã mất hoặc ông bà qua đời trước khi tròn 6 tuần tuổi

– Ấn tinh bị khắc nghiêm trọng, chủ khắc mẹ

– Niên trụ có Chính tài tọa chính tài, nhật chủ yếu khắc mẹ> Mẹ của mệnh chue cơ thể yếu lại nhiều bệnh, vợ phần lớn bất hòa với mẹ.

– Niên trụ có tài tọa Ấn, Gia nghiệp tổ tiên bị phá hoại, trước giàu sau nghèo

– Niên trụ có Chính ấn tọa Kình, nhật chủ vượng, cơ nghiệp tổ tiên bị tổn hại, không có tài sản, gặp kiếp tài chủ khắc cha mẹ.

28. ANH EM

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

NGUYỆT TRỤ LÀ CUNG HUYNH ĐỆ

Nguyệt trụ có thể xem về tình hình của anh chị em. Nếu nguyệt trụ có tổn hao, ví như bị hình xung tất ảnh hưởng đến tình hình của anh chị em. Nguyệt trụ bị phá hại hình xung tất anh chị em không thể ở bên nhau, thường lập nghiệp ở xa quê cha đất tổ. Nếu lập nghiệp xa quê có thể tai họa sẽ được hõa giải, nếu không khó tránh tai họa.

Nếu trong cung huynh đệ có kị thần của tỷ kiếp – quan sát hoặc thực thương, trong anh chị em nhất định có người mất sớm hoặc bệnh tật, lao ngục. Vì huynh đệ ở nguyệt trụ là nơi của tỷ kiếp, nếu có khắc tinh của tỷ kiếp tất anh chị em chẳng thể yên ổn. Dù là hỷ thần hay kị thần đều chủ về tai họa. thậm chí khó giữ mạng. Khi là hỷ thần, dụng thần của nhật can, ngoài khắc anh chị em cũng chứng tỏ những người này có quý khí. Trong mệnh cục, bản khí của địa chi nào đó là quan sát mà trong đó có khí dư của tỷ kiếp cũng chủ về anh chị em có hao tổn hoặc thương vong.

Thương quan là sao chủ bệnh tật, thương tàn, tử vong, lao ngục. Khi tọa ở cung vị nào người mà cung vị tương ứng với nó đại diện sẽ bị tổn thương. Do đó thương quan tọa nguyệt trụ tất gây ảnh hưởng bất lợi đến anh chị em

Kiếp tài xuất hiện ở niên can tất có anh em khác giới đồng lòng cũng có cả người không đồng lòng. Vì niên can là vị trí của tài tinh, là cha. Kiếp tài khắc tài tinh, cha bị khắc, có tượng mất sớm hoặc cha mẹ ly biệt, cha mẹ kết hôn hai lần. Từ một góc độ khác, Kiếp tài lại có thể xem là thực thương của ấn tinh. Đối với mệnh nữ, thực thương khắc quan tinh. Quan tinh là chồng. Thực thương là địch thủ của quan tinh, kẻ địch của chồng và là người tình của mình. Niên can là nhà của cha, mà người tình của mẹ chiếm cứ vị trí của cha, chứng tỏ mẹ ngoại tình

LUẬN ĐOÁN SỐ ANH CHỊ EM

Luận đoán số lượng anh chị em có trường hợp chính xác và có trường hợp sai số do trong xã hội hiện đại thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Tuy nhiên trong đó cũng tồn tại một số quy luật

– Nhật chủ trung hòa hoặc yếu, dùng tỷ kiếp để luận về anh chị em

– Nhật chủ quá yếu, dùng ấn, tỷ kiếp luận về anh chị em

– Nhật chủ vượng dùng quan sát luận về anh chị em

Người xưa quy định đối với lục thân dùng ngũ hành của nhật can ở trạng thái cân bằng lý tường để định nghĩa. Trên thực tế ít mệnh cục cân bằng hoàn toàn. Đồng thời tứ trụ thuộc lưu thông cân bằng, trong đó bất kỳ một hành nào đều có lực khiến cho ngũ hành có xu hướng cân bằng hoặc để mệnh cục thiên về trạng thái thuần khiết. Đây là quy luật tất yếu của ngũ hành, biến hóa thuận ứng tứ thời. Khi nhật chủ yếu, tỷ kiếp đến hỗ trợ. Khi nhật chủ vượng Quan sát đến chế phục là điều tiết tự nhiên

Do đó nhật chủ yếu dùng tỷ kiếp làm anh chị em. Nhật chủ cường vượng dùng quan sát làm anh chị em. Đối với trường hợp nhật chủ quá yếu dùng tỷ kiếp thêm ấn tinh, đây là sự khác biệt của nhật chủ yếu và nhật chủ quá yếu. Không khó lý giải khi nhật chủ quá yếu, Ấn tinh không những có thể sinh tỷ kiếp tương trợ mà còn có thể hóa tiết qua sát để nhật chủ cân bằng

THÔNG TIN CÁT LỢI VỀ ANH EM

– Sát vượng không có thực thương hoặc sát nhiều không có ấn, được kiếp tài hợp sát, nhất định được trợ giúp từ anh em

– Sát vượng, thực nhẹ, hoặc ấn yếu gặp tài, được tỷ đối địch sát, chế phục tài, anh em có lực

– Tài sinh Sát nhiều. Tỷ kiếp hỗ trợ nhật chủ, khi trường thành có thể được sống gần nhau

– Nhật can suy nhược nhưng được ấn vượng sinh trợ, đông anh em

– Tứ trụ gặp nhiều tỷ kiếp, chủ về nhiều anh em

– Nguyệt trụ gặp quan tinh chủ về anh chị em quý trọng nhau

– Nhật chủ vượng, tài yếu, nhiều anh chị em

– Tỷ kiếp thái quá cũng không bất cập, anh em thương yêu nhau

– Tỷ kiếp là dụng thần, được anh em giúp đỡ

THÔNG TIN BẤT LỢI VỀ ANH EM

– Ngyệt trụ thương quan, khắc anh chị em, anh chị em đoản mệnh, hoặc ốm yếu

– Bản khí nguyệt chi là quan sát mà trung khí và dư khí ẩn tàng tỷ kiếp, anh chị em đoản mệnh, bệnh tật

– Can chi của nguyệt trụ là quan sát, khắc anh chị em, anh chị em nhất định có bệnh, thương tàn

– Nguyệt trụ Giáp thìn, Ất mùi. Can bị chặt mất chân, chủ về anh chị em có tổn thương, ít nhất có một người hôn nhân không thuận

– Nhật trụ nguyệt trụ có can giống nhau nhưng chi xung khắc, không có anh em

– Nhật trụ hoặc thời trụ là Đinh sửu Đinh mùi, không có anh em, nếu có cũng thương tàn

– Người sinh ngày Mậu dần, Kỷ mão khắc anh chị em

– Nhật chủ yếu, can không có tỷ kiếp. Địa chi ẩn tàng tỷ kiếp lại bị hình xung khắc tiết, không có anh em, nếu có cũng bị tổn hại

– Niên can và Nguyệt can là thất sát, bản thân không phải là con trưởng

– Nguyệt chi là thất sát, bản thân là con trưởng, trưởng nữ, con một. Nếu không anh em tất có hình thương

– Niên can là tỷ kiếp bị hợp, trong anh chị em nhất định có người nhờ người khác nuôi hay nhận mẹ nuôi

– Chính quan tại nguyệt can, bản thân không phải là con trưởng

– Chính quan chính ấn chính tài đều hiển lộ, nhất định là con trưởng

– Niên can và niên chi đều là thiên tài, khi còn nhỏ là con nuôi

– Mệnh nam có thất sát vượng gặp tỷ kiếp, có anh không có em

– Quan nhẹ thương nặng, ấn thụ chế phục thương, khó tránh khỏi lo lắng

– Sát nặng không có ấn hóa tiết, chủ về suy bại

– Nhật chủ vượng gặp kiêu, kiếp nhiều không có quan hóa tiết, cô độc một mình

– Kiêu tỷ gặp nhau, tài nhẹ bị khắc, khó tránh phiền muộn vì không được giúp đỡ

– Tỷ kiếp phá hoại dụng thần, anh em mệt mỏi

– Tỷ kiếp bị dụng thần phá, bản thân hưng thịnh, anh em suy bại

– Tỷ kiếp cầu phù trợ mà không được phù trợ hoặc cầu ức chế mà không được ức chế, đông anh em nhưng sự quan tâm lẫn nhau ít

LUẬN VỀ TÌNH HÌNH ANH CHỊ EM

– Người sinh ngày giáp niên trụ hoặc nguyệt trụ là giáp thân hoặc canh thân tất không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày ất, niên trụ hoặc nguyệt trụ là ất dậu hoặc tân dậu không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày Bính, niên trụ hoặc nguyệt trụ là Bính Tí hoặc Nhâm Tí, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– người sinh ngày Đinh, Niên trụ hoặc nguyệt trụ là Đinh hợi hoặc quý hợi không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày mậu, niên trụ hoặc nguyệt trụ là Mậu dần hoặc giáp dần, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày kỷ, niên trụ hoặc nguyệt trụ là kỷ mão hoặc Ất mão, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày Canh, niên trụ hoặc nguyệt trụ là canh dần hoặc bính dần, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sing ngày tân, niên trụ hoặc nguyệ trụ là tân mão hoặc Đinh mão, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày Nhâm, niên trụ và nguyệt trụ là nhâm tuất hoặc Bính ngọ, không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

– Người sinh ngày Quý, niên trụ và nguyệt trụ là quý Tỵ hoặc Đinh tỵ,không có anh chị em, hoặc phải sống xa nhau

29. LUẬN ĐOÁN CON CÁI

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

THẬP THẦN VÀ CUNG VỊ

Trong tứ trụ của mệnh nam. Thực thần đại diện con trai, thương quan đại diện con gái. Khi không có thực thương, Thất sát đại diện con trai, Chính quan đại diện con gái.

Trong tứ trụ mệnh nữ. Thực thần đại diện cón gái, Thương quan đại diện con trai.

Thời trụ đại diện cung tử nữ. Với mệnh nam, thời can đại diện con trai, thời chi đại diện con gái. Với mệnh nữ, thời can đại diện con gái, thời chi đại diện con trai. Thời trụ kị kề gần Kiêu Ấn, nếu Kiêu Ấn tại thời trụ lại là kị thần thường chủ về khắc con. Ngoài ra dùng hỷ thần hay kị thần để xác định tốt xấu, thông minh hay trí tuệ kém của con cái. Cung tử nữ là hỷ thần, dụng thần vượng tướng không bị chế phục đều là tượng may mắn, nếu là dụng thần suy yếu lại bị chế phục đều là tượng hung. Tử nữ tinh là hỷ thần nhưng xa cách nhật can, duyên mỏng với con cái, tuy con cái giỏi giang nhưng lập nghiệp xa, hoặc tuy ở bên cạnh nhưng tình cảm lạnh nhạt.

CÁCH NHÌN CHI TIẾT VỀ CON CÁI

Luận giàu nghèo:

Tài tinh là dụng thần, mệnh cục có thực thương sinh tài, con cái giàu có.

Tài tinh là dụng thần, thực thương không sinh tài, con cái nghèo khó.

Tài tinh là kị thần, thực thương không sinh tài, con cái giàu có.

Tài tinh là kị thần, thực thương sinh tài, con cái nghèo khó.

Quan vận của con cái:

Quan sát là dụng thần, thực thương không chế phục Quan sát, con cái có địa vị hoặc làm công chức.

Quan sát là dụng thần, Thực thương chế phục quan sát, con cái không có địa vị, dễ gây chuyện tai tiếng.

Quan sát là kị thần, Thực thương chế ngự quan sát, con cái có địa vị.

Quan sát là kị thần, Thực thương không chế phục quan sát, con cái không có địa vị, dễ gây chuyện tai tiếng, kiện tụng

Học nghiệp của con cái:

Thực thương là dụng thần, Ấn tinh không chế phục thương thực, con cái học giỏi.

Thực thương là dụng thần, Ấn tinh chế phục thực thương, con cái học kém

Thực thương là kị thần, Ấn tinh chế phục Thực thương, con cái học giỏi

Thực thương là kị thần, Ấn tinh không chế ngự thực thương, con cái học kém

Con cái ngoan có hiếu;

Thực thương là dụng thần, vượng tướng có lực, con cái ngoan và có hiếu

Thực thương là kị thần, vượng tướng có lực, con cái bất hiếu

Thực thương là dụng thần, chế phục kị thần có lực, con cái không chỉ ngoan có hiếu mà giỏi giang

Thực thương là kị thần, chế phục dụng thần có lực, con cái bất tài, bất hiếu

Thực thuơng là dụng thần, gần sát nhật chủ lại ở thế vượng, con cái ngoan ngoãn hiếu thảo, tình cảm với mệnh chủ tốt

Thực thương là kị thần, gần sát mệnh chủ lại ở thế vượng, con cái bất hiếu, quan hệ không tốt với mệnh chủ.

Thực thương là kị thần, suy mà bị chế phục con cái ngoan hiếu thảo giỏi giang

Thực thương là dụng thần, cách xa nhật can bị chế phục con cái bất hiếu bất tài.

Con cái thọ yểu:

Thực thương là dụng thần, vượng tướng không bị chế phục, con cái trường thọ khỏe mạnh

Thực thương là dụng thần suy nhược, bị chế phục, con cái nhiều tai nạn

Thục thương là kị thần suy nhược lại bị chế phục, con cái khỏe mạnh trường thọ

Thực thương là kị thần vượng tướng lại gặp sinh trợ con cái nhiều nhưng hung tai hoạn nạn

GIỚI TÍNH CỦA CON CÁI

Giới tính của con cái không hoàn toàn quyết định bởi thực thương mà còn cần xem xét kết hợp với tuế vận. Không phải nguyên cục có Thực thần (nam) thì sinh con trai, có thương quan (nữ) thì sinh con gái. Cụ thể cần xem quan hệ tác dụng giữa hỷ thần kị thần và tuế vận để xác định,

Ví dụ như nguyên cục có thực thần mà vợ mang thai vào năm thương quan thường sinh nữ. Ngược lại nếu mang thai ở năm thực thần thường sinh con trai.

THÔNG TIN CÁT LỢI VỀ CON CÁI

– Mệnh nữ có thời can là Tài thực thương quan là hỷ thần, dụng thần đắc khí, con cái có tiền đồ

– Mệnh nam có thời can là Tài quan là hỷ thần, dụng thần đắc khí, cho cái có tiền đồ

– Nhật can vượng, Ấn thụ nặng, thực thương nhẹ, có tài tinh, chủ về con cái đông hiếu thảo

– Nhật can vượng, không có ấn thụ, có thực thương, đông con

– Nhật can vượng, không có ấn thụ, thực thương, có quan sát thì đông con

– Nhật can vượng, tỷ kiếp nhiều, không có ấn thụ, thực thương, đông con

– Nhật can vượng, thương quan vượng, không có tài ấn, đông con, con có tài

– Nhật can vượng, Thương quan nhẹ, có ấn thụ. Tài đắc cục, đông con lại giàu có

– Thực thần phù trợ dụng thần, con cái có tướng mạo đẹp

– Nhật can yếu, Thực thương nặng, có ấn thụ, không có tài tinh, con hiếu thảo

– Nhật can yếu, không có quan tinh, có thực tương, con hiếu thảo

– Thực thương không gặp xung khắc, con hiếu thảo

– Thực thương ưa phù trợ mà được phù trợ, cần ức chế được ức chế, chủ về đông con

– Dụng thần trong mệnh là thực thương, chủ về con cái nhiều mà đắc lực

– Dụng thần ở thời trụ, con cái nhiều, hoặc được con cái chăm lo phụng dưỡng.

THÔNG TIN BẤT LỢI VỀ CON CÁI

– Mệnh nữ có thời trụ là Kiêu ấn, khắc con cái, phần lớn xảy thai, khó sinh, con cái yểu mệnh

– Mệnh nữ có nhật can vượng, thời chi gặp kình dương hoặc kiêu thần, khó sinh hoặc phải mổ

– Nhật chi và thời chi có thìn tuất tương xung, trung niên và cuố đời khắc con

– Thời trụ có kiêu thần, niên trụ và nguyệt trụ hiển lộ tài tinh, mệnh nữ khắc con

– Thời trụ mang thương quan, thất sát vượng không có chế phục, con cái bất hiếu

– Mệnh nữ gặp mộc dục, con đầu khó nuôi

– Thời trụ mang quan phù không hình khắc, chủ về người cha thường kiện tụng, thị phi

– Mệnh nam có thực thương nhiều, con cái khó thành tài, duyên mỏng với con

– Mệnh nữ có Ấn Kiêu nhiều, con cái khó thành tài, duyên mỏng với con.

– Mệnh nữ có nhật trụ và thời trụ tương xung, thìn thìn tự hình, khó sinh hoặc phải sinh mổ

– Tứ trụ của nam không có tài, tứ trụ của nữ không có quan, phần lớn không con

– Nhật can là hỏa, Thiên can của các trụ khác đều là thủy, khí lạnh quá nặng chủ về không có con trai. Kiêu thần kẹp nhật trụ cũng chủ về hiếm muộn đường con cái

– Tứ trụ không có kim thủy, cả dời không có con, chức năng thận không tốt, khi đi mông cong, vùng môi và miệng có sắc đen

– Mệnh có nguyệt trụ Đinh mùi thời trụ Tân sửu, con đầu khó nuôi dễ tàn tật, nếu không thì anh em khó tránh thương tật

– Thời chi gặp tọa chi là thất sát, không có em trai em gái

– Nhạt can vượng, ấn thụ nặng, thực thương nhẹ ít con

– Nhạt can yếu Ấn thụ nhẹ, thực thương nặng, chủ vè ít con

– Nhật can yếu, thực thương nhẹ, không có tỷ kiếp có quan tinh, chủ về không có con

– Nhật can yếu, thực thương vượng, có ấn thụ, gặp tài tinh, có con cũng như không

– Nhạt can vượng, có ấn thụ không tài tinh, ít con

– Nhật can vượng, Ấn thụ nặng, không có tài tinh, hiếm muộn đường con cái

– Nhật can yếu quan sát vượng, hiếm muộn con cái

– Nhật can yếu Thực thương vượng, không có ấn thụ, hiếm muộn con cái

– Hỏa nóng thổ khô, thủy tràn lan mộc trôi, kim lạnh thủy lạnh, Ấn thụ trùng điệp chủ về hiếm muộn con cái

– Tài quan quá vượng hiếm muộn con cái

– Mệnh cục toàn thực thương, hiếm muộn con cái

– Thực thương gặp xung khắc, hoặc được phù trợ thái quá, bị ức chế thái quá hoặc phá hoại dụng thần đều chủ hiếm muộn con cái hoặc con không được hỗ trợ giúp đỡ

– Dụng thần ở thời trụ bị khắc phá, chủ về con cái không được giúp đỡ

– Kị thần thực thương, trong toàn cục không bị chế phục, chủ hiếm muộn con cái

– Kị thần ấn thụ trong toàn cục không bị chế phục hiếm muộn con cái

– Điều hầu không thích hợp, tức quá lạnh, quá nóng, qúa khô, quá ẩm đều chủ về hiếm muộn con cái

– Thực thương là dụng thần, ở thế suy nhược lại bị chế phục, chủ về không có con hoặc hiếm muộn

– Thực thương là kị thần vượng lại không bị chế phục, chủ về không có con hoặc hiếm muộn

– Nhật chi thực thương là dụng thần yếu mà bị chế phục chủ về không có con, có cũng hình khắc nhau

– Nhật chi thực thương là kị thần, vượng mà gặp sinh chủ về không có con, nếu có cũng hình khắc

30. DỰ ĐOÁN BỆNH TẬT

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Bệnh tật và tử vong đều do âm dương ngũ hành trong mệnh cục mất cân bằng gay nên. Niên trụ đại diện đầu, nguyệt trụ đại diện ngực, nhật trụ đại diện bụng, thời trụ đại diện chi dưới. Thiên can đại diện bên phải của cơ thể và phía bên ngoài là da, cơ thịt. Địa chi đại diện bên trái cơ thể và hệ thống nội tạng.

– Thiên can phối với ngũ tạng: Giáp là mật. Ất là gan. Bính là ruột non. Đinh là tim. Mậu là dạ dày. Kỷ là lá lách. Canh là ruột già. Tân là phổi. Nhâm là bàng quang. Quý là thận.

– Địa chi phối với tạng phủ: Tí là mật. Sửu là gan. Dần là phổi. Mão là ruột già. Thìn là dạ dày. Tỵ là lá lách. Ngọ là tim. Mùi là ruột non. Thân là ruột già. Dậu là thận. Tuất là Tâm bào. Hợi là tam tiêu.

– Địa chi phối với thân thể: Tí là vai. Sửu là bụng, chân. Dần là lông, tóc. Mão là ngón tay, ngón chân. Thìn là vai, ngực. Tỵ là mặt, họng, răng.Ngọ là mắt. Mùi là xương sống. Thân là kinh mạch. Dậu là tinh huyết. Tuất là mệnh môn, chân. Hợi là đầu

QUY TẮC DỰ ĐOÁN BỆNH – THƯƠNG TẬT

Vị trí cơ thẻ mà ngũ hành vượng nhât trong mệnh cục và ngũ hành bị ngũ hành vượng nhất khắc đại diện dễ có bệnh. Kết hợp ngũ hành ở trụ nào trong tứ trụ, can hay tại chi để tổng hợp phán đoán. Như giáp mộc tại niên can bị khắc có thể khẳng định là đầu có bệnh, vì giáp là đầu, vị trí niên can đại diện là đầu.

Bệnh và thương tật khác nhau. Đặc điểm của bênh lầ ngũ hành nào đó yếu, bị ngũ hành vượng khắc mà không có lực phản kháng hoặc ngũ hành nào dó quá vượng dẫn đến bệnh nặng. Đặc điểm của thương tật là: hai ngũ hành vượng tương chiến, lại không có thông quan, không chế phục nhau. Kim Mộc tương chiến chủ về gân bị tổn thương. Mộc Thổ tương chiến phần lớn bị thương ở da thịt. Thủy Hỏa tương chiến phần lớn là bị cháy mà tổn thương, bỏng và tai nạn lên quan tới máu. Hỏa Kim tuơng chiến phần lớn là bị độc, vết thương có máu.Tuy nhiên nhất định là hai bên đều có khí mới có thể tương chiến, một bên vượng, một bên hưu tù thì không thể xảy ra.

31. NẠP ÂM LUẬN MỆNH

CHỈ LUẬN NIÊN TRỤ

(Hãy băt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Lý luận và phương pháp luận mệnh của nạp âm không những có nội hàm sâu sắc mà còn là nội dung không thể thiếu trong dự đoán tứ trụ. Với sự xuất hiện của Ngũ hành nạp âm, dự đoán tứ trụ càng được toàn diện. Dù lấy thông tin của bản thân mệnh cục hay đón cát tránh hung đều là những phương pháp quan trọng. Nạp âm là một hình thức biểu hiện khác của hệ thống âm dương ngũ hành, đứng ngang hàng với chính ngũ hành. Hai hệ thống ngũ hành này tự nâng đỡ các vấn đề thuộc nội hàm âm dương ngũ hành, bổ xung cho nhau trong dự đoán tứ trụ. Nhờ sự kết hợp của chúng mới tạo thành hệ thống dự đoán tứ trụ hoàn chỉnh

Ngũ hành nạp âm chỉ dùng đối với năm, không thich hợp vận dụng đối với tháng ngày giờ. Hai năm dùng chung một ngũ hành nạp âm, như Giáp Tí và Ất sửu đều là Hải trung Kim. Ngũ hành nạp âm của 2 năm được chia thành 1 năm âm, 1 năm dương. Điều này cho thấy mức độ sinh khắc âm dương được ngũ hành nạp âm phản ánh vô cùng sâu sắc

Ngũ hành nạp âm và chính ngũ hành quan trọng như nhau và có ưu thế riêng. Tác dụng của chính ngũ hành thiên về Mệnh vận của cá nhân. Tác dụng của ngũ hành nạp âm tập trung vào quan hệ giữa người với người. Dùng tứ trụ kết hợp nạp âm luận đoán hôn nhân vừa đơn giản lại có tính chính xác cao. Một đôi nam nữ có duyên hay không, có thể ở bên nhau mãi mãi hay không chỉ cần dúng nạp âm có thẻ nhanh chóng tìm ra kết quả

Ngũ hành nạp âm dùng sinh khắc là hình thức cơ bản, nhưng có nét khác với chính ngũ hành. Sinh của nạp âm không đơn giản là để bên được sinh tăng lực mà còn được lợi, Như Kim sinh Thủy, kết quả là Thủy được lợi ích. Khắc của ngũ hành nạp âm là chế ước, quản thúc, cưỡng chế. Dưới áp lực của bên khắc, bên bị khắc phải tuân thủ thứ gì đó mà bản thân không thích.

Hỗ trợ của ngũ hành nạp âm không phải bên được phù trợ tăng lực mà giữa hai bên tồn tại lực đẩy nhau. Do đó, mệnh giống như tranh mệnh, xảy ra tranh đấu liên miên. Nếu lực hao tiết của ngũ hành nạp âm nhỏ, thường có thể không cần xem xét, nhưng khi lực lượng ngũ hành nào đó nhiều lên mới phải xem xét, như trong nhà có hai người mệnh thủy sẽ hao tiết người có mệnh kim.

Phương pháp nạp âm có ý nghĩa quan trọng đối với việc luận đoán cát hung. Nếu tứ trụ của một người có đường hôn nhân không thuận nhưng chưa thể khẳng định có thể ly hôn hay không. Lúc này áp dụng nạp âm ngũ hành có thể đưa ra kết luận khá chính xác

2. NẠP ÂM HỢP HÔN

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Cách xem hôn nhân dựa vào nạp âm năm sinh của nam nữ làm chuẩn. Tiến hành xem tổ hợp của nó. Nguyên tắc là: Nạp âm Nam Nữ tương sinh là tổ hợp đẹp. trong lý luận về niên mệnh tương khắc, nam khắc nữ là khắc bình thuờng, nhưng trong khẩu quyết có cách nói không cát lợi, trên thực tế ảnh hưởng không nhiều. Ngược lại, niên mệnh nữ khắc niên mệnh nam là không cát lợi.

– Mệnh nam khắc mệnh nữ: nam khắc nữ là chính khắc, người khắc mình là Quan. Do đó, thời xưa nữ giới thường gọi chồng là “quan nhân”. Khắc này không phải từ “khắc” của khắc vợ, khắc chồng mà là mệnh nam thành chỗ dựa của mệnh nữ. Người mình khắc là khắc tài, vợ là tài. Vợ là tài không phải tài phú vật chất mà là vì tình yêu mà bảo vệ, yêu thương chăm sóc vợ, một bên có chỗ dựa, một bên chăm sóc đối phương, tự nhiên tình cảm hài hóa.

– Mệnh Nam Nữ tương sinh: Như mệnh nam là thủy, mệnh nữ là mộc, hoặc ngược lại. Có một số người được sinh nhưng luôn không cảm nhận được hoặc không cọi trọng, có phúc mà không biết hưởng. Hiện tượng này thường gặp ở mệnh nữ có năm sinh dương.

– Mệnh Nam Nữ tương đồng: Cùng mệnh là tranh mệnh, hôn nhân đa phần không hài hòa, không ly hôn thì cả đời cũng khó tránh mâu thuẫn. Biểu hiện cụ thể là hai người không tìm được tiếng nói chung, quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề khác nhau.

– Nam dương nữ âm là cát lợi: Nam là dương, nữ là âm thuộc tính tự nhiên, trái quy luật này tất phát sinh ảnh hưởng không tốt. Như mệnh nam sinh canh thìn thuộc kim, mệnh nữ sinh Quý mùi thuộc mộc, niên mệnh nam là dương, niên mệnh nữ là âm, tổ hợp này không cát lợi cũng không dẫn đến ly hôn. Nếu mệnh nam Canh thìn, mệnh nữ là Nhâm ngọ, tuy cũng là mệnh nam khắc mệnh nhưng không bằng tổ hợp trước vì mệnh nữ là dương. Thường thì mệnh nữ sinh năm dương đều khá mạnh mẽ, thích phấn đấu trong sự nghiệp. Trong thực tiễn khi dự đoán về kết hôn, cần kết hợp nạp âm và chính ngũ hành để xem mới có thể đưa ra luận đoán chính xác, vì cả hai từ góc độ khác nhau có ảnh hưởng đến vận mệnh đời người. Nguyên tắc kết hợp là chính ngũ hành và nạp âm đều tốt, chắc chắn cát lợi. Nếu chỉ một phương diện đạt cát lợi, hôn nhân không tốt nhưng không nhất định ly hôn. Nếu cả hai đều không tốt, tất khí tránh kết cục xấu là Ly hôn

Ví dụ: Mệnh Nam thủy gặp mệnh Nữ mộc:

“Nam Thủy nữ Mộc lắm điều hay

Tình thắm chồng giỏi, vợ xinh hiền

Cùng giường hòa mục xây sự nghiệp

Tiền của tự đến chẳng khổ công”

(Phú quyết).

33. NẠP ÂM ĐOÁN GIA ĐÌNH

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Từ góc độ của ngũ hành nạp âm, yêu chiều là tương sinh của nạp âm. Bản thân là mệnh Kim. Cha mẹ là một bên là mệnh thổ chính là yêu chiều mình. “Yêu chiều” này không thể lý giải là tình yêu đơn giản như tình yêu cha mẹ dành cho con cái. “Yêu chiều” này là đảm bảo con cái có thể có môi trường trưởng thành lành mạnh về nhân cách. “Quản lý” chính là cha mẹ có niên mệnh khắc mình. Niên mệnh cha mẹ và niên mệnh con có ảnh hưởng lớn đến đến môi trường trưởng thành của con. Nếu cùng sống với con còn có các thành viên khác thì niên mệnh của họ cũng là một trong những yếu tố cấu thành môi trường. Môi trường có sinh có khắc là môi trường lành mạnh. Nếu niên mệnh của cha mẹ đều sinh niên mệnh của con gọi là có sinh không khắc, trẻ từ nhỏ không nghe lời, sau khi trưởng thành tín cách ngỗ nghịch, tùy tiện, nếu niên mệnh cha mẹ đều khắc niên mệnh con thì từ nhỏ con trẻ nhát gan, ủy mỵ, yếu đuối hoặc thần kinh quá mẫn cảm.

– Hai vợ chồng có niên mệnh đều là Ấn của con: Con thường được nuông chiều tử nhỏ, năng lực tự lập kém

– Hai vợ chồng niên mệnh đều là Tài của con: Con không bị chế ước, không nghe lời, thích tự làm theo ý mình

– Hai vợ chồng niên mệnh đều là Quan của con: Con thường không có cá tính, thật thà, quá nghe lời, thậm chí sức khỏe không tốt.

– Hai vợ chồng niên mệnh đều là Tỷ Kiếp của con: Giữa các thành viên trong gia đình thường hay tranh cãi

– Hai vợ chồng niên mệnh đều là thực thương của con: Con cái có trách nhiệm với bản thân và gia đình, tự giác học hành, hiếu thuận với cha mẹ. Tuy nhiên người con có sức khỏe không tốt.

Nạp âm mệnh của vợ chồng tương đồng không những bất lợi cho hôn nhân mà còn bất lợi cho con. Con dù sinh năm nào nhưng nếu quan hệ và nạp âm niên mệnh của cha mẹ không hài hòa, không phải quá khắc hoặc quá tiết, sinh phù quá mức. Như vậy, là gây bất lợi cho sự trưởng thành, thậm chí ảnh hưởng toàn bộ vận mệnh của con trẻ. Môi trường có sinh có khắc là tốt nhất, sinh là yêu chiều cho đi. Khắc là quản lý ức chế, Một đứa trẻ không được yêu chiều quan tâm tất khó trưởng thành, không được quản lý dạy dỗ cũng khó tránh mắc sai lầm trong cuộc đời

34. TUẾ VẬN CÓ THỂ THAY ĐỔI DỤNG THẦN

ĐẠI VẬN DẪN ĐẾN THAY ĐỔI CÁCH CỤC

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

– Mệnh cục là một thời điểm mà thời gian và không gian ở trạng thái tĩnh, bất động (satna – tạm dừng). Khí ngũ hành của nó tồn tại ở một điểm cân bằng so với bản thân. Do tổ hợp của tọa độ không thời gian khác nhau nên lượng ngũ hành cũng khác nhau. Sự tham gia của đại vận sẽ khiến tổ hợp ngũ hành tĩnh xuất hiện điểm cân bằng mới nay có thể sẽ khiến dụng thần, kị thần trong mệnh cục ở trạng thái tĩnh thay đổi. Mức độ hỷ kị của nguyên cục và hành vận sẽ xuất hiện hiện tượng “ưa không phải ưa mãi, kị không phải kị mãi”

Nếu tứ trụ có nhật chủ yếu dùng Ấn Tỷ. Trong mệnh cục có Ấn tinh lại có Tài Quan tương sinh thì sự thay đổi của hành vận và dụng thần, kị thần cần dựa vào mỗi đại vận khác nhau để phân tích. Tài Quan Ấn trong mệnh cục liên tục tương sinh. Tài tinh đã là dụng thần, khi hành đến tài vận là dụng thần đại vận. Tại sao lưu niên tỷ kiếp của tài tinh xuất hiện dụng thần đối với nguyên cục. Đại vận xuất hiện thì luận như vậy. Ngược lại, nếu là kị thần, Tỷ Kiếp khắc chế tài tinh, không sinh quan tinh. Tứ trụ giống nhau dùng ấn tinh, không có Tài quan tương sinh mà khắc chế ấn. Ở lưu niên, Tỷ Kiếp của tài vận ứng với cát lợi. Đây chính là sự thay đổi.

– Đại vận nắm giữ 10 năm vận hành của mệnh cục. Đến đại vận khiến mệnh cục vào môi trường mới, chủ quản phương hướng xu thế mới của mệnh cục. Đại vận chỉ là một trạng thái hỷ kị của nhật can, không phải mấu chốt quyết định cát hung. Nó cho biết tình trạng nhật can trong khoảng một thời gian. Mức độ cát hung thực sự xuất hiện khi có mặt của lưu niên. Do tổ hợp khác nhau, mệnh cục sẽ thay đổi theo đại vận. Mệnh cục vốn có thân nhược sẽ dần biến thành thân vượng. Mệnh cục thân vượng sẽ dần biến thành thân nhược. Đây đều do đại vận. Đại vận đóng vai trò quyết định tăng giảm âm dương của mệnh cục. Đại vận sẽ dẫn đến dụng thần thái quá. Trường hợp này luôn xuất hiện trong tứ trụ trong nguyên cục khá trung hòa. Do dụng thần thái quá nên sẽ xuất hiện điểm cân bằng mới, dụng thần biến thành kị thần, kị thần biến thành dụng thần

Do lực lượng ngũ hành của nguyên cục khác nhau, cùng với tăng giảm âm dương của đại vận sẽ thay đổi sự vượng suy ngũ hành trong nguyên cục. Thay đổi vượng suy ngũ hành khiến cách cục ban đầu thay đổi. Nhật chủ yếu ban đầu chuyển thành vượng, nhật chủ vượng chuyển thành nhược. Tòng cách giả biến thành phù ức cách. Do biến hóa của cách cục sẽ khiến mức độ hỷ kị thay đổi. Nếu không thay đổi phương pháp luận mà phải dựa vào hỷ kị ban đầu thì ắt sẽ sai sót.

Biến hóa tiến thoái của đại vận khiến mệnh cục ở trạng thái tĩnh chuyển sang trạng thái mới. Điều này khiến khí trường ngũ hành của nguyên cục phát sinh một sự “biến chất”. Giữa đại vận và dụng thần tồn tại tình trạng biến đổi về khoảng cách xa gần với mức độ tiến thoái của khí trường. Biến đổi này quyết định giai đoạn và giới hạn của dụng thần, kị thần. Khi bước vào khí trường mới qua một quá trình biến đổi. Điểm biến đổi giữa đại vận này với dụng thần chính là điểm ranh giới. Biến đổi của điểm ranh giới này quyết định mức độ “tổn có dư, bổ không đủ”. Nắm được vị trí biến đổi này sẽ quyết định được mức độ cát hung lưu niên. Không hiểu rõ điểm này sẽ không phân biệt được dụng thần và kị thần. Đối với dụng thần Lưu niên hung họa, kị thần lưu niên cát lợi càng khó có thể phân biệt được.

Con người thường chịu ảnh hưởng của ngũ hành địa khí. Do đó dùng địa chi làm chủ đạo, như hành vận ưa gặp thiên can ngũ hành, địa chi lại không phù trợ thiên can. Mười năm hành vận tưởng là cát lợi nhưng thực chất suy yếu. như địa chi là hỷ thần, dụng thần, Thiên can là Kị thần, mức độ ứng cát lợi giảm đi. Vượng suy của thiên can chịu ảnh hưởng của địa chi mà địa chi không chịu ảnh hưởng bởi Thiên can.

35. LƯU NIÊN

DỰ ĐOÁN CHÍNH XÁC MỖI NĂM

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Đại vận là tình hình thay đổi năng lượng khí trường Ngũ hành của tứ trụ trong niên hạn nhất định. Lưu niên là chủ tể của trường năng lượng ngũ hành không gian vũ trụ trong một năm nhất định, xoay quanh đại vận và mệnh cục. Đoán mệnh chính là dùng tứ trụ là chủ thể, dùng đại vận và lưu niên làm khách thể, xem ảnh hưởng của khách quan với chủ thể. Chúng ta nghiên cứu khách quan (thiên thể vũ trụ) làm thế nào để thay đổi chủ thể (con người) chứ không thể làm ngược lại.

Con người nhận khí ngũ hành mà sinh ra. Hình thức phân bổ ngũ hành ở điểm thời gian, không gian và năng lượng lớn nhỏ khi con người sinh ra được biểu hiện thành hình thức tổ hợp can chi của tứ trụ và mức độ vượng suy. Trong mệnh cục, năng lượng ngũ hành bắt đầu từ nguyệt lệnh, dựa vào trạng thái của ngũ hành tại nguyệt lệnh và thông căn, thấu can, nguồn sinh để phán đoán tố chất tiên thiên của ngũ hành. Sau khi vào đại vận, địa chi đại vận là nguồn gốc vượng suy của ngũ hành mồi năm. Luận đoán tứ trụ chính là phân tích trạng thái ngũ hành trong mệnh cục, phán đoán tố chất tiên thiên ngũ hành. Cùng với thay đổi của tuế vận, chúng ta có thể biết được tình hình ngũ hành biến hóa như thế nào để phán đoán cát hung. Do đó hình thức tổ hợp tứ trụ là hình thức tổ hợp thời gian không, gian được sinh ra, thụ bẩm khí chất ngũ hành của con người. Sự xuất hiện của đại vận, lưu niên dẫn tới sự hình thành lực lượng ngũ hành mới, tạo thành cát hung thuận nghịch

Đại vận thay đổi trạng thái cân bằng tương đối ban đầu để mệnh cục có điểm cân bằng mới. Xuất hiện điểm cân bằng của đại vận này cần tới sự xuất hiện của lưu niên. Lưu niên tăng thêm điểm mất cân bằng của đại vận, khiến nhật chủ ứng với hung họa hay giảm nhỏ điểm mất cân bằng của đại vận, nhật can ứng với cát lợi

Cát hung cụ thể của lưu niên chịu sự khống chế bởi đại vận. Sau khi xác định điểm cân bằng của đại vận, lưu niên có thể trực tiếp tác động tới đại vận, mệnh cục. Lưu niên là động thái, luôn nhắc nhở nguồn gốc thông tin cát hung của nhật can. Nhưng điều kiện hình thành thông tin cát hung lại do đại vận quyết định.

Địa chi lưu niên còn gọi là thái tuế, là chủ tể của một năm, có địa vị thống trị tối cao. Nó không thể vì hợp với đại vận hoặc mệnh cục mà thay đổi bản chất chủ tể của mình và hợp hóa thành ngũ hành khác. Địa chi lưu niên và đại vận mệnh cục tác hợp chỉ có tác dụng tăng giảm lực hoặc dẫn tới hợp cục. Nếu địa chi lưu niên là thìn thổ, không thể vì mệnh cục có thân Tí mà hình thành thân Tí thìn hợp thành thủy cục, thìn thổ biến thành thủy. Thìn thổ năm này là đương lệnh chính là thổ chủ sự, bản tính của thổ khắc thủy. Nếu vì mệnh cục hợp mà biến thành thủy thì phải chăng năm thổ biến thành thủy sao ?

Tam hợp, Tam hội ở các địa chi lưu niên khác nhau ở mức độ khác biệt lớn. Dù tam hợp, tam hội có thể hợp hóa thành công không, tăng lực hay giảm lực thì mấu chốt là xem chi nào lâm thái tuế.

Như tam hợp cục Tỵ Dậu Sửu.

– Nếu lưu niên là Sửu tăng lực cho hợp cục

– Nếu lưu niên là Dậu kim cục vượng nhất

– Nếu lưu niên là Tỵ – Hỏa vượng thư nhất – Thổ vượng thứ hai – thổ không thể thông quan với hỏa vì hỏa khắc kim, kim bị giảm lực

36. TUẾ QUÂN VÀ THÁI TUẾ

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Tuế quân (thiên can lưu niên) chủ về ngoại tượng của sự việc mà năm nào đó phát sinh, có tác dụng phụ trợ cát hung. Thái tuế (Địa chi Lưu niên) chủ về cát hung, cũng chủ về nguyên nhân của sự việc phát sinh trong năm bất kỳ. Địa chi Lưu niên là dối tượng chấp hành mệnh lệnh cát hung. Thiên can lưu niên là đối tượng công bố thông tin. Thông tin của thiên can lưu niên dùng thập thần của nó để luận. Khi thiên can lưu niên ở địa chi lưu niên là vượng tướng, thiên can đó chủ về cát hung. Như Canh Thân, Canh chủ về cát hung, Như Canh ngọ, Canh không chủ về cát hung. Khi thiên can trong mệnh cục thấu lộ dụng thần, thiên can lưu niên hợp hoặc khắc dụng thần cũng chủ về cát hung nên mức độ cát hung của Thái tuế có thể dùng địa chi lưu niên để phán đoán. Thiên can lưu niên là dụng thần cũng không hẳn có nghĩa là cát lợi. Thiên lưu niên là kị thần cũng không hẳn chủ về hung tai. Mức độ cát hung dùng dịa chi lưu niên phán đoán. Địa chi lưu niên là dụng thần. Thập thần của thiên can lưu niên biểu hiện thông tin chính diện. Khi địa chi là kị thần, thiên can lưu niên tuy không chủ về cát hung nhưng tham gia với sinh khắc ngũ hành, có mức dộ ảnh hường cát hung không lớn.

Thiên can chủ về ngoại tượng của sự vật là sự việc lộ ra ngoài, mọi người đều có thể nhìn thấy, cảm giác được, nếu thiên can có Tài vượng, là tài hiện rõ, mọi người đều biết, nếu địa chi ẩn tàng bên trong, có tài không lộ, người khác đều không biết. Điều này giống với đạo lý Quan Ấn Thực thương. Quan Ấn lộ là hỷ thần, dụng thần gọi là quan hiển đạt, người khác đều biết. Nếu thôi chức vụ người khác cũng biết.

* Hợp của LUU NIÊN

– Lưu niên hợp niên trụ: Sẽ vì người lớn, cấp trên mà bản thân không có tiến triển, có khả năng đầu tư, làm ông chủ

– Lưu niên hợp nguyệt trụ: Tất cả mọi việc đầu chán chường, không có dộng lực, không thể phát huy được khả năng, khó thoát ra khỏi hoàn cảnh bó buộc, nghĩ nhiều kế hoạch nhưng chưa hành động

– Lưu niên hợp nhật trụ: Sự nghiệp sẽ vì quan hệ của vợ, chồng mà không thể triển khai. Người chưa kết hôn muốn kết hôn, muốn nhưng chưa hành động, hy vọng tạo dựng sự nghiệp mới

– Lưu niên hợp thời trụ: Sự nghiệp không tiến triển, chăm lo cho gia đình, ưu phiền vì co cái, không thể triển khai sự nghiệp

* Xung của LƯU NIÊN

– Lưu niên xung niên trụ: Dễ xung đột với bề trên, cấp trên, ý kiến không hợp hoặc không thể điều hòa, cần chú ý vấn đề sức khỏe

– Lưu niên xung nguyệt trụ: tâm tính có thay đổi, sẽ có xung đột với những người bằng vai vế

– Lưu niên xung Nhật trụ: Chưa kết hôn sẽ có người theo đuổi, đối tượng kết hôn sớm xuất hiện nhung sau vợ chồng dễ xung đột hoặc có biến động

– Lưu niên xung thời trụ: Sự nghiệp có sóng gió lớn có xung đột với con hoặc bề dưới

* Hại của LƯU NIÊN

– Lưu niên hại niên trụ: Vì việc của bề trên hoặc thân thể mà ưu phiền, có ấm ức, mâu thuẫn thế hệ với bề trên, dễ đổi cấp dưới

– Lưu niên hại Nguyệt trụ: Tâm tính bất thường, có nối khổ không nói thành lời, kế hoạch sẽ có thay đổi không thể hoàn thành, có khả năng chuyển nhà.

– Lưu niên hại Nhật trụ: Chưa kết hôn có thể chia tay. Nếu đã kết hôn sẽ muốn ly hôn hoặc sống riêng

– Lưu niên hại thời trụ: Sự nghiệp trắc trở, biến dộng, phân ly với con hoặc con sẽ xảy ra chuyện không nghe lời

* Hình của LƯU NIÊN

– Lưu niên hình niên trụ: Mâu thuẫn với cấp trên, bề trên, luôn có cảm giác khó chịu

– Lưu niên hình nguyệt trụ: Vợ chồng sẽ vì lời nói, hành vi của bề trên mà chán nản

– Lưu niên hình Nhật trụ: Ông bà và con cháu, cấp trên cà cấp dưới có cảm giác mang nợ lẫn nhau

– Lưu niên hình thời trụ: Độ hòa hợp với con cái hoặc cấp dưới không đủ, sẽ có tâm lý đối địch.

37. THẬP THẦN CHỦ VỀ CÁC SỰ VIỆC

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

– Tuế quân là Tỷ Kiếp: Sẽ phát sinh các sự việc có liên quan đến ý nghĩa mà tỷ kiếp đại diện như bạn bè, anh chị em, đồng nghiệp, phá tài, thị phi kiện tụng, tranh cãi, tranh đấu, khắc vợ, khắc chồng. Khi thái tuế làm dụng thần, năm này sẽ được trợ giúp của bạn bè hoặc quý nhân, hợp tác được tiền tài. Nếu thái tuế là kị thần sẽ vì bạn bè đồng nghiệp, anh chị em mà có thể phá sản, tranh cãi và khắc vợ khắc cha

– Tuế quân là Ấn tinh: Sẽ phát sinh sự việc có liên quan tới ý nghĩa mà ấn tinh đại diện như học tập, công việc, đơn vị, danh dự, séc, phòng ở, xe cộ, văn thư, khế ước, bệnh tật, tài vận

– Tuế quân là tài tinh: Sẽ phát sinh sự việc liên quan tới ý nghĩa của tài tinh, đại diện như vợ, cha, công việc, thân thể, và tình cảm hôn nhân

– Tuế quân là Quan sát: Sẽ phát sinh những sự việc liên quan đến ý nghĩa mà quan sát đại diện như cha, chông việc, chức vụ, nghề nghiệp, danh dự thị phi kiện tụng, bệnh tật, tai nạn, phạm tiểu nhân

– Tuế quân là thực thương: Sẽ phát sinh sự việc liên quan đến ý nghĩa của thực thương đại diện nhu tai nạn, bệnh tật, quan tai, tác phẩm, diễn thuyết, ngôn luận, diễn xuất, trưng bày, du lịch xuất ngoại, khắc cha, tình cảm hôn nhân, đầu tư, kế hoạch

Khi dự đoán cụ thể cần kết hợp đại vận, cung vị tứ trụ, xem thái tuế dẫn động quan vị nào để phán đoán tổng hợp các sự việc, sự vật. Phối hợp dẫn động cung vị để để phán đoán, thu nhỏ phạm vi thủ tượng

** Đối với mệnh cục, lưu niên và đại vận là tầng thứ ngũ hành trên. Giữa lưu niên và đại vận tồn tại quan hệ như sau:

+ Tầng thứ ngũ hành trên có quyền “sinh khắc hợp xung hình hại” tầng thứ ngũ hành dưới. Tầng thứ ngũ hành dưới chỉ có thể bị “sinh khắc hợp xung hình hại” chứ không thể “sinh khắc hợp xung hình hại” ngược lại

+ Giữa tầng thứ ngũ hành dưới có hợp và xung khi có tầng thứ ngũ hành trên tham gia vào thì tầng thứ ngũ hành dưới không có quyền giải hợp và xung giữa tầng thứ ngũ hành trên

+ Tầng thứ ngũ hành trên và tầng thứ ngũ hành dưới có hợp. Tầng thứ ngũ hành dưới có thể thay đổi thuộc tính của bản thân ngũ hành mà thành hóa. Tầng thứ ngũ hành trên không thể thay đổi thuộc tính ngũ hành, chỉ có thể dẫn đến tác dụng hóa hợp hội cục

+ Tầng thứ ngũ hành trên và tầng thứ ngũ hành dưới hợp hội. Tầng thứ ngũ hành trên có thể hợp trụ ngũ hành tầng dưới. Tầng thứ ngũ hành dưới không thể hợp trụ với tầng thứ ngũ hành trên. Tầng thứ ngũ hành trên đồng thời khi hợp trụ tầng thứ ngũ hành dưới vẫn có tác dụng “sinh khắc xung hợp hình hại” các ngũ hành khác trong mệnh cục ban đầu

+ Tầng thứ ngũ hành trên có thể thông quan tầng thứ ngũ hành dưới. Tầng thứ ngũ hành dưới không có quyền thông quan tầng thứ ngũ hành trên

+ Vượng suy của tầng thứ ngũ hành dưới chịu ảnh hưởng của tấng thứ ngũ hành trên. Vượng suy của nó thay đổi theo chuyển biến của tầng thứ ngũ hành trên. Vượng suy của tầng thứ ngũ hành trên chỉ bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ sinh khắc bản thân can chi. Tầng thứ của ngũ hành dưới có thể dùng tầng thứ ngũ hành trên làm gốc. Tầng thứ ngũ hành trên không thể dùng tầng thứ ngũ hành dưới làm gốc

38. NGŨ HÀNH NẠP ÂM

“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”

Thiên can và địa chi có thuộc tính ngũ hành riêng biệt. Sau khi phối hợp với nhau theo nguyên tắc dương với dương, âm với âm, khí của tổ hợp can chi biến đổi thành một loại ngũ hành mới, gọi là ngũ hành nạp âm – Ngũ hành ban đầu của thiên can và địa chi gọi là chính ngũ hành. Ngũ hành nạp âm biến đổi ra gọi là “giả tá Ngũ hành”. Ngũ hành nạp âm giả tá ngũ âm cổ đại ( Cung; Thương; Giốc; Chủy; Vũ) và 12 âm luật. Ngũ hành nạp âm gồm 5 loại: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là quy định của người xưa; một ngũ hành lại phân thành 6 mệnh nạp âm có tên gọi khác nhau. Như vậy xẽ có được 30 cặp loại mệnh nạp âm

Phương pháp tính nhanh ngũ hành nạp âm:

Người xưa gán số cho Can:

Giáp Ất là 1; BÍnh Đinh là 2; Mậu Kỷ là 3; Canh Tân là 4 và Nhâm Quý là 5

Người ta cũng gán số cho chi:

Tí Sửu Ngọ Mùi là 1; Dần Mão Thân Dậu là 2’ Thìn Tỵ Tuất Hợi là 3

Cộng số can chi tạo thành nào đó được một tổng, số lớn hơn 5 thì trừ đi 5, Được số dư là Ngũ hành nạp âm – Mộc 1; Kim 2; Thủy 3, Hỏa 4 và thổ 5

Ví dụ: Mậu tuất; Mậu là 3, Tuất là 3 Tổng là 6 – Dư số khi trừ 5 là 1. Số 1 chính là nạp âm mộc của Mậu tuất

NẠP ÂM CÓ THỂ XEM KHÍ SỐ THỊNH SUY

Ngũ hành nạp âm được ứng dụng rộng rãi trong tử vi đẩu số và tứ trụ học. Tứ trụ học cho rằng; ngũ hành nạp âm nắm giữ xu hường khí số nhân nguyên. Tam nguyên trong ngũ hành: Thiên can dại diện Thiên nguyên; Địa chi đại diện địa nguyên; Nạp âm đại diện Nhân nguyên. Tam nguyên mỗi loại có phạm vi vận hành và thao tác đối ứng. Ngũ hành thông qua sinh khắc chế chế hóa của lưu niên đại vận hỗ trợ phán đoán cát hung, thành bại. Thông qua ngũ hành nạp âm có thể quan sát khí số thịnh suy. Ngũ hành nạp âm là tổ hợp thiên can địa chi khác nhau Sinh Hóa, liên hệ với nhiều vật chất cụ thể như: Hải kim trung; Lư trung hỏa… đẻ tiến hành phân tích dự đoán.

Mọi người có thể tìm ra nhiều lý do sử dụng nạp âm. Khí ngũ hành của tứ trụ có nguồn từ khí ngũ hành nạp âm. Khí của ngũ hành nạp âm có thể bổ xung chỗ thiếu hụt của khí ngũ hành tứ trụ. Ngũ hành nạp âm là được cụ thẻ hóa bằng ngũ hành tứ trụ. Ngũ hành tứ trụ là bộ phạn cấu thành nên ngũ hành nạp âm. Ngũ hành nạp âm có thể mượn sự trợ giúp của ngũ hành tứ trụ để đưa ra phán đoán chính xác, Ngũ hành tứ trụ có thể dựa vào thế thái phối hợp ngu hành nạp âm quan sát thịnh suy. Tồn tại trong ngũ hành tứ trụ thêm vào ngũ hành nạp âm tất suy diễn mệnh lý càng linh hoạt phong phú

TÁC DỤNG CỦA NGŨ HÀNH NẠP ÂM

– Thể hiện chất lượng cùa ngũ hành, như: Hải trung kim; Sa trung kim; Kiếm phong kim; Thoa kim xuyến; Bạch lạp kim; Kim bạc kim. Chất lượng lớn – quán tính lớn – lực lượng lớn không dễ bị tổn hao – Chất lượng nhỏ quán tính nhỏ; Lực lượng nhỏ dễ bị tổn hao. Ngũ hành nạp âm chất lượng lớn chủ về thành công lớn và sức khỏe tốt.

– Thể hiện được mục đích sử dụng của vật chất ngũ hành, như: Kiếm phong kim dùng làm binh khí. Thoa kim xuyến dùng làm vật trang sức.

– Thể hiện không gian của vật chất ngũ hành, như Hải trung kim, là kim trong biển ẩn giấu mà không lộ rõ; Sa kim trung là kim trong cát dễ bị phát hiện và khai thác

– Thể hiện quan hệ sinh khắc giữa chúng có được hình thành không, dùng để so sánh mối quan hệ thân sơ của con người, như: Nước biể lớn vị mặn nên không thể sinh mộc, cũng giống như nạp âm Đại hải thủy không thể thân thiện với người có nạp âm Mộc. Ngược lại Trường lưu thủy, Thiên hà thủy có thể sinh bát kỳ nạp âm mộc nào.

Chúng ta cần lưu ý; Ngũ hành nạp âm không thể tham gia vào quá trình sinh khắc cảu chính ngũ hành, Vì ngũ hành nạp âm không hiển thị tính thời gian

NẠP ÂM LUẬN MỆNH CHỈ LUẬN NIÊN TRỤ

Lý luận và phương pháp luận mệnh của nạp âm không những có nội hàm sâu sắc mà còn là nội dung không thể thiếu trong dự đoán tứ trụ. Với sự xuất hiện của Ngũ hành nạp âm, dự đoán tứ trụ càng được toàn diện. Dù lấy thông tin của bản thân mệnh cục hay đón cát tránh hung đều là những phương pháp quan trọng. Nạp âm là một hình thức biểu hiện khác của hệ thống âm dương ngũ hành, đứng ngang hàng với chính ngũ hành. Hai hệ thống ngũ hành này tự nâng đỡ các vấn đề thuộc nội hàm âm dương ngũ hành, bổ xung cho nhau trong dự đoán tứ trụ. Nhờ sự kết hợp của chúng mới tạo thành hệ hống dự đoán tứ trụ hoàn chỉnh

Ngũ hành nạp âm chỉ dùng dối với năm, không thích hợp vận dụng đối với tháng ngày giờ. Hai năm dùng chung một ngũ hành nạp âm, như Giáp Tí và Ất sửu đều là Hải trung Kim. Ngũ hành nạp âm của 2 năm được chia thành 1 năm âm, 1 năm dương. Điều này cho thấy mức độ sinh khắc âm dương được ngũ hành nạp âm phản ánh vô cùng sâu sắc

Ngũ hành nạp âm và chính ngũ hành quan trọng như nhau và có ưu thế riêng. Tác dụng của chính ngũ hành thiên về Mệnh vận của cá nhân. Tác dụng của ngũ hành nạp âm tập trung vào quan hệ giữa người với người. Dùng tứ trụ kết hợp nạp âm luận đoán hôn nhân vừa đơn giản lại có tính chính xác cao. Một đôi nam nữ có duyên hay không, có thể ở bên nhau mãi mãi hay không chỉ cần dúng nạp âm có thẻ nhanh chóng tìm ra két quả

Ngũ hành nạp âm dùng sinh khắc là hình thức cơ bản, nhưng có nét khác với chính ngũ hành. Sinh của nạp âm không đơn giản là để bên được sinh tăng lực mà còn được lợi, Như Kim sinh Thủy, kết quả là Thủy được lợi ích. Khắc của ngũ hành nạp âm là chế ước, quản thúc, cưỡng chế. Dưới áp lực của bên khắc, bên bị khắc phải tuân thủ thứ gì đó mà bản thân không thích.

Hỗ trợ của nhũ hành nạp âm không phải bên được phù trợ tăng lực mà giữa hai bên tồn tại lực đẩy nhau. Do đó, mệnh giống như tranh mệnh, xảy ra tranh đấu liên miên. Nếu lực hao tiết của ngũ hành nạp âm nhỏ, thường có thể không cần xem xét, nhưng khi lực lượng ngũ hành nào đó nhiều lên mới phải xem xét, như trong nhà có hai người mệnh thủy sẽ hao tiết người có mệnh kim.

Phương pháp nạp âm có ý nghĩa quan trọng đối với việc luận đoán cát hung. Nếu tứ trụ của một người có đường hôn nhân không thuận nhưng chưa thể khẳng định có thể ly hôn hay không. Lúc này áp dụng nạp âm ngũ hành có thể đưa ra kết luận khá chính xác

39. NẠP ÂM VÀ HÔN NHÂN

“Hãy bắt đầu từ nhũng điều nhỏ nhất”

Xem hôn nhân dựa vào nạp âm căn cứ vào nạp âm năm sinh của nam nữ làm chuẩn, tiến hành xem tổ hợp của nó. Nguyên tắc là: Nạp ân nam nữ tương sinh là tổ hợp đẹp. Trong lý luận về niên mệnh tương khắc, nam khắc nữ là bình thường, nhưng cũng có một vài sách nói không cát lợi, trên thực tế ảnh hưởng không nhiều. Ngược lại niên mệnh nữ khắc mệnh nam là không tốt

– Mênh nam khắc mệnh nữ: nam khắc nữ là chính khắc, người khắc mình là quan. Do đó, thời xưa nữ giới thường gọi chồng là “quan nhân”. Khắc này không phải “từ” khắc của khắc vợ, khắc chồng mà là mệnh nam thành chỗ dựa của mệnh nữ. Người mình khắc là tài, vợ là Tài. Vợ là Tài không phải tài phú vật chất mà là vì tình yêu mà bảo vệ, yêu thương chăm sóc vợ. Một bên có chỗ đựa, một bên chăm sóc đối phương, tự nhiên tình cảm hài hòa

– Mệnh nữ khắc mệnh nam: Nữ khắc Nam là trái quy luật chồng là quan, vợ là tài, trừ khi mệnh nam tính ôn hòa có phần ủy mỵ, nữ tính, nếu không gia đình khó được hài hòa

– Mệnh nam nữ tương sinh: Như mệnh nam thủy, mệnh nữ mộc, hoặc ngược lại. Có một số người được sinh luôn không cảm nhận được, hoặc không coi trọng, có phúc mà không biết hưởng. Hiện tượng này thường gặp ở mệnh nữ sinh năm dương

– Mênh nam nữ tương đồng: Cùng mệnh là tranh mệnh, hôn nhân đa phần không hài hòa, không ly hôn thì cả đời cũng khó tránh mâu thuẫn. Biểu hiện cụ thể là hai người không tìm được tiếng nói chung, quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề khác nhau

– Nam dương nữ âm là cát lợi: Nam là dương, nữ là âm thuộc tính tự nhiên, trái quy luật này tất phát sinh ảnh hường không tốt. Như mệnh nam sinh năm Canh thìn thuộc kim, mệnh nữ sinh năm Quý mùi thuộc mộc. Niên mệnh nam là dương, niên mệnh nữ là âm, tổ hợp này tuy không cát lợi cũng không dẫn đến ly hôn. Mệnh nam là Canh thìn, Mệnh nữ là Nhâm ngọ, tuy cũng là mệnh nam khắc mệnh nữ, nhưng không bằng tổ hợp trước. Thường mệnh nữ sinh năm dương đề khá mạnh mẽ, thích phấn đấu trong sự nghiệp.

Trong thực tế khi dự đoán về kết hôn cần kết hợp nạp âm và chính ngũ hành để xem mới có thể đưa ra luận đoán chính xác, vì cả hai từ góc độ khác nhau có ảnh hưởng tới vận mệnh con người. Nguyên tắc kết hợp là chính ngũ hành và nạp âm đều tốt, chắc chắn là cát lợi. Nếu chỉ một phương diện cát lợi, hôn nhân đó không tốt nhưng không nhất định ly hôn. Nếu cả hai đều không tốt, kết cục ly hôn tất khó tránh.

ST

ĐÀO HOA, HỒNG LOAN, THIÊN HỈ

0

Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỉ

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Ý nghĩa
Đào Hoa có nghĩa là hoa Đào, một loại hoa có màu sắc rực rỡ
Hồng Loan
Hồng có nghĩa là màu hồng, cùng có nghĩa là đẹp đẽ, nhộn nhịp, vui tươi. Loan có nghĩa là chim loan, một loài chim phượng. Trước xe vua đi có trỗ một con chim loan ngậm cái chuông, vì thế nên xa giá của vua được gọi là loan. Như vậy Hồng Loan có nghĩa là con chim loan màu hồng, đồng thời cũng là biểu tượng cho sự đẹp đẽ vui tươi, cao quí
Thiên Hỉ: Hỉ có nghĩa là mừng, những việc tốt lành đều gọi là việc hỉ
Biểu tượng

Về biểu tượng đồ dùng thì Hồng Loan là vải vóc, Thiên Hỉ là đèn nến
Về biểu tượng đồ ăn thì Đào Hoa là rượu, hoa quả hay nước ngọt, Hồng Loan là tiết canh
Về biểu tượng tang lễ thì Đào, Hồng, Hỉ là đèn nến, Đào Hoa còn là cái hố và Hồng Loan Quan Đới hội họp là dây thừng
Ngũ hành
Đào Hoa hành Mộc
Hồng Loan hành Thủy đới Kim (TTL) hoặc Mộc đới Thủy (VVT)
Thiên Hỉ hành Thủy (TTL) hoặc Hỏa đới Mộc (VTT)
Đắc hãm
Đào Hoa miếu địa tại Tí (VVT)
Hồng Loan miếu vượng tại cung Mộc và Thủy: Dần Mão, Tí Hợi (VVT) (chú ý VVT cho rằng Hồng Loan thuộc Mộc đới Thủy thành ra miếu vượng như trên
Đặc điểm về cách an sao
Đào Hồng và Hỉ đều đứng tại cung có âm dương trái ngược với âm dương tuổi nghĩa là tuổi Dương thì Đào Hồng Hỉ đều đóng tại cung Âm và ngược lại. Như vậy thì Đào Hồng Hỉ chỉ kết hợp với hai tam hợp Dương Tử Phúc hoặc Âm Long Trực của vòng Thái Tuế, đặc biệt Đào Hoa chỉ nằm trong tam hợp Dương Tử Phúc. Đối với vòng Bác Sĩ thì các tuổi Giáp Ất, Bính Đinh, Canh Tân, Nhâm Quí thì Lộc Tồn an tại cung có cùng âm dương với âm dương tuổi nên Đào Hồng Hỉ chỉ có khả năng kết hợp với tam hợp Lực Sĩ Tấu Thư Đại Hao hoặc tam hợp Tiểu Hao Hỉ Thần Quan Phủ (chú ý chỉ có tam hợp Tiểu Hao Hỉ Thần Quan Phủ hoặc vị trí Lực Sĩ có Hỉ Thần xung chiếu mới có khả năng có bộ Song Hỉ, nghĩa là Thiên Hỉ và Hỉ Thần gặp nhau). Riêng tuổi Mậu Kỷ thì Lộc Tồn an tại cung có âm dương khác với âm dương tuổi thành ra Đào, Hồng, Hỉ sẽ kết hợp với tam hợp Lộc Tồn Bác Sĩ Tướng Quân Bệnh Phù Quốc Ấn hoặc tam hợp Long Phi Phục. Do đó bộ Phục Tướng kết hợp với Đào Hồng Hỉ chỉ có tuổi Mậu Kỷ mới có khả năng có mà thôi. Dương Nam Âm Nữ thì Thai nằm ở Tí Ngọ Mão Dậu mới có khả năng có Thai Đào đồng cung, còn Âm Nam Dương Nữ thì Thai nằm tại Thìn Tuất Sửu Mùi thành ra không có Thai Đào đồng cung, chỉ có khả năng có Thai Đào tam hợp

Đào Hoa
Đào Hoa lúc nào cũng đóng ở Tí Ngọ Mão Dậu. Nếu căn cứ vào Vòng Tràng Sinh an theo tam hợp cục của năm sinh thì Đào Hoa lúc nào cũng ở vị trí Mộc Dục (còn gọi là bại địa) của vòng Tràng Sinh này và Kiếp Sát luôn nằm tại vị trí Tuyệt (còn gọi là Tuyệt Địa) của vòng Tràng Sinh. Đào Hoa và Kiếp Sát luôn luôn tam hợp chiếu với nhau (Chú ý Hồng Loan hay Thiên Hỉ khi đồng cung với Long Đức mới có Kiếp Sát xung chiếu, còn các vị trí khác thì không gặp Kiếp Sát). Đào Hoa luôn luôn nằm trong bộ Dương Tử Phúc, nghĩa là luôn luôn có Thiên Không trong tam hợp. Đào Hoa luôn luôn có Nguyệt Đức, Thiên Đức và Phúc Đức thủ chiếu, và có thể có Long Đức chiếu (bộ Đào Hoa, Tam Đức, Dương Tử Phúc, Thiên Không, Kiếp Sát). Tam Đức bao gồm Nguyệt Đức, Thiên Đức và Phúc Đức. Chỉ có bộ Không Đào đồng cung mới có đủ Tứ Đức (bởi vì Thiên Không bao giờ cũng có đủ Tứ Đức chiếu, trong đó Long Đức xung chiếu. Chú ý Thiên Không khi đồng cung với Đào Hoa chỉ có bộ Đào Hỉ hay Đào Hồng nhưng không có Cô Quả trong khi Thiên Không đồng cung với Thiên Hỉ hay Hồng Loan đều có đủ bộ Đào Hồng Hỉ Cô Quả). Đào tại Dậu và Không Đào tại Mão mới có Phá Toái, còn lại đều không có. Đào Hoa tại Mão Dậu luôn kết hợp với Thiên Hỉ (bộ Đào Hỉ Mão Dậu), còn Đào Hoa tại Tí Ngọ luôn luôn kêt hợp với Hồng Loan (bộ Đào Hồng Tí Ngọ) và chỉ khi Đào Hoa đồng cung với Thiên Đức mới có Tam Minh (Thiên Đức khi đồng cung với Đào, Hồng hay Hỉ đều có Tam Minh). Chỉ có Tử Phù Nguyệt Đức Đào Hoa đồng cung mới có bộ Cô Quả tam hợp, còn lại khi đồng cung với Thiếu Dương hoặc Phúc Đức đều không có Cô Quả (Nguyệt Đức đồng cung với Đào, Hồng, hay Hỉ đều có Quả Tú)

Hồng Loan và Thiên Hỉ
Hồng Loan và Thiên Hỉ luôn luôn xung chiếu với nhau và chỉ có vị trí Hồng Loan hoặc Thiên Hỉ thì mới có khả năng có đủ bộ Tam Minh. Hồng Loan luôn nhị hợp với Điếu Khách, còn Thiên Hỉ luôn nhị hợp với Quan Phủ, Long Trì. Hồng Loan thì nằm trong bộ Dương Tử Phúc khi ở Dương cung hay bộ Âm Long Trực khi ở Âm cung. Khi Đào Hồng đồng cung hoặc tam hợp chiếu thì Hồng Loan thuộc bộ Dương Tử Phúc, còn nếu không thì Hồng Loan thuộc bộ Âm Long Trực
Hồng Loan khi tại Âm cung thì thuộc bộ Âm Long Trực, có Phá Toái tam hợp khi tại Tỵ Dậu Sửu và chỉ có vị trí Mão Dậu (có Thiếu Âm Hồng Loan) mới có Tam Minh. Hồng Loan tại Dương cung thì thuộc bộ Dương Tử Phúc, lúc nào cũng có Tam Minh
Thiên Hỉ thì khi ở Âm cung nằm ở bộ Dương Tử Phúc (luôn luôn có đủ bộ Tam Minh) và khi ở Dương cung nằm ở bộ Âm Long Trực (tại Tí Ngọ mới có bộ Tam Minh, còn lại chỉ có Hồng Hỉ mà thôi) và nằm khác bộ với Hồng Loan. Khi Hồng Loan gặp bộ Dương Tử Phúc thì Thiên Hỉ thuộc bộ Âm Long Trực, khi Hồng Loan thuộc bộ Âm Long Trực thì Thiên Hỉ thuộc bộ Dương Tử Phúc. Tại vị trí Tỵ Dậu Sửu Thiên Hỉ luôn luôn có Phá Toái tam hợp
Thiên Không Đào Hoa đồng cung:
Đào Hoa thuộc bộ Tam Đức, Dương Tử Phúc, Thiên Không, Kiếp Sát trong đó Thiên Không Kiêp Sát chủ ẩn tàng tai họa. Trong bộ này thì Thiếu Dương hành Hỏa chủ về trí tuệ, khôn ngoan, nhạy bén và luôn luôn đồng cung với Thiên Không theo cách an của Nam Phái. Bắc Phái hoàn toàn không có sao Thiên Không đồng cung với Thiếu Dương mà vị trí của Thiên Không chính là sao Địa Không trong Nam Phái. Khi Đào Hoa đồng cung với Thiên Không thì Mộc của Đào Hoa sẽ gia tăng tính chất nhạy bén, khôn ngoan của Thiếu Dương Hỏa đưa đến con người dễ trở nên quỉ quyệt, mưu sỉ, đạo đức giả nếu không có phúc thiện tinh đồng cung cứu giải. Trường hợp có hung sát tinh kết hợp thì Kiếp Sát sẽ phối hợp với Thiên Không để đưa ra kết quả bù trừ do hành động gian ác quỉ quyệt gây ra. Mệnh Không Đào đồng cung thì Mệnh Kim chính là cách Thiên Không Đào Hoa đúng cách (Hỏa khắc Kim), sự nghiệp sẽ bị gãy đổ do những hành động mưu sỉ gây ra và tại vị trí Mão Dậu là nơi tác họa mạnh nhất vì có thêm Phá Toái trợ lực, trong khi tại Tí Ngọ thì có phần giảm nhẹ vì có Hồng Loan (Thủy) tam hợp trong khi không gặp Phá Toái. Bộ Không Đào đồng cung không bao giờ có mặt của Cô Quả (Thổ) có tác dụng giảm thiểu tác họa của Thiên Không Kiếp Sát (Hỏa) hội họp, vì thế Mệnh Thiên Không Đào Hoa đồng cung thì phú đoán như sau:
Thiên Không hội với Đào Hoa,
Cầm, kỳ, thi, họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm mệnh bạc một đời tài hoa (AB334)
Thiên Không Hồng Loan đồng cung: tại vị trí này thì Hồng Loan Thủy sẽ khắc chế Thiếu Dương, Thiên Không và Kiếp Sát Hỏa, đồng thời ba sao trên lại bị tiết khí cho Cô Quả Thổ để rồi khắc lại Hồng Loan đưa đến con người tuy sáng suốt nhưng không mưu sỉ, thường có tâm tu hành (Thiên Không, Thiếu Dương), cuộc đời dễ gặp trắc trở về tình duyên (Hồng Loan Cô Quả) nhưng nghề nghệp thường hanh thông (Đào Hoa tại Quan)
Đào Hồng đủ bộ
Đào Hồng khi ở Dương cung (nghĩa là tuổi Âm) thì hoặc đồng cung, hoặc tam hợp chiếu, còn khi ở Âm cung (nghĩa là tuổi Dương) thì xung chiếu với nhau, hoặc đưa đến cách giáp biên tại các cung Dương là Dần Thân, Thìn Tuất. Cụ thể:
Đồng cung tại Tí Ngọ (tuổi Mão, Dậu)
Tam hợp chiếu tại Dần Ngọ (tuổi Sửu), Thân Tí (tuổi Mùi), Ngọ Tuất (tuổi Tỵ ), Tí Thìn (tuổi Hợi)
Giáp biên tại cung Dần (tuổi Dần), Thân (tuổi Thân), Tuất (tuổi Thìn) và Thìn (tuổi Tuất). Như vậy chỉ có Thái Tuế Dần Thân và Tuế Phá tại Thìn Tuất mới có cách giáp Đào Hồng
Xung chiếu với nhau ở cung Âm: Mão Dậu (tuổi Tí, Ngọ)
Tam Minh Đào Hồng Hỉ: Đào Hồng khi đồng cung, hoặc xung chiếu thì sẽ có đủ bộ tam minh Đào Hồng Hỉ
Ba sao Đào Hồng Hỉ họp thành một bộ gọi là Tam Minh, chỉ dành riêng cho bộ Dương Tử Phúc và Thiếu Âm: Thiếu Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi (Tứ Sinh), Tử Phù – Nguyệt Đức ở Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ Mộ), Phúc Đức và Thái Âm tại Tí Ngọ Mão Dậu (Tứ Chính) mới có bộ Tam Mịnh. Khi có tam minh thì có đặc điểm là Dương, Tử, Phúc và Thiếu Âm đều đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan và chỉ có Phúc Đức, Thiếu Âm mới không bị Cô Quả, còn Thiếu Dương thì bị cả bộ Cô Quả thủ chiếu, Tử Phù bị Quả Tú xung chiếu
Một số người đã thay thế Thiên Hỉ bằng Hỉ Thần và cho rằng Hỉ Thần, Đào, Hồng cũng là bộ Tam Minh nhưng không thể coi như vậy được vì Tam Minh thì phù tá cho bộ Nhật Nguyệt là do luôn có Thiếu Dương
Đào Hoa cư Quan hoặc Tài
Đào Hoa cư Quan thì Mệnh sẽ là Nguyệt Đức hoặc Phúc Đức thủ và sẽ có Kiếp Sát tại Mệnh vì Kiếp Sát tam hợp với Đào Hoa: theo chiều thuận thì Kiếp Sát, cách ba cung thì là Đào Hoa, còn nếu Đào Hoa cư Tài thì Quan sẽ có Kiếp Sát thủ
Đào Hoa gặp Song Hao
Đào Hoa gặp Song Hao chỉ có tuổi Ất Tân mới gặp và khi đó Đào Hoa tại Tí hay Ngọ. Chú ý cung Ngọ tuổi Ất thì có Triệt
Một số người cho rằng Đào Hoa gặp Song Hao thì tốn tiền vì gái nhưng điều này chưa chắc đúng, có lẽ Đào Hoa gặp Song Hao tại Tài thì mới có nghĩa như vậy
Hồng Loan và Tứ Đức
Hồng Loan khi đóng đồng cung với Thiếu Dương tại Dần Thân thì có Tứ Đức, đồng cung với Tử Phù, Phúc Đức hay Thiếu Âm thì sẽ có Tam Đức, đồng cung với Trực Phù thì có nhị đức (Nguyệt Đức, Long Đức), đồng cung với Long Đức thì chỉ có Long Đức mà thôi

Luận đoán Đào Hồng Hỉ
Cần nắm vững ý nghĩa của các sao Thiên Không, Kiếp Sát, Cô Quả, Tứ Đức, Phá Toái. Cần chú ý xem Đào Hồng Hỉ thuộc tam hợp nào của vòng Thái Tuế (tam hợp Dương Tử Phúc hoặc Âm Long Trực), có Thiên Không, Kiếp Sát (Hỏa), Cô Quả (Thổ), Phá Toái hay không, và ở vị trí thủ hay chiếu. Tam hợp Dương Tử Phúc luôn luôn có Đào Hoa, Thiên Không, Kiếp Sát, Tam Đức trong tam hợp, tam hợp Âm Long Trực chỉ có vị trí Long Đức mới gặp Thiên Không Kiếp Sát xung chiếu, còn Thiếu Âm và Trực Phù không gặp Thiên Không Kiếp Sát. Đào Hoa thì luôn luôn nằm trong tam hợp Dương Tử Phúc. Hồng Loan khi ở Dương cung thì thuộc tam hợp Dương Tử Phúc Tam Minh, khi ở Âm cung thì thuộc tam hợp Âm Long Trực có Phá Toái tam hợp khi tại Tỵ Dậu Sửu và chỉ có vị trí Thiếu Âm Hồng Loan Mão Dậu mới có Tam Minh. Thiên Hỉ khi ở Âm cung nằm ở tam hợp Dương Tử Phúc Tam Minh và khi ở Dương cung nằm ở tam hợp Âm Long Trực (Thiếu Âm Thiên Hỉ tại Tí Ngọ mới có bộ Tam Minh, còn lại chỉ có Hồng Hỉ mà thôi). Cần chú ý Thiên Không và Kiếp Sát thì ẩn tàng tai họa nhưng Thiên Không trong đồng cung với Thái Dương thì không tác họa. Thiên Không và Kiếp Sát (Hỏa) cần được Hồng Loan hay Thiên Hỉ (Thủy) đồng cung để giảm thiểu tác họa của nó. Cô Quả thì tuy làm suy yếu sự phá hoại của Thiên Không Kiếp Sát (Hỏa sinh Thổ) nhưng đồng thời làm ngang trái Hồng Loan, Thiên Hỉ (Thổ khắc Thủy). Thiên Không đồng cung với Đào Hoa sẽ gia tăng tính phá hoại của Thiên Không, gia tăng tính nhạy bén, mưu trí, trực giác cao của Thiếu Dương. Cần chú ý rằng Đào Hồng thủ Mệnh không đẹp bằng chiếu Mệnh, nhất là Hồng Đào tại Quan thì tốt nhất nhưng cần chú ý rằng Đào Hoa tại Quan thì Mệnh có sao Thiên Đức hoặc Nguyệt Đức thủ với sao Kiếp Sát. Đào Hồng thủ khi có các sao của bộ Tứ Đức thủ đồng cung thì sẽ hóa giải được dâm tính và không còn mang tính chất hoa nguyệt bừa bãi. Đào Hồng chiếu Mệnh đương nhiên không mang tính hoa nguyệt mà lại chủ sự may mắn. Tam hợp Dương Tử Phúc tối kị Không Kiếp xâm nhập (kế đó là Hỏa Linh hãm, sau đó mới đến Kình Đà), khi đó các sao Đức không thể hóa giải hung họa. Hóa giải tác họa của Thiên Không thì Hóa Khoa hoặc Tuần, Triệt giải được
Tam Minh Đào Hồng Hỉ hỗ trợ bộ Nhật, Nguyệt rất đắc lực, nhất là khi Nhật Nguyệt hãm địa sẽ làm gia tăng sức sáng của Nhật Nguyệt (Mệnh Thái Dương sáng sủa thì rất đoan chính thành ra Thái Dương sáng cũng giải được tính hoa nguyệt). Sự hỗ trợ này có lẽ do ảnh hưởng của Thiếu Dương (có Thiên Không đồng cung) hỗ trợ Thái Dương và Thiếu Âm (chỉ có Thiếu Âm mới có khả năng có Tam Minh, còn Long Đức và Trực Phù không có) hỗ trợ Thái Âm. Ngoài ra Đào Hồng Hỉ phù tá bộ Tử Phủ Vũ Tướng cũng mạnh mẽ, nhất là Tử Vi và Thiên Phủ là hai sao khắc chế được dâm tính của Đào Hồng biến hai sao này thành may mắn hanh thông. Đào Hồng gặp các dâm tinh như Liêm Tham nhất là hãm địa không có lợi vì hai sao này đều chỉ về tham dục, gặp Đồng Lương Tỵ Hợi, Cự Cơ Mão Dậu, Thái Âm hãm địa cũng gia tăng tính dâm
Đào Hồng là các dâm tinh nhưng nếu đồng cung với các sao chủ sự đoan chính như các sao của bộ Tứ Đức, Tử Phủ, Thái Dương sáng sủa, Thiên Hình thì lại là người duyên dáng, không lăng nhăng. Đào Hồng tối kị gặp Không Kiếp chủ về tình duyên trắc trở, biệt ly, khổ lụy vì tình, chết yểu, nghèo hèn hoặc công danh sự nghiệp đổ vỡ, nhất là Đào Hoa gặp Không Kiếp. Đào Hồng gặp Hỏa Linh Kình Đà cũng xấu, chủ về chiết giảm tuổi thọ. Đào Hồng gặp Tam Ám Riêu Đà Kị thì chủ sự hoa nguyệt bất chính, dâm đãng. Đào Hồng Hỉ không nên đồng cung với Phục Binh, Tướng Quân chủ sự bị lừa gạt trên vấn đề tình cảm, với Riêu chủ về sự dâm đãng, với Thai chủ sự thất trinh mất tiết, thụ thai. Hồng Đào cũng không nên gặp Hóa Kị hãm địa (Hóa Kị do các chính tinh hóa thành, chủ yếu do Nhật, Nguyệt, Liêm, Tham, Cự Cơ, Đồng, Vũ, Xương, Khúc trong đó ngoại trừ Thái Dương và Vũ Khúc, các sao còn lại đều có vị trí mang nghĩa dâm) nhất là Hồng Loan dễ bị miệng tiếng thị phi trên vấn đề tình cảm. Riêng Hỉ gặp Thai tại hạn thì dễ có tin mừng về việc có con, nhất là khi có Thanh Long hoặc Phi Liêm

Vài tính chất của Đào, Hồng, Hỉ
Đào Hồng
Đào Hồng chủ vui vẻ, mau mắn, đa tình, lẳng lơ hoa nguyệt
Chủ mọi sự về đàn bà con gái
Có ảnh hưởng đến vợ hoặc chồng
Đem lại nhiều sự vui mừng
Có liên quan đến việc cưới hỏi, lợi ích cho việc thi cử, cầu công danh
Làm cho Tử Phủ, Nhật Nguyệt thêm rực rỡ, tốt đẹp
Đào Hồng Hỉ gọi là bộ Tam Minh, gia tăng sức sáng cho Nhật Nguyệt
Lưu hạn mà gặp Tam Minh thì thi cử, cầu công danh tài lộc, hôn nhân sẽ được đắc ý. Về già mà Hồng Hỉ ở Tứ Mộ thì chủ bệnh tật nguy kịch đến tính mạng (VVT)
Hồng Đào miếu tại Hợi Tí chủ về sự phát triển tài lộc, công danh thăng tiến (VVT)
Đào Hoa tại Tí Mão nếu đồng cung với Thiên Không (Hỏa) thì ví như cây đào bị cháy, là cách bán thiên chiết sỉ, chim bay ngang trời bị gãy cánh, nếu cư tại Mệnh, Thân, Quan, Tài thì cơ nghiệp bị đổ vỡ nhưng là người có cơ mưu trí lược (VVT)
Mệnh có Đào Hồng thủ thì:
Ngoại diện dễ thu hút người khác phái
Ăn nói lịch thiệp, dáng điệu thanh lịch, có năng khiếu ngoại giao
Tính tình vui vẻ, nhanh lẹ, mau mắn
Có duyên
Đa tình, dễ bị lôi cuốn vào chuyện tình cảm, dễ đam mê lụy vì tình nếu không đồng cung với sao của Tứ Đức hoặc có sao khắc chế như Tử Phủ, Thiên Hình, Thái Dương sáng sủa
Khéo tay, có năng khiếu học các ngành liên quan đến mỹ thuật như may cắt, trang điểm, sơn móng tay, nhất là Mệnh Hồng Loan
Không sát tinh xâm phạm thì là người hay gặp may mắn, nhất là hay gặp người khác phái giúp đỡ. Nếu gặp sát tinh thì nên cẩn thận dễ bị họa trong mối quan hệ với người khác phái
Riêng Đào Hoa thì:
Hay chú trọng đến hình thức bề ngoài, từ đó bản thân cẩn thận trên vấn đề ăn mặc, trưng diện, nhất là phái nữ mệnh Đào Hoa
Thích giao thiệp với người khác phái
Đặc điêm này sẽ mạnh khi Đào Hoa tại Mão và Ngọ, còn tại Dậu và Tí thì kém hơn nhiều
Đào Hoa khác Hồng Loan ở chỗ Đào Hoa nặng về dâm tính thể xác, mang tính lả lơi hoa nguyệt còn Hồng Loan chủ dâm tính trên lãnh vực tinh thần, lãng mạn. Đào Hoa thì thu hút người khác phái ngay, trong khi Hồng Loan thì từ từ hấp dẫn do sự có duyên. Sự kết hợp của Đào Hoa với các dâm tinh khác thì sẽ mang ý nghĩa liên quan đến sự giao hợp về xác thịt
Cần xét thêm Âm Dương sáng sủa hay mờ ám (phái Nam coi Thái Dương, Nữ coi Thái Âm) để biết thêm về khả năng sinh lý của đương sự mạnh hay yếu
Mệnh hay Thân có Đào hay Hồng tọa thủ thì có khả năng hai đời. Theo CV thì Hồng Loan có Nguyệt Đức đồng cung thì giải được cách hai đời

Đào Hồng không nên cư tại Thân Mệnh vì đặc tính dâm ô hoa nguyệt, nhất là Nữ Mệnh càng không nên có Đào Hồng cư Mệnh. Đào Hoa cư Mệnh thì xấu, trai thì mê gái, gái thì mê trai, gặp Thiên Không đồng cung càng xấu hơn vì trong trường hợp này không có sao Đức thủ đồng cung (CV)
Đào Hoa chiếu Mệnh thì mới tốt đẹp, được mọi người quí mến và không chủ về lăng nhăng, hấp dẫn người khác, người khác mê mình chứ mình không mê người (CV)
Đào Hoa cư Mão đẹp nhất, kế đến cư Ngọ, còn cư Dậu và cư Tí thì xấu, tại Tí là đào hoa phiếm thủy, chủ dâm dật (CV) nhưng có người cho rằng Đào tại Mão thì đẹp nhất, kế đến Đào tại Tí, rồi Ngọ và cuối cùng là tại Dậu
Đào Hoa cư Mão (hành sao đồng hành hành cung) thì đẹp nhất, là người rất có duyên, tuổi Tân lập gia đình sớm (CV). Tại vị trí này, Đào Hoa được coi như là hoa nở vào bình minh, tính chất của Đào Hoa thể hiện rất mạnh mẽ, rất hấp dẫn, thu hút người khác, được nhiều người biết đến như hoa đẹp được người thưởng thức ngắm xem.
Đào Hoa cư Ngọ (hành sao sinh hành cung) cũng đẹp, nhưng bớt sức hấp dẫn, ví như hoa đang ở giữa trưa nắng gay gắt thành ra dễ tàn, nhưng nếu nữ mệnh tại Ngọ có Tử Phủ thì lại là cách đào hoa phạm chủ, chủ về dâm dật, chủ thầy lấy trò, chủ lấy tớ, họ hàng lấy nhau (CV)
Đào Hoa cư Dậu (cung Kim khắc Đào Mộc) thì xấu nhất, ví như hoa đào bị héo, bị rơi rụng, chủ trai lấy vợ thừa, hoặc thất tiết, hoặc không đứng đắn, hoặc lấy vợ trễ, về già mới có vợ, hoặc dễ bị vợ phản bội, gái lấy chồng ăn chơi (CV). Tại vị trí này sự hấp dẫn của Đào Hoa giảm thiểu nhiều, tính chất của Đào Hoa giảm thiểu
Tử Vi Tham Lang cư Dậu gặp Đào Hoa, nếu Nam Mệnh hành Kim thì là cách đào hoa phạm chủ, chỉ cách thầy lấy trò, chủ lấy tớ, họ hàng lấy nhau, tình yêu thiếu luân thường đạo lý. Tại Nữ Mệnh thì dâm dật (CV)
Đào Hoa cư Tí (hành cung sinh hành sao) thì đàn bà lãng mạn, dễ mắc vào lưới tình, nếu có Thiên Không đồng cung thì đường chồng con không khá, dễ bị chồng bỏ hoặc bỏ chồng (Không Đào) (CV). Có người cho rằng Đào Hoa tại Tí thì tốt, chỉ thua kém tại Mão, ví như hoa Đào nở về đêm, lâu tàn, tuy rực rỡ nhưng ít người biết đến, ám chỉ các tính chất của Đào Hoa thì ngấm ngầm, ví dụ như có duyên nhưng ngầm, đa tình nhưng kín đáo
Đào Hoa xấu nhất là gặp Không Kiếp, kế đến là Hỏa Linh. Gặp Triệt thì như là hoa bị ngắt, gặp Thiên Hình thì dễ bị bề hội đồng (CV)
Đào Hoa nhập hạn trên 50 tuổi thì dễ chết hoặc bị bệnh nặng, nhưng chiếu hạn thì không đáng lo ngai, chủ yếu chỉ bị bệnh mà thôi (CV)
Đào Hoa cư tại Nô thì đàn ông mới xấu, chủ về cách lấy bậy bạ như chủ lấy tớ, thầy lấy trò, còn đối với đàn bà thì không sao (CV)
Đào Hồng cư Quan Lộc thì hợp nhất vì tránh được tính lẳng lơ hoa nguyệt của Hồng Đào tại Mệnh. Cư Quan thì hoạn lộ sẽ hanh thông may mắn, không phải cầu cạnh bôn ba dù làm nghề gì cùng vậy (VVT)
Hồng Loan miếu vượng tại Dần Mão, Hợi Tí thì chủ sự thông minh tú lệ, hòa nhã, nếu có Tử Vi trong tam hợp thì là người thanh tịnh, chủ sự cát khánh, trai lấy vợ đẹp, hiền thục, gái lấy chồng cao sang quí hiển (VVT)
Hồng Loan hãm địa thì chủ tà dâm, đa đoan (VVT)
Hồng Loan gặp Hóa Lộc Kình Đà thì phụ nữ rất giỏi về kinh doanh, nhất là kinh doanh vải vóc (Hồng Loan biểu tượng là vải vóc) rất phát đạt (VVT)
Hồng Loan gặp Địa Kiếp Cô Quả là cách chết thắt cổ vì Hồng Loan Địa Kiếp là cái dây thừng (VVT). Nếu đóng tại Phu Thê thì phải hai ba lần mới thành gia thất (VVT)
Đàn bà Mệnh Thân có Đào hay Hồng tọa thủ gặp tam ám Riêu, Đà, Kị hội họp thì là người không giữ được danh tiết. Nếu lại gặp Thai Binh Tướng hội họp thì sẽ bị chửa hoang hoặc hiếp (TTL)
Nữ Mệnh có Đào Thai Phục Tướng thì khó tránh chửa hoang hoặc bị hiếp (VVT)
Thai Đào gặp Tướng Quân thì là cách tiền dâm hậu thú, nhưng nếu có Nguyệt Đức đồng cung thì giải được (AH)
Thiên Hỉ

Vui vẻ, hòa nhã, chủ về hỉ sự, đem lại nhiều sự may mắn đáng mừng
Lợi ích cho việc cầu công danh, cưới hỏi, sinh nở
Họp với Hỉ Thần thành bộ Song Hỉ, chủ hỉ sự đến trùng phùng
Mệnh có Thiên Hỉ thủ thì:
Miệng cười tươi
Ăn nói vui vẻ, hòa nhã, vui tính
Ra ngoài thường gặp may mắn (Hồng Loan cư Di). Duyên từ ngoài vào vì có Hồng Loan xung chiếu (CV)
Thủ Mệnh thì là người có dung mạo tuấn mỹ, sớm lập gia đình (VVT)
Thiên Hỉ kết họp với Hỉ Thần thành bộ Song Hỉ, chủ sự may mắn dồn dập đến. Một số người cho rằng Song Hỉ tại cung Quan thì rất tốt đẹp
Các câu phú về Đào, Hồng, Hỉ
Đào, Hồng, Hỉ với phụ tinh
Đào Hoa
Mệnh Đào Hoa thủ thì mặt mày xinh đẹp, gặp Kình, Đà, Hình, Kị thì là người có tật:
Đào Hồng mặt mũi xinh tươi, Kị, Hình, Đà, Nhận là người tật thương
Mệnh giáp Đào Hồng thì tóc dài và tươi tốt:
Trong cung giáp có Hồng Đào, Tóc dài đến gót, tốt sao thuở này (B182)
Mệnh Đào Hoa thì ít khi ở với vợ, để vợ cô đơn chiếc bóng, và thường phải hai đời vợ:
Đào Hoa thủ Mệnh quả thê (7)
Đào Hoa hoặc Thiên Lương cư Dậu thì xấu vì bị hành cung (Kim) khắc hành sao (Mộc):
Kim khắc Mộc tốt nhiều cũng xấu,
Ấy Đào (Đào Hoa) Lương đất Dậu (cung Dậu) hay chi (B162)
Hồng Loan
Hồng Loan thủ Nữ Mệnh thì dễ lập gia đình hai lần, hai đời chồng:
Nữ tử Hồng Loan thủ Mệnh chủ nhị phu (8)
Mệnh có Hồng Loan tại Tí (như vậy thì là tuổi Mão) gặp thêm văn tinh thì tuổi trẻ đã đỗ đạc cao:
Hồng Loan cư Tí cũng hay, Văn tinh hội chiếu danh ghi thiếu thời
Những số chiếm Khôi Khoa tuổi trẻ, Mình gặp vào Tí vị Hồng Loan (gặp Khôi Khoa hoặc Hồng Loan cư Tí thì trẻ tuổi đã đỗ đạt cao)

Hồng Loan cư Tí, thiếu niên định chiếm khôi nguyên (1, B57)
Mệnh có Xương Tấu Hồng Khôi thì là người có nhiều mưu kế phò tá vua, rất nổi danh nhưng nếu gặp thêm Hóa Kị thì không nên chen vào đường danh lợi thì cuộc sống sẽ phong lưu:
Cách Xương Tấu Hồng Khôi dễ được, Chốn sân rồng dâng chước nổi danh,
Thêm sao Hóa Kị chẳng lành, Lánh đường đào mận an mình phong lưu (B112)
Thiên Hỉ
Thiên Hỉ thủ Mệnh thì miệng cười rất có duyên. Hỉ Thần, Thiên Hỉ, Hồng Loan là ba sao đem lại vui tươi may mắn trong cuộc sống:
Sao Thiên Hỉ chủ mừng vui, Thiên Hỉ thủ Mệnh, miệng cười có duyên,
Hỉ Thần, Thiên Hỉ, Hồng Loan, Ba sao đem lại hân hoan trong đời (AB337)
Đào, Hồng hay Hỉ hội với các phụ tinh
Nữ mệnh có Hồng Loan đồng cung với Tử Vi hay Thiên Phủ thì là người chính chuyên, thục nữ:
Sao Hồng Loan hội cùng Tử, Phủ, Gái chính chuyên, thục nữ ngàn xưa (AB336)
Mệnh Đào hay Hồng mà có Thiên Hình đồng cung thì có tiết hạnh, tề gia nội trợ:
Đào Hồng cung Thiên Hình đồng hội, gái tiết trinh hiền nội tề gia (20)
Mệnh Đào Hoa tại Mão hay Dậu có Tả Hữu đồng cung tại Sửu hay Mùi chiếu thì trước dở sau tốt:
Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ, Mệnh Đào Hoa trước dở sau nên (B47,11)
Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ, Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay
Đào Long Phụ Bật phùng sau trước, Hoặc Đào, Nô lỡ bước cầu ô
Mệnh có Thiên Đức hay Nguyệt Đức thủ gặp Đào Hoa hay Hồng Loan thì thì là người xinh đẹp, lấy được vợ hiền chồng sang. TVT ghi Đào Hoa hay Tham Lang miếu vượng vì Tham Lang cùng là Đào Hoa tinh:
Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào tinh, trai sinh gái đẹp vợ lành chồng sang (15)
Thiên Nguyệt Đức ngộ Hồng thực nghiệm, Được chồng sang vợ đẹp hòa đôi (B112)
Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào tinh, Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang
Thiên Nguyệt Đức Đào Hồng cung Phối, Gái chồng sang, trai hội giai nhân
Thân có Hồng Đào gặp Thai Tọa thì có công danh, theo TVT nhưng muộn màng mới có:
Thân hữu Hồng Đào kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất (22, B68)
Mệnh Hồng Loan gặp Bát Tọa thì tuổi trẻ đã có công danh. Nguyễn Mạnh Bảo cho rằng tại Quan cũng vậy:
Mấy người ít tuổi (niên thiếu) công danh, Hồng Loan, Bát Tọa ở mình chẳng sai (QXT, VT)
Người tuổi trẻ công danh đầy tá, Tọa Mệnh Quan Hồng, Tọa chẳng sai (B104)
Những người niên thiếu danh ghi, Hồng Loan Bát Tọa ở vì Mệnh cung

Nữ nhân tuổi Giáp Mệnh Sửu Mùi có Xương Khúc Hồng Lộc thì là người đức độ hiền lành, đáng bậc hiền phụ và hưởng giàu sang trọn đời, rất vượng phu ích tử. Chú ý Tử Phá, Thiên Phủ và Vũ Tham tại Sửu Mùi thì tuổi Giáp có Hóa Lộc thủ hoặc chiếu:
Xương Khúc Sửu Mùi, Giáp nhân Dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân (13, TTL)
Mệnh Hồng Loan gặp Không Kiếp thì không thể phú quí được, không chết non cũng nghèo hèn:
Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không, mạc đàm phú quí (3, B69)
Hồng Loan ngộ Kiếp Không đồng thủ (lâm thủ), xá bàn chi bần lũ (những lũ) yểu vong (9)
Hồng Đào Không Kiếp đồng danh, Ấy phường yểu tử đã đành một hai
Mệnh có Đào Hồng Không Kiếp Đà Linh thủ chiếu thì chết non:
Nhan Hồi yểu tử do hữu Đào Hồng Không Kiếp Đà Linh thủ Mệnh (19)
Nhan Hồi yểu tử (chết yểu) do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh thủ Mệnh (8, TTL)
Mệnh có Đào Hoa tọa thủ thêm Địa Kiếp thì là người chơi bời suốt đêm mơ tưởng đến người đẹp:
Lãng lý Đào xa gia Địa Kiếp, tam canh giai tưởng ư giai nhi (5)
Lãng lý Đào Hoa gia Địa Kiếp, tam canh khai tưởng ư giai nhi (B83)
Đào Riêu đồng cung (chú ý rằng Thiên Riêu luôn có Thiên Hình tam hợp) thì lang chạ, không chung thủy, rất lẳng lơ dâm đãng, lẳng lơ, ngoại tình nếu không có sao giải mạnh như Tử Phủ, Thiên Hình, Khôi Việt:
Đào Riêu số gái ai hay, Chồng ra khỏi cửa, dắt tay trai vào (11)
Kìa những người phượng chạ, loan chung, Đào Riêu số ấy trong lòng chẳng trinh (HC)
Kìa người phượng chạ loan chung, Đào Riêu số ấy trong lòng chẳng trinh (B107)
Đào Riêu hội bên mình khá rõ, Không Quí, Hình, Tử Phủ ngoại dâm
Thiên Riêu Thiên Hỉ đồng cung hay xung chiếu thì bị nhiều tai họa quái ác:
Thiên Riêu Thiên Hỉ đa chiêu quái dị chi tai (14)
Số Riêu Hỉ tai bay vạ gió, Số Kiếp Không lắm độ gian manh
Tham Liêm hãm mệnh gian tà, Hồng Đào Riêu Hỉ ắt là dâm bôn
Phu Thê có Thai thủ gặp Đào thì vợ chồng đi lại ăn ở với nhau rồi mới lấy nhau:
Sao Thai lại gặp Đào Hoa, Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng (AB, VT)
Sao Thai lại gặp Đào Hoa, Trước êm loan gối, sau hòa phụng chiêm (B105)
Thai tinh (sao Thai) mà gặp Đào Hoa, tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng (28)
Đào, Hồng, Hỉ, Thai thủ gặp Phục Tướng thì trai gái nguyệt hoa bừa bãi. Chú ý rằng Thai và Đế Vượng xung chiếu, Phục Binh và Tướng Quân xung chiếu nên trong cung phải có Phục Binh hay Tướng Quân thủ:
Đào Hồng Thai Hỉ (Thiên Hỉ) trong soi, ngoài gia Binh Tướng (Tướng Quân) gái trai ngang tàng (17)
Đào Hồng Thai Hỉ trong soi, Ngoại gia Binh Tướng gái trai ngang tàng (B42)
Đào Hoa, Thai, Hỉ trong soi, Ngoài ra Binh, Tướng ả vui hoang tàng (QXT, chị em gái bất chính)
Đào Hồng Riêu Hỉ trong ngoài, Lại gia Binh Tướng gái trai hoang tàng
Thai Binh Tướng Đào Hồng tương hợp, Chẳng chửa hoang bị hiếp bất ngờ
Mệnh có Hồng Loan thì khéo về nghề thêu may, gặp Phục Binh hay Tướng Quân thủ đồng cung thì dễ bị tai nạn, có lẽ chủ yếu về trinh tiết:
Hồng Loan may vá cửa canh, hiềm phùng Binh Tướng ắt sinh tai nạn (18)
Hồng Loan may vá của canh, Đối Binh Tướng lại, gái sinh tai nạn (B49)
TVT cho rằng nữ Mệnh cung Tử Tức có Thai Đào gặp Kiếp Sát thì hiếm con:
Nữ Mệnh Thai Đào phùng Kiếp (Kiếp Sát) gián đoạn tử cung (4)
Mệnh có Đào Hoa (biểu tượng là rượu) gặp Phi Liêm thì lúc nào cũng rượu chè say sưa như Nguyễn Tịch đời nhà Tần:
Đào Hoa ngộ Phi Liêm, Nguyễn Tịch Tấn triều nhi túy khách (6, B86)
Mệnh Kiếp Thân Không gặp Hồng Loan và Kình Dương, nếu Mệnh có chính tinh thì tiền vận vất vả, nhưng nếu được Nhật Nguyệt hay Tử Phủ hội họp thì suốt đời được hưởng phúc giàu sang hơn người:
Mệnh Kiếp Thân không nhi giao Hồng Nhận (gặp Hồng Loan và Kình Dương) ư tuế Mệnh lạc chính tinh tiền đồ đa khổ (tiền vận vất vả) nhi hữu Âm Dương Đế diệu Mệnh Thân (nhưng nếu được Nhật Nguyệt hay Tử Phủ hội họp), chung niên phúc hoạnh sinh tài (20)
Đào Hồng Hỉ với các chính tinh
Mệnh Tử Vi gặp Hồng Đào Không Kiếp thì giảm thọ vì Tử Vi và Đào Hồng đều tối kị gặp Không Kiếp:
Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ (27, TTL)
Mệnh có Đào Hỉ gặp Tử Vi hay Thái Dương hội họp thì giàu sang. NMB ghi Mệnh có Đào Hỉ có Tử, Dương chiếu thì giàu sang:
Mệnh cư Đào Hỉ (Thiên Hỉ) hướng Tử Dương nhi phú quí kham kỳ (2, B68)
Mệnh và Thân đều có Tử Phủ Khoa Quyền Hình Ấn Hồng Khôi thì công danh rất tốt đẹp, như Lưu Bị kế nghiệp nhà Hán:
Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp thị ư Tử Phủ Khoa Quyền Hình Ấn Hồng Khôi Mệnh, Thân (45, TTL)
Hạn có Tử Phủ Vũ Tướng lại gặp Hồng Quyền thì gặp thời cơ tốt cho sự nghiệp, như Khương Tử Nha mừng gặp Văn Vương:
Hạn phùng (hạn có) Tử Phủ Vũ Tướng, hạnh đắc (mừng gặp) Hồng Quyền, Khương Công hỉ ngộ Văn Vương (73)
Phu cung có Tử Phủ Vũ Tướng gặp Riêu, Đào Hoa người tuổi Giáp, Mậu thì là gái giang hồ lưu lạc nay đây mai đó nhưng lên làm bà lớn vì được chồng quí hiển:
Tử Phủ Vũ Tướng Phu cung, gia hợp Riêu Đào (Đào Hoa) ư Giáp Mậu nhân, giang hồ chi nữ (80)
Tử Vi Thất Sát tại cung Tỵ thì ví như vua mang kiếm báu tất nhiên có uy quyền và phú quí, gặp Hỏa Tinh, Tuyệt hội họp thì người khát máu, tàn nhẫn, hay giết người, nhưng lại gặp thêm Bật Khoa Mã Ấn Tràng Sinh, Hồng Loan thì lập được chiến công thần kỳ, là Ðại Tướng:
Sát Tử (Tử Vi Thất Sát) Tốn cung (cung Tỵ) Ðế huề bảo kiếm, Hỏa (Hỏa Tinh) Tuyệt nhập xâm, đa sát chi nhân, hạnh ngộ Bật Khoa Mã Ấn Sinh Hồng di lập chiến công vi Ðại Tướng (TTL)
Đào Hồng Hỉ, Tấu Thư gặp Vũ Khúc hội họp thì là người ca xướng múa hát giỏi. Có người cho rằng đây là trường hợp Đào Hồng Hỉ, Tấu Thư gặp Thiên Cơ :
Hồng Loan Tấu Hỉ (Thiên Hỉ) Vũ Đào, những phường ca xướng tiến vào cửa quan (12)
Hồng Loan Tấu Hỉ Vũ (Vũ Khúc) Đào, Những phường ca xướng tiến vào nhà quan
Hồng Loan, Tấu, Vũ, Hỉ, Đào, Những phường ca vũ danh vào cửa quan (QXT, VT)
Đào Tấu Hỉ Vũ Hồng họp mặt, Người xướng ca tiếng nức nhà quan (HC)
Sao Vũ Khúc, Hồng, Đào, Hỉ, Nơi giao phòng danh vị nhà quan (Vũ Khúc Đào Hồng Hỉ thì có quan chức) (NMB)
Hồng Cơ Tấu Vũ Hỉ Đào, Gái nghề ca xướng luận vào Mệnh viên
Hồng Cơ Tấu Vũ Hỉ Đào, Câu ca, điệu vũ, nghề nào cũng tinh (AB336)
Mệnh có Đào Hồng Tấu gặp Vũ thì khéo về kim chỉ vá may:
Khéo nghề kim chỉ vá may, Đào Hồng Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung (13)
Khéo nghề kim chỉ vá may, Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung (NMB, VT)
Khéo nghề kim chỉ thêu thùa, Hồng Đào Tấu Vũ ở vào mệnh cung (HC)
Người kim chỉ vá may khôn khéo, Tấu Vũ Hồng thủ chiếu Mệnh cung (B108)
Riêng Quản Xuân Thịnh và Việt Viêm Tử thì có hai câu phú sau. Tang Môn và Hồng Loan không bao giờ tam hợp xung chiếu nhị hợp nhau nên cần xét lại câu phú của Quản Xuân Thịnh:
Cơ Loan Hồng Phúc Mệnh trung, Cửi canh kim chỉ vá may thêu thùa (AB342)
Khéo nghề kim chỉ vá may, Cơ, Tang, Hồng, Phúc ở rầy Mệnh cung (QXT)
Mệnh Đào Hồng gặp Thiên Cơ thì vẽ rât đẹp như Doãn Vi là họa sĩ tài ba:
Đào Hồng ngộ Thiên Cơ, Doãn Vi sảo họa (4, B70)
Nữ Mệnh có Đào Hồng Sát Phá Tham Liêm thì có số sát chồng, chồng chết sớm:
Đào Hồng Sát Phá Tham Liêm, Lâm vào nữ phái chỉ hiềm sát phu (AB341)
Mệnh có Tướng Hồng thì rất xinh đẹp. Nữ Mệnh có Thiên Tướng Hồng Loan thì lấy được chồng giàu sang danh giá:
Thiên Tướng là mặt con người, Hương trời sắc nước, Mệnh ai Tướng Hồng (AB)
Tướng Hồng số gái yên vui, Chồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dào (HC)
Tướng Hồng (Hồng Loan) Nữ Mệnh, quí nhân hảo phối (9, TTL)

Thiên Tướng gặp Ðào Hoa hoặc Hoa Cái có Văn Khúc, Mộc Dục hội họp thì xinh đẹp nhưng đa tình, dâm đãng:
Tướng ngộ Cái (Hoa Cái) Ðào (Ðào Hoa) Khúc (Văn Khúc) Mộc (Mộc Dục) thuần tước dâm phong (11, TTL)
Thiên Tướng gặp Khúc Cái Mộc Đào, Vốn là phúc trọng, tính âu đa tình (HC 76)
Tướng và Khúc hội Đào, Mộc, Cái Sắc khuynh thành nhưng rất dâm bôn (AB326)
Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọa,
Cửa mận đào có kẻ tài chân (B41)
(Tướng gặp Lộc thì là người có chân tài trong đám quần thoa) (B41)
Tướng ngộ Đào, Hồng củng chiếu,
Ngồi màn Đào có ả Thôi Nương (chị em gái tài hoa – QXT)
Thiên Tướng tại Mão gặp Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương thì mặt xinh đẹp mà võ nghệ rất giỏi, hạn gặp Phá Ðà Kình Kiếp thì vì dâm ô mà chết như Lã Bố:
Tướng lâm Chấn địa (cung Mão) Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá, vận phùng (hạn gặp) Phá Ðà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp (12)
Mệnh có Thái Dương gặp Đào Hoa và sát tinh hội họp thì mắt nhỏ mắt to. Chú ý Thái Dương không tam hợp xung chiếu với Thất Sát thành ra Sát là sát tinh thì hợp lí:
Người mà mắt nhỏ mắt to, Nhật phùng Đào, Sát tương phò Mệnh viên
Phúc Đức tại âm cung có Nhật Nguyệt gặp Thiên Hỉ thì có anh em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha:
Âm Dương sánh với Hỉ tinh (Thiên Hỉ), Âm cùng với Phúc cũng sinh dị bào (B42, 23)
Nhưng Quản Xuân Thịnh thì cho rằng:
Thái Âm hiềm có Thiên Cơ,
Âm cùng mấy Phúc đồng sinh lưỡng bào (QXT)
Cung Tử Tức có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu gặp Thiên Hỉ tọa thủ thì vui mừng, hàm ý tất sinh quí tử. TVT giải rằng cung Tử Tức có Nhật Nguyệt chiếu gặp Thiên Hỉ tọa thủ tất sinh quí tử. Đòi hỏi Nhật Nguyệt sáng thì hợp lý vì minh có nghĩa là sáng

Tử Tức Thiên Hỉ thủ trung, Nhật Nguyệt lai chiếu sinh giòng quí nhi
Sở hỷ gia Thiên Hỉ nhị minh (Nhật Nguyệt) phù Tử Tức chi cung (68)
Nhật Nguyệt Sửu Mùi thì giảm mất ánh sáng nên kị gặp sát tinh, nếu gặp Xương Khúc, Ân Quang, Thiên Quí, Thai Tọa, Khôi, Hồng Loan thì văn tài lỗi lạc, lý luận sắc bén, biết tiến thoái xử sự đúng lúc nên công thành danh toại, vinh hiển. Chú ý trong trường hợp này thì Xương Khúc sẽ đồng cung có tác dụng gia tăng ánh sáng cho Nhật Nguyệt, bộ Hồng Loan Thai Tọa thì chủ về hanh thông trong quan trường:
Nhật Nguyệt Sửu Mùi, Âm Dương hỗn hợp tự giảm quang huy (giảm mất ánh sáng) kị phùng (kị gặp) sát tinh, nhược lai văn diệu (nếu gặp văn tinh là Xương, Khúc), diệc kiến Quí, Ân (Ân Quang, Thiên Quí) Thai, Tọa, Khôi, Hồng (Hồng Loan) văn tài ngụy lý, xuất sử thành công (văn tài lỗi lạc, lý luận sắc bén, biết tiến thoái xử sự đúng lúc nên công thành danh toại, vinh hiển) (TTL)
Thái Vân Trình thì viết hơi khác một chút:
Nhật Nguyệt Sửu Mùi, Âm Dương hỗn hợp tự giảm quang huy (giảm mất ánh sáng) kị phùng (kị gặp) Kiếp, Triệt (Địa Kiếp và Triệt án ngữ), nhược lai văn diệu (nếu gặp Xương Khúc), diệc kiến Quí Ân (Ân Quang, Thiên Quí), Không Linh Thai Tọa Khôi Hồng (Hồng Loan) văn tài ngụy lý, xuất sử thành công (18)
Thái Dương cư Hợi là cách Nhật trầm hải nội hay Nhật trầm thủy để nên không được tốt đẹp, nhưng nếu được Khoa Quyền Lộc chiếu, Tả Hữu Hồng Khôi hội họp nên lập được kỳ công, có sự nghiệp lớn lao trong thời loạn, và nếu Nhật gặp Phượng Long Cái Hổ mà không có sát tinh thì sẽ có công danh tài lộc trong thời bình. Chú ý Thái Dương tại Hợi không bao giờ có đủ Tam Hóa hội họp, mà chỉ có hai sao là tối đa. Cụ thể:
Tuổi Ất có Quyền Lộc Tồn Hóa Kị tam hợp chiếu
Tuổi Mậu có Quyền Quan Phúc Việt tam hợp chiếu, Lộc Tồn Lưu Hà xung chiếu
Tuổi Canh khi an Tứ Hóa theo Dương Vũ Âm Đồng thì có Hóa Lộc Thiên Quan Hao LNVT thủ, Khoa Đà chiếu trong đó Đà La tại Mùi bị Triệt.
Tuổi Tân có Quyền thủ Hóa Lộc Thiên Phúc Quốc Ấn chiếu và nếu có Khúc thì sẽ có Khoa
Tuổi Nhâm thì có Lộc Tồn Lưu Hà thủ và có Hóa Lộc Quốc Ấn tam hợp Khôi Việt chiếu trong đó Khôi bị Triệt. Nếu có Tả Phù thì sẽ có Hóa Khoa

Tuổi Quí thì có Đà la thủ , Khôi Việt Quyền Khoa Thiên Phúc Đường Phù Hao LNVT chiếu
Như vậy câu phú có thể liên quan đến tuổi Canh, Tân, Nhâm, Quí:
Nhật cư Hợi địa, Nhật trầm hải nội (mặt trời chìm xuống đáy bể không tỏa được ánh sáng nên rất mờ ám. TTL dùng từ Nhật trầm thủy để, tức mặt trời chìm đáy nước), ngoại củng (ngoại hữu, bên ngoài có, ý nói được chiếu) Tam Kỳ (Khoa Quyền Lộc) Tả Hữu Hồng Khôi kỳ công quốc loạn dĩ viên thành (lập được kỳ công, có sự nghiệp lớn lao trong thời loạn), hoan ngộ Phượng Long Cái Hổ bất kiến Sát tinh thế thịnh phát danh tài (trong thời bình thì có công danh tài lộc) (40. TTL)
Thái Âm miếu vượng đắc gặp Hồng Loan, Kình Dương, Hóa Kị, Thiên Riêu thì ví như hoa sen hé mở, rất quyến rũ, tiểu hạn gặp Xương, Vũ thì động lòng xuân, tưởng đến chuyện trăng hoa nên rất dễ xa ngã (cần coi lại câu này)
Âm tăng (Thái Âm miếu vượng đắc) Hồng (Hồng Loan) Nhận (Kình Dương) Kị (Hóa Kị) Riêu (Thiên Riêu) tán liên hàm tiếu (hoa sen hé mở, rất quyến rũ) tiểu hạn phùng Xương Vũ dâm tự xuân tình liên xuất phát (động lòng xuân, tưởng đến chuyện trăng hoa nên rất dễ xa ngã) (15)
Hạn có Nhật gặp Kiếp, Hồng Loan, Binh, Khốc tất cha già đau bịnh mà chết vì Nhật tượng trưng cho cha hoặc chồng:
Nhật ngộ Kiếp Hồng Binh (Phục Binh) Khốc thân phụ tận niên thọ hưởng ai thương (70)
Cơ Thục Ái là gái sống nay đây mai đó, hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Hồng Hỉ Khôi Xương Khúc Tấu Thư, Phúc Đức nên được vua Thục mời vào cung:
Cơ Thục Ái giang hồ chi nữ , hạn phùng Cơ Nguyệt Đồng Hồng Khôi Xương Khúc Thư (Tấu Thư) Phúc (Phúc Đức) Hỉ (Thiên Hỉ): huê mong Thục Đế chi cung (được vua Thục mời vào cung) (28)
Sát, Phá, Liêm, Tham gặp Khoa, Quyền, Lộc lại có Hồng Loan, Thiên Hình, Tả Hữu thì là người tiếng tăm lừng lẫy, nếu bị Hóa Kị, Không hay Triệt xâm phạm thì cả đời không thành công, nếu có cũng không bền:
Sát, Phá, Liêm, Tham Tam Kỳ (Khoa Quyền Lộc) gia hội lai triều Hồng, Hình, Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân (là người tiếng tăm lừng lẫy), Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành (40)
Thất Sát gặp Thiên Hỉ thì vẻ ngoài ôn thuận nhưng rất gan lì, có người cho rằng phong nhã uy nghi :
Sát phùng Thiên Hỉ tương giao, Có vẻ ôn thuận, ai nào biết gan
Sát phùng Thiên Hỉ khá hay, Ấy người phong nhã uy nghi mọi đàng

Mệnh hay Thân có Phá Quân gặp Không Kiếp Hồng Loan thì bị chết yểu. Thật ra Hồng Loan gặp Không Kiếp đã là cách chết yểu:
Phá Quân, Không, Kiếp, Hồng Loan, Vào cung Thân, Mệnh xá bàn yểu vong (B104)
Thiên Di có sao Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh trong lại có sao Thai ngoài có Đào Hồng là người dâm dục quá độ, tư thông làm cho người ta chê cười:
Tướng Phá (Phá Quân) Phục nội tàng Thai diệu, Ngoài Đào Hồng tú (sao Hồng Loan) chiếu Thiên Di,
Có người dâm dục thị phi, Tư thông chi để kẻ chê người cười (B43)
Tướng, Phá, Phục trong làng Thai diệu, Ngoài Đào, Hồng, Hoa Cái, Thiên Di
Có người dâm dục thị phi, Tư thông chi để kẻ chê người cười (QXT)
Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ gặp Hồng Loan, Thiên Khôi, Văn Xương hội họp thì là mưu sỉ được trọng dụng và rất nổi danh. Thiết tưởng cần Liêm sáng sủa. Có người cho rằng đây là cách Hồng, Khôi, Xương, Tấu hội họp:
Hồng Khôi Xương Liêm phù trì, sân rồng dâng trước, trong thì danh cao (14)
Hồng Khôi Xương Liêm phù trì, Sân rồng dấn bước, ghi tên cửu trùng
Hồng, Khôi, Xương, Tấu phù trì, Sân rồng kén bảng, danh đề ở cao (QXT)
Hồng, Khôi, Xương, Tấu phù tri, Sân rồng đứng trực, xem thì ngôi cao (VT)
Mệnh Tham Đào thì râu tóc rậm rạp, mệnh Vũ Kị thì mắt đen:
Tham Đào tốt tóc xanh râm,
Mắt đen Vũ, Kị chẳng nhầm một ai
Nữ Mệnh có Tham Đào Hoa hãm địa thì độc ác, thâm hiểm và rất dâm đãng nhưng gặp Triệt Tuần thì tính tình nhân hậu, đoan chính, cởi mở, không nhỏ mọn đố kị. Điều này cho thấy Triệt Tuần có ảnh hưởng mạnh đối với Tham Lang:
Tham Đào (Đào Hoa) tại nhàn cung (hãm địa), Nữ Mệnh độc phụ chi nhân, ngộ Triệt Tuần tâm tình thư thái (30, TTL)
Đào Hồng tại các cung
Cung Điền

Cung Điền có Ân Quang hay Thiên Quí gặp Đào Hồng thì hưởng di sản của cô dì để lại:
Quí Ân ngộ Đào Hồng Điền Trạch, Cô dì lưu tài bạch ruộng nương
Ân Quang ngộ Đào, Hồng Điền Trạch, Ấy cô dì lưu lại ruộng nương (QXT, VT)
(được hưởng di sản tiền bạc nhà đất của cô dì để lại)
Điền cung Ân ngộ Đào, Hồng, Của cô dì đã qui tông sẵn sàng (B108)
Cung Quan
Đào Hoa hoặc Hồng Loan cư Quan thì rất tốt vì gặp may mắn trên quan trường, làm quan sớm, hiển đạt sớm, được vua tin dùng, hoạn lộ được nhẹ bước thang mây trong khi Thiên Di thì tối kị gặp Không Kiếp ra ngoài có nhiều kẻ thù ám hại. Nguyễn Mạnh Bảo cho rằng Hỉ là Thiên Hỉ thì không đúng. Chú ý rằng Đào Hoa tại Quan thì Mệnh có Kiếp Sát:
Đào Hoa cư Quan tảo tuế (nhỏ tuổi) đắc quan hành chính (21, B57)
Quan cung hỷ ngộ Hồng Đào, Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào (23)
Quan cung Hỉ ngộ Đào Hồng, Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào (B103)
Quan cung mừng được Đào Hồng, Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào (QXT)
(Quan Lộc Mã gặp Thiên Hỉ Đào Hoa Hồng Loan thì . Thiên Di gặp Không Kiếp thì xấu, có thể bị chết đường hoặc ăn cướp giết)
Cung Quan Lộc Hồng Đào hội họp, Miền Thiên Di Không, Kiếp phải e
Cung Quan mừng gặp Đào Hồng, Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào
Đào Hoa giữ ở cung Quan, Gặp thời hanh chính vừa tầm đáng trai (B113)
Cung Nô
Nô Bộc có Đào Hoa thì có vợ cho cắm sừng. Nam Mệnh mới có cách này (AH):
Hoa Đào nở trái Nô cung, Thiếp Thê mang tiếng bất trung cùng chồng (B37)
Cây đào mọc ở Nô cung, Vong Phu mắc tiếng, bất trung cùng chồng (QXT)
Cung Thiên Di
Thiên Di gặp Đào Hồng thì ly hương mà lập gia đình:
Vợ chồng viễn phối tha hương, Đào Hồng len lỏi vào làng Thiên Di (29)
Vợ chồng viễn phối tha hương, Đào Hồng len lỏi (đóng chỗ) vào làng Thiên Di
Kìa người phải tha hương định phối, Bởi Đào Hồng tỏ lối Thiên Di (B108)
Cung Phối

Phu Thê có Đào Hồng thì vợ chồng sinh đẹp:
Cung Phu lại Đào Hồng tương ngộ, Vợ với chồng đều có dung nhan
Cung Phu Phụ Đào Hồng tương ngộ, Vợ với chồng đều có dung nhan (B44)
Cung Thê Thiếp, Đào, Hồng tương ngộ, Vợ mấy người đều có dung nhan (QXT)
Cung Thê có Hồng Loan thì khắc vợ trước:
Hồng Loan cư Thê tiền khắc (21)
Cung Phu đóng ở tứ vượng (Thìn Tuất Sửu Mùi hay Tứ Mộ) gặp Hồng Loan thủ thì số khóc chồng, tình duyên lận đận. Chú ý đây là người tuổi Dần Thân Tỵ Hợi. Tuổi Dần Thân thì Phu tại Sửu Mùi có Trực Phù Hồng Loan thủ gặp Cô Quả, Mệnh Không Đào Mão Dậu. Tuổi Tỵ Hợi thì Phu tại Thìn Tuất có Tử Phù Nguyệt Đức Hồng Loan thủ, Quả Tú chiếu, Không Đào tại Tí Ngọ tam chiếu, Mệnh có Long Đức thủ gặp Cô Quả tam hợp, Không Đào xung chiếu:
Sở ai giả Hồng Loan tứ vượng liệt phu quân chi vị (25)
Phu có Hồng Loan (có người ghi là Hồng Đào) đồng cung vói Hóa Kị thì vợ chồng có phen bỏ nhau chia ly và còn muốn lập gia đình lần nữa. QXT ghi rằng vừa bỏ chồng hoặc chồng vừa chết thì đã có người muốn lấy:
Hồng Loan ngộ Kị Phu cung, tơ hồng đã dứt, má hồng còn ưa (30, NMB, VT)
Hồng Đào ngộ Kị Phu cung, Tơ hồng đã dứt, má hồng còn vương (HC 174)
Phu cung Kị gặp Đào Hồng, Tơ hồng đã dứt má hồng lại yêu (B108)
Hồng Loan ngộ Kị Phu cung, Tơ hồng chưa tắt, má hồng đã xui (QXT)
Hồng Loan ngộ Kị cung Phu, Gái ngồi quạt mồ, lòng dạ xốn xao (AB336)
Phu có Hồng Loan Địa Kiếp, Mệnh tốt thì ăn ở với nhau đến 100 tuổi, Mệnh xấu thì chỉ ăn ở với nhau được 10 năm:
Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư Phu Quân, Mệnh hảo chi bách, bất hảo chi thập (27)
Địa Kiếp với Hồng lâm Phu vị, Cung Mệnh sinh duyên ấy trăm năm,
Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm, Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm
Cung Phu có sao Hồng Loan là chồng nhiều vợ, gặp Tứ Sát (Kình Đà Hỏa Linh, nên thêm Không Kiếp) là bị góa:
Hồng ngộ Phu Thê nay thiếp nọ, Tứ Sát gia tiền độ bi ai (B46)
Đào Hồng tại hạn

Mệnh Đào Thân Hồng thì có nhiều người theo đuổi nhưng hạn có Thái Tuế thì không có ai lai vãng. Quản Xuân Thịnh thì cho rằng hạn gặp Tuế Kiếp và giải là đánh đuổi vợ:
Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan, vận phùng Thái Tuế, khả hoàn thấy chi (16)
Mệnh Đào, Thân lại Hồng Loan,Vận phùng Tuế, Kiếp đả hoàn thê nhi (QXT)
Mệnh Đào, Thân lại Hồng Loan, Hạn gặp Tuế Kiếp phượng hoàng rẽ duyên (HC 163)
TVT cho rằng tuổi Ất Tân hạn gặp Hao, Kiếp Sát, Đào Hồng thì phải đề phòng người làm phản, nếu gặp Khoa hay Thiên Phủ thì không sao. Chú ý tuổi Ất Tân thì Song Hao Tí Ngọ gặp Đào Hoa Tí Ngọ:
Hao Sát Hồng Đào, Ất Tân hạn đáo, đa phùng phản phúc, Khoa Phủ hạnh cầu (6)
Hạn gặp Riêu Hỉ Đào Hồng thì hay nghĩ đến chuyện nghĩ đến chuyện trai gái xác thịt làm tình:
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, gái trai tơ tưởng những lòng dâm phong
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, Gái trai mơ tưởng trong lòng dâm phong
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, Gái trai mang một tấm lòng tà dâm (VT)
Các câu phú dưới đây ghi là Hoa Cái gặp Đào Hồng Hỉ thì không đúng:
Vận hạn đến Đào Hồng Cái Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm bôn
Vận hạn Đào Hồng Hoa (Hoa Cái) Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm ô (B110)
Vận hạn đến Đào Hồng Cái Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm bôn
Hạn có Thai gặp Hỉ, Thanh Long thì có con, Nguyễn Mạnh Bảo thì ghi rằng Thai gặp Hỉ Phi nhưng nên biết Phi Liêm và Thanh Long tam hợp với nhau. Theo TVT thì là trường hợp Thai gặp Đào Hoa Thiên Hỉ:
Thanh Long, Thai, Hỉ hợp miền, Vợ đi thai nghén khá xem phúc nhà
Thai tinh, Long (Thanh Long), Hỉ vận này, Vợ thời thai dựng đến ngày khai hoa (QXT)
Thai phùng Long Hỉ vận này, Vợ mình ắt đã đến ngày nở hoa (VT)
Thêm đinh ấy Thai cùng Phi (Phi Liêm) Hỉ, Lên đậu năm Cái tỵ Dương Đà (hạn Hoa Cái gặp Dương Đà thì mắc bệnh đậu) (B110)

Thai phùng Đào Hỉ vận này, vợ chồng mừng đã đến ngày nở hoa (hạn sanh con) (12)
Các câu phú cần xét lại
Ân Khôi Quí Việt Liêm Hồng, Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Ân Quí Khôi Việt Liêm Hồng, Trai cận cửu trùng, gái tắc cung phi
Khôi, Lương, Thanh, Việt, Cái, Hồng, Trai cận cửu trùng, gái tắc cung phi (QXT)
(Trai làm đến công khanh, gái thì làm vợ vua chúa)
Ân Khôi Quí Việt Cái Hồng Nam cận cửu trùng, nữ tác cung phi (AB)
Đà Ân Quí Việt Tấu Hồng Nam cận cửu trùng, nữ tác cung phi (VT)
Quí Ân Tấu Việt Đào Hồng, Lục cung gái đẹp Tam Công giai tài (B112)
Kình Riêu Hoa Cái Thai Đà, Vận phùng năm ấy đậu hoa phải phòng
Kình Dương Hoa Cái ngộ Đà, Vận phùng năm ấy, đậu hoa phải phòng (QXT)
Đào Hồng Hoa Cái ngộ Đà, Hạn hành năm ấy đậu ma phải phòng (VT)
(bị lên đậu)
Hạn gặp thì lập gia đình:
Vũ, Cơ, Lộc, Mã, Hỉ, Hồng, Hôn nhân vận ấy đèo bồng thất gia
Vũ, Cơ, Lộc, Mã, Quả (Quả Tú), Loan (Hồng Loan), Hôn nhân thuở ấy mới tròn thất gia (46)
Vũ, Cơ, Lộc, Mã, Long, Loan, Trai ban binh tước, gái bàn thư cưu (NMB)(Hạn gặp, con trai thì có công danh, gái thì có người đến hỏi cưới)
Hạn có Vũ Khúc Lộc Mã Hồng Cô Quả thì lập gia đình. Chú ý Hồng Loan và Thiên Mã không hội họp với nhau
Đào Tang (Tang Môn) ở Mệnh cung sau trước, gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô (10)
Giải: Mệnh có Đào Hoa Tang Môn hội họp thì trước sau là gái lẳng lơ và lận đận về tình duyên. TVT giải mệnh có Đào Hoa Tang Môn hội họp thì trước sau là gái lẳng lơ kén chồng. Giải thích như vậy thì sai vì Đào Hoa và Tang Môn không bao giờ hội họp nhau, chỉ có tuổi Tỵ Hợi thì Đào Hoa và Tang Môn nhị hợp và chỉ có tuổi Dần Thân Tỵ Hợi thì có Tang Môn đứng trước Đào Hoa theo chiều thuận. Không có vị trí nào mà Đào Hoa và Tang Môn đứng cách nhau một cung cả. Câu phú này cần xét lại

Hoa Cái Phượng Cát Đào Hồng,
Trai toan bỏ vợ trong lòng chẳng khuây (NMB, VT)
Hoa Cái Phượng Cát Đào Hồng,
Trai toan nể vợ trong lòng khôn khuây (QXT)
(lòng buồn rầu tính chuyện bỏ vợ)
Hạn gặp Riêu Hỉ Đào Hồng thì hay nghĩ đến chuyện nghĩ đến chuyện trai gái xác thịt làm tình:
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, gái trai tơ tưởng những lòng dâm phong
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, Gái trai mơ tưởng trong lòng dâm phong
Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng, Gái trai mang một tấm lòng tà dâm (VT)
Các câu phú dưới đây ghi là Hoa Cái gặp Đào Hồng Hỉ thì không đúng:
Vận hạn đến Đào Hồng Cái Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm bôn
Vận hạn Đào Hồng Hoa (Hoa Cái) Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm ô (B110)
Vận hạn đến Đào Hồng Cái Hỉ, Lòng gái trai bất sỉ dâm bôn
Mã Đào duyên nợ tư sinh,
Không cần mối lái, ái tình kết giao
Thiên Mã và Đào Hoa không tam hợp xung chiếu hoặc nhị hợp với nhau
Phu Thê có Đào Hoa Thiên Mã thì không cần mối lái cũng lấy được nhau
Đào Hoa phùng Thiên Mã, túng khách vô môi (26)
Mã và Hồng Loan không tam hợp xung chiếu với nhau ngoại trừ nhị hợp cho tác tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi Hồng Loan có Mã nhị hợp
Vũ, Cơ, Lộc, Mã, Hỉ, Hồng,
Hôn nhân vận ấy đèo bồng thất gia
Mã và Đào Hoa hoặc Mã và Thiên Hỉ không tam hợp xung chiếu, nhị hợp với nhau
Long phùng Phượng, Hỉ cũng hay,
Vui mừng mới thấy, bi ai bỗng liền (QXT, phát tán thất thường)
Hỉ ở đây phải là Hỉ Thần
Một áng có Tràng Sinh Mã Hỉ,
Đường mây xanh phỉ chí bồng tang (gặp may mắn về công danh) (B113)
Tràng Sinh, Mã, Hỉ đồng cung,
Công danh đắc lộ, vẫy vùng một phương (HC 152)
Mã và Thiên Hỉ không hội họp, như vậy Hỉ là Hỉ Thần, nhưng có thế Hỉ là mừng gặp
Thiên Cơ Tấu Thư Hồng Loan cư cung Dần gặp Lộc Tồn, Quốc Ấn thì kề cận nguyên thủ. Tuy nhiên chúng ta biết rằng Tấu Thư là một sao của vòng Bác Sĩ có đặc điểm không bao giờ tam hợp xung chiếu với Lộc Tồn, chỉ có một trường hợp duy nhất là tuổi Đinh hay Kỷ có Lộc Tồn tại Ngọ và nếu là Dương Nam Âm Nữ thì có Tấu Thư tại cung Hợi nhị hợp với cung Dần thì mới giải thích được câu phú trên
Cơ Thư (Tấu Thư) Hồng cư Dần địa, nhi phùng Lộc Ấn loan cận cửu trùng (6)
Phúc cung ngộ Tang Đào Hồng tú, Trong họ hàng ắt có quả phu
Phúc cung ngộ Tang, Đào, Hồng, Hỉ, Họ hàng thường có kẻ yểu phu (QXT)
Phúc Đức ngộ Tang Đào Hồng Phủ,Họ hàng thường có kẻ quả phu (VT)
(chồng chết sớm, góa bụa)
Phúc (cung phúc) Thai, Tang ngộ Đào Hồng,
Tôn thân có kẻ loạn phong nợ đời (trong họ hàng có kẻ vì dâm loạn mà chết) (B107)
Đào Hồng không tam hợp xung chiếu nhị hợp với Tang Môn ngoại trừ tuổi Tỵ Đào cư Ngọ và tuổi Hợi Đào tại Tí thì nhị hợp Tang Môn

Các câu phú dưới đây có lẽ ghi lộn cách giáp Đào Hồng thành giáp Đào Hoa và Tang Môn, điều này không thể xảy ra được:
Đào Tang ở Mệnh cung sau trước, Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô
Tang, Đào ở Mệnh cung sau trước, Gái đã đành lỡ bước cầu ô (QXT,AB)
Đào Tang đóng ở Mệnh cung, Lẳng lơ gái ấy phụng loan dứt tình
(trước sau là gái lẳng lơ kiếm chồng. QXT ví dụ rằng Mệnh ở Tí có Đào Hoa và Tang Môn cư Sửu nhị hợp)
Thê cung thấy những chẳng lành,
Đào Hồng Hoa Cái phong tình mới e (B109)
Nữ Mệnh giáp Đào Hồng thì lẳng lơ, việc lập gia đình nhiều lần bị trục trặc, trắc trở. Câu này cần kiểm tra lai:
Mệnh vị giáp Đào, Hồng sau trước, Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô (B106)
Đào Hồng ở Mệnh cung sau trước, Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô (VT)
Các câu phú dưới đây có lẽ ghi lộn cách giáp Đào Hồng thành giáp Đào Hoa và Tang Môn, điều này không thể xảy ra được:
Đào Tang ở Mệnh cung sau trước, Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô
Tang, Đào ở Mệnh cung sau trước, Gái đã đành lỡ bước cầu ô (QXT,AB)
Đào Tang đóng ở Mệnh cung, Lẳng lơ gái ấy phụng loan dứt tình
(trước sau là gái lẳng lơ kiếm chồng. QXT ví dụ rằng Mệnh ở Tí có Đào Hoa và Tang Môn cư Sửu nhị hợp)
Mệnh có Đào Hồng Tấu gặp Vũ thì khéo về kim chỉ vá may:
Khéo nghề kim chỉ vá may, Đào Hồng Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung (13)
Khéo nghề kim chỉ vá may, Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung (NMB, VT)
Khéo nghề kim chỉ thêu thùa, Hồng Đào Tấu Vũ ở vào mệnh cung (HC)
Người kim chỉ vá may khôn khéo, Tấu Vũ Hồng thủ chiếu Mệnh cung (B108)
Riêng Quản Xuân Thịnh và Việt Viêm Tử thì có hai câu phú . Tang Môn và Hồng Loan không bao giờ tam hợp xung chiếu nhị hợp nhau:
Khéo nghề kim chỉ vá may, Cơ, Tang, Hồng, Phúc ở rầy Mệnh cung (QXT)
Cơ Loan Hồng Phúc Mệnh trung, Cửi canh kim chỉ vá may thêu thùa (AB342)
Tây Thi cung Phu có Cự Cơ, Song Hao, Quyền Ấn, Ðào Hồng nên khuynh đảo triều đình nhà Ngô. Cự Cơ Mão Dậu gặp Song Hao tuổi âm Đinh, Kỷ Quí mới có mà tuổi này Đào Hoa chỉ tại Tí hay Ngọ thành ra không thể gặp Đào Hoa. Cự Cơ Tí Ngọ gặp Song Hao thì tuổi Ất Tân mới có và có khả năng gặp Đào Hoa tại Tí Ngọ. Có điều Song Hao gặp Quốc Ấn thì không thể có được:
Tây Nương Tử (Tây Thi) áp đảo Ngô triều (làm vua Ngô mất nước) do hữu Cự Cơ , Song Hao, Quyền Ấn, Ðào Hồng Phu cung (17)

Dương (Kình Dương hãm) Hình Riêu Sát cung Phu,
Lại gia Linh Hỏa vợ lo giết chồng (vợ giết chồng)
Riêu, Đà, Dương, Sát cung Phu,
Lại thêm Linh Hỏa vợ lo giết chồng (vợ giết chồng)
Gặp Dương Nhận, Hình, Đào, Phá,
Gái đó là những kẻ giết chồng (VT)
(NMB cho rằng Sát là Thất Sát)
Phân biệt Thiên Hỉ và Hỉ Thần
Thiên Hỉ hành Thủy, Hỉ Thần hành Hỏa
Thiên Hỉ là sao an theo Chi năm, còn Hỉ Thần là sao của vòng Bác Sĩ an theo Can năm
Thiên Hỉ luôn luôn có Hồng Loan xung chiếu và thuộc tam hợp Dương Tử Phúc hay Âm Long Trực của vòng Thái Tuế
Hỉ Thần nằm trong tam hợp Tiểu Hao – Hỉ Thần – Quan Phủ với sự có mặt của Đà và Kình tam hợp xung chiếu
Sự phối hợp của Hỉ Thần và Thiên Hỉ với các sao khác nhau thì khác nhau. Hỉ Thần có thể kết hợp với Long Phượng còn Thiên Hỉ thì không
Cả hai sao đều chủ về hỉ sự, đem lại may mắn hanh thông
Hỉ Thần
Nhỏ lưng Hoa Cái đẹp thay, Hỉ Thần dài cổ, bụng hay khoan hòa (có cổ dài, tính khoan hòa)
Hỉ Thần, Hoa Cái tốt ghê, Khẩu thiệt không có, mọi bề đảm đang
Đào Hồng Hỉ trong tư thế phối hợp với các sao thuộc vòng Thái Tuế
Đào Hoa tại Tí Ngọ Mão Dậu phối hợp với các sao thuộc vòng Thái Tuế:
Không Đào tại Tí Ngọ có Đào Hồng
(Thiếu Dương, Thiên Không, Đào Hoa – Tử Phù, Nguyệt Đức, Hồng Loan – Phúc Đức, Thiên Đức, Kiếp Sát – Long Đức xung)
Không Đào tại Mão Dậu có Đào Hỉ, Phá Toái : là người khôn ngoan, đạo đức giả, sẵn sàng làm những việc lợi mình, hại người, có rất nhiều bồ bịch nhân tình do ăn nói ngọt ngào, lợi dụng người tình để thu lợi cho bản thân, rất đam mê sắc dục, chơi bời, tình duyên trắc trở, đổi bồ hay nhân tình luôn (Dân), lập gia đình sớm thì dễ hai đời chồng, vợ chồng xung khắc không hợp nhau

Nguyệt Đào tại Tí Ngọ (tuổi Sửu Mùi) có Đào Hồng, Cô Quả: khó tính trên vấn đề tình cảm, rất kén chọn thành ra dễ không lập gia đình, hoàn toàn không lăng nhăng bay bướm (trừ khi gặp Song Hao thì hơi bay bướm nhưng chỉ trong một giai đoạn), ăn xài tiền cẩn thận không hoang phí nhưng không keo kiệt, không lập gia đình hai lần
Nguyệt Đức, Đào Hoa tại Mão Dậu có Đào Hỉ, Cô Quả, thêm Phá Toái khi Đào tại Dậu: tính tình vui vẻ, không lăng nhăng, ăn xài tiền cẩn thận không hoang phí nhưng không keo kiệt (Không, Hỉ, Cô Thần), cuộc đời hay gặp may mắn nhưng lập gia đình nhiều lần
Thiên Đức, Đào Hồng tại Tí Ngọ có bộ Đào Hồng Hỉ (bộ Tam Minh này chủ yếu do Hồng Loan sinh ra vì Hồng Loan Thiên Đức bao giờ cũng có Tam Minh)
Thiên Đức Đào Hỉ tại Mão Dậu có bộ Đào Hồng Hỉ, thêm Phá Toái khi Đào tại Dậu
Hồng Loan phối hợp với các sao thuộc vòng Thái Tuế:
Hồng Loan khi tại Âm cung thì thuộc bộ Âm Long Trực, có Phá Toái tam hợp khi tại Tỵ Dậu Sửu và chỉ có vị trí Mão Dậu (có Thiếu Âm Hồng Loan) mới có Tam Minh:
Thiếu Âm, Hồng tại Mão Dậu có Tam Đức, Đào Hồng Hỉ: đây là người có duyên, tính tình vui vẻ, ra ngoài được nhiều người thương mến, tính tình hiền lành, biết cư xử, biết điều, không có tham vọng, hoàn toàn không lăng nhăng, không bay bướm, cuộc đời hay gặp may, gặp hoàn cảnh thuận lợi, không phải cạnh tranh gay gắt để kiếm sống, không có hai đời, rất khéo léo trong cư xử, tiền tài không phá tán
Long Đức, Hồng tại Tỵ Hợi có Hồng Hỉ, Cô, Thiên Không, Kiếp Sát: có duyên, không hai đời chồng, không lận đận về tình duyên, vợ chồng rất xứng đôi (Đào Hoa cư Phu), nghề nghiệp hay gặp may mắn (Nguyệt, Đào, Hồng chiếu Quan), tiền tài cũng thuận lợi không phá tán
Trực Phù, Hồng cư Sửu Mùi có Nguyệt Đức, Hồng Hỉ, Cô Quả
Hồng Loan tại Dương cung thì thuộc bộ Dương Tử Phúc, lúc nào cũng có Tam Minh
Không Hồng tại Dần Thân có Tứ Đức, Đào Hồng Hỉ, Cô Quả: đây là mẫu người hiền lương, có tâm tu hành, không hay lo âu, dễ gặp trục trặc trên vấn đề tình cảm đưa đến cô đơn, lập gia đình sớm sẽ dễ bị chia ly, nếu không thì lập gia đình trễ hoặc lận đận trên vấn đề tình duyên (Thiên Không, Hồng Loan, Cô Quả) nhưng trên vấn đề nghề nghiệp thường gặp may mắn hanh thông (Đào cư Quan), tiền tài ăn xài hà tiện, không hoang phí (Tài Quả Tú)
Nguyệt Hồng tại Thin Tuất có Đào Hồng Hỉ, Quả Tú: đây là người duyên dáng, có sự thu hút rất mạnh đối với người khác phái, có khả năng lập gia đình hai lần hoặc ít nhất là vợ chồng xung khắc không hợp tính nhau (Phu có Cô Quả), tính tính vui vẻ, ra ngoài có nhiều người theo đuổi nhưng mang một tâm sự cô đơn, có khả năng kiếm tiền một cách bất hợp pháp nhât là khi có sát tinh xâm phạm nhưng không giữ được tiền tài (Đào Không tại Tài)
Thiên Đức, Đào Hồng tại Tí Ngọ có Đào Hồng, Hỉ:

Thiên Hỉ
Thiên Hỉ thì khi ở Âm cung nằm ở bộ Dương Tử Phúc (luôn luôn có đủ bộ Tam Minh) và khi ở Dương cung nằm ở bộ Âm Long Trực (tại Tí Ngọ mới có bộ Tam Minh, còn lại chỉ có Hồng Hỉ mà thôi) và nằm khác bộ với Hồng Loan. Khi Hồng Loan gặp bộ Dương Tử Phúc thì Thiên Hỉ thuộc bộ Âm Long Trực, khi Hồng Loan thuộc bộ Âm Long Trực thì Thiên Hỉ thuộc bộ Dương Tử Phúc. Tại vị trí Tỵ Dậu Sửu Thiên Hỉ luôn luôn có Phá Toái tam hợp
Bộ Âm Long Trực hay Dương Tử Phúc khi đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có các bộ sao trong tam hợp xung chiếu như nhau, ngoại trừ Hỉ thì có Hồng xung, Hồng thì có Hỉ xung và có Phá Toái hay không. Khi đồng cung với Hỉ hoặc Hồng, chỉ có Long Đức mới có Kiếp Sát xung chiếu, Thiếu Âm và Thiên Đức mới không có Cô Quả, Long Đức luôn có Cô Thần, Nguyệt Đức luôn có Quả Tú và Thiên Không hay Trực Phù luôn có đủ bộ Cô Quả (trong khi Đào Hoa đồng cung với Nguyệt Đức mới có Cô Quả, các vị trí khác không có):
Thiếu Âm đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có Long Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Đào Hồng Hỉ
Long Đức đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có Hồng Hỉ, Cô Thần, Thiên Không, Kiếp Sát
Trực Phù đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có Nguyệt Đức, Hỉ Hồng, Cô Quả
Thiên Không khi đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có có Tứ Đức, Hồng Đào Hỉ, Cô Quả
Nguyệt Đức khi đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan đều có Đào Hồng Hỉ, Quả Tú
Thiên Đức khi đồng cung với Thiên Hỉ hoặc Hồng Loan (và cả Đào Hoa) đều có bộ Đào Hồng Hỉ
Thiên Hỉ tại Âm cung: thuộc bộ Dương Tử Phúc và có Tam Minh Đào Hồng Hỉ, thêm Phá Toái khi Hỉ tại Tỵ, Dậu, Sửu:
Bộ Không Hỉ, Cô, Kiếp Sát tại Tỵ Hợi có Tứ Đức, Hồng Đào Hỉ, Cô Quả
Hỉ tại Sửu Mùi có Đào Hồng Hỉ, Quả Tú:
Bộ Thiên Đức Đào Hỉ Mão Dậu: có bộ Đào Hồng Hỉ
Thiên Hỉ tại Dương cung nằm trong bộ Âm Long Trực, chỉ có Tam Minh tại Tí Ngọ:
Thiếu Âm, Thiên Hỉ tại Tí Ngọ có Long Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Đào Hồng Hỉ
Long Đức, Thiên Hỉ tại Dần Thân có Hồng Hỉ, Cô Thần, Thiên Không, Kiếp Sát
Trực Phù,Thiên Hỉ tại Thìn Tuất có Nguyệt Đức, Hỉ Hồng, Cô Quả

LIÊM TRINH Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Liêm Trinh ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Liêm Trinh thuộc âm hoả nên chủ về huyết, các bệnh liên quan đến máu.
Cổ nhân cho rằng “nam trọng tinh, nữ trọng huyết”, cho nên Liêm Trinh cũng chủ về tinh dịch. Xem có bị vô sinh không, người xưa đều xem Liêm Trinh, bất kể ở cung độ nào. Liêm Trinh ở hãm địa mà gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, nếu trùng hợp gặp ở cung tử của đại hạn, cung tật ách của đại hạn, hay cung mệnh của đại hạn, đều đoán là vô sinh.
Từ “huyết” loại suy thành “tinh” thì chủ về mộng tinh, di tinh, thủ dâm, tinh loãng.

Cho nên Liêm Trinh Hoá Kị là bệnh về máu huyết, như lạc huyết (xuất huyết ở miệng từ đường hô hấp hoặc dạ dày mà không ho, không ói), cũng chủ về gặp sự cố bất trắc có liên quan đến chảy máu, do đó có thể mở rộng thành bệnh phong cùi, giang mai, bệnh lậu. Ứng nghiệm ôn hoà nhất là mụn. Nếu gặp các sao hung sát nặng mà còn gặp Vũ Khúc Hoá Kị thì chủ về ung thư máu.
Đối với nữ mệnh lúc Liêm Trinh Hoá Kị có thể luận đoán là kinh nguyệt khô ít, huyết trắng, kinh nguyệt không điều hoà.
Liêm Trinh Hoá Kị rất kị bị Vũ Khúc Hoá Kị xung hội chủ về gặp nạn tai chảy máu. Muốn biết tai ách có nghiêm trọng nhay không cần phải xem kèm cung mệnh và cung phúc mà định.
Lý luận về bệnh tật của cổ nhân, chia làm âm, dương, biểu, lý. “Huyết” thuộc âm là thuộc “lý”, đối nhau với “khí”. “Khí” thuộc dương là thuộc “biểu”. “Biểu””lý” dựa vào nhau vì vậy Liêm Trinh cũng có thể coi là bệnh về “khí”. Cho nên Liêm Trinh cũng chủ về bệnh phổi, cảm mạo, ho, gặp Hoả Tinh, Đà La thì bệnh nặng.
Trong các tinh hệ, tinh hệ “Liêm Trinh, Thất Sát” phần nhiều chủ là chủ về bệnh đường hô hấp, thường gặp nhất là trường hợp có sát tinh đồng độ, chủ về mũi dị ứng, viêm mũi, nếu sát tinh nặng thì chủ về bệnh viêm phổi, có Thiên Nguyệt đồng độ thì chủ về bệnh lao, ho gà.
Tổ hợp “Liêm Trinh, Thiên Tướng” gặp các sao sát, kị là chủ về bệnh tiểu đường, sỏi bàng quang, sỏi mật, sỏi thận. Nếu đồng độ Hoả Tinh, Linh Tinh hoặc đồng cung Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về da bị dị ứng, nấm ngoài da, nghiêm trọng thì chủ về bệnh lupus ban đỏ. Nếu “Liêm Trinh, Thiên Tướng” bị “Hình Kị giáp Ấn” thì chủ về tắt nghẽn đường ống, cần chú ý các cơ quan đường ống và tuyến nội tiết, có lúc bệnh lại ở xương tuỷ.
Nếu “Liêm Trinh, Phá Quân” có sát tinh đồng độ, còn chủ về kết sỏi, nếu có Hoả Tinh đồng độ thì chủ về tai nạn bất trắc làm bị thương, có Văn Khúc Hoá Kị đồng độ sẽ chủ về tai nạn sông nước.
Hễ “Liêm Trinh, Phá Quân” mà chủ về gặp bất trắc đều bị thương ở phần đầu mặt; “Liêm Trinh, Thất Sát” thì đề phòng gãy xương.
Tổ hợp sao “Liêm Trinh, Tham Lang” có các sao sát, kị thì chủ về bệnh ở cơ quan sinh dục, cũng chủ về bệnh thận. Nếu Liêm Trinh Hoá Kị và Tham Lang Hoá Kị đồng độ hoặc vây chiếu thì chủ về bệnh thận và bệnh máu huyết ảnh hưởng lẫu nhau, dễ xảy ra các bệnh biến khác, tình huống xấu nhất là suy thận, nhẹ thì bị chứng tăng urê-huyết.
Liêm Trinh rất mẫn cảm đối với tứ hoá và sát tinh, cần chú ý tình huống đại hạn và lưu niên xung hội. Đại khái là rất ngại gặp Vũ Khúc Hoá Kị, cũng rất sợ có Kình Dương, Đà La cùng bay đến.
ST

TỬ VI Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Tử Vi ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Tử Vi thuộc thổ, chủ về âm phận, cho nên ở tạng phủ là chủ về tì (tuyến tuỵ). Cơ thể con người hấp thu dinh dưỡng là nhờ tỳ thổ làm việc, cho nên quan sát tình hình của Tử Vi ở cung tật ách có thể biết được tình trạnh hấp thu dinh dưỡng. Nếu Tử Vi là “tại dã cô quân” hay là “cô quân”, đều chủ về vì tì thổ yếu khiến cho huyết khí đều thiếu.
Tử Vi gặp các sao hư, hao, Văn Xương, Văn Khúc, thì bệnh do tì thổ gây ảnh hưởng đến trường vị (đường tiêu hoá), biểu trưng là ói mửa, tiêu chảy; nhẹ thì khí trướng, khó chịu trong ngực, gặp Địa Không, Địa Kiếp là lói tim và khó thở.
Nếu Tử Vi gặp các sao phụ, tá trùng trùng, thì cần đề phòng tì thổ khí quá mạnh, hấp thu quá nhiều dinh dưỡng, ảnh hưởng đến tâm và thận. Tâm thuộc hoả, hoả bị thổ mạnh làm tiết khí; thận thuộc thuỷ, thuỷ bị thổ mạnh khắc, khiến mất quân bình, dễ bị bệnh tâm thận bất hoà; bản thân tì thổ khí quá mạnh, cũng chủ về bệnh dạ dày.

Tử Vi có các sao đào hoa đồng độ, hoặc được các sao đào hoa triều củng, chủ về sắc dục, cũng chủ về bệnh kín của phụ nữ. Nếu trong tinh bàn có các sao mắc bệnh thận hội hợp, thì có thể đoán vì sắc dục mà gây nên hư tổn.
Trong các tinh hệ Tử Vi, tổ hợp “Tử Vi, Tham Lang” là chủ về sắc dục; gặp các sao phụ, tá, cũng không giảm nhẹ đặc trưng này. Cho nên, nếu gặp sát tinh thì chủ về bệnh thận. Luận về ngũ hành, do Tham Lang thuộc dương mộc, còn thuộc thuỷ, mộc làm thuỷ bị tiết khí, mà Tử Vi thổ đến khắc thuỷ, bị khắc và tiết khí trùng trùng, vì vậy chủ về có bệnh.
“Tử Vi, Phá Quân” cũng có khuynh hướng mắc bệnh thận, Phá Quân thuộc thuỷ, đồng độ với Tử Vi, không bị thổ khắc. Nhưng khác với tính chất của “Tử Vi, Tham Lang”; do Tham Lang mộc, có thể gây ra chứng can dương thượng kháng, căn nguyên là vì sắc dục, chủ về bệnh thận hư tổn. “Tử Vi, Phá Quân” là thổ thuỷ tương khắc, vì vậy chủ về bệnh kín ở đường kinh thận, nhất là nữ mệnh chủ về bệnh kín phụ khoa.
Nếu “Tử Vi, Phá Quân” gặp sao đào hoa và sát tinh, đây là bệnh về tính dục, cũng chủ về sẹo ngoài da; không có sao đào hoa, là tì thổ bị thấp mà gây ra bệnh ngoài da.
Tổ hợp “Tử Vi, Thiên Phủ”, hai chủ tinh đều thuộc thổ đồng độ, vì vậy chủ về bệnh đường tiêu hoá (tì, vị, trường); được “trăm quan đứng chầu”, thì tì thổ quá nặng, gặp sao đào hoa, hư, hao, thì cũng chủ về sắc dục.
Nếu “Tử Vi, Thiên Phủ” đồng độ hoặc đối xung với Hoả Tinh, Linh Tinh; còn gặp Vũ Khúc Hoá Kị đến hội, đây là bệnh loét đường tiêu hoá, hay đường tiêu hoá có khối u; nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Âm Sát, thì có khuynh hướng phát triển thành bệnh ung thư.
Tổ hợp “Tử Vi, Thiên Tướng”, do Thiên Tướng thuộc thuỷ, nên chủ về tiểu đường, sỏi thận, sỏi bàng quang, tức bệnh tật ở hệ thống “thuỷ đạo”. Gặp Địa Không, Địa Kiếp, có thể là bệnh tuyến tiền liệt. Gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, đây là tì thổ bị thấp, phát triển thành dị ứng da, như nổi mề đay.
Nếu “Tử Vi, Thiên Tướng” hội Vũ Khúc Hoá Kị, đây là điềm tượng phải phẩu thuật, đặc biệt chủ về mỗ thận; nhưng có lúc lại là điềm tượng ung thư xương, cần phải xem xét kỹ các tạp diệu mà định. Hễ gặp các tạp diệu Thiên Đức, Âm Sát, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Thiên Nguyệt, Kiếp Sát, đều có thể là bệnh ung thư.
“Tử Vi, Thất Sát” chủ về tì thổ không nuôi dưỡng phế kim, cho nên chủ về việc thu nạp dinh dưỡng không tốt, ảnh hưởng đến phế tạng hoặc hệ hô hấp. Nhưng phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên cũng có thể phát triển thành bệnh đường ruột (đại trường).
“Tử Vi, Thất Sát” gặp Vũ Khúc Hoá Kị, nên đề phòng bị thương té ngã; gặp Liêm Trinh Hoá Kị, là huyết chứng, hoặc là sự cố bất trắc có chảy máu. Nếu sao đào hoa trùng trùng, mà Liêm Trinh Hoá Kị, đây là bệnh về tính dục, hoặc bệnh về máu mủ.
“Tử Vi, Thất Sát” gặp sát tinh, chủ về do vị thu nạp dinh dưỡng quá mạnh nên gây ra bệnh trường vị (bệnh đường tiêu hoá). “Tử Vi, Thất Sát” có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, thì đây là chứng loét.
Hễ tinh hệ Tử Vi có Kình Dương đồng độ, lại gặp Thiên Hình, đều chủ về phẫu thuật hoặc vật lý trị liệu. Tinh hệ Tử Vi đồng độ với Kình Dương, chủ về bao quy đầu quá dài; nữ mệnh chủ về bệnh kín âm lãnh.

THIÊN ĐỒNG Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Thiên Đồng ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Thiên Đồng thuộc thuỷ, cho nên chủ về bệnh bàng quang, bao gồm các bệnh ở hệ bài tiết, như thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái, bệnh lậu, viêm niệu đạo, bệnh thận.
Do thuỷ làm kim tiết khí, nên lúc Thiên Đồng đồng cung với Đà La thì chủ về bệnh khí quản, ống phế quản (bronchia, phân nhánh của khí quản).
Thiên Đồng chủ về hưởng thụ, nếu Hoá Kị, sẽ chủ về tiêu chảy. Nếu Thiên Đồng hội hợp với Thái Âm thì chủ về âm hư, biểu hiện là tiêu chảy thuộc hư chứng, kiết lị; có các sao đào hoa đồng độ thì chủ về mộng tinh, di tinh, hoặc tiểu đêm; thảy đều chủ về thận khí bất túc.

Thiên Đồng đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, nếu Thiên Đồng lạc hãm, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng bàng quang, niệu đạo bị viêm, hoặc bệnh tuyến tiền liệt; gặp Thiên Nguyệt thì thận khí tiên thiên bất túc, dễ bị nước tiểu đục (albuminuria, anbumin niệu bất thường).
Thiên Đồng đồng cung với Thiên Mã, chủ về khí hư, nếu lại gặp sát tinh, đây là điềm tượng khí suy, hư tổn, dễ bị các chứng nhược.
Tổ hợp sao “Thiên Đồng, Thái Âm” chủ về thấp khí, có thể phát triển thành thuỷ thũng, bụng trướng, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ chủ về bệnh do thấp hoả gây ra, dẫn đến tứ chi đau nhức.
Nếu Thái Âm Hoá Kị, đây là chứng âm hư hoặc thuỷ tràn làm mộc trôi, dẫn đến viêm gan cổ trướng, phép điều trị là phải củng cố gan thận.
Tính chất cơ bản của “Thiên Đồng, Cự Môn” là “đường, ống, dây” cho nên chủ về bệnh phổi, khí quản, thực quản; cũng chủ về đau thần kinh (vì thần kinh là “đường, ống, dây” vi tế nhất trong cơ thể). Nếu có các sao sát, kị, hình, hao tụ tập, có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ hoặc bệnh tăng bạch cầu.
Trong các tình hình thông thường, “Thiên Đồng, Cự Môn” gặp sát tinh, hoặc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, đều chủ về xương cốt biến dạng, thoái hoá, hoặc tăng sinh, dẫn đến chèn ép dây thần kinh, làm đau nhức, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ thì càng nặng. Nếu có Thiên Hình, Thiên Nguyệt đồng độ, thì có thể là bệnh tật suốt đời, như bệnh về xương tuỷ bẩm sinh.
Đối với tinh hệ “Thiên Đồng, Thiên Lương” cổ nhân cho rằng chủ về bệnh ở phần dưới (hạ tiêu), tức hệ bài tiết và bệnh đường sinh dục, trường hợp Thiên Đồng Hoá Kị thấy ứng nghiệm nhiều. Nếu gặp sát tinh, nhất là gặp Hoả Tinh, Linh Tinh sẽ chủ về đau tức vùng gan hoặc lói tim và khó thở. Nếu gặp các sao hình, sát, kị tụ tập, lại có thêm các sao Thiên Nguyệt, Thiên Đức, Thiên Mã thì chủ về tắc nghẽn cơ tim. Đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp cũng chủ về thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái.
ST

VŨ KHÚC Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Vũ Khúc ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Vũ Khúc thuộc kim, chủ về bệnh đường hô hấp, kim có khí “tiêu sát”, cho nên chủ về tổn thương, nhất là tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát”. Hễ Vũ Khúc thủ cung tật ách, có các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, đều có khuynh hướng bị phẫu thuật hoặc tổn thương. Vũ Khúc đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh cũng chủ về bị thương do kim loại gây nên.
Vũ Khúc đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư, chủ về chảy máu mũi; gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về các bệnh như viêm khí quản, bệnh lao; sát tinh nhẹ là chủ về chứng ho.
Vũ Khúc thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé dễ bị ho gà (chincough), vãn niên thì dễ bị chứng phong đàm.

Nếu Vũ Khúc đồng độ với Kình Dương, Đà La, lại có Hoả Tinh, thì hoả làm kim bị tổn thương, chủ về bệnh đường hô hấp; nếu Vũ Khúc lại Hoá Kị, còn hội tạp diệu không cát tường, thì chủ về ung thư phổi, hoặc khí quản bị bệnh nghiêm trọng; có Thiên Mã đồng độ, đề phòng bệnh ung thư di căn.
Các tổ hợp sao có khuynh hướng mắc bệnh ung thư, có khối u, loét, là “Vũ Khúc, Thất Sát” và “Vũ Khúc, Phá Quân”. Kị nhất là đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã; Vũ Khúc Hoá Kị; hoặc gặp các tạp diệu Thiên Đức, Thiên Thương, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, Kiếp Sát.
“Vũ Khúc, Thất Sát” còn chủ về chứng sốt bại liệt ở trẻ em, chứng chó dại. “Vũ Khúc, Phá Quân” thì chủ về bệnh răng, nhất là nha chu.
Lưu niên mà gặp cung hạn tật ách do tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát” giữ cung, thì nên đề phòng tai nạn bất trắc gây tổn thương, như cây đè, sét đánh (ở thời hiện đại có thể là điện giật), còn chủ về vì bị trộm cướp mà bị thương.
Tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Phủ” gặp sao kị và sát tinh, là chủ về nạn sông nước, nhưng cũng chủ về bệnh hen suyễn, kéo đàm, tràn khí phổi (pulmonary emphysema).
Hai tổ hợp sao “Vũ Khúc, Thiên Tướng” và “Vũ Khúc, Phá Quân” nếu gặp sát tinh, còn chủ về bị phá tướng, đề phòng tai nạn té ngã bất trắc và bị nhiễm trùng, nhất là ở bộ phận mặt.
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” còn chủ về bị thương có sẹo, bị phẫu thuật, hoặc đau ruột non (tiểu trường).
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” đồng độ, chủ về bị phá tướng ở hàm dưới, chân tóc hoặc đầu lưỡi.
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” cũng chủ về ám tật, bệnh kín, nhất là nữ mệnh nên đề phòng bệnh tử cung và đường sinh dục.
Vũ Khúc Hoá Kị, gặp Thiên Tướng đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp thêm Hoả Tinh, Linh Tinh, Thiên Mã, Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng ruột có khối u, có thể dẫn đến bệnh ung thư, nhẹ thì viêm đại tràng.
Những trường hợp tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Tướng” đối nhau với Phá Quân, hoặc tổ hợp “Vũ Khúc, Phá Quân” đối nhau với Thiên Tướng, nếu gặp các sao sát, kị, hình, hao và sao ác trùng trùng, có lúc có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ, hoặc thậm chí là ung thư máu.
ST

THÁI DƯƠNG Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Thái Dương ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Thái Dương thuộc hoả, là kinh Dương Minh, cho nên lúc Thái Dương nhập miếu sẽ chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh, dễ choáng ngất, đau đầu kinh niên, đây là chứng huyết áp cao.
Thái Dương là thuộc Ly hoả, cho nên còn chủ về mắt. Hễ Thái Dương thủ cung tật ách, ắt sẽ có bệnh tật ở mắt, như cận thị, loạn thị, loà mắt,v.v…Thái Dương thủ cung tật ách rất kị ở cung Ngọ, vì ánh sáng của thái dương quá thịnh; cũng không ưa ở cung Tuất, ngại mặt trời đã lặn về tây, đều chủ về bệnh tật ở mắt. Thái Dương thủ cung tật ách gặp sát tinh, thường chủ động phẫu thuật ở bộ phận mắt; gặp các sao sát, kị trùng trùng, lại còn có các sao Thiên Hình, Thiên Nguyệt, Địa Không, Địa Kiếp, Phục Binh, Phỉ Liêm hội hợp, thường chủ về mù loà; đặc biệt rất kị hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc Hoá Kị.

Kinh Dương Minh hoả thịnh sẽ ảnh hưởng đến kinh phế và kinh đại trường, cho nên chủ về bệnh đường hô hấp, hoặc đại tiện táo kết (táo bón), từ đó có thể dẫn đến bệnh trĩ, đại tiện ra máu. Có Đà La đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh ở kinh phế, có Kình Dương đồng độ thì chủ về bệnh ở đại trường. Theo lý luận của Đông y, phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên có liên quan đến hai cơ quan này, nhưng cũng có sự phân biệt.
Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Mùi và cung Thìn, chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh mà âm phận không đủ. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Sửu và cung Tuất, phần nhiều chủ về chứng hư dương thượng kháng. Trường hợp trước là rối loạn nội tiết, trường hợp sau là đau đầu kinh niên hoặc thiên đầu thống. Rất kị Thái Dương Hoá Kị hoặc Thái Âm Hoá Kị, đều chủ về bệnh mắt, tật ở mắt, hoặc ở kinh can (gan) và đảm (mật).
Nếu “Thái Dương, Thái Âm” đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, gặp sát tinh chiếu, còn hội Thiên Hình, Thiên Thương, chủ về gù lưng, sát tinh nhẹ thì lưng khòm, cũng chủ về bệnh uốn ván.
Bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc giao hội, mà Văn Xương, Văn Khúc có một sao hoá làm sao kị, cũng chủ về bệnh tật ở mắt.
Nếu bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Tả Phụ, Hữu Bật giao hội, mà “Thái Dương, Thái Âm” có một sao hoá làm sao kị, sẽ chủ về mắt to, mắt nhỏ, hoặc thị lực của hai mắt mất quân bình.
Sáu sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc, Hoả Tinh, Linh Tinh giao hội, lại gặp thêm các sao sát, kị, hình, và Thiên Nguyệt, Âm Sát, Hoa Cái, đây là điềm tượng rối loạn nội tiết nghiêm trọng, trường hợp nặng thì bộ phận nào đó trên cơ thể bị biến dạng, hoặc có cơ quan sinh trưởng không bình thường, bị dị dạng (như hẹp van tim, v.v…), hoặc bán thân bất toại.
Tổ hợp sao “Thái Dương, Cự Môn”, không ưa Thái Dương lạc hãm, chủ về dương phận không đủ, biểu hiện là hạ đường huyết, huyết áp thấp, hoặc tay chân lạnh, và các chứng nhược.
Nếu Thái Dương nhập miếu, có sát tinh, là bệnh ở khoang miệng, thực quản; cũng dễ bị đau đầu kinh niên, huyết áp cao, đường huyết cao.
Nếu Cự Môn Hoá Kị, đây là hoả đốt kim bị thương, dễ mắc bệnh đường hô hấp; gặp Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, đây là điềm tượng tràn khí phối (pulmonary emphysema).
“Thái Dương, Cự Môn” đồng cung với Đà La, Thiên Hình, Thiên Nguyệt, cũng dễ bị bán thân bất toại.
Tổ hợp “Thái Dương, Thiên Lương” rất dễ biến thành rối loạn nội tiết, như bướu cổ. Nếu có các sao sát, kị trùng trùng hội hợp; có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ; gặp các sao Thiên Hư, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Đại Hao, Thiên Đức, Thiên Hình, nữ mệnh chủ về bệnh viêm tuyến vú cấp tính, ung thư vú, đàn ông chủ về viêm dạ dày cấp tính, ung thư dạ dày.
“Thái Dương, Thiên Lương” cũng chủ về bệnh tim và bệnh ở não bộ, nhưng tính chất lại khác với tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm”. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” là tâm thận bất giao, âm dương mất điều hoà, dẫn đến rối loạn nhịp tim, mất ngũ, gây ra bệnh tim (người xưa cho rằng bệnh ở não bộ cũng thuộc tạng tâm); còn tinh hệ “Thái Dương, Thiên Lương” thì bệnh do cơ quan gây ra, như tắt nghẽn mạch máu (vascular thrombosis) là một ví dụ.
“Thái Dương, Thiên Lương” có sát tinh, cũng chủ về ăn uống trúng độc, hoặc sử dụng ma tuý, trường hợp gặp các sao Hoả Tinh, Linh Tinh, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Đại Hao là đúng.
ST

THIÊN CƠ Ở CUNG TẬT ÁCH

0

Thiên Cơ ở cung tật ách

(Tuvivietnam – siêu tầm)

Thiên Cơ thuộc mộc, chủ về tạng can (gan), còn chủ về tứ chi, nhất là các ngón tay, ngón chân (đây là lấy nhánh, cành cây ví với tay chân). Cho nên Thiên Cơ lạc hãm, lại gặp sát tinh, thì chủ về tay chân bị thương. Nếu nhập miếu mà gặp sát tinh, thì phần nhiều chủ về bệnh gan.
Can mộc có thể khắc tì thổ, cho nên khi Thiên Cơ quá vượng (như Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa), sẽ chủ về can dương thượng kháng, dẫn đến vị thu nạp dinh dưỡng không tốt.
Thiên Cơ thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé bị bệnh kinh phong. Thiên Cơ gặp các sao sát, kị trùng trùng, sẽ chủ về lúc bé bệnh tật. Nếu Thiên Cơ lạc hãm, sẽ chủ về bị thương, nhất là tay chân.

Thiên Cơ nhập miếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật, có lúc ứng là ngón đôi (bàn tay hay bàn chân có sáu ngón).
Nữ mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chứng âm hư, cũng chủ về chứng lệch tử cung, kinh nguyệt không điều hoà, có lúc vì vậy mà dẫn đến vô sinh.
Nam mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, đây là điềm tượng thật thuỷ và can mộc mất điều hoà, dẫn đến tâm thận bất giao, nói theo y học hiện đại, có thể coi là rối loạn nội tiết, do đó gây ra các chứng hư tổn.
Thiên Cơ còn chủ về lo toan nghĩ ngợi, cho nên, nếu Hoá Kị, hoặc có Thiên Đồng Hoá Kị vây chiếu hay hội hợp, sẽ chủ về suy nhược thần kinh, cũng chủ về can dương thượng kháng.
“Thiên Cơ, Thái Âm”, nếu Thái Âm lạc hãm, đây là điềm tượng thận thuỷ không đủ để dưỡng can mộc, cho nên dễ có biểu hiện bệnh hệ thần kinh, nữ mệnh còn chủ về rối loạn nội tiết.
Nếu Thiên Cơ gặp Thái Âm đồng độ hoặc vây chiếu, mà Thiên Cơ và Thái Âm đều lạc hãm, đây là điềm tượng “hư” không được “bổ”. Gặp sát tinh, đây là điềm tượng tiên thiên bất túc, âm phận và dương phận đều hư tổn, chủ về các chứng nhược, hoặc ám tật, bệnh kín.
“Thiên Cơ, Cự Môn” thủ cung tật ách, Cự Môn chủ về hệ tiêu hoá, bị can mộc khắc, thành can vị bất hoà, biểu hiện là đau bụng, khó chịu trong ngực, bụng trướng. Cự Môn Hoá Kị thì càng nặng; nếu sát tinh nặng, đây là thòng dạ dày (sa bao tử), đau thần kinh dạ dày. Có các sao sát, kị lẫn lộn, sẽ chủ về đau trường vị (đau bụng gió), kiết lỵ.
Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, là điềm tượng viêm ruột thừa. gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, mà Thiên Cơ Hoá Kị thì chủ về đau thần kinh dạ dày, hoặc loét dạ dày; nếu thêm các tạp diệu không cát tường, có thể phát triển thành ung thư dạ dày; nữ mệnh cũng chủ về ung thư vú. “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp các sao sát, kị, mà có các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc tụ tập, lại gặp thêm các tạp diệu hư, hao, hình, nguyệt, nữ mệnh là ung thư tử cung, nhẹ cũng chủ về bệnh tử cung.
Hễ Thiên Cơ thủ cung tật ách, đều không ưa Kình Dương, Thiên Hình đồng độ, chủ về phẫu thuật dạ dày hay đường ruột; nếu có Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt đồng độ, thì đây là điềm tượng trùng sán, thường có khuynh hướng gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis), lúc đồng độ với Thiên Lương càng dễ ứng nghiệm.
Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương”, đối với nữ mệnh lại chủ về dễ sinh thiếu tháng, sinh khó; có Hoả Tinh, Thiên Mã đồng độ thì càng đúng.
Nếu “Thiên Cơ, Thiên Lương” hội hợp với Thái Âm Hoá Kị, Thiên Cơ ắt sẽ Hoá Lộc, Thiên Lương cũng sẽ đồng thời Hoá Quyền, những sao cát hoá này không đủ sức hoá giải bệnh tật. Do Thái Âm Hoá Kị, nên thường biểu hiện chứng âm hư dương kháng, ở tuổi vãn niên, biểu hiện là thị lực và thính giác đều suy thoái, còn dễ trúng phong, dẫn đến bại liệt tay chân.
ST

TẬT ÁCH CUNG NHÀN ĐÀM

0

Tật ách cung nhàn đàm

(Tuvivietnam – siêu tầm)

(Tuvivietnam – siêu tầm)

“Tam phương tứ chính” của cung tật ách là cung phụ mẫu, cung huynh đệ và cung điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó, ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội thường thường có thể liên luỵ đến người thân, vì vậy tổ hợp tam phương tứ chính này có một ý nghĩa đặc thù.
Hoàn cảnh xã hội hiện tại tuy đã biến đổi, nhưng cung tật ách hợp với cung phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội hợp với cung điền trạch để xem trạng thái sức khoẻ của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát tinh hệ ở các cung hội hợp với cung huynh đệ để xem đời người có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi vẫn hữu hiệu.Cung tật ách chủ về bệnh tật và tai ách, nhưng liên quan đến vấn đề có tai ách xảy ra hay không, cung tật ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách thường thường phải phối hợp thêm tổ hợp của cung mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung tật ách, còn đối với việc luận đoán bệnh tật thì nên xem xét cả tinh hệ của cung mệnh lẫn tinh hệ của cung tật ách, hai cung đều quan trọng ngang nhau. Ví dụ “Liêm trinh, Thất Sát” thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung tật ách gặp nó, đương nhiên là có ý nghĩa này, nhưng nếu cung tật ách gặp sao ác, mà cung mệnh là “Liêm trinh, Thất Sát”, thì cũng chủ về bệnh đường hô hấp.
Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung mệnh và tinh hệ của cung tật ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ như cung tật ách gặp “Liêm Trinh, Thất Sát”, có sát tinh hội chiếu, cung mệnh gặp Hồng Loan và Thiên Hỉ, theo Vương Đình Chi, có thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tán, đến khi cung mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng Loan, Thiên Hỉ, lại có thêm lưu sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.
Từ ví dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Tiết này trình bày một số kinh nghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh tật và tai ách, nhưng bạn đọc vẫn nên vận dụng một cách linh hoạt, không được câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung mệnh và cung tật ách cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang “lưu diệu” của đại hạn và lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính xác.
Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư mũi họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là “Liêm Trinh, Thất Sát”, hành vận đến cung hạn Thiên Đồng và Cự Môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao sát tinh, kị cùng chiếu, mà còn gặp Long Trì đồng độ hoặc xung chiếu cung mệnh, còn “Liêm Trinh, Thất Sát” lại hội hợp với Hoả Tinh, Linh Tinh hoặc Thiên Hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh.

Lấy trường hợp trên làm ví dụ, bạn đọc có thể thấy được phần nào phép luận đoán tật bệnh.
Dùng Đẩu Số luận đoán tật bệnh, hoàn toàn lấy nguyên lý ngũ hành âm dương của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo y học hiện đại. Dưới đây xin trình bày một số nghiên cứu đối chiếu của Vương Đình Chi.
Liên quan đến tri thức về nguyên lý ngũ hành sinh khắc và ngũ tạng lục phủ, xin giới thiệu như sau:
“Tâm” (tim) thuộc hoả, “tiểu trường” (ruột non) cũng thuộc hoả; hoả cũng là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh; ở ngũ quan là lưỡi.
“Can” (gan) thuộc mộc, “đảm” (mật) cũng thuộc mộc; mộc cũng là hệ nội tiết; ở ngũ quan là mắt.
“Tì” (tuyến tuỵ, lá lách) thuộc thổ, “vị” (dạ dày) cũng thuộc thổ; thổ cũng là hệ tiêu hoá; ở ngũ quan là miệng.
“Phế” (phổi) thuộc kim, “đại trường” (ruột già) cũng thuộc kim; kim cũng là hệ hô hấp; ở ngũ quan là mũi.
“Thận” thuộc thuỷ, bàng quang cũng thuộc thuỷ; thuỷ cũng là hệ thống bài tiết và cơ quan sinh dục; ở ngũ quan là tai.
Căn cứ ngũ hành sở thuộc này, đương nhiên có thể biết bệnh ở đâu, như gặp Vũ Khúc ở cung tật ách, có sát tinh, vì Vũ Khúc thuộc âm kim, chủ về âm kim bị tổn thương, cho nên bệnh ở phế hoặc đại trường; nhưng vì cớ kim khắc mộc, nếu Vũ KHúc hội hợp với các sao quá mạnh, như Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa và các sao cát, thì kim thịnh sẽ làm tổn thương mộc, có khả năng gan, mật, mắt sẽ mắc bệnh, do đó cũng có thể bị mắt vàng, viêm gan, v.v… Nếu cung mệnh gặp các sao sát, hình, kị thì có thể căn cứ vào đây mà suy ra để định.
Căn cứ nguyên lý ngũ hành tương khắc, có thể biết một số quy luật cơ bản để xem về tật bệnh:
Hoả bị thuỷ khắc, thuỷ quá mạnh, chủ về các bệnh ở tim và ruột non, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh, hoặc đầu lưỡi và khoang miệng.
Mộc bị kim khắc, kim quá mạnh, chủ về các bệnh ở gan mật, hệ nội tiết, hoặc mắt.
Thổ bị mộc khắc, mộc quá mạnh, chủ về các bệnh ở dạ dày, tuyếb tuỵ, hệ tiêu hoá, hoặc khoang miệng.
Kim bị hoả khắc, hoả quá mạnh, chủ về các bệnh ở phổi và ruột già, hệ hô hấp, hoặc xoang mũi, khí quản.
Thuỷ bị thổ khắc, thổ quá mạnh, chủ về các bệnh ở thận và bàng quang, hệ bài tiết, hoặc khoang tai trong, tai ngoài.
Ngoài ra còn có thuyết “Mẹ nuông chìu quá thì con hư” (mẫu từ diệt tử), như hoả quá thịnh, hoả tuy sinh thổ, nhưng sinh thái quá thì trái lại sẽ làm thổ bệnh. Vì vậy, căn cứ vào thuyết này lại có thể định ra một số nguyên tắc như sau:
Hoả được mộc sinh, sinh thái quá thì hoả bệnh, như bệnh tim.
Mộc được thuỷ sinh, sinh thái quá thì mộc bệnh, như bệnh gan.
Thổ được hoả sinh, sinh thái quá thì thổ bệnh, như bệnh dạ dày.
Kim được thổ sinh, sinh thái quá thì kim bệnh, như bệnh phổi.
Thuỷ được kim sinh, sinh thái quá thì thuỷ bệnh, như bệnh thận.
Do đó, có thể thấy, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó khăn, đòi hỏi phải có một số kinh nghiệm. Nhưng có một nguyên tắc chung là, gặp các sao ở cung tật ách trước tiên phải xét về âm dương ngũ hành của nó, như kim yếu, thì trước tiên phải nghi là kim bị bệnh; nếu kim mạnh thì phải nghi hành nó khắc là mộc bị bệnh; nếu sao kim quá mạnh thì phải nghi thuỷ bị bệnh.
Dưới đây xin liệt kê một số chứng bệnh chủ yếu của các sao theo nguyên lý âm dương ngũ hành để bạn đọc tham khảo.
Tử Vi là âm thổ, chủ về bệnh tì vị (dạ dày, tuyến tuỵ), bệnh cơ quan tiêu hoá.
Thiên Cơ là âm mộc, chủ về bệnh gan mật (can, đảm), bệnh hệ nội tiết.
Thái Dương là dương hoả, chủ về bệnh tim (tâm), mắt, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh.
Vũ Khúc là âm kim, chủ về bệnh phổi, khí quản, hệ hô hấp.
Thiên Đồng là dương thuỷ, chủ về bệnh bàng quang, hệ bài tiết.
Liêm trinh là âm hoả, chủ về bệnh tâm hoả, phụ khoa, hệ tuần hoàn.
Thiên Phủ là dương thổ, chủ về bệnh dạ dày, khoang miệng.
Thái Âm là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư, thận, hệ cơ quan sinh dục.
Tham Lang là dương mộc, chủ về gan mật, hệ nội tiết.
Cợ Môn là âm thổ, chủ về bệnh tuyến tuỵ (tì).
Thiên Tướng là dương thuỷ, chủ về bệnh ở mật, hoặc bệnh hệ bài tiết.
Thiên Lương là dương thổ, chủ về bệnh dạ dày, tuyến vú.
Thất Sát là âm kim, chủ về bệnh hệ hô hấp.
Phá Quân là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư và hê cơ quan sinh dục.
Tả Phụ là dương thổ, chủ về bệnh thống phong (gout).
Hữu Bật là âm thuỷ, chủ về bệnh thận yếu.
Văn Xương là dương kim, chủ về bệnh đại trường và tam tiêu.
Văn Khúc là âm thuỷ, chủ về bệnh ban đỏ, đường sinh dục.
Thiên Khôi là dương hoả, chủ về bệnh ở kinh dương minh.
Thiên Việt là âm hoả, chủ về bệnh viêm.
Lộc Tồn là âm thổ, chủ về bệnh tì vị.
Thiên Mã là dương hoả, chủ về bệnh dịch, huyết không nuôi được gân (cân), thấp hoả lưu ở gân (cân).
Kình Dương là dương kim, chủ về bệnh đại trường, bị côn trùng cắn, ngoại thương.
Đà La là âm kim, chủ về bệnh phổi, ngoại thương.
Hoả Tinh là dương hoả, chủ về bệnh thấp hoả, vết thương làm độc, u nhọt.
Linh Tinh là âm hoả, chủ về bệnh hư hoả bốc lên.
Địa Không là âm hoả, chủ về bệnh huyết hư, huyết áp thấp.
Địa Kiếp là dương hoả, chủ về đau dạ dày.
Hoá Lộc là âm thổ, chủ về bệnh tì vị.
Hoá Quyền là dương mộc, chủ về bệnh gan mật, hệ nội tiết.
Hoá Khoa là dương thuỷ, chủ về bệnh thận hư.
Hoá Kị là dương thuỷ, chủ về bệnh hệ cơ quan sinh dục, cũng chủ về chứng sưng tuyến tuỵ, chứng “khí phận bất hành”.
Thiên Thương là dương thuỷ, chủ về bệnh di tinh, bệnh lao.
Thiên Sứ là âm thuỷ, chủ về bệnh rối loạn nhịp tim, bệnh phụ khoa.
Thiên Hình là dương hoả, chủ về bệnh tim, còn chủ về bệnh dịch, ngoại thương.
Thiên Diêu là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư, bệnh bàng quang, bệnh hệ cơ quan sinh dục.
Thiên Khốc là dương kim, chủ về bệnh lao, ho dai dẳng.
Thiên Hư là âm thổ, chủ về bệnh hư tổn, phụ nữ âm hư.
Hồng Loan là âm thuỷ, chủ về bệnh thận hàn, thận hư, bệnh kín của phụ nữ.
Thiên Hỉ là dương thuỷ, chủ về bệnh thận, bệnh tử cung.
Tam Thai là dương thổ, chủ về bệnh rối loạn tiêu hoá, mụn trứng cá.
Bát Toạ là âm thổ, chủ về vì dinh dưỡng quá dư dẫn đến các bệnh béo phì, mỡ máu cao.
Long Trì là dương thuỷ, chủ về bệnh ở tai, tai điếc, tai ù.
Phượng Các là dương thổ, chủ về bệnh tàn nhang, bệnh béo phì.
Thiên Tài là âm mộc, chủ về bệnh nội tiết.
Thiên Thọ là dương thổ, chủ về bệnh cơ quan tiêu hoá.
Thiên Quan là dương thổ, chủ về bệnh ngoài da, bệnh thấp khí, rối loạn tiêu hoá.
Thiên Phúc là dương thổ, chủ về bệnh tì vị.
Ân Quang là dương hoả, chủ về bệnh kinh dương minh, hư hoả.
Thiên Quý là dương thổ, chủ về bệnh tì vị, rối loạn tiêu hoá.
Thai Phụ là dương thổ, chủ về bệnh tì vị.
Phong Cáo là âm thổ, chủ về bệnh đường ăn uống.
Cô Thần là dương hoả, chủ về bệnh nhiệt, huyết áp cao.
Quả Tú là âm hoả, chủ về chứng phong.
Dùng Đẩu Số để luận đoán bệnh tật, tai ách, không thể chỉ dùng cung tật ách của nguyên cục, mà phải tiến hành xem xét cung tật ách của từng đại hạn mới có thể suy ra để luận đoán các bệnh tật chủ yếu trong cuộc đời của mệnh tạo. Có lúc còn phải xem xét cung tật ách của lưu niên, mới có thể đoán được sự phát triển của bệnh tình. Muốn luận đoán Đẩu Số cần phải thoát ra khỏi giới hạn của 12 cung mới có cái nhìn toàn diện và chính xác, lúc luận đoán cung tật ách càng cần như vậy hơn. Nếu chỉ căn cứ cung tật ách của nguyên cục để luận đoán, tuy có thể suy ra một số đặc trưng cơ bản về thể chất, nhưng lại dễ bỏ sót ứng nghiệm tật ách ở đại vận và lưu niên.
Cho nên, muốn biết mệnh tạo có mắc bệnh gì nặng trong cuộc đời không, có bị phẫu thuật không, có bị chứng gì nguy hiểm không, thì cần phải quan sát tinh bàn một cách xuyên suốt, bao gồm cả các cung hạn. Bất luận cung tật ách của nguyên cục ở cung độ nào, chỉ cần tìm ra nhóm “sao bệnh” thì chú ý ngay. Sau đó xem nhóm “sao bệnh” này bị các sao sát, kị, hình, hao xung hội ở đại vận nào, hay lưu niên nào, mà còn rơi vào cung tật ách, cung mệnh, hay cung phúc đức của đại vận hoặc lưu niên, đều có thể xem đó là thời kỳ ứng nghiệm.
ST
- Advertisement -