21 C
Hanoi
Thứ Năm, 20 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 15

87. Tử vi: lý số hay toán học (KHHB Số 17)

0

TỬ VI: LÝ SỐ HAY TOÁN HỌC

Bài của Ân Quang

Gần đÂy phong trào xem Tử Vi lan rộng.

Sách Tử Vi xuất bản nhiều, và số người nghiên cứu Tử Vi cũng gia tăng. Nhiều người thích thú, vì nhờ vào sÁch Việt ngữ có thể thành lập một lÁ số Tử Vi, có thể đoÁn được đôi điều này, chút việc nọ. Từ chỗ thích thú như vậy, người nghiên cứu có thể ngộ nhận rằng Tử Vi là một môn toÁn học thuần túy, chỉ cần Áp dụng đầy đủ cÁc công thức bí truyền là có thể quyết đoÁn tất cả những tiểu tiết trong đời người. Ý nghĩ đó đưa đến việc cố gắng tìm tòi cÁc sÁch Tử Vi cổ truyền, sưu tầm cÁc công thức Tử Vi. Người nghiên cứu chỉ đi tìm cÁc công thức Tử Vi, cho rằng cứ đủ công thức là khÁm phÁ hết bí mật trong đời người.
Những gì thÂm thúy của Tử Vi đều bị gạt sang một bên.
Như Tử Vi Đẩu Số, Đẩu Số là cÁi gì? Như Mệnh Viên thì Viên là cÁi gì? Cuộc sống này vội vã quÁ, quÁ nhiều vấn đề cấp bÁch cần giải quyết. Ai hơi sức đÂu mà tìm hiểu những chuyện xa vời. Cứ cho rằng Tử Vi Đẩu Số là Số Tử Vi, cứ cho rằng Mệnh Viên là cÁc cung Mạng cho tiện.
Mã đầu đới kiếm là cÁi gì? Nhật xuất Phù Tang thì Phù Tang là cÁi gì? Hữu Bật khÁc Tả Phụ ra sao? Văn Khúc khÁc Văn Xương thế nào? Thai Phụ nghĩa là gì? Tam Thai nói về ngôi Tam Công (ThÁi Sư, ThÁi Phó, ThÁi Bảo) vậy thì còn BÁt Tọa là cÁi gì?

Cuộc sống này vội vã quÁ.

Người nghiên cứu chỉ muốn biết ngay bộ Phụ CÁo chủ về cÁi gì, Thai Tọa chủ về việc gì, Phụ Bật chủ về những gì. Thế thôi. Cứ nói rằng Nhật xuất Phù Tang là quÝ cÁch, thế là đủ rồi, quÝ ra sao, quÝ thế nào, không thắc mắc cho lắm.
Người nghiên cứu có thể nóng lòng muốn Áp dụng ngay công thức Tử Vi để biết được rằng đường tài lộc năm nay ra sao. Nhu cầu kinh tế, tài chÁnh còn thúc bÁch bằng trăm lần cÁi việc đi tìm hình ảnh của một “Mã đầu Đới Kiếm”.
Cứ cÁi đà nghiên cứu vội vã, giản lược, trong một số công thức thì chẳng bao lÂu Tử Vi chỉ còn là một mớ những bài toÁn cộng, trừ, khô khan, không còn thÂm thúy. Và đến chừng ấy thì Tử Vi không còn là Tử Vi Đẩu Số theo đúng nghĩa cao siêu của khoa ấy.
Trước những băn khoăn về tương lai, nhiều người chỉ muốn biết ngay đÁp số cho cuộc đời mình, cho đỡ khắc khoải, thắc mắc. Một số người đã vội vã coi Tử Vi như một môn toÁn học giản dị.
Trước khi xét định chÂn giÁ trị của Tử Vi, chúng ta cũng nên biết qua rằng có bao nhiêu lÁ số Tử Vi.
– Nếu chỉ lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh. Từ GiÁp TÍ đến QuÝ Hợi thì chúng ta thì chúng ta chỉ có thể lập được sÁu mươi (60) lÁ số.
– Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh và thÁng sinh thì chúng ta sẽ lập được
60×12 = 720 lÁ số
Những năm nhuận tuy là có 13 thÁng, nhưng, tính theo Tử Vi thì cũng chỉ có 12 thÁng.
– Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng và ngày sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30 = 21 600 lÁ số
– Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày và giờ sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30x12 = 259 200 lÁ số
– Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày, giờ sinh và yếu tố Dương Nam, Âm Nam, Dương Nữ, Âm Nữ thì chúng ta sẽ lập được
259 200 x2 = 518 400 lÁ số
LÁ số của người sinh trên núi, trên song, nhà mở cửa hướng Bắc hay vào đầu giờ hay cuối giờ… đều không có thêm một vị sao nào khÁc. Do đó không thể nào lập hơn được 518 400 lÁ số Tử Vi.
Đến đÂy, chúng ta thấy rằng có rất nhiều người có lÁ số giống nhau. Nếu nói rằng ít người có lÁ số thượng cÁch, thì số người có lÁ số trung cÁch lại nhiều hơn.
Thí dụ như miền Nam chúng ta có 17 triệu người, thì vào khoảng (17 000 000 : 518 400 xấp xỉ 32) người có lÁ số giống nhau. Đó là tính trung bình. Nếu ít người có lÁ số thượng cÁch thì càng nhiều người có lÁ số giống nhau.
Cứ hết một vòng hoa giÁp 60 năm là lại có những ngày giờ sinh giống y như trước. Quả đất không ngừng quay, nhÂn loại không ngừng sinh sản vào những ngày giờ sinh của Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tính, Lã Hậu, Điêu Thuyền…
Từ xưa đến nay, cũng như hiện nay có rất nhiều người có ngày giờ sinh giống nhau.
Vậy thì Tử Vi nói lên những gì về số phận con người? Công dụng đích thực của Tử Vi ra sao?
Tử Vi nói về cÁi phần “phẩm” cÁi tính cÁch của vận số của mỗi người.
Thí dụ như “Tử Lộc đồng cung Phụ Bật chiếu, quÝ bất khả ngôn”. “QuÝ bất khả ngôn” cao sang hết chỗ nói, cao sang khó tả, vậy thì làm đến chức gì, làm Thủ Tướng hay làm vua? Tử Vi không qui định phần lượng. Còn tùy cÁc ảnh hưởng tương quan như Âm phúc, địa lÝ, dòng dõi. CÁi cao sang đÂy là nói tương đối, so với cÁi gia tộc của đương số. Nếu dòng dõi của đương số đã nhiều đời quÁ thấp kém, thì đến đời của đương số sẽ có những bước tiến vượt bậc so với trong dòng dõi, chứ không nhất thiết rằng “quÝ bất khả ngôn” phải là bÁ chủ thiên hạ.
Tử Vi chỉ nói đến đại phú, tiểu phú hay trung phú chứ không nói người này giàu có một tỷ bạc, người kia có mười triệu.
Tử Vi chỉ nói số thuộc về quÝ cÁch, phú cuộc, văn võ, tạp cuộc… thượng, trung, hạ cÁch… chứ nào có nói đến cÁch luận nhạc sĩ nào đÁnh dương cầm, nhạc sĩ kia đÁnh trống hoặc thổi kèn.
ít ra thì tại miền Nam chúng ta một lÁ số có thể Áp dụng để đoÁn cho khoảng 32 người, như chúng tôi đã chứng minh với những con toÁn kể trên.
Chẳng qua vì ngộ nhận Tử Vi chỉ có giÁ trị toÁn học thuần túy mà một vài người đã đem khuynh hướng riêng nhÂn sinh quan riêng của mình vào trong Tử Vi. Trước lÁ số của một vài người mà mình đã biết về cuộc đời, nghề nghiệp, thì cố móc sao nào, nối sao nọ, để giải đoÁn tiểu tiết nghề nghiệp hoặc để giải thích “phần lượng” của lÁ số.
Một cung chính, ba cung chiếu vào là bốn cung, kéo thêm một cung nhị hạp nữa là năm cung. Năm cung trên tổng số 12 cung bao gồm gần một nửa trong số 108 vị sao của lÁ số. Làm gì chẳng gặp một vài sao có tính chất tương tự để giải thích cÁi “phần lượng” của lÁ số theo quan điểm của mình.
Vậy thì cổ nhÂn lập ra Tử Vi để làm gì?
Việc đoÁn phú, quÝ, bần, tiện, thọ, yểu, việc đoÁn văn cÁch, võ cÁch, tạp cuộc… thượng trung hạ cÁch chỉ là một khía cạnh của Tử Vi.
Chúng ta không nên trụ vào khía cạnh đó mà xa rời cÁc công dụng cao quÝ của Tử Vi.
Tử Vi Đẩu Số, một công trình đúc kết bằng bao nhiêu ngàn năm kinh nghiệm, học thuật của cổ nhÂn nào phải nào phải chỉ nhằm mục đích giản dị để “coi bói” thỏa mãn tính hiếu kì về công danh, sự nghiệp, vận hạn.
Trần Đoàn tuy là có công đúc kết, bổ túc, hệ thống hóa cÁc khoa học xưa, lập ra Tử Vi Đẩu Số, nhưng phần lớn những yếu tố quan trọng trong Tử Vi là công trình của những người đi trước Trần Đoàn quÁ lÂu.
Những Thiên Can GiÁp, Ất, Bính, Đinh… những Địa Chi TÍ Sửu Dần Mão… những Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi, những thần sÁt như Thanh Long, Bạch Hổ, Mã, Lộc, Kình, Đà… đã có hàng ngàn năm trước Trần Đoàn.
Cả một học thuật hàng ngàn năm đúc kết lại, chỉ nhằm một mục đích toÁn học giản dị để đoÁn xem vị bÁc sĩ này chữa răng, vị bÁc sĩ kia chữa bịnh bao tử hay sao?
Người xưa tìm ra những lÝ thuyết về Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi tìm biết ảnh hưởng của những thiên thể trong vũ trụ đối với con người, cốt để tìm cÁch tổ chức đời sống cÁ nhÂn, xã hội sao cho thuận thiên lÝ, thêm phần êm đẹp, nhẹ phần gay go.
Tử Vi Đẩu Số cũng không đi ra ngoài cÁi mục đích tìm hiểu để tu thÂn, xử thế cùa người xưa.
ĐoÁn vận số trong đời người chỉ là một khía cạnh của Tử Vi. ĐoÁn vận số rồi còn liệu đường hành động cương nhu, tiến thoÁi theo một số nguyên lÝ, hoặc là liệu đường kết hợp, xa cÁch, ngăn ngừa…
Thí dụ trong việc hôn nhÂn. ĐoÁn Tử Vi không phải là chờ thời có người đến kết hợp với mình, mà chính là để xem có những năm nào nên lập gia đình.
Có một bạn trẻ, đem đến cho tôi xem một lÁ số Tử Vi, trong ấy ông thầy đoÁn là anh ta lập gia đình năm 25 tuổi, mà thật ra anh ta lập gia đình năm 27 tuổi, anh ta nghĩ rằng thầy Tử Vi đoÁn sai. Tôi giải thích rằng không hẳn là thầy đoÁn sai. Tử Vi nhằm mục đích xem những năm nào lập gia đình thì có lợi nhiều, chứ có ông sao nào trên trời sa xuống bắt ta phải đi lấy vợ đÂu.
Cùng tuổi Bính Tuất, thế hệ này lập gia đình năm 27 tuổi là vừa phải. CÁc thế hệ trước, cùng tuổi Bính Tuất, cũng năm, thÁng, ngày, giờ sinh ấy, người ta có thể lập gia đình năm 14, 15 tuổi. lại còn có trường hợp cÁc bậc trưởng thượng ngày xưa xem số mà lập gia đình cho con chÁu lúc được 12, 13 tuổi. Ấy là luận hình tính cÁc sao tốt trong từng niên vận mà dựng vợ, gả chồng cho có lợi về sau. Chứ trong lúc còn bé thì có ai đợi xem cÁc cÁch như là:
*Tướng ngộ CÁi Đào Mộc Khúc, thuần tước dÂm phong. Hạn ngộ Cơ Diêu vô phu nan tự khởi cô miên (không chồng thì khó dỗ giấc ngủ một mình).
hoặc là
*Âm tàng Hồng, Nhận, Kị, Diêu, tÂn liên hàm tiếu. Hạn phùng Xương Vũ, dÂm tứ, xuÂn tình liên xuất phÁt (***)
Hãy còn bé quÁ làm gì có chuyện ấy được. Chẳng qua là xem cÁi phần lÝ số để liệu đường kết hợp, tiến thoÁi, cương nhu, vậy thôi!
Tử Vi không đóng khung mọi chi tiết sinh hoạt trong một mớ công thức toÁn học. Tử Vi chỉ nói lên cả vận số tương đối của mỗi người. Vì thế mà mới cần xem Tử Vi để liệu đường hành xử.

Tuy nhiên cÁi vận số tương đối của mỗi người còn bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan, mà người nghiên cứu không nên hấp tấp võ đoÁn. Thí dụ như hiện nay một vị Quốc Trưởng tại một tiểu quốc có thể thừa phương tiện xuất ngoại đi Mỹ nhưng không thể xuất ngoại du ngoạn Bắc Kinh như Tổng Thống Nixon được cho dù trong cung Mệnh, Thiên Di, Đại Hạn, Tiểu Hạn, có nhiều sao tốt đến đÂu cũng không đi được. Vì cơ trời vận nước chưa thuận tiện.
CÁi phần LÝ Học của Tử Vi không phải chỉ giúp chúng ta thỏa mãn tính hiếu kỳ muốn biết một số bộ phận bị đóng khung từng tiểu tiết. Thí dụ như trong hôn nhÂn mà gặp cÁch “Nghi cầu trưởng nữ” thì chỉ có nghĩa là nên kết hợp với người trưởng nữ thì có lợi hơn. Chứ nào có nói rằng, trước sau tính toÁn thế nào cũng phải lấy người trưởng nữ.
Những tính cÁch “bất nghi viễn hành” chưa nhất quyết là không đi xa được, mà còn tùy vào Ý nghĩa của cÁc vị sao khÁc mà có thể là vẫn đi được nhưng không có lợi lộc gì, ở nhà thì đỡ mệt thÂn tÂm, an nhàn, thảnh thơi hơn.
Vì vậy mà việc tìm hiểu Ý nghĩa tên cÁc vị sao, Ý nghĩa cÁc điển tích trong Tử Vi cũng rất quan trọng giúp cho người nghiên cứu có một cÁch nhìn thÂm thúy về khía cạnh lÝ học, mục đích cao quÝ của Tử Vi, để liệu đường cÂn nhắc hành động, xuất xử ra sao.

(***) Chú thích của buiram tìm thấy trên internet, cÂu phú trên nghĩa là: ThÁi Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Diêu Kị người đàn bà đẹp như đóa sen mới nở, nhưng gặp hạn Văn Xương, Vũ Khúc tất sa ngã vì tình.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

86. 10 điều soi sáng cho khoa nghiệm lý tử vi (KHHB Số 74F1 Và 74G1)

0

Nghiên cứu Tử vi

10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI

Phần I:

1)CÁc sao Đức và Quí nhân
2)CÁc sao Tứ hóa
3)Ý nghĩa cung Thiên Di
4)Vòng ThÁi tuế ở đại hạn và tiểu hạn
5)Thế sinh nhập ở tứ sinh và tứ nguyệt.

  • Của giÁo sư Lê Trung Hưng – giảng viên Cao đẳng Nông Lâm Súc Bình Dương.

GiÁo sư Lê Trung Hưng là một nhà nghiên cứu về khoa Tử vi. ông thâu thập được rất nhiều kinh nghiệm, qua cÁc lÁ số của thân nhân, bạn bè, ông lại có biệt tài dẫn giải cÁc kinh nghiệm đó theo lối trình bày pha trộn cả Đông phương và khoa học Tây phương. Nhưng ông không có coi số cho thiên hạ.
Điều đÁng quÝ ở ông cũng như ở cụ Thiên Lương, là dẫn giải tường tận những kinh nghiệm đạt được trong Tử vi, hoặc là kinh nghiệm riêng, hoặc là kinh nghiệm được truyền thụ do cụ Thiên Lương, hoặc là những kinh nghiệm cũ được hiểu qua Ánh sÁng mới. Giai phẩm Khoa học Huyền Bí được hân hạnh đăng những bài dẫn giải của giÁo sư Lê Trung Hưng, và rồi sau này, sẽ còn trình giải thêm nữa về những điểm đã được nêu ra tại đây.
Đây là phần đầu của bài “10 điều soi sÁng cho khoa nghiệm lÝ Tử vi”. Phần thứ 2 sẽ đăng trong số giai phẩm sau. Kính mời quÝ bạn đọc thưởng thức.

I- PHẦN KHAI TỪ:

Khoa huyền bí Đông Phương thật vô cùng phong phú, nào bốc dịch, nào thần tướng diện, nào nhâm độn, nào địa lÝ … nhưng phải thành tâm mà nói thêm : Khoa Tử-vi Đẩu Số có những nét khả tín nhất. Bởi lẽ môn này đã căn cứ vào những yếu tố thời gian tương đối đặc thù của mỗi cÁ nhân : năm, thÁng, ngày và giờ sinh, tạo thành sử mệnh cho mỗi cÁ nhân một cÁch huyền diệu. Khoa Tử-vi mỗi ngày càng phơi bày nét chính xÁc của một ngành học nhuốm tính cÁch nghiệm lÝ và nhân văn, nó bộc lộ rõ rệt cÁi khuynh hướng của mỗi số mạng, nó chỉ vẽ dù là bàng bạc cÁi nghiệp của con người trong cuộc sống, cũng như thể hiện được tinh thần tự do của con người (Xưa nay nhận định thằng thiên cũng nhiều – Nguyễn Du). Định Mệnh trong Tử-Vi chỉ có nghĩa là một khuyến cÁo (hơn là một loan bÁo), kêu gọi chúng nhân tự điều chỉnh đời sống, công danh của mình, để hóa giải phần nào cÁi căn quả nhận chịu ở đời này (Đức năng thắng số), rồi từ đó tạo cơ duyên hạnh phúc trên căn bản tự giÁc tự tha. Tử-Vi có ưu điểm là phải luận giải (khoa Áo-Bí biện chứng) tích cực, chứ không phải phú đoÁn tiêu cực như cổ nho, vô tình làm làm cho Tử-vi bị du vào địa hạt huyền bí (hiểu theo nghĩa bao gồm những luận cứ viễn vông). Tư-Vi không thể hiểu theo nghĩa huyền bí thiếu xÁc tín, mà phải hiểu là khoa nghiệm lÝ (nghiệm cÁi lÝ của siêu việt tính). Thế nên những công trình nào quyết tâm đi tìm cÁi chân lÝ tiềm ẩn trong bản số Tử-vi, cũng nên quảng bÁ, truyền thông cho tha nhân cùng soi sÁng. Trong phạm vi bài tham luận này, kẻ viết chỉ xin triển khai một vài điểm kinh nghiệm đã thấy cảm ứng khÁ rõ rệt.

II- PHẦN KINH NGHIỆM THâM CỨU

Gồm có 10 chủ đề diễn Ý một cÁch tương đối nét tinh hoa của bản số Tử-vi

1/ Đức trọng qủy thần kinh : Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan và Thiên phúc.
2/ Huyền thọai của chính diệu : Tứ Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kị)
3/ Tha nhân là địa ngục : Thế tương quan Cung Mệnh – Cung Di
4/ Cơn bĩ cực hồi thÁi lai : Vòng ThÁi tuế trong đại hạn và tiểu hạn
5/Thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập ở Tứ sinh và Tứ tuyệt
6/Tham thì thâm : Thế lấn của vòng ThÁi tuế
7/ Đời là bể khổ : Vai trò của Thiên mã
8/ Chung thân đối khÁng: sao Thiên Tài
9/-Bản tính nhân chi sơ :người âm, Dương với cung âm, Dương
10/Thời thế tạo anh hùng : cÁc sao trong lưu niên tiểu hạn.

Đức trọng quỷ thần kinh

Trong hàng ngũ cÁc sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức (Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức và Long Đức) và bộ QuÝ nhân (Thiên Quan và Thiên Phúc). TÁnh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa). QuÝ vị cứ kiểm nghiệm mà xem: sau sao Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan, Thiên phúc luôn luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra. Nói cÁch khÁc, bộ Tứ đức và bộ Quí nhân không sợ sự kìm kẹp của Tuần không và Triệt lộ, ngược lại nhiều khi chính Tuần và Triệt bị chiêu hồi để giải tỏa cÁc hung tinh khÁc. Cho nên vào đại vận hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quí nhân trấn đóng, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai sao Tuần hay Triệt ở cung của đại hay tiểu vận (chính sao Tuần còn mở đầu cho một hanh thông nữa là đằng khÁc).

Huyền thoại của chính diệu:
Nhiều người say mê Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa khi đắc cÁch và cho rằng: Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Kị (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thÁnh đem bóng dÁng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả cÁc chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay: Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lÝ (như cụ Thiên Lương chủ trương), nên bất cứ lúc nào cũng phải suy luận và kiểm nghiệm tÁnh chất của mỗi dữ kiện (được gọi là sao). Do lẽ ấy, bốn sao Tứ Hóa (Khoa Quyền Lộc Kị) chỉ là bộ mặt mới của cÁc chính diệu tính theo thập can của tuổi mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cÁch khÁc, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :

– Chủ về thi cử, phúc lành: Hóa Khoa.
– Chủ về địa vị: Hóa Quyền.
– Chủ về tiền của: Hóa Lộc.
– Chủ về sự thầm lặng: Hóa Kị.

Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta chỉ nên hiểu là chính tinh đã biến ảo ra, để lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Kị (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt), mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thÁi của chính diệu tùy theo Thập can vậy.

Tha nhân là địa ngục

Trong vị trí tuần tự của 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau (xung chiếu), đây là Ý nghĩa thâm sâu của người sÁng chế ra khoa nghiệm lÝ này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sÁch đoÁn luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội (tích cực hay tiêu cực), thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó (ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cÁch này). Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong Ý nghĩa Dịch động ấy, ta lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh và cung Thiên Di. Thế tam hợp của 12 cung như sau:
–Cung Tỵ, Dậu, Sửu : Hành Kim
–Cung Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
–Cung Thân TÍ Thìn : Hành Thủy
–Cung Hợi Mão Mùi : Hành Mộc

Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Thiên Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trÁi lại, hành của cung Di Áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là số phận tôi mọi của thế nhân.

Thí dụ : Cung Mệnh an tại Tuất (hành Hỏa), cung Thiên Di an tại Thìn (hành Thủy) ta thấy ngay : tha nhân là Thủy luôn luôn làm tắt Hỏa là bản thân ta, tức là: đời ta là một chuỗi dài thua thiệt ở phút sau cùng mỗi khi tranh sống với thiên hạ. Mặt khÁc, khi cung Mệnh chế ngự được cung Thiên Di, lúc ấy mới mong được hưởng cÁc sao đẹp ở trong cung Thiên Di (có nghĩa như là những chiến lợi phẩm mà ta thâu đoạt được ở kẻ khÁc, ta lấy và ta hưởng)

Cơn bỉ cực, hồi thÁi lai

Mấy lúc gần đây, khi cụ Thiên Lương triển khai tầm quan trọng của vòng ThÁi Tuế, để giúp người xem Tử vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 … Vòng ThÁi Tuế gÁc đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung của Vòng ThÁi Tuế, nếu gặp đầu cung :

– Có sao ThÁi Tuế là đắc thời một cÁch chÁnh đÁng.
– Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toÁn.
– Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thÁi quÁ vất vả.

Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận của Vòng ThÁi Tuế, được kể như đã tới hồi thÁi lai, thoải mÁi. Nhưng cẩn trọng đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới:

– Tiểu vận đến cung chứa sao ThÁi Tuế : đÁo tụng đình.
– Tiểu vận lâm cung chứa sao Quan Phù : thị phi, bị tai tiếng.
– Tiểu vận lâm cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm, tai nạn.

Nói cÁch chung: Đại vận của Vòng ThÁi Tuế là hên, mà tiểu vận của vòng ThÁi tuế là xui rủi vậy.

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong

Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khÁc nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luận ngũ hành của từng cung trên căn bản :

– 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
– 4 Cung Tứ Tuyệt : TÍ, Ngọ, Mão, Dậu.

Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khÁc nhau từng đôi một :
– Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
– Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
– Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung TÍ (Thủy)
– Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

Vậy khi cÁc cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

Thí dụ : Tuổi âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :
– Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
– Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
– Nhà đất (cung TÍ) không hạp với hàng con cÁi (cung Ngọ)
– Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

CÁc sự xung khắc trên là một điều loan bÁo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều: Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con CÁi an toàn hay muốn Nhà đất khang trang.

KHHB số 74F1

————————————————————————–

Nghiên cứu Tử vi

10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI

Phần II:

6)Tham thì thâm, luật thừa trừ tính theo vòng ThÁi tuế
7)Đời là bể khổ: sao Thiên Mã là cỗ xe của cuộc đời
8)Chung thân đối khÁng: Vai trò độc đÁo của sao Thiên Tài
9)Bản tính nhân chi sơ: bản tính con người theo cung đóng Mệnh
10)Thời thế tạo anh hùng: Ý nghĩa của cung Lưu niên

  • Của giÁo sư Lê Trung Hưng

(Tiếp theo kỳ trước)

Tham thì thâm

Vòng ThÁi Tuế ngòai Ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy bÁu khÁc, là tìm biết căn tính của con người, cũng như thử thÁch của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để Ý:
– Tuổi âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.

– Tuổi âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Cả hai cÁch trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Thí dụ : Tuổi Tuất – Dương Nam, thì Vòng ThÁi Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cÁi TA – Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cÁi bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quÁ đÁng sẽ gặp “Thiên-Không ở cuối đường hầm” (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cÁi tai hại của nó).

Đời là bể khổ

Sao Thiên Mã là nghị lực của người đời nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những tương quan có tính cÁch cảnh cÁo hay nhẹ nhàng là bÁo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :

– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh: Chết vì tai nạn xe cộ.
– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh: Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người chủ thật đắc dụng .
– Hành Mệnh khắc hành của Mã: Xe cộ luôn ở trạng thÁi hư hao, gây tốn kém cho chủ.
– Hành Mệnh sinh hành của Mã: Coi chừng mất xe.
– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh: Bình thường mọi chuyện xe cộ, di chuyển.

Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần. Người Nhâm Ngọ (Mộc) Thiên Mã đóng ở cung Thân (Kim), nên cẩn thận lắm, Mã Kim chém Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cạnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.

Chung thân đối khÁng

Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đÁo, nó luôn luôn làm điều trÁi ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ, có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cÁch lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là “Thiên Tài” (gesnie) hiếm có vậy.

Bản tính nhân chi sơ

Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri cÁc điều công danh, thọ yểu,… của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lÝ thực nghiệm khÁ chính xÁc. QuÝ vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để Ý sự kiện (Đã được nghiệm lÝ) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :

– Người âm đóng cung âm : thế lưỡng âm nên thÁi quÁ nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan …
– Người Dương đóng cung Dương : thế lưỡng Dương nên quÁ cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu …
– Ngừơi Dương đóng cung âm : có thực lực nhưng kín đÁo nhún nhừơng, biết mình, biết người …
– Ngừoi âm đóng cung Dương : người kém thực lực, sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn …

Thí dụ : Người QuÝ Mùi (Mệnh âm) Cung Mệnh an tại Dần (Cung Dương), nên chưa cần phải nhìn sao, ta có ngay một Ý niệm là người không bản lãnh, biết ít mà phô trương nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn.

Thời thế tạo Anh-hùng

Tiểu hạn mỗi năm được xÁc định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoÁn vận hạn hên xui của một năm (giống như cÁch xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng ThÁi tuế, còn tiểu hạn một năm phải bÁm sÁt cÁc Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :

– 2 thÁng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
– 2 thÁng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
– 2 thÁng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
– 2 thÁng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
– 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.

Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với cÁc hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để Ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loạt của cÁc sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung TÍ có cÁc sao :
-Hành Mộc : Đào Hoa, ân Quang, Hóa Quyền.
-Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
-Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
-Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
-Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.

Ta giải đÁp dễ dàng niên hạn của đương số như sau:
-Mùa Xuân : Có quÝ nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
-Mùa Hè : May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
-Mùa Thu : Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
-Mùa Đông : Tình cảm thoải mÁi, yên vui …

Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp cÁc sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ, nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù … thành ra cũng qua khỏi vào phút chót. Khi Áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sÁnh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của cÁc Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.
Qua thí dụ trên : Cung TÍ là Thủy, đương nhiên cÁc sao Hỏa đã bị kém hiệu lực, cÁc sao Mộc tăng cường lực, cÁc sao Kim bị suy nhược, cÁc sao Thổ bị trở ngại và cÁc sao Thủy khởi sắc nhất (Giang sơn nào anh hùng nấy)

Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sÁng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoÁi hóa) có giÁ trị cao độ của ngành nghiệm lÝ xã hội.

KHHB số 74G1

84. Giải đoán lá số tử vi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương (KHHB Số 9)

0

GIẢI ĐOÁN LÁ SỐ TỬ VI CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Sanh năm Ất Mão tháng 4, ngày 1, giờ Dần, âm nam, thủy mệnh, thổ ngũ cục.

“ Ta đợi em từ hai mươi năm.
Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm…. “

Một mối tình đẹp thư tho và mong manh như sương khói…phù du, đã tan vỡ từ bao nhiêu năm qua vẫn còn đẹp mãi trong tâm hồn nhà thơ họ Vũ…. Vũ Hoàng Chương là một trong những văn thi si tiền chiến còn sót lại ở Miền Nam, cũng là một trong những ngôi sao sáng của khung trời văn học miền Nam hiện nay. Nổi danh từ trước những năm 1940 với những vần thơ hoài niệm quá khứ “ Gối vài mộng phong hầu, vàng son mơ gác xép “ hay những điệu thơ buồn nhẹ khóc cho một cuộc tình mong manh….

Cho tới vở kịch thơ lãng mạn “ Văn Muội “ ( trước kháng chiến ) Rừng Phong tập thơ xuất bản ở Hà Nội năm 49 -50 và tới nay… Trên 30 năm trên thi đàn, Vũ Hoàng chương vẫn là một vì sao khuê rực sáng…. Trong lúc những người cũng làm văn nghệ cùng thời với ông, có khi sau ông ít nhiều đã rơi vào quên lãng…. Phải chăng hơn nhau ngoài cái “ Tài ‘ còn có cái “ số “ Một biên tập viên của KHHB, ông Thiên Cơ sẽ chấm giải lá số của thi sĩ Vũ Hoàng Chương để bạn đọc có thể qua lá số biết được thêm về con người, tình yêu và sự nghiệp của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, một người mà chúng tôi tin là độc giả đã biết nhiều qua thi ca của ông.
K.H.H.B

– Thiên cơ phối kiểm và luận giải –

Khái luận Thân, Mệnh, Cục:

Mệnh lập tại Mão, chấn cung thuộc âm Mộc. Tuổi âm Nam, Mệnh lập tại cung âm, Thủy Mệnh lập tại cung thuộc Mộc là thuận lý. Đắc cách Nhật xuất phù tang hội Quyền, Lộc, Tả- Hữu Long, Phượng, Thai- Tọa và cách Lộc Tồn ngộ âm Dương miếu vượng; Thái Tuế ngộ Quyền, Khốc , lộc; Quyền ngộ Tướng Ấn.

Vơi những cách này đáng lẽ phát về quan trường, nhưng cung quan lộc VCD, lại ngộ Triệt, khiến nên bản tính phóng khoáng, không chịu được sự gò bó trong hoạn lộ.

Thân cư Quan lộc tại Mùi – âm cung thuộc Thổ, tuổi âm nam, Thổ cục, Thân cư cung âm -Thổ rất thuận lý. Đắc cách Long Phượng, Tả Hữu ( cư tứ mộ ) Thai Tọa, hội Nhật Nguyệt, Quyền Lộc, Khốc Khách Long Hổ Tướng Ấn; Cái Hổ Long Phượng ( tứ linh ) củng chiếu. Lại thêm cách Thân giáp Xương giáp Khúc, giáp Quang giáp Quý. Nhờ ngộ Triệt cho nên ảnh hưởng tinh lực của Hóa Khoa.

Cung Thân hội nhiều sao nổi tiếng lại giáp Xương Khúc; Quang Quý thành thử đương số nổi tiếng lâu dài và sáng tác thi phẩm vẫn lai rai cho đến ngày vãn tuế, vì mệnh có Khốc Hư.

Lược giải các đại, tiểu hạn.

Biến chuyển tình cảm quan trọng nhât trong đời nhà thơ Vũ Hoàng Chương là mối tình đầu mà cũng là mối duyên nợ cứ đeo đẳng mãi tâm tư suốt tuổi hoa niên cho đên ngày vãn tuế. Đó là năm 1932, ( Nhâm Thân ) đương số 18 tuổi, gốc đại hạn ở Huynh Đệ, tiểu hạn đến Điền trạch. Gốc đại hạn có Thiên tướng ngộ Xương Khúc, Trường sinh, Song hỉ. Tiểu hạn hôi Liêm Tham ( cả hai đều có tính chất đào hoa ) ngộ Hồng Đào, một mối tình thơ mộgn đã hằn sâu trong tâm khảm đương số mười năm trời để rồi tan vỡ, chỉ vì Đà La và Đẩu quân cản trở sự hợp hôn, và Trường sinh đã giữ lại lâu dài vết thương lòng trong tâm tư. Khi người yêu đi lấy chồng, vào ngày 12 tháng 6 năm 1941 khiến cho đương sô ngẩn ngơ:

Đôi lứa say mê cùng gắn bó
Mẹ cha cùng hẹn để dành nơi
Trường chung một hướng, nhà chung ngõ
Hoa gấm cùng mơ dệt cuộc đời
Thế mà tan tác mười năm mộng
Có kẻ ra đi chẳng một lời….

Để rồi tháng năm chồng chất, dù thương hải tang điền bao lần biến đổi, nhưng mối tình đầu vẫn ngày một in đậm nét trong lòng và lẫn trong thi phẩm:

Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp
Tình mưới năm còn lại mấy tờ thư…

Năm 1933 ( Quý Dậu ), đương số 19 tuổi, tiểu hạn vào Quan lộc, có Long Phượng, Tả Hữu, Thai Tọa hội âm Dương, Quyền, Lộc ,Tuế, Khốc Khách, Long Hổ Cái phượng ( tứ linh ) đương số vướng vào nợ thi ca. Cũng bắt đầu từ tiểu hạn ở cung Quan lộc cư Tứ Mộ có Tả Hữu, long Phượng hội tứ linh, giáp Xương Khúc, Quang Quý; Mệnh đắc Nhật xuất phù tang ( mặt trời lên khỏi ruộng dâu ) ngộ Quyền Lộc Tuế Khốc cho nên đương số hiển đạt sự nghiệp văn chương, vời vợi trên thi đàn như ngôi sao Bắc đẩu.

Năm 1937 ( Đinh Sửu ) , 23 tuổi, tiểu hạn vào Tài bạch, lưu đại hạn vào ở Mệnh viên. Tiểu hạn gặp Thái âm cư Hợi, tức Nguyệt lãng thiên môn ngộ Hóa Kị là khánh vân phùng Nguyệt, hội họp với Lộc Mã, Lộc Quyền, Tả Hữu, Cơ Lương. Đáng lẽ với sự thông minh lỗi lạc đó, dịp này đương số phải xuất dương du học như hạn Nhật xuất phu tang của lá số chính khách Hồ Hữu Tường. Hiềm vì gốc đại hạn còn ở Huynh Đệ có Thiên tướng ngộ Đà la, Song hỉ, đương số phóng túng, ưa la cà trà đình tửu điếm hơn là chú ý đến chuyện học hành thi cứ. Cho nên năm này đỗ xong tú tài Pháp, là đương số ghi tên học luật cho chương trình học đường khỏi vướng bận óc lãng mạn, bước lãng du của nhà thơ, hơn các phân khoa khác. Tuy vậy, học luật cũng chỉ có hơn 2 năm, qua đến năm Đinh Mão, tiểu hạn vào Thê thiếp gặp Cự Đồng hãm ngộ Tuần, hội các hung tinh chuyên tác họa như Không Kiếp Tang Điếu Cô Quả, Tuế, Phục khiến cho đương số bỏ ngang sự học.

Vì năm này đương số 25 tuổi, Đại Tiểu hạn trùng phùng ở đây, Cự, Đồng hãm ngộ Tả – Hữu là thay đổi hoàn cảnh rất đột ngột. Đáng lẽ bỏ học để phiêu lãng cho thỏa chí tang bồng, nhưng nhờ có Cơ; Lộc, Mã ngộ Thanh Long, Long Phượng; Thai – Tọa cho nên đương số đi làm Phó kiểm soát sở Hỏa xa Đông Dương.

Năm Canh Thìn ( 1940 ) tiểu hạn đến Huynh-Đệ, lưu đại hạn lên Quan Lộc, tiểu hạn có Vũ, Tướng ngộ Xương Khúc, Quang Quý, Thiếu âm, Quan đới, Hóa Khoa, Trường Sinh, Thai Phụ, Hỉ Thần hội Tấu Thơ, Thiên Phủ, Tử vi. Gốc đại hạn và lưu đại hạn giao huy có Mộc Dục, Hoa cái, Tả Hữu Long, Phượng, Thai – Tọa, Thanh Long, Hóa lộc, Thiên Mã, đương số xuất bản tác phẩm thơ SAY; một đứa con nghệ thuật đầu tiên chào đời; mà giá trị văn chương đến nay vẫn còn ngời sáng với những câu bất hủ:

Say đi em ! Say đi em !
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên quên hết
Ta say quá rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi ?

Mà đó cũng là những vần thơ lãng mạn tột cùng đầy đam mê như hầu hết thi phẩm của Vũ Hoàng Chương, vì Tấu thư ngộ Thai ở Tật ách tại cung Địa Võng, có Kình – Đà, Diêu, Hỉ hội chiếu; Mệnh có âm, Dương, Xương, Khúc. Đó là biểu hiện của nỗi đam mê và tâm hồn lãng mạn bám sát đương số từ thuở hoa niên cho đến ngày vãn tuế.

Năm Tân Tỵ ( 1941 ) 27 tuỏi, tiểu hạn lên Mệnh viên. Gốc đại hạn có Kiếp Không; Tang Điếu gặp năm tiểu hạn có lưỡng Tuế, Suy, Tuyệt và Thái Dương ngộ Kị, là đương số đau khổ vì người yêu đi lấy chồng, đương số ôm ấp một dĩ vãng mười năm chất ngất sầu đau:

Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước ?
Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh…

Năm Nhâm Ngọ ( 1942 ), tiểu hạn đến Phụ mẫu, gặp hai cung Nô bộc và Tật ách hội họp, hội đủ bộ Thai, Diêu, Thương , Sứ, Hồng, Đào, Thiên Phủ ngộ Thiên Không đương số đang tuyệt vọng vì tình chán nản cuộc sống, gặp bạn bè rủ rê làm quen với ả phù dung. Cũng vì Kình Đà giáp Mệnh chiếu Tật ách, Tật ách lại đóng cung Địa Võng là cung rât độc đối với các tuổi Mão Dậu. Ở trong lại có Thai ngộ Liêm Trinh, bên ngoài có Thiên Tướng, Thiên Diêu, thiên hỉ hội chiếu, khiến cho đương số vướng vào nghiệp đi mấy về gió và đeo đẳng mãi cho đến ngày viên tịch.

Năm 29 tuổi ( Quý Mùi ) tiểu hạn đến Phúc Đức, gốc đại hạn ở Thê Thiếp giao huy với Lưu đại hạn ở Quan Lộc. Đương số gặp lương duyên; đến năm 30 tuổi, tiểu hạn vào Điền trạch, hội Hồng Đào, Thai Hỉ Khôi, Khoa, Tướng, Phủ mới hoàn thành cuộc hôn phối; và vị nguyên phối này chung sống với đương số mãi đến ngày nay; nhờ Thê thiếp có Cự, Cơ ngộ Lộc, Mã, Long-Phượng, Cự Môn, thiên Đồng, Quả Tú ngộ Tuần.

Nhìn qua các cung Tử-tức, Điền –trạch, Tài- bạch.

Cung Tử tức có Tham lang cư Tí, Hồng, Đào, Diêu, Hỉ ngộ Thiên Không, Kiếp sat, song Hao, Thiên Hình. Tuy có Hóa Khoa, Quang Quý, Quan Phúc quý nhân; Sinh, Vượng, song Hỉ nhưng vì Tuần Không án ngữ, cho nên đương số phải chịu cảnh hiếm con. May nhờ có Thiên Đức, Phúc đức bên trong, ngoài có Nguyệt Đức và bộ Khôi Việt hội họp với Thiếu âm, Thiếu Dương cho nên đương số cũng không đến nỗi võ nhi tống lão.

Cung Điền trạch đóng tại Ngọ, có Tử, Phủ, Vũ, Tướng hội chiếu Tử vi miếu địa tọa thủ gặp Phủ Tướng triều viên đáng lẽ đương số nhà lầu ô tô, ruộng vườn sung túc. Hiềm Tử vi ngộ Triệt hội song Hao khiến đương số chẳng những không được hưởng của phụ ấm, mà còn lận đận vì chuyện nhà cửa suốt đời.

Cung Tài bạch cũng quá tốt, mới nhìn vào thấy Thái âm ngộ Kị hội Lộc Mã, Bạch Hổ, Tướng Quân, Lộc Tồn, Thái Dương phải là tỷ phú. Hiềm vì Thiên giải và Tuyệt đồng cung làm cho hao tán ví như cái tủ sắt thủng đáy. Nhờ Mệnh có Lộc tồn, cho nên suốt đời đương số vẫn thực lộc viên mãn.

Nhìn qua các tiểu hạn sắp đến:

Năm nay ( nhâm Tí ) tiểu hạn và gốc đại hạn đều vào La Võng tại cung Tật ách; coi chừng các tháng 7,8,chạp, nguyệt hạn vào các cung có Không, Kiếp, Kị đương số sẽ bị ngã, hoặc ngộ độc. Năm Giáp Dần, 60, tiểu hạn gặp Sát, Phá, Tham tuy độc nhưng ngộ Tuần Không cho nên đương số chỉ ốm đau, hoặc có tiểu tang trong năm 61 tuổi vì tiểu hạn vào Thê thiếp có Kiếp Không, Tang, Điếu ,Tuế, Phục, Cô, Quả. Đến năm 64 tuổi là năm chót của đại hạn ở Tật ách có Phủ phùng Không, bao nhiêu sự xui xẻo còn sót lại đều dồn trong năm này để đổi lên đại hạn mới ở cung Thiên di, tiểu hạn ở Phụ mẫu giao huy với đại hạn Tật ách đó là hạn nặng nhất trong vòng mưới năm nay. Đương số sẽ ốm một trận vì có Diêu Y, Hồng, Đào, Hình, Không Thương, Sứ. Sau đó, đương số sẽ phải vượt một tiểu hạn nữa là năm 69 tuổi Đại tiểu hạn trùng phùng ở Thiên di: có Tang, Mã, không, Kiếp, Khốc, Khách, Điếu, Phục, Cô Quả. Nhờ có Thiên Lương Lộc tồn ở Mệnh, đương số ốm yếu nhưng vẫn trường thọ, nếu thoát được hai tiểu hạn vừa nêu trên.

Tóm lại, nhà thơ Vũ Hoàng Chương được các văn thi sĩ đương thời suy tôn là thi bá chỉ vì thi phẩm của ông đến bây giờ vẫn còn xuất bản những tác phẩm in từ thời tiền chiến vẫn còn làm nhiều bạn trẻ hôm nay mên chuộng. vì Mệnh có Thái Dương cư Mão ngộ Quyền, Lộc, Tuế, Khốc Hư và Thân cư tứ Mộ có Tả-Hữu, Long, Phượng, Thai-Tọa, giáp Xương Khúc, Quang Quý có Nhật Nguyệt tịnh Minh hội chiếu.
TC
Tặng cho những ai thích thơ Vũ Hoàng chương nè, một bài thơ cụ viết về mối tình 10 năm của cụ đi lấy chồng

Tố của Hoàng ơi

Năm 12 tháng, ai không biết!
Đã tháng nào không tháng 6 chưa?
Tháng có 30 ngày để giết,
Ngày 12 vẫn sống như xưa.

Lịch treo giữa ngực kêu thành tiếng,
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son… tủi áng mây đưa.

Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó 12, còn tháng 6…
30 năm lẻ vẫn chưa vừa!

Còn khóc trong tim này bất tuyệt;
Chừng như rối loạn cả đường tơ?
Trăng-nhà-ai vẫn là Trăng-khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ!

Ngày mai ngày mốt anh nằm xuống,
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp Thơ.
Đập nát ra! cho trời đất uống!
Thì em sẽ rụng khỏi Đêm-mờ.

*

Phút giây Trăng-một-phương tròn lại
Rồi tự hoà tan Rượu-đắng mơ,
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không-ngày-không-tháng-không-bơ-vơ.

12 tháng 6… cung Hồ Xế…
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ;
Trả cho cát bụi nhé Kiều-Thu!

(12 tháng 6 Nhâm Tí, 1972)

85. Kinh nghiệm tử vi của cụ Thiên Lương: những bí quyết giải đoán đại vận (KHHB Số 74G1 và 74G2)

0

Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương
Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN

* Đại vận rất quan trọng, lấn Áp cả Tiểu vận
* Ba bÍ quyết xÁc định sự tốt xấu của cung Đại vận, về ba phương diện: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.

Trần Việt Sơn trình bầy

Trong việc giải đoÁn lÁ số Tử vi, đối với sở thÍch của những người đã lớn tuổi, có thể kể rằng việc giải đoÁn đại vận là quan trọng nhất. Về phương diện tâm lý, với người đã lớn tuổi, người ta rất mong được biết những dịp tốt hay những vận hạn sẽ đến, nếu biết dịp tốt đến, sẽ cố gắng khai thÁc; nếu biết thất bại đến sẽ không dại bỏ tiền ra để rồi mất hết. Vả lại khi đã lớn tuổi, với nhiều người, gần như số mạng đã an bài, chỉ còn trông vào những thay đổi phần nào ở vận hạn. Trong thật tế có nhiều người chỉ ăn về vận. Đương là một người như mọi người, bỗng cơ may đưa đến, vọt ngay lên ngôi cao chức cả, thế rồi hết vận, lại tụt đi đâu mất không ai hay.

Người ta có thể kể không biết bao nhiêu người như thế, như ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, tướng Nguyễn KhÁnh, ông Trần Trọng Kim, cụ Phan Khắc Sửu, và gần đây hơn, có biết bao nhiêu người đương là giÁo sư công chức, kỹ sư, dược sĩ, nhẩy ngay lên chức lớn, và có một số đã bỗng nhiên bỏ chức chức lớn mà trở về với cuộc sống bình thường; có những người đương làm ăn bình thường, bỗng lời đổ đến tay như thÁc nước trong cả một thời kỳ, nhưng rồi quen ăn làm tới, tiền lại ào ào đội nón ra đi. Những cuộc thay đổi lớn lao và bất thường đó là do Đại Vận, hơn là do Tiểu vận.

-Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời. Đại vận mà khÁ thì cũng như có cÁi gốc khÁ. Tiểu vận có kém cũng được khÁ theo, và nếu Tiểu vận được khÁ thì lại càng khÁ nhiều.
Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tÍnh vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khÁ thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quÁ dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.

-Trong việc đoÁn số mạng đoÁn Đại vận là nắm được cÁi tốt xấu trong cả một cuộc đời, cho nên đoÁn đại vận là một sự rất hứng khởi. Có một lần, một vị độc giả, hận vì đã bị đoÁn số lầm, nhất định xin hỏi cụ Thiên Lương giải đoÁn cho vận hạn mấy năm. Vị độc giả đó không nói trước điều nào. Cụ Thiên Lương tÍnh toÁn rồi nói: “Mấy năm nầy, ông làm ăn thất bại, thiệt tiền của”. Vị nọ thở phào, tự coi như an ủi vì số mạng đúng. ông mới tâm sự: “Đó là mấy năm tôi phải bỏ một số vốn lớn công ty vào một việc. Tôi đã hỏi kỹ mấy ông thầy. Mấy ông bảo tốt, cứ xúc tiến công việc đi. Tôi yên trÍ bỏ tiền ra không ngờ mất tất cả. Nhưng tại sao lại hỏng việc được? Rõ ràng hành của cung đại vận sinh cho hành mệnh của tôi như thế bước vào đại vận này là phải tốt chứ? Cụ Thiên Lương trả lời rằng ông mới được địa lợi, nhưng Thiên thời lại hỏng.
Và bây giờ chúng tôi xin trình bày những kinh nghiệm của cụ Thiên Lương.

Ba yếu tố chÍnh

Để xÁc định một cung Đại vận là tốt hay xấu, có ba yếu tố chÍnh:
1.Hành của bộ Tam hợp cung Đại vận sinh cho hành của bộ Tam hợp cung tuổi, hay đồng hành, là tốt. Khắc là xấu. Đó là yếu tố Thiên thời. Được Thiên thời là được thế thắng, được vận tốt do số mạng dành cho mình là được khÁ hơn đại vận khÁc.

2.Hành của cung Đại vận sinh hay khắc cho Mệnh của mình. Sinh là tốt, khắc là xấu. Đây là yếu tố chủ về thế thắng và vận tốt. Chắc cÁc bạn thÍch Tử vi đã nhận ra rằng đây là yếu tố chủ chốt mà cÁc nhà giải đoÁn Tử vi thường dùng để xét đoÁn vận tốt xấu, (nhưng cÁc ông lại không để ý đến yếu tố là yếu tố Thiên thời).

3.Sự thÍch hợp hay không thÍch hợp của bộ sao tại Đại vận đối với bộ sao tại cung Mệnh. Có những bộ sao mà quý bạn đều biết: SÁt PhÁ Liêm Tham, Tử Phủ Vũ Tướng, Cự, Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương: Yếu tố này cũng được cÁc sÁch cổ nói đến và cÁc thầy Tử vi sử dụng, nhưng không có sự hệ thống hóa đầy đủ, chỉ nói sơ trong vài trường hợp (tỷ dụ: Mệnh có bộ sao này, đến cung đại vận gặp bộ sao này, thì tốt hay xấu). Yếu tố thứ 3 này là yếu tố Nhân hòa.

Yếu tố về Tuần Triệt đã được chúng tôi trình bầy, chúng tôi sẽ nhắc lại. Còn cÁc trung tinh, hung tinh là những yếu tố thêm vào cho cÁc yếu tố chÍnh, và chỉ rõ thêm về cÁc trường hợp cÁ biệt, như vận mạng về gì, hạn về phương diện nào. ThÍ dụ:

-Được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa là được đại vận rực rỡ. Nếu lại được cÁc trung tinh tốt và thoÁt được cÁc hung tinh hãm, thì càng rực rỡ hơn.

-Bị cả 3 yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, cùng xấu, là bị đại vận xấu. Nếu lại bị những sao hung xâm nhiễu, thì đó là đại vận rất nặng, gặp nhiều thất bại, và có thể đi đến cÁi chết.

Trong số giai phẩm này, chúng tôi xin trình bầy hai yếu tố Thiên Thời và Địa lợi. CÁc yếu tố khÁc, sẽ xin trình bầy trong giai phẩm sau.

A-YẾU TỐ THIêN THỜI

Trong Tử vi, đừng bao giờ quên yếu tố cÁc bộ Tam hợp. Xin nhắc lại hành bộ Tam hợp trên lÁ số:

1-Thân Tí Thìn: THỦY
2-Hợi Mão Mùi: MỘC
3-Dần Ngọ Tuất: HỎA
4-Tỵ Dậu Sửu: KIM

Nguyên tắc: Trước hết, ghi nhận hành của tam hợp cung tuổi. Như người tuổi Tí thuộc tam hợp Thân Tí Thìn, hành Thủy.

Rồi muốn đoÁn cho mỗi đại vận cứ xét hành của tam hợp của cung Đại vận đó. So sÁnh hai hành (Hành của tam hợp cung tuổi và hành của tam hợp cung Đại vận) thấy sự sinh khắc chế hóa thế nào thì biết Thiên thời của Đại vận là xấu hay tốt.

-Hành tam hợp Đại vận sinh cho hành tam hợp tuổi: tốt, được Thiên thời.

-Hành tam hợp Đại vận đồng hàng với tam hợp tuổi (đây là trường hợp đại vận vào cung có ThÁi tuế Quan phù, Bạch hổ): tốt. Thiên thời đến cho mình.

-Hành tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi (trường hợp mình bị khắc nhập) xấu nhất, thời gian và hoàn cảnh chung đÁnh vào mình và thắng mình, mình bị nhiều thất bại và thua thiệt.

-Hành tam hợp Đại vận bị hành tam hợp tuổi khắc (trường hợp khắc xuất): mình khắc thời vận, gặp nhiều khó khăn, nhưng mình cố gắng và chịu chật vật nhiều, có thể thắng được.

-Hành tam hợp Đại vận được hành tam hợp tuổi sinh (trường hợp sinh xuất): tuy sinh, nhưng sinh xuất, cho nên lao đao, như người mất mÁu huyết, mất sức lực tiền bạc.

Ghi cÁc trường hợp

Quý bạn cứ theo cÁc giải đoÁn trên mà xÁc định về Thiên thời: sau đây, nên ghi cÁc trường hợp.

1)Tuổi Thân, Tí, Thìn Tam hợp Thủy
Đại vận đến cung Thân, Tí, Thìn: được Thiên thời, tốt nhất của mình
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Thủy sinh Mộc, vậy bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Thủy khắc Hỏa khắc xuất. Mình khắc thời, phải chật vật mới thắng
Đại vận đến Tỵ Dậu Sửu (Kim). Sinh nhập, Thiên thời.

2)Tuổi Hợi Mão Mùi Tam hợp Mộc
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi, tức đến tam hợp ThÁi tuế, tốt nhất.
Đại vận đến cung Thân, Tí, Thìn (Thủy): Mình được sinh nhập. Tốt, mình có Thiên thời.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị sinh xuất, lao đao.
Đại vận đến Tỵ Dậu Sửu (Kim). Mình bị khắc nhập xấu.

3)Tuổi Dần Ngọ Tuất (Hỏa)
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (tam hợp ThÁi tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tí, Thìn (Thủy): Mình bị khắc xấu
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Mình được sinh nhập. Tốt.
Đại vận đến Tỵ Dậu Sửu (Kim) khắc xuất, phải chật vật mới thắng

4)Tuổi Tỵ Dậu Sửu (Kim)
Đại vận đến cung Tỵ Dậu Sửu (tam hợp ThÁi tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tí, Thìn (Thủy): Mình bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Khắc xuất
Đại vận đến Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị khắc nhập

Dàn bài cho đủ cÁc trường hợp, chớ thật ra bạn nắm vững nguyên tắc cÁc bộ tam hợp và hành sinh khắc, là bạn giải đoÁn được ngay.

B-YẾU TỐ ĐỊA LỢI

Hành của cung Đại vận sinh cho mệnh của mình, là sinh nhập, tốt nhất.
Hành của cung Đại Vận đồng hành với Mệnh là tốt.
Hành của Mệnh mình sinh cho hành cung Đại Vận, là sinh xuất, lao đao.
Hành của Mệnh mình khắc hành cung Đại vận: Khắc xuất, bị chật vật nhưng có thể thắng.
Hành của cung Đại vận khắc hành của mệnh: Khắc nhập, xấu, thất bại.

Một lÁ số kiểm chứng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

LÁ số Kỷ Mùi, 56 tuổi, Mệnh Hỏa (Thiên Thượng Hỏa), tam hợp tuổi Hợi Mão Mùi thuộc Mộc.

Đại vận 2-11 ở Sửu, thuộc Tỵ Dậu Sửu (Kim) Thiên thời: Hỏa khắc Kim; khắc xuất Địa lợi: cung Sửu, hành Thổ. Hỏa sinh Thổ, Mệnh sinh xuất.

Đại vận 12-21: ở Tí, thuộc Thân Tí Thìn (Thủy). Thủy sinh Mộc, vậy được Thiên thời, tốt. Cung Tí thuộc Thủy. Thủy khắc Mệnh hỏa, hỏng Địa lợi.

Đại vận 22-31: ở Hợi, thuộc Hợi Mão Mùi (Mộc), tam hợp ThÁi tuế: được Thiên thời. Cung Hợi thuộc Thủy. Thủy khắc Mệnh Hỏa, hỏng Địa lợi.

Hai đại vận ở Tí và Hợi hỏng Địa lợi, nhiều người đoÁn là hỏng: thật ra đương số được Thiên thời, nên khÁ (học hành tiến, tuy bị nhiều bệnh mà vẫn khỏi và sống, thành đạt, đi làm, cưới vợ được điều hòa).

Đại vận 32-41: ở Tuất, thuộc Dần Ngọ Tuất (Hỏa), Thiên thời: sinh xuất (vì Mộc sinh Hỏa), lao đao. Cung Tuất thuộc Thổ, Mệnh Hỏa: sinh xuất. Đại vận này nhiều lao đao, bệnh tật, nghèo túng.

Đại vận 42-51 ở Dậu thuộc TÍ Dậu Sửu (Kim). Kim khắc Mộc, bị khắc nhập, xấu nhất, hỏng Thiên Thời. Cung Kim, Mệnh Hỏa khắc Kim, vậy khắc xuất. Thiên thời, Địa lợi hỏng, may được Triệt ở Đại vận cởi gỡ Tuần ở Mệnh. Vào cuối Đại vận, làm ăn khÁ.

Đại vận 52-61 ở Thân, thuộc Thân Tí Thìn (Thủy). Thủy sinh Mộc vậy được Thiên thời. Cung Kim, Mệnh Hỏa khắc Kim vậy, vậy khắc xuất vẫn được khÁ nhưng phải chật vật, cố gắng nhiều.

Đại vận 62-71 ở Mùi, thuộc Hợi Mão Mùi (đại vận ThÁi Tuế): được Thiên thời. Cung Mùi thuộc Thổ, Mệnh Hỏa sinh Thổ: sinh xuất.

Tuy nhiên còn phải xét yếu tố thứ 3 là yếu tố cÁc bộ sao. Xin mời quý bạn đón coi giai phẩm sau, để thấy sự liên hợ của 3 yếu tố, trong việc giải đoÁn Đại vận tất chÍnh xÁc.

KHHB số 74G1
———————————————————————————

Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương
Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN

* Yếu tố thứ ba: bộ sao gặp Đại vận có hợp với bộ sao tại Mạng không?

Trần Việt Sơn

Trong giai phẩm trước, chúng tôi đã trình giải kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về việc giải đoÁn Đại vận. Chúng tôi đã nói đến hai yếu tố đầu, bây giờ xin nói đến yếu tố thứ ba, sau đó sẽ xin nói đến những yếu tố phụ thuộc (nhưng cũng quan trọng).

Nhắc lại: Yếu tố Thiên Thời: được thời vận thì dù cÁc yếu tố khÁc có kém, mình cũng khÁ. Xét yếu tố này, phải cân nhắc tam hợp cung tuổi của mình và tam hợp cung đại vận: nếu đến tam hợp Đại vận đồng hành với tam hợp tuổi, mình được khÁ nhất; tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, là có Thiên Thời tốt; tam hợp Đại vận khắc tam hợp cung tuổi: khó khăn nhất và hoàn cảnh thắng mình. Tam hợp tuổi sinh cho tam hợp Đại vận là bị sinh xuất: mình bị lao đao, có khÁ được cũng mệt mỏi tiêu hao nhiều.

-Yếu tố hai là yếu tố Địa lợi: phải ghi hành của Mệnh mình (tức là Mệnh của mình là người Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ) rồi xét xem Đại vận đến cung nào, hành của cung này sinh khắc cho Mệnh thế nào. Tùy theo cÁc thế sinh khắc mà ta đã biết: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, ta biết được cung Đại vận sinh khắc chế hóa như thế nào với Mệnh của ta. Cung Đại vận sinh cho Mệnh của ta là tốt nhất. Cung Đại vận hòa với Mệnh của ta là trung bình. Mệnh của ta sinh cho cung Đại vận, là ta bị sinh xuất, có đạt được cũng lao đao, cuối cùng cung Đại vận khắc Mệnh của ta, là ta gặp khó khăn, hoàn cảnh chế ngự ta, ta không thể thắng nổi. Nếu Mệnh bị cung khắc, còn có thể xét xem được yếu tố âm Dương của cung giống âm Dương của Mệnh thì cũng dở.

Yếu tố thứ ba: bộ sao ta gặp ở Đại vận

Yếu tố thứ ba là bộ sao ta gặp ở Đại vận hợp hay không hợp với bộ sao ta có tại cung Mệnh. Đây là yếu tố mà ta thường thấy ghi ở cÁc sÁch cổ kim, nhưng cÁc trường hợp này không được giải thÍch và hệ thống hóa. Cụ Thiên Lương đã hệ thống hóa như sau:

Như trong sÁch “Tử vi nghiệm lý” cụ đã ghi, cụ phân cÁc bộ chÍnh tinh ra âm và Dương, Dương là thực hành mà âm là lý thuyết. CÁc bộ Tử, Phủ, Vũ, Tướng và SÁt, PhÁ, Liêm, Tham thuộc về Dương và có tÁnh chất thực hành, cÁc bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật thuộc về âm và có tÁnh chất lý thuyết. Hai bên âm Dương phân ra như vậy là hình ảnh của Lưỡng nghi.

Phân biệt ra Tứ tượng, ta có 4 bộ với tÁnh chất như sau:
SÁt PhÁ Liêm Tham: 100% thực hành.
Tử Phủ Vũ Tướng: 60% thực hành, 40% lý thuyết
Cự Nhật: 60% lý thuyết, 40% thực hành.
Cơ Nguyệt Đồng Lương: 100% lý thuyết.

Luận ra cÁc thế của Đại vận

Sự khÁc biệt hay giống nhau là do chỗ thế âm và thế Dương mà gặp nhau thì nghịch, thường kém tốt; hoặc thế lý thuyết mà gặp thế thực hành thì có phÁt thêm, nhưng gặp họa lệch lạc, kém tốt. Tuy nhiên, nếu lý thuyết 100% mà gặp thực hành 100% thì phÁt mạnh hoạt động nhiều nhưng gặp họa nhiều hơn là những thế tuy khÁc biệt âm Dương mà thế lý thuyết, thực hành không khÁc nhau xa mấy (như có thế 60% lý thuyết, 40% thực hành mà gặp thế 40% thực hành 60% lý thuyết thì không khÁc nhau xa mấy). Cũng vậy, thế 100% thực hành mà gặp thế 60% thực hành, 40% lý thuyết, cũng không khÁc xa nhau mấy.

Từ căn bản đó, luận ra cÁc thế như sau:
-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương (yếu, âm, 100% lý thuyết) gặp Đại vận SÁt PhÁ Liêm Tham (mạnh, Dương, 100% thực hành): phÁt mạnh thì lại bị nặng, nhiều khó khăn, có thể có những cÁi rủi lớn.

-Mệnh SÁt PhÁ Liêm Tham gặp Đại vận SÁt PhÁ Tham – giống nhau hợp, tốt.

-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương đến đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương giống nhau, hợp, tốt.

-Mệnh SÁt PhÁ Tham gặp đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương: kém, nhưng không hiểm nguy, mặc sống kém hơn so với cÁc đại vận SÁt PhÁ Tham (tóm lại là kém đi).

-Mệnh SÁt PhÁ Tham gặp đại vận Tử Phủ Vũ Tướng, cùng Dương, vậy là không có gì khó khăn nặng, nhưng cũng giảm kém xuống một chút vì sự khÁc biệt về thế thực hành, lý thuyết ( SÁt PhÁ Tham đương hoạt động 100/100, gặp Tử Phủ Vũ Tướng hoạt động giảm đi, nhưng thêm lý thuyết thế vào).

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Tử Phủ Vũ Tướng: tốt.

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp đại vận SÁt PhÁ Tham, phải hoạt động thâm lên như cũng giảm kém chút đỉnh.

-Tử Phủ Vũ Tướng với Cơ Nguyệt Đồng Lương: cũng luận như giữa SÁt PhÁ Tham và Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng sự khắc biệt, sự giảm kém không quÁ mạnh, là vì Tử Phủ Vũ Tướng còn có 40% lý thuyết so với Cơ Nguyệt Đồng Lương 100% lý thuyết.

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Cự Nhật: khÁc về âm Dương, nhưng sự chênh lệch trong tỷ lệ lý thuyết và thực hành rất Ít, nên sự giảm kém cũng rất Ít. Mệnh Cự Nhật gặp Tử Phủ Vũ Tướng cũng luận theo như thế.

Vài yếu tố khÁc

Luận ba yếu tố trên, đủ thấy được đại cương Đại vận tốt xấu, một cÁch rất chÍnh xÁc.

Còn những yếu tố phụ khÁc, nhưng cũng quan trọng, là cÁc trung tinh lớn và cÁc hung tinh lớn.

Ngoài ra có yếu tố lớn và chúng tôi đã nêu lên trong một kinh nghiệm trước cũng của cụ Thiên Lương, đó là kinh nghiệm về Tuần Triệt như một yếu tố để giải đoÁn Đại vận, Tuần hay Triệt nói chung làm giảm kém cÁc sao tốt, nhưng lại làm tốt những sao hãm.

Nếu ở cung Mệnh có Tuần giải chế Mệnh thì đến Đại Vận có Triệt, mệnh được cởi gỡ ra và khÁ lên. Cũng vậy, nếu ở Mệnh có Triệt thì đến Đại vận có Tuần, vận mệnh được gỡ ra và khÁ lên.

Một lÁ số để thử nghiệm

Xin lấy một lÁ số để cụ thể hóa cÁc nguyên tắc trên bằng một cuộc Áp dụng thật tế, để dễ nhận định hơn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

LÁ số trên, Mệnh tại Sửu, cÁch SÁt PhÁ Liêm Tham; Hỏa mệnh; âm nam; tam hợp tuổi là Hợi Mão Mùi thuộc Mộc.

Đại vận 12-21 tại Tí – Tam hợp Đại vận là Thân Tí Thìn, thuộc Thủy, Thủy sinh Mộc, vậy là được Thiên thời, yếu tố chÍnh. Cung Đại vận tại Tí là cung Thủy, khắc mệnh Hỏa: mất Địa lợi. Bộ chÍnh tinh là Cơ Nguyệt Đồng Lương, lệch với bộ SÁt PhÁ Liêm Tham, nhưng không nặng bằng khi Mệnh là Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp đại vận SÁt PhÁ Liêm Tham. Trong giai đoạn này, đương số sống dưới bóng cha mẹ, được đầy đủ điều kiện ăn học, nhưng cũng gặp khÁ nhiều vấp vÁp trong việc học thi trượt mấy lần, và lúc cuối đại hạn cũng lên được đại học. Bị một đau tưởng chết.

Đại vận 22-31 tại Hợi – Được Thiên thời vì Đại vận tại Hợi thuộc tam hợp Hợi Mão Mùi đồng hành với tam hợp tuổi. Cung Đại vận thuộc Thủy, khắc mệnh Hỏa, mất Địa lợi, nhưng cũng kéo lại phần nào là vì cung âm đồng mệnh âm. Bộ sao nặng về Tử Phủ Vũ Tướng, thuộc Dương cùng với bộ SÁt PhÁ Liêm Tham được lợi lạc. Tuy hành cung Đại vận khắc hành Mệnh, nhưng cũng được khÁ. Trong đại hạn này, đương số sống cuộc đời nhiều biến cô, chen lẫn tốt với xấu. Đường công danh thi trượt nhiều lần, nhưng đi làm, thi đậu đi làm chức cao, nhưng rồi lại bỏ việc, sống khổ một thời gian ngắn, rồi lại khÁ lên. Đường vợ con: lấy vợ, sanh con. Sức khỏe: mang những bệnh nặng trong người tưởng khó thể qua khỏi, nhưng rồi vẫn sống được. Tóm lại: nhiều bước thăng trầm, nhưng vẫn khÁ.

Đại vận 32-41 – Tại Tuất, tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa, vậy là tam hợp tuổi bị sinh xuất (Mộc sinh Hỏa).
Đại vận ở cung Thổ, mạng Hỏa, vậy là Mạng bị sinh xuất. Hai yếu tố Thiên thời, Địa lợi bị kém, chủ về sự lao đao. Về bộ sao thấy có Cơ Lương chiếu, Cự Nhật chiếu, chủ về sự giảm kém. Đương số quả gặp những bước lao đao, gây được một Ít tài sản lại phải bỏ đi cư gặp mấy lần hạn nặng (vì chÁnh trị, cụ Ngô Đình Diệm cho đi nằm ấp), một lần đau nặng cả năm trời tưởng chết, nhiều lần thay đổi chỗ ở. Mặc dầu làm việc nhiều nhưng chỉ đủ ăn.

Đại vận 42-51 – Tại Dậu, thuộc Tỵ Dậu Sửu hành Kim, khắc tam hợp tuổi thuộc Mộc, là mất Thiên thời. Cung Đại vận thuộc hành Kim, hành Hỏa của Mạng khắc Kim, tuy là khắc xuất không nặng bằng khắc nhập, nhưng cũng là xấu, tuy chế ngự được hoàn cảnh và có những thành công, nhưng phải khổ công hoạt động rất nhiều. Được Nhân hòa đúng bộ SÁt PhÁ Liêm Tham như tại Mệnh. Lại được thêm một yếu tố quan trọng: sao Triệt tại đây cởi gỡ cÁi Tuần của Mệnh nên vận mạng sÁng ra, được ổn định hơn.
Đương số trải qua những phen hứng khởi, hoạt động nhiều, đường làm ăn đều hòa hơn, tuy có vài trận đau ốm. Nhưng gọi là thành công như ý muốn thì không có. Tuy nhiên, việc làm ăn, hoạt động và hứng khởi, đều hơn trước, khÁ hơn trước, cho phép sắm sửa trong nhà, sống sung túc hơn.

Đại vận 52-61 – Đại vận tại Thân, thuộc Thân TÍ Thìn, Thủy sinh cho Mộc của tam hợp tuổi. Được Thiên thời, cung Đại vận thuộc Kim, so với mệnh Hỏa là khắc nhập: vẫn phải tranh đấu nhiều để khắc phục hoàn cảnh. ChÍnh tinh gặp thế Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật Đại vận phải giảm kém. Mất yếu tố Triệt cởi gỡ Tuần trong Đại vận trước. Tuy nhiên, yếu tố Thiên thời là quan trọng.
Trong đại vận này, đương số đã bị một vài tật bệnh tưởng nguy nhưng thoÁt cả. Việc làm ăn được đều hòa và có phần sung túc nhờ được người tốt giúp đỡ. Nhưng đại vận này mới được phân nửa, chưa cho biết rõ hơn.
Muốn rõ chi tiết, phải coi nhưng trung tinh và hung tinh khÁc trong cÁc cung.

Sự quan trọng của yếu tố Đại vận

-Yếu tố Đại vận rất quan trọng vì nó đứng chủ cho cÁc tiểu vận. CÁc tiểu vận khÁ hay xấu là do Đại vận mà ra.

-Phần nào, Đại vận cho phép bốc lên một cÁch khốc liệt theo Mạng, hoặc có thể vùi dập xuống đến đất đen.
Như một người Mệnh thường nhưng mấy chục năm, chỉ làm những công việc thông thường. Nhưng gặp Đại vận được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, bổng bộc phÁt dữ dội. Nhưng qua khỏi Đại vận đó, lại tụt thang, trở về nếp sống cũ.

-Một sinh viên có một cung mệnh rất tốt, tương lai huy hoàng. Gặp phải đại vận mà cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa cùng hỏng, thế là đương nhẹ bước thang mây và có tương lai hứa hẹn huy hoàng, anh ta bị nạn lớn và từ trần. Xem lÁ số, không thấy Mệnh và Phúc chỉ sự yểu vong – nhưng xem đến Đại vận, thấy hỏng cả mấy yếu tố, nên chết. Đại vận thật là ghê gớm vậy (lÁ số của anh sinh viên này sẽ được cụ Thiên Lương dẫn giải trong số giai phẩm tới)

Đó chỉ là một yếu tố để ấn định tai họa nặng. Cũng có những lÁ số được Thiên thời hay Địa Lợi hay Nhân Hòa, nhưng bị chết, là vì còn những yếu tố khÁc.

KHHB số 74G2

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

84. Giải đoán lá số tử vi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương (KHHB Số 9)

0

GIẢI ĐOÁN LÁ SỐ TỬ VI CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Sanh năm Ất Mão tháng 4, ngày 1, giờ Dần, âm nam, thủy mệnh, thổ ngũ cục.

“ Ta đợi em từ hai mươi năm.
Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm…. “

Một mối tình đẹp thư tho và mong manh như sương khói…phù du, đã tan vỡ từ bao nhiêu năm qua vẫn còn đẹp mãi trong tâm hồn nhà thơ họ Vũ…. Vũ Hoàng Chương là một trong những văn thi si tiền chiến còn sót lại ở Miền Nam, cũng là một trong những ngôi sao sáng của khung trời văn học miền Nam hiện nay. Nổi danh từ trước những năm 1940 với những vần thơ hoài niệm quá khứ “ Gối vài mộng phong hầu, vàng son mơ gác xép “ hay những điệu thơ buồn nhẹ khóc cho một cuộc tình mong manh….

Cho tới vở kịch thơ lãng mạn “ Văn Muội “ ( trước kháng chiến ) Rừng Phong tập thơ xuất bản ở Hà Nội năm 49 -50 và tới nay… Trên 30 năm trên thi đàn, Vũ Hoàng chương vẫn là một vì sao khuê rực sáng…. Trong lúc những người cũng làm văn nghệ cùng thời với ông, có khi sau ông ít nhiều đã rơi vào quên lãng…. Phải chăng hơn nhau ngoài cái “ Tài ‘ còn có cái “ số “ Một biên tập viên của KHHB, ông Thiên Cơ sẽ chấm giải lá số của thi sĩ Vũ Hoàng Chương để bạn đọc có thể qua lá số biết được thêm về con người, tình yêu và sự nghiệp của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, một người mà chúng tôi tin là độc giả đã biết nhiều qua thi ca của ông.
K.H.H.B

– Thiên cơ phối kiểm và luận giải –

Khái luận Thân, Mệnh, Cục:

Mệnh lập tại Mão, chấn cung thuộc âm Mộc. Tuổi âm Nam, Mệnh lập tại cung âm, Thủy Mệnh lập tại cung thuộc Mộc là thuận lý. Đắc cách Nhật xuất phù tang hội Quyền, Lộc, Tả- Hữu Long, Phượng, Thai- Tọa và cách Lộc Tồn ngộ âm Dương miếu vượng; Thái Tuế ngộ Quyền, Khốc , lộc; Quyền ngộ Tướng Ấn.
Vơi những cách này đáng lẽ phát về quan trường, nhưng cung quan lộc VCD, lại ngộ Triệt, khiến nên bản tính phóng khoáng, không chịu được sự gò bó trong hoạn lộ.

Thân cư Quan lộc tại Mùi – âm cung thuộc Thổ, tuổi âm nam, Thổ cục, Thân cư cung âm -Thổ rất thuận lý. Đắc cách Long Phượng, Tả Hữu ( cư tứ mộ ) Thai Tọa, hội Nhật Nguyệt, Quyền Lộc, Khốc Khách Long Hổ Tướng Ấn; Cái Hổ Long Phượng ( tứ linh ) củng chiếu. Lại thêm cách Thân giáp Xương giáp Khúc, giáp Quang giáp Quý. Nhờ ngộ Triệt cho nên ảnh hưởng tinh lực của Hóa Khoa.

Cung Thân hội nhiều sao nổi tiếng lại giáp Xương Khúc; Quang Quý thành thử đương số nổi tiếng lâu dài và sáng tác thi phẩm vẫn lai rai cho đến ngày vãn tuế, vì mệnh có Khốc Hư.

Lược giải các đại, tiểu hạn.

Biến chuyển tình cảm quan trọng nhât trong đời nhà thơ Vũ Hoàng Chương là mối tình đầu mà cũng là mối duyên nợ cứ đeo đẳng mãi tâm tư suốt tuổi hoa niên cho đên ngày vãn tuế. Đó là năm 1932, ( Nhâm Thân ) đương số 18 tuổi, gốc đại hạn ở Huynh Đệ, tiểu hạn đến Điền trạch. Gốc đại hạn có Thiên tướng ngộ Xương Khúc, Trường sinh, Song hỉ. Tiểu hạn hôi Liêm Tham ( cả hai đều có tính chất đào hoa ) ngộ Hồng Đào, một mối tình thơ mộgn đã hằn sâu trong tâm khảm đương số mười năm trời để rồi tan vỡ, chỉ vì Đà La và Đẩu quân cản trở sự hợp hôn, và Trường sinh đã giữ lại lâu dài vết thương lòng trong tâm tư. Khi người yêu đi lấy chồng, vào ngày 12 tháng 6 năm 1941 khiến cho đương sô ngẩn ngơ:

Đôi lứa say mê cùng gắn bó
Mẹ cha cùng hẹn để dành nơi
Trường chung một hướng, nhà chung ngõ
Hoa gấm cùng mơ dệt cuộc đời
Thế mà tan tác mười năm mộng
Có kẻ ra đi chẳng một lời….

Để rồi tháng năm chồng chất, dù thương hải tang điền bao lần biến đổi, nhưng mối tình đầu vẫn ngày một in đậm nét trong lòng và lẫn trong thi phẩm:

Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp
Tình mưới năm còn lại mấy tờ thư…

Năm 1933 ( Quý Dậu ), đương số 19 tuổi, tiểu hạn vào Quan lộc, có Long Phượng, Tả Hữu, Thai Tọa hội âm Dương, Quyền, Lộc ,Tuế, Khốc Khách, Long Hổ Cái phượng ( tứ linh ) đương số vướng vào nợ thi ca. Cũng bắt đầu từ tiểu hạn ở cung Quan lộc cư Tứ Mộ có Tả Hữu, long Phượng hội tứ linh, giáp Xương Khúc, Quang Quý; Mệnh đắc Nhật xuất phù tang ( mặt trời lên khỏi ruộng dâu ) ngộ Quyền Lộc Tuế Khốc cho nên đương số hiển đạt sự nghiệp văn chương, vời vợi trên thi đàn như ngôi sao Bắc đẩu.

Năm 1937 ( Đinh Sửu ) , 23 tuổi, tiểu hạn vào Tài bạch, lưu đại hạn vào ở Mệnh viên. Tiểu hạn gặp Thái âm cư Hợi, tức Nguyệt lãng thiên môn ngộ Hóa Kị là khánh vân phùng Nguyệt, hội họp với Lộc Mã, Lộc Quyền, Tả Hữu, Cơ Lương. Đáng lẽ với sự thông minh lỗi lạc đó, dịp này đương số phải xuất dương du học như hạn Nhật xuất phu tang của lá số chính khách Hồ Hữu Tường. Hiềm vì gốc đại hạn còn ở Huynh Đệ có Thiên tướng ngộ Đà la, Song hỉ, đương số phóng túng, ưa la cà trà đình tửu điếm hơn là chú ý đến chuyện học hành thi cứ. Cho nên năm này đỗ xong tú tài Pháp, là đương số ghi tên học luật cho chương trình học đường khỏi vướng bận óc lãng mạn, bước lãng du của nhà thơ, hơn các phân khoa khác. Tuy vậy, học luật cũng chỉ có hơn 2 năm, qua đến năm Đinh Mão, tiểu hạn vào Thê thiếp gặp Cự Đồng hãm ngộ Tuần, hội các hung tinh chuyên tác họa như Không Kiếp Tang Điếu Cô Quả, Tuế, Phục khiến cho đương số bỏ ngang sự học.

Vì năm này đương số 25 tuổi, Đại Tiểu hạn trùng phùng ở đây, Cự, Đồng hãm ngộ Tả – Hữu là thay đổi hoàn cảnh rất đột ngột. Đáng lẽ bỏ học để phiêu lãng cho thỏa chí tang bồng, nhưng nhờ có Cơ; Lộc, Mã ngộ Thanh Long, Long Phượng; Thai – Tọa cho nên đương số đi làm Phó kiểm soát sở Hỏa xa Đông Dương.

Năm Canh Thìn ( 1940 ) tiểu hạn đến Huynh-Đệ, lưu đại hạn lên Quan Lộc, tiểu hạn có Vũ, Tướng ngộ Xương Khúc, Quang Quý, Thiếu âm, Quan đới, Hóa Khoa, Trường Sinh, Thai Phụ, Hỉ Thần hội Tấu Thơ, Thiên Phủ, Tử vi. Gốc đại hạn và lưu đại hạn giao huy có Mộc Dục, Hoa cái, Tả Hữu Long, Phượng, Thai – Tọa, Thanh Long, Hóa lộc, Thiên Mã, đương số xuất bản tác phẩm thơ SAY; một đứa con nghệ thuật đầu tiên chào đời; mà giá trị văn chương đến nay vẫn còn ngời sáng với những câu bất hủ:

Say đi em ! Say đi em !
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên quên hết
Ta say quá rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi ?

Mà đó cũng là những vần thơ lãng mạn tột cùng đầy đam mê như hầu hết thi phẩm của Vũ Hoàng Chương, vì Tấu thư ngộ Thai ở Tật ách tại cung Địa Võng, có Kình – Đà, Diêu, Hỉ hội chiếu; Mệnh có âm, Dương, Xương, Khúc. Đó là biểu hiện của nỗi đam mê và tâm hồn lãng mạn bám sát đương số từ thuở hoa niên cho đến ngày vãn tuế.

Năm Tân Tỵ ( 1941 ) 27 tuỏi, tiểu hạn lên Mệnh viên. Gốc đại hạn có Kiếp Không; Tang Điếu gặp năm tiểu hạn có lưỡng Tuế, Suy, Tuyệt và Thái Dương ngộ Kị, là đương số đau khổ vì người yêu đi lấy chồng, đương số ôm ấp một dĩ vãng mười năm chất ngất sầu đau:

Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước ?
Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh…

Năm Nhâm Ngọ ( 1942 ), tiểu hạn đến Phụ mẫu, gặp hai cung Nô bộc và Tật ách hội họp, hội đủ bộ Thai, Diêu, Thương , Sứ, Hồng, Đào, Thiên Phủ ngộ Thiên Không đương số đang tuyệt vọng vì tình chán nản cuộc sống, gặp bạn bè rủ rê làm quen với ả phù dung. Cũng vì Kình Đà giáp Mệnh chiếu Tật ách, Tật ách lại đóng cung Địa Võng là cung rât độc đối với các tuổi Mão Dậu. Ở trong lại có Thai ngộ Liêm Trinh, bên ngoài có Thiên Tướng, Thiên Diêu, thiên hỉ hội chiếu, khiến cho đương số vướng vào nghiệp đi mấy về gió và đeo đẳng mãi cho đến ngày viên tịch.

Năm 29 tuổi ( Quý Mùi ) tiểu hạn đến Phúc Đức, gốc đại hạn ở Thê Thiếp giao huy với Lưu đại hạn ở Quan Lộc. Đương số gặp lương duyên; đến năm 30 tuổi, tiểu hạn vào Điền trạch, hội Hồng Đào, Thai Hỉ Khôi, Khoa, Tướng, Phủ mới hoàn thành cuộc hôn phối; và vị nguyên phối này chung sống với đương số mãi đến ngày nay; nhờ Thê thiếp có Cự, Cơ ngộ Lộc, Mã, Long-Phượng, Cự Môn, thiên Đồng, Quả Tú ngộ Tuần.

Nhìn qua các cung Tử-tức, Điền –trạch, Tài- bạch.

Cung Tử tức có Tham lang cư Tí, Hồng, Đào, Diêu, Hỉ ngộ Thiên Không, Kiếp sat, song Hao, Thiên Hình. Tuy có Hóa Khoa, Quang Quý, Quan Phúc quý nhân; Sinh, Vượng, song Hỉ nhưng vì Tuần Không án ngữ, cho nên đương số phải chịu cảnh hiếm con. May nhờ có Thiên Đức, Phúc đức bên trong, ngoài có Nguyệt Đức và bộ Khôi Việt hội họp với Thiếu âm, Thiếu Dương cho nên đương số cũng không đến nỗi võ nhi tống lão.

Cung Điền trạch đóng tại Ngọ, có Tử, Phủ, Vũ, Tướng hội chiếu Tử vi miếu địa tọa thủ gặp Phủ Tướng triều viên đáng lẽ đương số nhà lầu ô tô, ruộng vườn sung túc. Hiềm Tử vi ngộ Triệt hội song Hao khiến đương số chẳng những không được hưởng của phụ ấm, mà còn lận đận vì chuyện nhà cửa suốt đời.

Cung Tài bạch cũng quá tốt, mới nhìn vào thấy Thái âm ngộ Kị hội Lộc Mã, Bạch Hổ, Tướng Quân, Lộc Tồn, Thái Dương phải là tỷ phú. Hiềm vì Thiên giải và Tuyệt đồng cung làm cho hao tán ví như cái tủ sắt thủng đáy. Nhờ Mệnh có Lộc tồn, cho nên suốt đời đương số vẫn thực lộc viên mãn.

Nhìn qua các tiểu hạn sắp đến:

Năm nay ( nhâm Tí ) tiểu hạn và gốc đại hạn đều vào La Võng tại cung Tật ách; coi chừng các tháng 7,8,chạp, nguyệt hạn vào các cung có Không, Kiếp, Kị đương số sẽ bị ngã, hoặc ngộ độc. Năm Giáp Dần, 60, tiểu hạn gặp Sát, Phá, Tham tuy độc nhưng ngộ Tuần Không cho nên đương số chỉ ốm đau, hoặc có tiểu tang trong năm 61 tuổi vì tiểu hạn vào Thê thiếp có Kiếp Không, Tang, Điếu ,Tuế, Phục, Cô, Quả. Đến năm 64 tuổi là năm chót của đại hạn ở Tật ách có Phủ phùng Không, bao nhiêu sự xui xẻo còn sót lại đều dồn trong năm này để đổi lên đại hạn mới ở cung Thiên di, tiểu hạn ở Phụ mẫu giao huy với đại hạn Tật ách đó là hạn nặng nhất trong vòng mưới năm nay. Đương số sẽ ốm một trận vì có Diêu Y, Hồng, Đào, Hình, Không Thương, Sứ. Sau đó, đương số sẽ phải vượt một tiểu hạn nữa là năm 69 tuổi Đại tiểu hạn trùng phùng ở Thiên di: có Tang, Mã, không, Kiếp, Khốc, Khách, Điếu, Phục, Cô Quả. Nhờ có Thiên Lương Lộc tồn ở Mệnh, đương số ốm yếu nhưng vẫn trường thọ, nếu thoát được hai tiểu hạn vừa nêu trên.

Tóm lại, nhà thơ Vũ Hoàng Chương được các văn thi sĩ đương thời suy tôn là thi bá chỉ vì thi phẩm của ông đến bây giờ vẫn còn xuất bản những tác phẩm in từ thời tiền chiến vẫn còn làm nhiều bạn trẻ hôm nay mên chuộng. vì Mệnh có Thái Dương cư Mão ngộ Quyền, Lộc, Tuế, Khốc Hư và Thân cư tứ Mộ có Tả-Hữu, Long, Phượng, Thai-Tọa, giáp Xương Khúc, Quang Quý có Nhật Nguyệt tịnh Minh hội chiếu.
TC

Tặng cho những ai thích thơ Vũ Hoàng chương nè, một bài thơ cụ viết về mối tình 10 năm của cụ đi lấy chồng

Tố của Hoàng ơi

Năm 12 tháng, ai không biết!
Đã tháng nào không tháng 6 chưa?
Tháng có 30 ngày để giết,
Ngày 12 vẫn sống như xưa.

Lịch treo giữa ngực kêu thành tiếng,
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son… tủi áng mây đưa.

Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó 12, còn tháng 6…
30 năm lẻ vẫn chưa vừa!

Còn khóc trong tim này bất tuyệt;
Chừng như rối loạn cả đường tơ?
Trăng-nhà-ai vẫn là Trăng-khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ!

Ngày mai ngày mốt anh nằm xuống,
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp Thơ.
Đập nát ra! cho trời đất uống!
Thì em sẽ rụng khỏi Đêm-mờ.

*

Phút giây Trăng-một-phương tròn lại
Rồi tự hoà tan Rượu-đắng mơ,
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không-ngày-không-tháng-không-bơ-vơ.

12 tháng 6… cung Hồ Xế…
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ;
Trả cho cát bụi nhé Kiều-Thu!

(12 tháng 6 Nhâm Tí, 1972)

Bài thứ 5 trong tập thơ “Chúng ta mất hết chỉ còn nhau”, NXB Rừng Trúc, Paris, 1974

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

83. Lá số và cuộc đời của nữ nghệ sĩ Tú Trinh (KHHB số 74l1)

0

Lá SỐ Và CUỘC ĐỜI CỦA NỮ NGHỆ SĨ TÚ TRINH

Sinh năm Nhâm Thìn, ngày 29 tháng 3, giờ Thìn

Dương nữ, Thủy Mệnh, Mộc tam cục

Luận đoán của Lê Thanh Thái

Khái luận về Mệnh, Thân và Cục

Tuổi Dương Mộc, Thủy mệnh, Mộc cục lập mệnh tại cung Tí thuộc Dương Thủy là được sinh phò. Lại được Thất sát là nam chính tinh thuộc Kim tọa thủ, cũng sinh phò cho Thủy mệnh. Đây là cách Thất Sát ngưỡng đẩu hội Long, Phượng, Cái, Hổ, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Tấu, Hỉ, Dưỡng, Lâm quan.

Đúng ra, Mệnh Thất sát ngưỡng đẩu thì dung nhan không đẹp và lại thường bị da đen, mắt lộ, xương thô, nhưng ở đây Thất Sát ngộ Long Phượng, Cái, Hổ, Xương, Khúc, Tấu, Hỉ, Dưỡng cho nên Tú Trinh xinh đẹp duyên dáng mà còn thu phục được nhiều cảm tình của khán thính giả trên nhiều lĩnh vực như ca kịch, điện ảnh…

Mệnh có Thất sát ngộ Kình, Hổ ở Tí đáng lẽ đương số bị yểu vong, vì phú có câu:
Mệnh Sát, Hổ, Kình lâm Tí, Ngọ
Mặt, mắt, tay chân ngộ tật nguyền.

Nhưng ở đây, nhờ cung Tật ách Nhật Nguyệt ngộ Tuần, đã hóa giải tất cả những tai ương bệnh tật.
Triệt, Tuần đóng ở ách cung
Bệnh gặp cũng khỏi, hạn phùng cũng qua
Thân cư Tài bạch tại cung Thân thuộc Kim sinh phò cho Thủy mệnh, lại thêm Tham lang, Hữu bật, Long trì, Văn khúc thuộc hành Thủy sinh phò cho Mộc cục, và Lâm quan thuộc Kim sinh phò cho Thủy Mệnh, Tú Trinh sẽ giữ được nét duyên dáng tươi trẻ lâu dài, và càng đi vào trung hậu vận cũng vẫn được khán thính giả ái mộ.

Nhìn qua những cung nổi bật

Cung Quan Lộc: Lập tại cung Thìn có Phá quân hội Hóa quyền, Hữu bật, Tọa, Mộ, Cái, Hỉ, Dưỡng Văn khúc đã giúp cho Tú Trinh nổi danh trên lĩnh vực kịch nghệ, và giữ được sự mến mộ lâu dài của khán thính giả là nhờ cung Quan lộc giáp Khôi, Việt.

Cung Thiên Di: Lập tại cung Ngọ thuộc Hỏa khắc với Mệnh Thủy và Mộc cục bị tiết chế độ số, nhưng nhờ có Tuần không án ngữ cho nên vẫn ảnh hưởng được sự tốt đẹp của Tướng, Phủ ngộ Khoa, Quyền, Cáo, Phụ, vũ, Tấu, Mã, Khốc, Khách (ở Phúc đức tuy bị triệt nhưng vẫn giao huy được với cung Thiên Di có Tuần) giúp cho Tú Trinh đến đây cũng được mọi người thương mến và tận tình giúp đỡ, tuy nhiên vẫn bị tiểu nhân đố kị tài năng tìm cách phá tán (Kị, Linh, Kình, Đà, Hỏa) vào những tháng đầu năm ở 10 năm gốc đại hạn Phu quân từ 23 tuổi đến 32 tuổi.

Cung Tài Bạch: Lập tại cung Thân sinh phò cho Thủy mệnh cho nên Tú Trinh sớm tự tay tạo ra tiền nhờ những cát tinh cư chiếu cung này đa số đều sinh phò cho Thủy mệnh như Sát, Phá, Tham, Văn khúc, Hữu bật, Long, Cái, Hổ, Dưỡng, Lâm quan. Tuy làm ra tiền nhưng Tú Trinh khó giữ được tiền vì Song Hao ngộ Tuyệt.

Những tiểu hạn tốt của Tú Trinh

Năm Ất Tỵ (1965, 14 tuổi): Tiểu hạn vào cung Tử tức, gốc Đại hạn ở Huynh đệ lưu đại hạn đến Nô bộc. Gốc đại hạn có song Lộc ngộ Khôi, Viêt, Hồng, Hỉ, Sinh, Vượng phùng Nhật, Nguyệt. Tiểu hạn có Cự, Cơ ngộ Quang, Quý, Thanh long, Thiên Nguyệt, Phúc đức, Đào, Hỉ, Quan Đới, Tú Trinh theo học Quốc gia âm nhạc và đã tỏ ra xuất sắc về năng khiếu ca diễn, được các danh sư ở đây hết lòng thương mến.

Năm Đinh Mùi (1967, 16 tuổi): Tiểu hạn đến cung Tật ách, gốc và lưu Đại hạn vẫn như cũ. Năm này Tiểu hạn có Nhật, Nguyệt hội Song lộc, Sinh, Vượng, Hồng, Diêu phùng Thiên Phúc, Long Đức: Tú Trinh gia nhập đoàn ca kịch ánh Chiều Dương của nghệ sĩ lão thành Năm Châu.

Năm Kỷ Dậu (1969, 18): Tiểu hạn đến cung Nô bộc, trực giao với gốc Đại hạn ở Huynh Đệ; lưu Đại hạn vào Điền trạch. Năm này hội đủ Song Lộc, Quang, Quý, Nhật, Nguyệt, Hồng, Hỉ, Thiên Nguyệt, Long Phúc Đức: Tú Trinh tốt nghiệp Quốc gia âm nhạc và cộng tác với các ban ở đài Phát thanh Sài gòn, Quân đội.

Năm Canh Tuất (1970, 19 tuổi): Tiểu hạn đến cung Quan lộc ở cung Thìn là cung tuổi, lưu đại hạn vào cung Phúc đức. Gốc đại hạn vẫn ở Huynh đệ có Song Lộc, lưu đại hạn vào cung Nhị hợp là cung Dần có Mã, Khốc, Khách hội Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Long Phượng. Tiểu hạn có Sát, Phá, Tham ngộ Cái, Hổ phùng Tử, Tướng, Thai, Tọa, Mộc, Cái, Hổ, Dưỡng, Tú Trinh xuất hiện ở màn ảnh Truyền hình được khán thính giả đặc biệt chú ý nét duyên dáng và giọng nói truyền cảm quyến rũ của nàng. Đồng thời, Tú Trinh cũng hợp tác với ban chuyển âm Hồng Phúc.

Năm Tân Hợi (1971, 20 tuổi): Tiểu hạn đến Điền trạch, cung này vô chính diệu hội Nhật, Nguyệt, Cự, Cơ miếu vượng phùng Song Lộc, Hồng, Đào ngộ Thanh long, Long đức, Sinh, Vượng, Quan đới, ân quang, Tú Trinh được mời đóng phim Anh yêu em của Nguyễn Long và làm cho cơ quan Juspeo vào cuối năm này.

Năm Giáp Dần (1974, 23 tuổi): Tiểu hạn vào Mệnh gốc Đại hạn đổi đến Phu quân, có Tử, Phủ, Vũ, Tướng ngộ Khoa, Quyền, Cáo, Phụ, Thai Tọa, Mã, Cái, Mộc, Hỉ phùng Thiên quan quí nhân. Tiểu hạn có Sát Phá Tham ngộ Long Phượng Cái Hổ hội Tả Hữu Xương Khúc Lâm quan, Dưỡng, Tú Trinh thường xuất hiện trên màn ảnh Truyền hình ngày càng được nhiều cảm tình với khán thính giả, vẫn cộng tác với các ban kịch truyền thanh ở các đài Sài gòn, và nổi bật nhất là trong tháng 6 (al), Tú Trinh xuất sắc trong lúc chuyển âm cho ban kịch Tiếng hát á châu ở rạp Quốc Thanh rất được các trang văn nghệ kịch trường ca ngợi tận tình.

Tương lai của Tú Trinh trong năm Ất Mão (1975)

Như đã luận ở phần trên, trong năm Giáp Dần này, Tú Trinh gặp nhiều cát và quí tinh giúp cho được nổi bật trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Vào tháng 6, tháng 7, phòng xe cộ đụng chạm trong lúc di chuyển. Tháng 8 coi chừng mất cắp, và cẩn thận trong vấn đề tình cảm sẽ gặp chuyện khổ tâm. Tháng 9, coi chừng xe cộ trong lúc di chuyển vào buổi sáng vì coi chừng mất xe. Tháng 10, có người đến làm quen với gia đình về vấn đề hôn nhân. Tháng 11, rất tốt trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Tháng Chạp, tốt về tiền bạc, một cái Tết vui vẻ.

Năm Ất Mão (1975, 24 tuổi): Tiểu hạn vào cung huynh đệ: Lưu đại hạn vào cung Quan lộc. Tháng Giêng, khổ tâm vì mệt vấn đề tình cảm, rạn nứt khó hàn gắn. Tháng 2, tốt trong việc hoạt động nghệ thuật. Tháng 3, rắc rối một vấn đề tình cảm và gia đình làm cho khổ tâm. Tháng 4, coi chừng tiểu nhân tìm cách làm xích mích trong gia đình giữa anh em cha mẹ. Tháng 5, tốt về tiền bạc, phòng đau ốm, cẩn thận về xe cộ lúc di chuyển. Tháng 7, coi chừng bị mất tiền và còn mất bạn nữa. Tháng 8, đi xa rất tốt cho việc hoạt động nghệ thuật. Tháng 9, khổ tâm trong vấn đề tình cảm, nếu đi đến hôn nhân sẽ còn nhiều rắc rối có thể đổ vỡ vào năm sau. Tháng 10, phòng đau ốm. Tháng 11, rất tốt về tiền bạc. Tháng Chạp, vẫn phải coi chừng lúc di chuyển bằng xe 2 bánh.

Sài gòn tháng 8 năm Giáp Dần (1974)

KHHB số 74L1
Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

82. Lá số chánh khách: Tôi phục ông này biết thân hiểu phận (KHHB số 74l1)

0

Lá số Chánh khách

TÔI PHỤC ÔNG NÀY BIẾT THÂN HIỂU PHẬN

Thiên Lương

Như ông này được đời trọng đãi, hẳn ông là người biết thân hiểu phận ông cứ tuần tự để cho định mệnh đưa đẩy cuộc sống mà thụ hưởng như chiếc diều thuận theo chiều gió bay cao, không cay cú không cày cục và cũng không nặng lòng luyến tiếc một sự việc gì ngoài tầm tay mình nắm được.

Cứ như tuổi Ất Sửu sanh ngày 30 tháng 10 giờ Mão,

Mệnh đặt ở Thân, Thân an ở Dần là hai cái thế đôi nghịch mà vẫn đi đôi với nhau, vì một đằng Mệnh bị đặt ở thế thua thiệt mà biết an phận (Long Đức) một đằng Thân được sắp xếp ở thế sáng suốt (Thiếu Dương) tuy có cao vọng (Tham Lang) mà vẫn coi thường cuộc thế vinh hoa, nếu có thì cũng tốt nhược bằng không thì cũng vui lòng không thiết tha, nên cứ để mặc cho phần số xoay vần đưa đẩy, thắng không kiêu, bại không hận, sống thản nhiên không hăm hở miệt mài.

Biết rằng tuổi Ất Sửu này không có điều kiện để tự kiêu hãnh diện với đời, nếu xét theo thường tình về tư cách tinh đẩu thì ở đây là Liêm Trinh, Tử Phủ Vũ Tướng, không phải là cách Cơ Nguyệt Đồng Lương để đương nhiên hưởng quyền uy tài lộc. Và tuổi Ất lại là Ất Sửu là tuổi nghịch cảnh của Thiên Lộc là hai yếu tố khiếm khuyết căn bản để trở nên những vai trò quan trọng trong xã hội quần chúng. Phải chăng ông được thế đứng vững chãi của Đế Vượng (vòng Tràng Sinh) ở Thân cung (Địa lợi không gian) với tư cách của Liêm Trinh đắc cách dầu không phải là nòng cốt thủ mệnh, giữ sao cho đúng cách cũng là nhọc công lắm rồi. Chỉ còn một con đường an phận như định mệnh an bài.

Những người Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Mệnh Thân an tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi là người được Hóa Công nể mặt, cưng chiều ở thế sáng (Thiếu Dương) biết cái nghĩa của Hồng Loan, Thiên Không (sắc sắc không không) ví không đắc đạo thành Tiên thành Phật, ít nhất cũng có tâm hồn lành thiện xuất tục không nên Thánh cũng nên Hiền. Những vị này như có giác quan về ác quả (Hà sát) thường xuyên bám sát với hành động, thấy cái “Ta” tuy cô quạnh mà vẫn vấn vương liên hệ đến người khác cho nên giảm bớt lòng sân si; bon chen thái quá.

Thấy số ông này tuy là Liêm Trinh thủ mạng, thật sự là cách Tử Phủ Vũ Tướng, đành rằng Tử Phủ Vũ Tướng với Sát Phá Liêm Tham vẫn là một (một trong lưỡng nghi) đem phân tách thì cần Tả Hữu hơn là Khoa, trái lại cái đắc dụng của Khoa đối với Thân này (Sát Phá Tham đắc địa) rất nên hữu ích điều hóa không để người này có chỗ cực đoan và cũng ngăn ngừa một Kinh quá hung tàn bạo ngược lung lạc, ông này ví phải là một ông tướng cầm trịch ba quân thật ra rất dễ thành công (Sát Phá Tham đắc địa được bộ sát tinh đắc địa phò trợ) chỉ hiềm chính bản thân. Tham Lang ở Dần tuy không là nòng cốt vẫn thấy thiếu Linh Hỏa là bầy tôi phục vụ đắc cách cho mình, thành ra một vị soát gia lửng lơ con cá vàng. Có lẽ ông cũng không ham gì, vì chót sinh ra nhập thế cuộc thế thời phải thế (Quan Phúc Tứ Đức).
Xét đến hai cung Quan và Tài như thấy có sự tréo cẳng, như là Vũ Phủ ở Tài hợp cách hơn là ở Quan, cũng như Tử Tướng ở Quan trúng cách hơn là ở Tài. Sự thật tại vì hai bộ sao Tử vi và Thiên Phủ luôn luôn chuyển vận ở thế âm Dương, không bao giờ có thể Quan cung có Tử Tướng mà Tài cung lại được Vũ Phủ, chỉ có trường hợp đẹp nhất là Tử Tướng thủ mệnh ở Thìn, Liêm trinh Quan cung ở Thân và Tài cung có Vũ Phủ ở Tí. Ở đây Vũ Phủ Quan cung cũng đủ là công danh hoạnh đạt, văn võ kiêm toàn, hiềm vi ngộ Hao, Hỏa khiến phương diện tài chánh phải suy vi khủng hoảng song song Tử Tướng cung Tài ngộ Đà La (La Võng) thành lúng túng đắc Khoa giải tỏa có nghĩa là ông chỉ có thể giật gấu và vai xoay sở điều chỉnh mới mong túc dụng cho trách vụ của mình.

Thấy ông là người biết thân thủ phận sự hoạnh đạt của ông chỉ là thời cơ diễn chuyển nên ông được hưởng những vận hành đặc biệt ở ba vận liền 32-41, 42-51 và 52-61, đáng kể nhất là giai đoạn ở Thìn ở Tỵ cung là đương nhiên thời gian của người Tỵ Dậu Sửu. Sang cung Thìn là thời gian của tam hợp mệnh đã biết là ở địa thế sinh xuất, dầu gì đi nữa cũng chỉ là phục vụ hy sinh, đối với bản thân được vinh dự Tử Tướng đắc “tam Hóa liên châu”, Khoa giáp Quyền Lộc tam hóa liên châu ở đây cùng vị trí của quận công Hoàng Cao Khải, là vị trí có thể nói là đẹp nhất từ Dần đến Mùi, là mão cao, áo gấm rực rỡ cho người thụ hưởng vinh dự giữa cảnh thanh thiên bạch nhật, khác xa với tam hóa liên châu ở Tuất của ông Ngô Đình Nhu là quyền uy của người hùng cầm trịch trong vòng bí mật. Sắc thái khác biệt của tam hóa liên châu ông này với quận công họ Hoàng là một, ông được quyền thủ mệnh giáp Khoa Lộc, tha hồ hống hách của người Tuế Phá. ông này Khoa giáp Quyền Lộc ở Tài vào thời gian đắc cách được hưởng thụ vinh dự ở tư thế sinh xuất cầm cân nẩy mực nhờ Khoa giải tỏa Tử Tướng ở tình thế La Võng.

Thật tình số này thua thiệt mọi điều, từ tuổi Ất Mệnh Sát Phá Tham, không Lộc tồn vì địa chi là Sửu, Tả Hữu, Thiên Mã, âm Dương đều lạc lõng, chỉ chiếm được một chỗ đứng Đế Vượng (Không gian ở vòng Tràng Sinh) của Kim mệnh ở Thân cung cùng Khoa Khôi Việt cũng đủ hãnh diện một địa vị vượt bực hơn người. Ta phải công nhận thời gian đắc thất của số là quan trọng và phải phục thiện những ai Mệnh, Thân, nhất là Thân tọa thủ ở vị trí Thiếu Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi là thiên phú cho người được tự giác để rồi thành công tùy theo cục cách cá nhân, không để ai phiền hà và cũng không ân hận vì bả vinh hoa có đúng như không.

KHHB số 74L1

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

Thần khê định số: tử, phủ đồng cung hội quyền, lộc, tướng, ấn nhưng vẫn…không ăn!

0

THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ:

TỬ, PHỦ ĐỒNG CUNG HỘI QUYỀN, LỘC, TƯỚNG, ẤN NHƯNG VẪN…KHÔNG ĂN!

ĐÔNG NAM Á

Xin mách quý bạn một mánh lới của vài nhà đoán quẻ để phòng sẵn lúc thân chủ chất vấn về những cái đoán sai của mình: mánh lới đó là cách sửa giờ sanh, hoặc là bầy tỏ sự hoài nghi về một giờ sanh. Sau khi bầy tỏ sự hoài nghi về một giờ sanh, ông thầy bắt đầu đoán quẻ và nêu lên một vài sự kiện quan trọng. Sau đó, nếu sự kiện quan trọng được dự đoán mà không thành tựu, hoặc diễn ra trái ngược hẳn lại, thì ông thầy mới nói:,à nếu vậy thì là giờ kia chứ không phải giờ này! Đó, tôi đã nêu lên trước cái nghi vấn đó mà!

Và ông thầy lúc nào cũng có lý do để bào chữa.

Do chỗ đó, chúng tôi xin mách các bạn đi coi tướng số (trừ ra một vài trường hợp). hãy khẳng định về giờ sanh của mình, không chấp nhận một sự sửa đổi nào, đó là để ông thầy không thể hởm sẵn những lý do để bào chữa. Và khi đã xác định cho ông thầy một ngày giờ sanh rồi, phải đòi hỏi ông thầy đoán một vài câu chắc nịch về quá khứ (thí dụ lớp tuổi 30, thì ông thầy phải đoán rõ về học lực bằng cấp, đường công danh…) Nếu đoán được đúng ông thầy được kể là đắc truyền, còn không, ông chỉ là người đoán mò. Nêu lên như vậy không phải để bỉ mặt ai, mà là để nêu cao danh dự của nghề bói số.

Sau đây là một câu chuyện có liên quan đến Thần khê dịnh số, mà cũng khiến tôi không tin ở các thầy bói trong quá khứ.

Cụ bói Lợn

Cụ bói Lợn, vào thời tiền chiến, ở chợ Đường Cái, Hưng Yên, được nổi tiếng là thầy bói giỏi nhất Bắc Kỳ – nhưng đối với riêng tôi, tôi vẫn chẳng phục cụ chút nào là vì tôi ở quá gần và biết hết các mánh lới của cụ ngoài ra là vì cụ đoán cho trăm đứa trẻ như một (toàn là: mai sau cứng cổ ra phết! Và giầu có, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Trẻ con đều ở nhà quê nên cụ đoán như vậy. Người ở trên tỉnh đi xe hơi về xem cho đứa con mới đẻ cụ lại phong cho làm bác sĩ, kỹ sư).

Nhưng tôi cũng có những lúc phục tài bói toán của cụ Lợn, là vì có những việc đặc biệt của tôi cụ đoán rất trúng (tôi mới nghĩ rằng tại vì người đi coi bói thường hay hỏi trăm thứ chuyện vẩn vơ mà quẻ bói hay lá số không thể nào cho biết nổi – Thí dụ như một người chưa có vợ mà đã đến hỏi về con cái, đứa con thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư làm nghề gì, có khá không, thì số Tử vi không thể nào cho biết được.

Ngoài ra coi bói, coi tướng, mỗi thứ có một phương pháp và định lệ riêng, không thể làm lối hòa giải hỗn hợp được.

Lá số Tử Phủ đồng cung

Tôi xin nói về một vụ coi bói. Hồi đó là 1926 có hai người đàn ông đi xe tay ga (xe kéo) nhà, áo sa đen phủ áo trắng dài, giầy khăn sang trọng, vào hàng cụ Lợn.

Hai người đến xem cho tuổi Giáp Thìn, quê ở Phù Đổng, sanh ngày 6 tháng 7, giờ Ngọ.

Chính đương số lại vắng mặt, hai người đến xem số chỉ là hai người nhà hay hai người đại diện. Không khó khăn cho lắm, khi quẻ bói được khấn là xem về bản mệnh, tôi có thể đoán là đương số bị đau ốm. Xem bói và bấm số Tử vi.

Theo bảng an sao, Mạng lập tại Dần, có Tử vi, Thiên Phủ. Thiên Di có Lộc Tồn và Thất sát tại Thân. Thanh long ở Tài. Vũ khúc, Văn khúc và Hóa khoa ở Tuất. Quan lộc tại Ngọ có Liêm Trinh, Thiên Tướng, Hóa Lộc.

Lá số có những cách đẹp:
-Tử Phủ đồng cung Câu phú cho biết là “thực lộc vạn chung” tức là lương bổng của bậc tể tướng ngày xưa.
-Được Song Lộc triều viên, có cả Long, Phượng chiếu.
-Các sao chánh đều đắc địa.
-Các câu phú: Thất sát triều đẩu, tước lộc vinh sương
-Tham Vũ Thìn Tuất võ quyền tột đỉnh.
Sang phú Ma Thị, có ghi:
Thân Mạng đã Liêm lại Tướng
Đấng anh hùng trí dũng ai qua
Tai người niên thiếu đăng khoa…

Cụ bói Lợn, đại khái nói một thôi dài, kể ra các cách và các câu phú như trên, rồi cụ kết luận bằng câu:
-Số này tốt lắm, cha mẹ giầu, đương số lại học giỏi. Nhưng năm nay năm nay…(cụ bấm trên tay), tiểu vận đi tới Thiên Di có Thất Sát ngộ Triệt. Mạng lại có Tuần không, coi chừng đau yếu đây.

Tôi thầm nghĩ: cụ Lợn đoán dựa rồi. Là vì chàng thanh niên 23 tuổi, khỏe mạnh đi đâu chẳng được, mà đương tự nhiên thì cần gì phải xem bản mệnh. Vậy tất nhiên là chàng thanh niên bị đau ốm rồi không sai chạy đâu được. Trừ phi là chàng thanh niên đi ra ngoại quốc.

Một người khách nói:
-Chịu thầy. Tuổi Giáp Thìn đau nặng và nhà giàu thì cụ đoán đúng lắm.

Câu nói ông khách làm tôi buồn cười. Là vì trước đây, khi chiếc xe tay nhà bóng loáng vừa hạ càng ngoài lộ, cánh cửa hàng cụ Lợn chừng 10 thước, anh Thượng là cháu cụ Lợn, ngồi ngay cửa hàng đã báo cáo:

-Cụ thầy sắp có món khách xa. Xe tay nhà sang trọng. Hai ông ùng mặc áo sa tây, giầy và khăn toàn thứ tốt, y như quan huyện Văn Lâm bữa nọ.

Như thế thì cụ Lợn đã biết đại khái gia cảnh của đương số rồi.

Phú Thần Khê

Thường lệ mỗi quẻ là 1 cắc (1 hào), nhưng khách sang và ở xa tới, cụ giã 5 hào. Khách hỏi qua loa, rồi khảo về Tử Vi, Khách thú nhận:
-Tuổi Giáp Thìn bệnh nặng lắm, xin thầy bấm kỹ cho, liệu có qua được không, sẽ xin thưởng công thầy.

Cụ Lợn bấm tay nữa rồi nói:
-Số con nhà giầu, mà học hành thông minh lắm.

Rồi cụ đọc mấy câu Phú mà tôi biết là trong Thần Khê Định Số của cụ Bảng Lê Quý Đôn:
Người nào Song Lộc triều viên
Lưng dầy thân mập, đầu tròn, tóc thưa.
Mắt sáng quắc, my như lưỡi kiếm
Sớm công danh, cận kiến cửu trùng.
Hoặc là Tử Phủ đồng cung
Phải y hình tướng, mới không sai lầm.
Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc.
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm
Nhan Hồi sốt hoặc thọ trong bần hàn.

Đoạn sau của 10 câu thơ đó có nghĩa là người Tử Phủ đồng cung thì cũng phải có nét tướng như kể trên mới hợp và tốt; to, cằm lẹm, thì hoặc là yểu như Nhan Hồi, hoặc là được thọ nhưng bần hàn.

Hai người khác nhìn nhau như trao đổi ý kiến sau khi nghe mấy câu phú đoán. Họ chưa lên tiếng, thì ông Lợn đã hỏi:

-Bình thường, cậu này có da có thịt không?

-Thưa thầy, cháu da xanh thường hay bị cảm, bác chúng tôi cho cháu học ngành bác sĩ, để quan đốc tây vừa dạy vừa trông nom sức khỏe cho cháu. Nhưng hơn tháng này, cháu nó đau nặng, nên xin phép nghỉ để về chữa thuốc Bắc.

Cụ Lợn hỏi:

-Bệnh gì mà đốc tờ Tây chữa không được vậy?

-Thưa cụ, bệnh thương hàn nhập lý. Cụ thầy bám kỹ xem mạng cháu có vững không? Nếu đúng, thế nào chúng tôi cũng thưởng công Cụ.

Cụ Lợn nói lớn: Anh Thượng cho tôi cơi trầu đây.

Khi đĩa trầu và ba nén nhang đã được đặt trên tráp, chưa đốt lửa, cụ Lợn gõ móng tay lên cạnh đĩa và nói:
-Bỏ vào đây hai đồng để thủ quẻ sẽ bấm Tử vi lại cho.

Người khách nói:
-Hai đồng tôi cũng chịu, nhưng cụ chắc sẽ đoán đúng chứ?

Cụ Lợn nói ngang:
-Nếu không đúng tôi sẽ trả lại tiền. Vả lại, xét số có sống mới lấy tiền, chứ thấy xấu, ai lấy công mà làm chi…

Đoán sai

Chẳng biết cụ Lợn chọn tướng mạo nào trong bài Phú trên, mà cụ nói chắc nịch:
-Tử Phủ đồng cung tại Mạng đây, chết sao được?

Hai người khách tươi hẳn nét mặt hỏi lại:
-Cụ chắc như vậy chứ. Tuy cụ cam đoan số của cháu nhất định sống, nhưng chúng tôi lại hơi ngại về câu cụ vừa đọc chi đó, nếu da xanh, cằm lẹm thì sao sao đó…

Cụ Lợn đọc lại:

-Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm,
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm,
Nhan Hồi số, hoặc thọ trong bần hàn

Một người liền nói:
-Da cháu có hơi xanh xanh, cằm nhỏ và hơi lẹm, có sao không?

Người khách kia liền nói ngay:
-Thì nó hay bị cảm nên da xanh. Nếu nó không quặt quẹo,chắc da nó cũng đỏ hồng.

Cụ Lợn nghiêng mặt về người này, nói:
-Nếu thế thì nó sống được.

3 ngày sau, hai người khách tới hàng cụ Lợn chất vấn ngay:
-Cụ cam đoan cháu nó qua khỏi, mà nó đã chết rồi.

Cụ Lợn thủng thỉnh đáp:

-Nếu vậy thì nó sinh vào giờ Mùi. Sanh giờ Mùi thì năm nay chết là đúng số.
-Nhà chúng tôi có đồng hồ, sai giờ sao được? Cụ cho lại chúng tôi 2 đồng.

ông Lợn viện lý và không chịu trả. Hai bên đôi co đã hơi lớn tiếng. May có cụ Khóa Văn ở xã Trai Túc, bước vào hàng. Sau khi nghe kể lể, cụ nói:
-Người mất ngàn vàng đáng tiếc biết bao; sá gì hai đồng bạc. Vả chăng, cụ thầy đây cũng phải đoán sao cho khách hàng phấn khởi, chứ ai dám bạo miệng đoán chết, khác nào là rủa độc miệng. Xin các ông vui lòng nén giận rồi ra về để các ông được việc.

Tôi cũng thấy việc đòi tiền lại là vô lý, chính lỗi là do các thân chủ cứ bầy đặt ra lối thưởng và đòi đoán cam đoan nên mới khiến cho các ông thầy đoán theo chiều, tức là đoán láo. Còn ông thầy thì dư biết là đoán láo, nhưng cũng đã thủ thân vài mánh lới để bào chữa, chúng ta nên biết vậy.

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

79. Lá số và cuộc đời nữ ca sĩ Thái Hiền (KHHB số 2-a-75)

0

LÁ SỐ Và CUỘC ĐỜI NỮ CA SĨ THÁI HIỀN

Mệnh Mộc lập tại cung Dần thuộc Mộc là tương hợp. Tính theo vòng Cục, cung này là Giáp Dần thuộc Thủy, sinh phò cho Mộc mệnh : Thái Hiền tuy sinh trưởng trong 1 gia đình nghệ sĩ có mức sống trung lưu nhưng được cha mẹ cưng chiều, được sống trong nhung lụa từ tấm bé
Cung Mệnh có Tham Sát Phá đắc địa ngộ Khoa Lộc Xương Khúc Tả Hữu phùng Long Trì, Thiên Quý hội Mĩa, Trường Sinh, Khốc, Khách, Cái, hổ: Thái hiền sớm nổi tiếng và sớm tạo ra tiền bạc nhờ giọng hát được trui luyện trong gia đình nghệ sĩ Phạm Duy
Thân cư Quan Lộc tại Ngọ, cung này thuộc Hỏa khắc Thủy cục. Nhờ có những bộ Cát và quý tinh hội chiếu nhưn Long, Phương, hổ, cái, Quang, Quí, Lộc, hỉ: Thái Hiền cũng sẽ thành công trên đường phục vụ nghệ thuật vào trung vận, nhưng nhóm hung tinh Tang, Đẩu, Tuế, Sát và cung Thân cư thuộc hỏa khắc Thủy cục sẽ đem lại cho Thái hiền nhiều khổ tâm về tình cảm trong khoảng tuổi 32 trở đi

NHÌN QUA NHỮNG CUNG NỔI BẬT TRONG Lá SỐ

CUNG PHúC ĐỨC: Lập tại Thìn thuộc Thổ bị mộc Mệnh khắc cho nên dù cung này được nhiều cát tinh như Tử, Phủ, Vũ Tướng ngộ Cái, hỉ, Khoa, Tấu, Mã, Khốc, Khách, Sinh, Vượng, cáo, Phụ là phát mạnh trên đường nghệ thuật nhưng Thái Hiền cũng gặp đôi trở ngại nhỏ trên bước tiến dù có sự dìu dắt, hướng dẫn khá hung hậu của cha và các anh trong ban nhạc Dreamer’s rất được giới trẻ khắp nơi hâm mộ.

CUNG ĐIỀN TRẠCH: Lập tại Tỵ thuộc Hỏa là Mộc mệnh bị tiết giảm và Thủy Cục bị khắc chế. Cung này lại còn có Lộc Tồn ngộ Đồng Lương, Nhật, Nguyệt, Khôi, Quyền : Thái hiền tuy sớm sống trong cảnh nhà cao cửa rộng (nhờ Hồng, Hỉ ngộ Thiếu âm, Thiếu Dương, Khôi, Quyền, Lộc, Dưỡng) nhưng muộn có nhà cửa do tự tay mình tạo ra (Lương Lộc Nhật Nguyệt)

CUNG THIêN DI: lập tại cung Thân thuộc Kim, khắc Mộc mệnh, sinh phò cho Thủy cục. càng lớn tuổi (từ 22 trở đi), Thái hiền càng dễ gây cảm tình với khan giả hơn lúc thiếu thời. Cung này có Tử Phủ Vũ Tướng Liêm Tham hội Cáo, Phụ, Khoa, Lộc, Quang, Quý, Long, Phượng, mã Khốc Khách, Sinh Vượng : Thái sẽ gặp nhiều cơ hội may mắn và gặp quý nhân tận tình giúp đỡ trên bước đường phụng sự nghệ thuật
CUNG HUYNH ĐỆ: Lập tại cung Sửu thuộc Thổ, đáng lẽ là bị mệnh khắc nhưng cung này là âm Thổ (tính theo vòng Cục, đây là cung Đinh Sửu thuộc Thủy) sinh phò cho Mộc Mệnh: Thái hiền được các anh hết long dìu dắt thương yêu (Khôi việt ngộ Quyền Lộc Nhật Nguyệt)

NHìN QUA NHỮNG TIỂU HẠN

– Năm Canh Tuất (13 tuổi – 1970) : tiểu hạn Phúc Đức đắc Tử Phủ Vũ tướng hội Tấu hỉ Tuế Đà phùng Cáo Phụ, Sinh Vượng, mã Khốc Khách, Cái, Phượng, Khoa, Xương. Gốc đại hạn vừa đổi vào cung Huynh đệ có Nhật Nguyệt, Khôi việt, lộc, Quyền, hồng, mộc, Dưỡng, Lâm Quan; lưu Đại hạn đến cung nô – cung này VCD đắc Khôi việt ngộ Đào, Diêu, hỉ, mộc, Thai, tọa phùng Thanh Long, Long Đức và Quan Phúc, Thiên Nguyệt Đức : Thái Hiền hát phòng trà QueenBee được giới trẻ ưa chuộng qua các bản nhạc ben, Circle Gam, Got to be there, Morning After…
– Năm 15 tuổi (1972) tiểu hạn đến cung Mệnh có Tham Lang , Long trì ngộ Khoa, Lộc, Xương, khúc, tả Hữu, Cái Hổ, mã Khốc Khách phùng Thiên Quý. Gốc đại hạn vẫn ở Huynh đệ. Lưu Đại hạn trỏ vào nô bộc cũng gặp Nhật Nguyệt ngộ Khôi Việt Đào Diêu Hỉ: Thái hiền trong ban nhạc Dreammer’s hát cho club Mỹ được trả thù lao rất cao
– Năm 16 tuổi, tiểu hạn trùng phùng với gốc đại hạn tại cung Huynh đệ : thu băng cho hang shotguns bài tuổi Mộng Mơ được phát thanh hang ngày trên làn sóng điện truyền đi khắp nơi, rất được học sinh ưa thích
– Năm 17 tuổi : tiểu hạn vào cung Phu có Vũ Phủ hội Tử Tướng phùng Tả Hữu, Xương Khúc, Tấu, mã Đà, Khốc Khách Sinh Vượng. Lưu Đại hạn đến Điền co1Lo65c Quyền hội Hồng, hỉ, Nhật, Nguyệt, Long Đức, Dưỡng: Thái Hiền tiếp tục thu băng nhạc cho Shotguns, hát cho phòng trà Ma Cabane rồi phòng trà Lướt Gió…v.v…và tiếng hát của cô hang ngày được truyền đi trên làn sóng các đài phát thanh qua bài hát Bé Bắt Dế, tuổi Mộng mơ của bố Phạm Duy
TƯƠNG LAI THáI HIỀN TRONG NĂM ẤT MãO 1975

– Tiểu hạn đến cung Tử tức, gốc Đại hạn vẫn còn ở cung Huynh đệ; lưu Đại hạn vào cung Phúc đức.

– Tháng Giêng , tốt về hoạt động nghệ thuật.

– Tháng 2 cẩn thận trong vấn đề tình cảm, coi chừng gặp người không thật tình

– Tháng 3 : có tiền nhưng hao tài vào những ngày đầu tháng

– Tháng 4 : tiền bạc dễ chịu, tình cảm thoải mái, có bạn mới có thể tin được

– Tháng 5 : tiếp tục thoải mái trong vấn đề tình cảm, tốt trong phục vụ nghệ thuật

– Tháng 6 : 1 vài chuyển biến không tốt trong tình cảm, bệnh vặt

– Tháng 7 : tốt trong tiền bạc, gặp quý nhân trong việc phục vụ nghệ thuật

– Tháng 8 : coi chừng ốm, cẩn thận trong vấn đề dung thuốc hoặc ăn uống, dễ bị ngộ độc

– Tháng 9 : tiến triển tốt trên đường phục vụ nghệ thuật

– Tháng 10 : tốt về tình cảm, tránh những xích mích nhỏ với đồng nghiệp, dễ bị ganh ghét, đố kị có thể trở thành scandal oan uổng

– Tháng 11 : phòng đau ốm về bệnh đàn bà. Tốt về tiền bạc và danh vọng

– Tháng 12 : 1 cái tết không được vui vì 1 vài biến chuyển trong tình cảm

TÌM HIỂU VẤN ĐỀ ĐA THê QUA TỬ VI
GẶP CáCH NàO THì NHIỀU VỢ
MôI TRƯỜNG THUẬN LỢI TRêN Lá SỐ
MôI TRƯỜNG NGĂN CẢN SỰ ĐA THê

-PHONG NGUYêN –

Tục ngữ có câu “Ớt nào mà ớt chẳng cay” để nói lên bản tính ghen tuông cố hữu của giới phụ nữ có chồng. và khổ một nỗi là các đấng lang quân đều có tâm hồn lả lướt, không nhiều thì ít, cứ luôn đề cao “trai anh hùng năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có 1 chồng” để tự bào chữa, khiến cho các bà vợ lúc nào cũng nghi ngờ và theo dõi chồng. Thậm chí khoa Tử Vi cũng được các bà chiếu cố tận tình để tìm hiểu tâm hồn thầm kín của chồng
Vì vậy tôi xin dành trọn bài hôm nay để bàn về “đa thê” thực sự ngõ hầu giúp được phần nào các bà biết Tử Vi đang thắc mắc về người bạn đời của mình. Nhưng tôi cũng xin nói trước với quý bà là đừng quá câu nệ tử vi (do bất cứ ai giải đoán) để đến nỗi “chén đĩa bay” 1 cách oan uổng thì lại còn tệ hại hơn, vì những điều giải đoán tử vi không bao giờ có thể hoàn toàn chính xác, nhất là khi người sử dụng không biết nắm vững.
Tôi xin tạm chia bài ra làm 2 phần:

MÔI TRƯỜNG TỬ VI THUẬN LỢI CHO ĐA THÊ
Tôi buộc long phải nêu ra 1 cách tương đối như vậy vì e rằng các bà áp dụng quá máy móc, đâm ra tai hại, nghĩa là tôi chỉ muốn nói rằng, nếu đàn ông nằm trong 1 trường hợp nào đó dưới đây có thể vướng vào vòng đa thê chứ không phải chắc chắn, vì có nhiều yếu tố linh động gia giảm mức ứng nghiệm đi.
Tôi xin lỗi quý bạn vì sự dè dặt của tôi vì vấn đề này rất phức tạp và dễ gây hậu quả không hay
Thông thường chúng ta có thói quen để ý đến các sao Đào, hồng, tả Hữu, Riêu, Mộc, Cái chiếu Thê Thiếp hoặc nô bộc hay Mệnh Thân hầu tìm hiểu về khía cạnh đa thê. Nếu chỉ có thế thực quá dễ dàng, đơn giản, chẳng cần phải nhờ đến thầy Tử Vi, vẫn biết rằng khi cung Thê có Đào hồng. Tả Hữu cũng hay ứng nghiệm như vậy, nhưng nhiều trường hợp không có các sao đó mà người chồng vẫn cứ đa thê thì làm sao ta hiểu được. Vì vậy ta cần phải phân biệt môi trường tạm gọi là “lộ” và “ẩn”
A – MôI TRƯỜNG LỘ
Xét về môi trường này tương đối dễ dàng, miễn là quý bạn thận trọng kết hợp 1 số cung và sao lien hệ là có thể thấy kết luận khá rõ rệt, vì đã gọi là “lộ” nghĩa là không có ý nghĩa ngược lại hoặc khác đi
– Ví dụ : 1 ông chồng Mệnh có Riêu, Mộc; cung Thê có Đồng âm, Trường Sinh, Đế Vượng; cung Nô có Tả Hữu, Đào hồng, Mộ; cung Di có Hoa Cái; cung Tài có Song Lộc thì hơi khó tránh được vấn đề đa thê. Tại sao vậy? Vì khi Mệnh có Riêu, mộc là tâm hồn ưa nhục dục; Cung Thê có những sao liệt kê trên là chủ về vợ mềm yếu, không áp đảo được chồng, nhất là sao Thiên Đồng thường chủ về canh cải, có nghĩa là vợ đổi mới hoài; Cung nô có đủ bộ sao chủ về ăn chơi, trụy lạc và được nhiều con gái thương yêu, phù hợp với Hoa Cái cư Thiên Di là ra ngoài được long nhiều người, bất luận nam nữ, già trẻ; trong khi đó, cung Tài song Lộc lại càng them phương tiện thu hút phái nữ cũng như bao bọc cho họ vì tiền bạc quá sung túc, thừa thãi…tức là quá đủ cho môi trường đa thê
– Trường hợp ông chồng Mệnh có Khôi Việt hội Đào hoa; cung Nô có Hồng Loan, Riêu hỉ; cung Quan có Tả Hữu; cung Thê có Cô Quả, Không Kiếp cũng chẳng kém gì trường hợp trên vì khi Mệnh có Khôi Việt hội Đào hoa thường chủ về hào hoa phong nhã, ưa bao dung phụ nữ, bất kể người đó là con gái hay đã có chồng. Cung Nô có hồng, Riêu, hỉ, chủ về phụ nữ dưới quyền hoặc trong giới giao du thiếu đứng đắn và ưa sắc dục, làm gì họ không mê dáng đẹp kiêu hung của Khôi Việt Đào. Trong khi đó, cung Quan lại có Tả Hữu là cách sốt sắng giúp đỡ mọi người, dễ đắc nhân tâm nên càng them sức hấp dẫn. Còn cung Thê thì dễ làm cho chồng xa lánh vì có Cô Quả Không Kiếp. Như thế tưởng cũng đã quá đủ yếu tố thuận lợi cho con người đa thê
Vì mục “lộ” này khá dễ dàng nên tôi chỉ cần nêu ra 2 ví dụ và chắc quý bạn có thể suy luận ra các trường hợp khác. Nghĩa là cứ thấy các cung và sao lien hệ hoàn toàn bổ túc cho nhau chứ không tương phản hoặc trái ngược nhau là dễ kết luận dứt khoát

B – MôI TRƯỜNG ẨN
Khía cạnh này có thể nói là rất khó tìm ra vì cần xét cả yếu tố tâm lý. Nếu quý bạn chỉ xem phớt qua thì thế nào cũng lầm. Tôi cũng đã có lần chỉ muốn vứt bỏ Tử Vi vì không sao tìm hiểu được khía cạnh đa thê “ẩn”. Nay tôi xin nêu ra những ví dụ để quý bạn hiểu rõ, chứ không thể nào đưa ra 1 phương thức tổng quát để giải đoán vì khía cạnh này rất uyển chuyển

– Tôi có được coi lá số 1 ông chồng Mệnh rất đứng đắn, vắng bóng hẳn các sao Đào, Riêu, mộc, Cái, Tham Lang; cung Thê cũng chứng tỏ là cô vợ đoan trang, nết hạnh, hiền thục và còn xinh đẹp nữa (vì có Long Phượng, Khoa, Quan, Phúc, Tứ Đức…); rồi cung Quan và Tài cho thấy đương số có chức phận và tiền bạc; duy chỉ còn cung Nô là có Tả Hữu, hóa Quyền, Xương Khúc, Thai Tọa, Khôi Việt – nghĩa là chưa có đủ yếu tố để đoán là đương số đa thê. Nhưng trên thực tế, đương số lại có 3 vợ mới khổ chứ. Chính vì trường hợp này mà tôi nản chí nghiên cứu Tử vi. Nhưng cũng chính nhờ trường hợp này mà tôi đã tiếp tục hăng say, miệt mài với lý số khi đã được 1 cao thủ Tử Vi chỉ dẫn cách đây nhiều năm. Thực thế, lá số trên không phải là sai trật, chỉ vì tôi đã bỏ qua 1 cung rất quan trọng, đó là cung Tử tức. Cung này có Đẩu Quân, Cô Quả, Kình Đà cho thấy là đương số rất hiếm con. Do đó, tuy là con ngu7oi2 đứng đắn và biết yêu thương vợ đoan trang, nhưng đương số vì quá ham muốn có con, bất luận trai gái nên đã đành phải lấy them người con gái khác sau khi được sự thỏa thuận thực tình của người vợ. Tuy nhiên, khổ 1 nỗi là với bà thứ 2 cũng chả có đứa con nào nên đương

– số lại kết hôn không chính thức với 1 bà thứ 3, và bà này sinh được 1 đứa con gái. Từ đó đương số sống với cả 3 bà 1 cách thuận thảo…nếu suy nghĩ kỹ và lý luận, các bạn thấy rằng nhờ cung Thê thuần hậu, biết điều nên đương số mới tiện lấy vợ bé, và nhất là cung Nô quá tốt nên mới đem lại nguồn vui cho đương số, vì hóa Quyền trong trường hợp này không còn có nghĩa là vợ bé áp đảo, bắt nạt vợ cả mà thực ra chỉ chủ về uy tín (vì đã sinh được người con), huống chi lại có Khôi, Việt, Thai, Tọa, Xương Khúc chủ về người có tư cách, thông minh thì làm gì không biết cách làm vừa long vợ cả. Nói tóm lại, đầu dây mối nhợ là do cung Tử hiếm, rồi mới nhờ đến cung nô, nhưng cũng phải xét đến cung Tài và Quan, chứng tỏ là đương số phải đủy cả quyền quý nên mới nghĩ nhiều đến con cái nối dõi, và mới đủ khả năng bao bọc nhiều vợ, chứ nghèo nàn làm sao thực hiện được ý muốn của mình

– Một trường hợp khác về đa thê rất lờ mờ mà tôi đã được coi cũng bắt nguồn từ cung Tử tức, nhưng lại không phải là hiếm con mà trái lại rất nhiều (chắc bây giờ phải có tới trên 10 người con) vì có Tả Hữu hội Trường Sinh, Đế Vượng (nguyên Tả Hữu cũng chủ về nhiều con, đó là cách “trập trập ưu trung tư” theo câu phú). Nếu không nhờ có sao Phục binh hội Đào hoa, Tướng Quân và Thai thì có lẽ không thể biết là đương số đa thê vì những sao trên thường chủ về có con riêng, con rơi, tức là khó có 1 vợ được, nhất là khi cung Thê không chứng tỏ là người vợ thường gần gũi chồng vì có Lộc Tồn hội Cô Quả, Đẩu Quân, khiến cho người chồng hướng về người khác. Trong trường hợp này không cần phải có cung Nô có yếu tố phù hợp mạnh mẽ vì cung Tử lại đóng vai trò chính yếu. tuy nhiên, có 1 điểm khác với trường hợp trên là các người vợ nhỏ khó sống chung được với vợ cả vì dù sao cung Thê cũng có uy lực mạnh hơn và có óc cố chấp (cô Quả) khiến cho khó dung hòa được với cung Nô. Hơn nữa, cung Tử tức cũng chỉ chứng tỏ có sự lén lút, vụng trộm nên mới có con riêng, con rơi…Vì vậy, bề ngoài ta rất khó nhận thấy đương số có nhiều vợ, nhất là khi Mệnh của đương số là những sao đứng đắn, tư cách. Sở dĩ đương số ham nhục dục nhiều là vì cung ách có Riêu, mộc, cái hội Tham Lang tức là sự ham muốn rất kín đáo, tiềm tang mà chỉ đương số mới nhận biết

MôI TRƯỜNG TRỞ NGẠI CHO ĐA THÊ

A – MÔI TRƯỜNG TUYỆT ĐỐI:
Trong phần này, tôi đề cập đến trường hợp rõ ràng không thể đa thê được, nghĩa là khi ta thấy cung Mệnh và Thân chỉ có những sao đứng đắn hoặc cô đơn, lạnh lùng; Cung Thê chứng tỏ vợ chồng thuận hòa, khắng khít; Cung Nô không thuận lợi cho việc giao du với phụ nữ hoặc ít ra không chứng tỏ họ lãng mạn,m đa tình hay trội hơn cung Thê, và sau hết (nếu có càng chắc), cung Tử Tức không có gì khả nghi về 2 dòng con hoặc quá hiếm hoi

Ví dụ : Nếu Mệnh có Lộc Tồn, Vũ khúc, Thân có Thiên Phủ hội Cô Quả chủ về đứng đắn, trung hậu, thích thanh tịnh; Cung Thê có Long Phương, Khoa, Thai Tọa, Quang Quý chủ về hạnh phúc lứa đôi bền vững, khắng khít; Cung Nô có Quan Phúc, bộ Tứ Đức…chứng tỏ phụ nữ giao thiệp với mình, nếu có đều biết luân thường đạo lý, đoan trang nết hạnh, không ưa chuyện cướp chồng người, thì làm sao ta dám nghĩ rằng đương số có vợ nọ, con kia. Nếu lại được them cung Tử hội các soa Khôi Việt, Khoa, Quyền, Sinh Vượng…chủ về con cái đầy đàn và thành đạt khiến cho gia đình them đầm ấm, lại còn chắc ăn hơn nữa

B – MÔI TRƯỜNG TƯƠNG ĐỐI
Nói đến tương đối có nghĩa là các cung và sao liên hệ vấn đề trở ngại không thuần nhất. Ví dụ được cung Mệnh đứng đắn cô đơn nhưng cung Nô lại quá lả lướt….hoặc được cung Thê chứng tỏ vợ chồng thương yêu nhau nhưng cung Mệnh lại biểu lộ sự đam mê nhục dục, ăn chơi trụy lạc…Gặp trường hợp như thế, ta cần xét kỹ càng tới những yếu tố chế hóa mà tôi xin trình bày qua những ví dụ sau :

– Tôi đề cập ngay tới yếu tố đa thê mạnh nhất là Đào hồng, tả Hữu chiếu Thê để quý bạn thấy, để chế hóa nó ta cần phải có những khía cạnh nào. Trong trường hợp này, chỉ cần phải có cung Mệnh và Thân hội nhiều sao cô đơn, đứng đắn, khắc kỷ như Vũ Khúc, Lộc Tồn, Cô Quả, Khoa, Khôi việt, Quan Phúc, Thai Tọa và cung Tử Tức không có gì khả nghi về khả năng có 2 dòng con là đủ mức tin tưởng đương số không đa thê, dù cho cung Nô có những yếu tố chứng tỏ sự ăn chơi chăng nữa. Vì khi Mệnh và Thân là vai trò chủ chốt không có khuynh hướng 5 thê 7 thiếp thì các sao Đào hoa, Tả Hữu sẽ chuyển hướng hết. Lúc đó ta có thể ước đoán là đương số khó lây vợ, cứ mai mối hết đám này tới đám khác (Tả Hữu) và đám nào cũng xinh đẹp (Đào hồng), nhưng khi lấy được vợ rồi thì chính mình dễ bị cắm sừng vì Đào hồng lại ứng vào vợ bay bướm. Do đó, bà nào thấy chồng mình có trường hợp như trên, đừng bao giờ nghi ngờ chồng mà trái lại tự kiểm điểm tâm hồn mình xem có lệch lạc không

– Ngoài thành kiến về Đào hồng, Tả Hữu chiếu Thê trên đây, đa số những người mới biết xem Tử vi cung4hay nghi ngờ những ông Mệnh có Đào hoa, Riêu, hỉ và cung Nô có Tham Lang, hồng Loan, Mộ hoặc ngược lại, cho rằng họ rất dễ đa thê. Thật ra trường hợp trên dễ bị vô hiệu hóa vì chỉ cần cung Thê có bản lĩnh chi phối được người chồng là đủ (ví dụ như có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Khoa Lộc; Lộc Tồn hội Liêm Phủ…) Khi đó ông chồng chỉ dám vui chơi trong khoảnh khắc như đi phòng trà, khiêu vũ…chứ đâu có liều mạng ăn ở với phụ nữ khác trước người vợ quyền uy của mình. Và có khi ngay cả vấn đề vui chơi chồng cũng phải lén lút và giới hạn nữa. Trường hợp cung Thê không đủ áp đảo ông chồng thì cần phải có các sao thuần hậu như Quang Quý, Long Phương, Quan Phúc, Khôi việt …để thu hút người chồng. Ngoài ra cần phải có them những đại hạn liên hệ hỗ trợ mạnh mẽ, nghĩa là không có các sao tạo môi trường thuận lợi cho việc ăn chơi hoặc tình yêu nồng nàn (ví dụ như Cô Quả, Thái Tuế, Đẩu Quân, Tang Hổ, khốc Hư). Nếu chỉ có 1 đại hạn hỗ trợ thì chưa đủ vì có người luống tuổi rồi mới đèo bồng vợ nhỏ, nghĩa là cần có sự trở ngại cho giai đoạn từ 30-60….thì mới yên 1 bề vì í tai có vợ nhỏ trước 30 và sau 60, trừ 1 vài trường hợp cá biệt

Qua những điều trình bày trên đây, quý bạn hẳn thấy rằng quyết đoán 1 người đàn ông đa thê rất phức tạp, hấp tấp 1 chút là sai lạc dễ dàng và còn tai hại cho hạnh phúc vợ chồng. Về phần quý bà có gia đình cũng vậy, không nên lấy Tử Vi làm cứu cánh để nghi ngờ hoặc quá itn tưởng chồng mà đâm ra tự mình phá vỡ hạnh phúc gia đình

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

76. Nghĩ về tướng số (KHHB số 2-a-75)

0

KHOA HỌC HUYỀN BÍ 2-A(75)

MỤC LỤC :

KHẢO CỨU – THAM LUẬN

– Tướng số trên 12 cung số Tử Vi

– 49 chưa qua – 53 đã tới

– Cơ giáng đầu xuân

– 10 tác phẩm Tử Vi hiện đại

– Phá Quân Thìn – Tuất

– Lá số nữ ca sĩ Thái Hiền

– Những cung Phúc và ách Vô ChÍnh Diệu

– Tìm hiểu các vấn đề đa thê qua Tử Vi

– Trả lời nhà tướng số Đông Nam á

– Nguyên tắc và định lý để giải đoán lá số Tử Vi

– Suy tÍnh 1 lá số cần đổi giờ sinh

– Bộ môn hát bội

– Những lá số bất đắc kỳ tử

 

KHOA HỌC HUYỀN BÍ & KHOA HỌC

– Các nét tướng trong cơ thể

– Bói toán Cảm xạ học

– Lục hào lý sự

– Lục Nhâm đại độn

 

CHUYỆN HUYỀN BÍ & LỊCH SỬ

– Thần đồng Ann-Marie

– Phù thủy ngày xưa

– Hiện tượng Uri Geller

– Tôi đi xem ông Lang ngoại khoa

– Đức Tông Sư (Sú???) Đắc Huệ

– 12 nhân vật huyền bÍ Bình Dương

– Chuyện con mèo của nhà văn Chatcaubriand

– Con vật ở miền Gévaudan

– Ngày xuân với kẻ hàn nho

 

PHỤC VỤ BẠN ĐỌC:

– Hộp thư Cảm xạ học

– Hộp thư Khoa học huyền bÍ

– Gia cát thần số

– Trả lời bạn đọc về Tử vi

– Vận mạng trong tuần

– Bảng đối chiếu âm lịch sang Dương lịch

NGHĨ VỀ TƯỚNG SỐ
12 CUNG TRêN Lá SỐ:
ý NGHĨA TUẦN TỰ TRONG CUỘC ĐỜI
CáC CUNG TƯƠNG ĐỐI & ẢNH HƯỞNG VàO NHAU

– ĐôNG NAM á –

ý nghĩa 12 cung trong số Tử vi quả là tinh tế, huyền nhiệm nhưng cũng rất đơn giản, dễ hiểu vì 12 cung chỉ là 1 vòng tròn mà trên đó, số mệnh con người được ấn định. Nếu hiểu được Đạo mà vòng tròn là biểu tượng thì cái ý nghĩa 12 cung nó hiển lộ ngay trên cuộc sống của mỗi người. Vậy thì 12 cung, theo thứ tự, đã lần lượt chỉ cho ta thấy cuộc đời mỗi người. Hiểu ý nghĩa sự sống, hiểu ý nghĩa nhân sinh, đạt được cái mục d9ihc1 của đời người, đắc được cái Đạo Dịch Lý hoặc Đạo Thánh Hiền và riêng trong Tử Vi, 12 cung đã được Trần Đoàn sắp xếp có tôn ti trật tự, thiết tưởng ý nghĩa đó không có gì là khó khăn, rắc rối, không có chi mà tăm tối, mông lung…

Dù sao, cũng kinh nghiệm, cũng đã từng 1 sống 2 chết, thiết tha với Tử Vi lắm lắm mới có thể cả gan dám phát biểu như trên. Nhưng nói thì dễ, thực ra, qua mấy chục năm mà tôi vẫn chưa thấy Chân lý Tử Vi – đôi khi lại còn hoang mang, bực tức hoặc buồn phiền vì thấy những sự trái tai gai mắt trong làng tướng số. hoang mang cũng phải, vì khi thì thấy ông thầy này “bịa” ra ngôi sao Bắc Đẩu; ông thầy kia “phịa” ra ngôi sao Nam Tào và cho là khám phá mới; hoặc có thầy thì lại tuyên xưng cho mình những danh hiệu hết sức li kỳ. Cái long hoang mang của tôi không phải là thiếu lòng tin vào chính mình, mà thật ra là để nghi ngờ đúng theo tinh thần Tử Vi vậy
Nếu người ta có cuốn Tự điển về tinh tú Tử Vi thì có lẽ ngày nay phải in thêm vào đó những ngôi sao mới cho kịp đà tiến hóa của khoa Thiên Văn Học

NẾU LÀ NHÀ TƯỚNG SỐ ĐẮC TRUYỀN
Nói cho vui vậy thôi, chứ chính lý ra mỗi lá số chỉ có khoảng 108 vị sao và vài trăm cách tốt xấu. Cho nên, khi là nhà Tướng Số đắc truyền, chỉ cần xét cá nhân ấy được tốt về những sao nào hay xấu về mấy sao. Và nguyên tắc để minh chứng cho những điều khen hay chê, tốt hay dở về các sao đó đều phải băng vào quá khứ mấy ông thầy đoán đó.
Ví dụ như thầy bói khen là :
“Phúc đức của ngài lớn lắm! Nhờ vào cung này nên ngài….thế này….lại được thế kia….”
Hoặc lại biết than chủ học cao, chức vụ lớn, tiền tài to tát, tuổi lớn thì ông thấy càng nói được những điều tốt lành, hoặc khuyên nhủ, hoặc chê bai….
Còn trường hợp ông thầy cứ khen nức nở, đoán rồi sẽ giàu sang phú quý…tòa những chuyện tương lai …thì ai đoán chả được. hoặc những chuyện thường (??) lý thì ai nói cũng đặng

NóI BỪA TƯƠNG LAI
Có 1 điểm tệ hại là, thầy bói nào cứ căn cứ vào chuyện thị phi, lòng tham sân si của người cầu biết việc mai sau mà cứ dựa vào điểm đó để tha hồ nói nhăng nói cuội thì quả là 1 cái tội đáng bị…cụt lưỡi!
Nếu có người khách hỏi về con cái họ, tương lai của những trẻ mươi tuổi, thì phải căn cứ vào đâu mà đoán và phải dựa vào đâu để tối thiểu những lời đoán có minh chứng, có mạch lạc sáng sủa để người khách tin tưởng?
Xin trả lời là, trên căn bản của phép đoán, trước nhất phải xét đoán bậc cha mẹ, gia thế của người đó thuộc loại nào, như về công danh hoặc tiền bạc. Thứ đến là xét đoán về anh chị em đứa trẻ đó, nếu đứa trẻ đã mươi tuổi thì xét sức học của nó, tính tình và sức khỏe nó. Sau cùng mới dung đến phép luận đoán của tướng số mà nói về tương lai của đứa trẻ. Cứ nói theo khả năng của mình và đừng sợ sai. 10 câu đoán thì cũng phải 5 câu đúng. Vả lại, mục đích khi luận giải về tương lai trẻ là có ý để bố mẹ nó để ý đến việc giáo dục và đời sống nó, tức là chú tâm đến tương lai nó, dù tương lai đó sẽ tốt đẹp hoặc kém cỏi
VàI PHéP ĐOáN
Tôi chỉ xin bàn sơ về phép đoán, về nguyên tắc căn bản của Tử Vi. Mỗi lá số, dù chỉ được 1 hoặc 2 cách cũng đủ “cuộc đời lên hương”. Chỉ đắc 1 hay 2 cách thôi cũng ví như “1 viên kim cương nằm trong 1 nắm cát”, đủ làm cho cả lá số trở nên tốt đẹp. Trái lại, nếu xé vào cách xấu thì cả lá số đó cũng hư tuốt, cũng ví như 1 viên kim cương nằm trong nắm cát, viên kim cương đó bị nứt, bị sứt mẻ hoặc màu sắc loạn thì cũng vô giá trị
Tuy nhiên, số mạng còn cần có 1 yếu tố khác nữa là : gặp vận tốt hoặc hạn xấu hay không. Sự may rủi có đến đúng lúc, hợp thời thì mới ích lợi, chẳng hạn như giữa mùa hạn hán gặp 1 trận mưa rào đổ xuống còn quý hơn gấp vạn lần l;à mưa vàng, mưa bạc. hơn nữa, 1 bát nước đôi khi còn quý hơn 1 lạng vàng. Bởi vậy, 1 nhà Tướng số phải thấu triệt nhựng điểm căn bản đó, phải vượt qua những thành kiến của chính nghề mình và những thành kiến của khách thì những lời giải đoán của mình mới có thể tiến gần tới chân lý được.

12 CUNG SỐ
Bây giờ xin trở lại 12 cung số
Theo ngu ý của tôi, có lẽ Trần Đoàn đã ngầm gởi lại cái ý nghĩa của sự “tiếp nối” của con người, như ta có thể thấy trong 1 lá số Tử Vi:
Cung Phụ Mẫu ở ngay sau cung Mệnh, tức hàm 1 ý nghĩa là con người phải chịu 1 nguyên tắc cố định là do cha mẹ sinh ra. Nếu tính thuận thì cung Phụ Mẫu là vòng chính (thuận). Tại sao từ cung Mệnh trở đi lại theo vòng nghịch, cha mẹ sinh ra mình
Rồi sau cung Mệnh, chúng ta thấy cung Huynh đệ. Điều này cho ta nhận rõ là khi con người còn thơ ấu đã có lien hệ mật thiết với an hem ruột thịt cho tới lúc thành nhân và cho cả tới chết
Kế đến, khoảng thời gian từ 20-30 tuổi gặp ảnh hưởng cảu cung Phu/Thê, tức là thời kỳ hôn nhân. Đã thành vợ chồng rồi ắt là phải có con, và chúng ta thấy cung Tử tức nằm kề bên
Đã đeo mang vợ con gia đình thì phải tìm cách sống, phải thỏa mãn mọi nhu cầu. Cho nên khoảng 30-40 tuổi ta thấy cung Tài, tức cung tiền bạc. Cung này thật quan trọng, nó cho thấy người ta phải bon chen 1 cách lẹ làng, khôn ngoan…để có tiền
Thời gian ở cung Tài là thời hoạt động xông xáo, nắng mưa, cực nhọc và phiền não cho nên rất dễ đưa tới bệnh tật, đau ốm, bởi vậy ta thấy cung ách nó đi theo sát ngay sau
Và cũng bởi cần thỏa mãn như cầu của gia đình về tiền bạc và sức khỏe….để bảo toàn hạnh phúc, không phải chỉ ngồi 1 xó trong nhà mà có tiền, trái lại phải đi nơi này, chạy nơi khác, hết phố này đến đường kia, cho nên đã có ngay cung Di cho ta thấy đi đây đi đó như thế nào
Kế tiếp cung Thiên Di là cung Nô, cung bạn bè. Vì khi ra đời, đi đây đi đó, va chạm với mọi người thì phải lựa người mà chơi, kén bạn chọn bè. Có câu :”Giàu về bạn” thật chí lý
Nếu Thân ta giàu, công danh lớn, làm quan tướng hoặc nói theo ngày nay là làm tổng này tổng nọ thì bạn bè ta ắt cũng thuộc ngang như ta. Cho nên kế cung nô là cung Quan vậy
Khi đã công danh, quan tước là lúc có tiền bạc, sẽ tới việc mua nhà, tậu ruộng, lập vườn mở đất đai cho phì nhiêu phong phú. Vậy kế cung Quan là cung Điền
Nhà cửa, tiền tài, danh vọng đã có, tức là nền tảng đã chắc thì trong giai đoạn cuối này mới nói đến phúc đức. Lúc này đây mới biết rõ ai là người ngay chính, ai là kẻ gian tà, vì nếu trong giai đoạn này, nếu ai bị tán gia bại sản, con cháu lao đao lận đận thì có lẽ đó là cái quả phải chịu….Còn nếu an cư tuổi già 1 cách thanh tịnh, điềm đạm, con cháu hòa thuận, học hành tiến triển thì đó là cái quả được hưởng của cả 1 đời xây dựng, hoặc được con cháu tận tụy, dưỡng nuôi hiếu thuận

Dù sao cũng nên hiểu tất cả các cung điều chỉ là tương đối và đều ảnh hưởng vào nhau. Không có lá số nào là hoàn hảo, vô phúc hoặc đại phúc. Có thì chỉ là họa hoãn và đại phúc thì khó giữ được bền lâu
Có trời đất thì cũng có ta. Con người tuy nhỏ bé nhưng định mệnh dù đã được an bày, con người vẫn mãi mãi tồn tại trên Trái Đất trong sự tiếp nối vô tận. Định mệnh không hủy diệt được con người, chỉ con người mới tiêu diệt được đồng loại thôi
Và nên nhớ, 1 lá số đã được viết cho 1 người, mệnh kẻ đó đã được định thì đó là 1 đại phúc chứ không phải 1 tai họa. Nhất là giữa thời buổi tăm tối hiện nay, người ta không còn tin vào chính mình nữa nên mới tìm đến lý số thì cũng nên chờ đợi 1 hài nhi sang láng nào đó xuất hiện trên đời, thắp sang cây đuốc dẫn mọi người thoát khỏi si mê…

CáC NÉT TƯỚNG TRONG CƠ THỂ
. LƯNG, NGỰC, BỤNG, MÔNG & TAY CHÂN PHẢI THẾ NÀO MỚI TỐT?
. TƯỚNG VÚ CỦA ĐÀN ôNG & TƯỚNG RỐN CỦA ĐÀN BÀ
. QUÝ TƯỚNG CỦA ĐỔNG TRÁC, TỀ HOÀN CÔNG & LƯU BỊ.

– HOÀNG SINH –

Các phần trong cơ thể, trừ đầu và cổ ra thường được y phục bao bọc kín đáo, vừa gặp 1 người chỉ 1-2 lần, chÚng ta ít khi biết được. Người ta gọi đó là ẩn tướng. Nhưng thật ra nó chỉ ẩn với cặp mắt phàm nhÂn thôi, còn đối với các tướng thuật gia thì không nhiều thì ít, nó vẫn hiện ra như thường. Và từ đó, người ta có thể đoán được thịnh, suy, họa, phÚc. Nếu tục ngũ có cÂu nói :”Cái áo không làm nên thầy tu” thì ta cũng có thể nói :”Y phục không thể che dấu hay sửa đổi cốt cách của con người”. Bởi vì:
“Dục xuyên quý nhÂn y
Tu sinh quý nhÂn thế”
Nghĩa là:
“Muốn mặc áo của người sang
Phải có 1 hình tướng quý”

TƯỚNG NGỰC & LƯNG:

Ai đọc TÂy Hán Chí đều nhớ có đoạn Khoái Thông nói với Hàn Tín rằng:
“Tướng mặt của Ngài bất quá được phong Hầu nhưng tướng lưng của Ngài quý không thể nói hết được”
Khoái Thông muốn dung tướng lý để xui hàn Tín làm phản
Thật ra, lưng không có được 1 giá trị quan trọng như lời Khoái Thông nói. Lưng và ngực là phần them hay bớt chÚt đỉnh vào phần tướng mặt mà chÚng ta đã biết để xem điều đó chắc chắn hơn mà thôi. Lưng và ngực luôn đi liền nhau. Lưng phía sau thuộc Âm, ngực phía trước thuộc Dương. Lưng không nên lõm xuống, có rãnh ở giữa vì đó là Âm hữu dư, người suốt đời vất vả. Ngực không nên gồ lên cao vì đó là Dương hữu dư, người tính nóng nảy, hay gÂy sự với chòm xóm láng giềng.
PhÚ viết :”Ấp bối nga hung, ngã tử hà nan”
Có nghĩa là: “ lưng lõm như lưng vịt, ngực gồ như ngực ngỗng khó tránh được cảnh chết đói”
Những người có cuộc đời vất vả, nếu lưng không cong lõm xuống thì ngực cũng ưỡn ra là vì lẽ ấy. Lưng của ai nghiêng lệch còn hiếm con nữa. Điều này xÉt về phương diện y học rất đÚng: lưng nghiêng lệch là vì xương sống không thẳng, có bệnh. Mà xương sống có chứa những đường thần kinh lien quan đến cơ quan sinh dục. Do đó, ai muốn kÉn chọn vợ chồng, không thể không để ý đến điều này.
1 cái lưng tốt không những phải trò dày mà còn phải chắc chắn, rộng rãi nữa, không được mỏng manh, yếu đuối và nhất là bẹt như tấm ván. Người ta thường dung chữ “vai hùm lưng gấu” để chỉ những vị tu7o7ng1manh5 mẽ trong truyện Tàu thời xưa. Lưng của con gấu có bao giờ mỏng manh và phẳng bẹt đÂu
1 cái ngực tốt cũng phải rộng rãi đầy đặn, tăm sa (chỗ cuối xương mỏ ác) không được lõm xuống sÂu. Tăm sa lõm xuống sÂu cũng như lưng có rãnh, con người không thể sung sướng được. Những người nhiều tuổi, mập mạp, thịt ở trên ngực chảy sệ xuống trông như vÚ của đàn bà. Đó là quý tướng hay phÚ tướng thì đÚng hơn:
“Tam nhũ là tướng công hầu
Tứ nhũ là báu, đã giàu lại sang”
Nghĩa là những bắp thịt rũ xuống trông như càng có nhiều vÚ càng tốt. sang thì không nghiệm lắm, nhưng giàu là điều chắc chắn. ta cứ nhìn mấy ông Tàu chủ tiệm, bất cứ tiệm gì, lÚc ở trần thì rõ: suốt ngày họ chỉ có mỗi 1 việc là đếm tiền. Đối với đàn bà, vÚ cần lớn và chắc, đầu vÚ màu đỏ và hướng lên cao là tốt hơn cả. “Nhũ đầu chi địa” là tiện tướng của đàn bà. Ai đã xuống xóm chị em nhiều sẽ thấy điều này ứng nghiệm ngay.

TƯỚNG BỤNG

Đối với cổ nhÂn, bụng là chỗ thay cho khối óc để suy nghĩ. Người ta thường nói :”Suy bụng ta, ra bụng người” hay là :”Tôi nghĩ bụng rằng…”. Đối với nhà nho, bụng còn là chỗ chứa đựng sự khôn ngoan nữa. “Binh giáp tàng hung trung” (đồ đánh giặc chứa sẵn trong bụng) – ai mà quên được cÂu nói đó của Nguyễn Công Trứ
Thật ra, bụng chỉ là chỗ để chứa đựng và tiêu hóa đồ ăn nuôi sống cơ thể. Như vậy, bụng là nguồn gốc của sự sống, phía dưới bụng có huyệt đan điền cách rốn chừng 4 cm. Đó là chỗ tích tụ khí lực của con người. Các đạo gia khuyên chÚng ta muốn trường thọ và vô bệnh hãy thở bằng bụng chứ đừng thở bằng ngực (xin có 1 bài nói về đề tài này sau)
Như vậy, bụng nên lớn để chứa đồ ăn được nhiều. Đàn ông con trai bụng cần tròn, to chắc và nhất là xệ suống mới quý. Dáng đi khin đó sẽ trở thành oai nghi, bệ vệ. Danh sư hứa Phụ dạy rằng:
“ Đại phÚc thủy hạ danh mãn thiên hạ

PhÚc như báo nhi vạn quốc danh đề”
Nghĩa là:
Bụng lớn và xệ xuống danh vang khắp nơi. Bụng như đàn bà có mang, cả thế giới biết tiếng. Nhưng bụng dù to cũng phải gọn gang, không được nÚng nính như chứa đầy mỡ. Ai có bụng đó, đầu lại to như quả muỗm, không có góc cạnh nữa thì đó lại là hạng tầm thường. Đó đÚng là cái tÚi đựng cơm, nếu không làm tôi tớ người khác thì cũng là hạng nhà quên ngu dốt hay quÂn cờ bạc hang điếm:
“Đầu đại vô giốc (góc cạnh) – phÚc đại vô thác (lớn sồ sề) bất thị nông phu, thị đổ bác”

BàN VỀ EO CỦA ĐÀN ÔNG & ĐÀN Bà

Ngoài bụng có rÚn. RÚn là cuống của nhau, nguồn gốc của sự sống từ lÚc còn nằm trong bụng mẹ. Từ đó ta thấy rÚn nên sÂu mới có phước lộc – gốc cÂy mà rễ cạn thì làm sao hÚt được màu cho tươi tốt được? RÚn nằm cao là người khôn ngoan, càng thấp xuống dưới càng kÉm hiểu biết. Đàn bà rÚn lại càng cần sÂu hơn nữa vì con cái sẽ nhờn vào đó, càng sÂu càng đông con, nếu có long lại càng tốt, sẽ sinh quý tử.
Trẻ con lÚc mới sinh ra, nếu rÚm lồi quá, nên nhờ mấy người ăn mày cầm cái gậy giả bộ chọc vào, dần dần nó sẽ xẹp xuống, dễ coin gay. Quý bà nếu có con, gặp trường hợp như vậy xin cứ thử xem, linh nghiệm phi thường. biết đÂu chỉ nhờ 1 vài cái chọc đó mà cuộc đời con mình khá hơn. Tướng số huyền bí là như thế đó)
Ngũ tạng trong bụng thong ra ngoài bằng rÚn nên rÚn là 1 vị trí quan hệ vô cùng. Có kẻ nói, gặp trường hợp 1 người bất tỉnh, ta chỉ cần dung kim chÂm vào rÚn (lể) là người đó sẽ tỉnh lại ngay. Điều này người viết xin để tồn nghi vì chưa được chứng kiến 1 lần nào
Nếu bụng to là tốt thì ta suy ra rằng cả đàn ông và đàn bà eo không nên nhỏ. Tôi nói đàn bà mà không nói thiếu nữ vì điều này chỉ áp dụng cho người đã lớn tuổi, lập gia đình rồi. Còn con gái mà đã sồ sề thì ai coi cho được? Ai có thắt lưng nhỏ, đàn ông thì cực khổ, không bao giờ ở địa vị chỉ huy, còn đàn bà, dù có dư tiền bạc cũng phải phong trần.
PhÚ viết:
“Nam nhi yếu tế nan chủ chủ phÚc tài”
Nghĩa là: “Con trai eo nhỏ kÉm phÚc kÉm tiền”
“Nữ tử yêu triết, bộ hành hoành, chung chiêu tÂn khổ”
Nghĩa là:” con gái eo gãy, bước đi nagng, đi hang hai, sớm chiều khổ cực”
Có cÂu :” Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khÉo chìu chồng lại khÉo nuôi con”
ĐÂy có thể là loại đàn bà xinh đẹp, đảm đang nhưng không thể là hạng người sung sướng. Đàn bà cần phải có cốt cách trọng hậu, mà cốt cách đó muốn có, eo cần phải tr2on, lưng cần phải dầy. Các bà mệnh phụ phu nhÂn có thể không xinh đẹp như ThÚy Kiều nhưng ai cũng yêu viên bối hậu cả. Đàn bà đẹp chưa phải là tướng tốt. Đa số các nhi kỷ nổi tiếng đều có nhan sắc diễm lệ nhưng chung than có tốt đẹp gì đÂu? Xấu như con ma Chung Vô Diệm vẫn là chánh cung của vua Tề Tuyên Vương trong tam cung lục viện. Cốt cách trọng hậu cần cho đàn bà như thế.

49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
TRAI ĐỨNG CHỮ QUÝ CÓ TÀI
GÁI ĐỨNG CHỮ QUÝ ĐI HAI LẦN ĐÒ

-TRẦN HẢI BÍCH
VĂN XƯƠNG CƯ SĨ –

Tôi đà theo dõi thường xuyên KHHB, nhất là khoa Tử Vi. Trong quý báo…., cụ Đẩu Sơn cÓ yêu cầu giải đáp 2 câu trên. Tôi xin giải đáp như sau:

· Những tuổi đứng chữ Quý gồm Quý Dậu, Quý Mùi, Quý Tỵ, Quý MÃo, Quý Sửu và Quý Hợi. Bây giờ chúng ta theo hệ thống Tử Vi thì biết :

– các tuổi đứng chữ Quý đều cÓ giáp Khôi giáp Việt;

– Quý Mùi cÓ them Đào hoa (cư TÍ);

– Quý Tỵ cÓ them giáp Hồng, Đào, giáp Long, Phượng;

– Quý MÃo cÓ them Đào hồng cư TÍ, đồng cung Long Phượng

– Quý Hợi cÓ thêm Đào Hoa (cư TÍ)

– Quý Dậu cÓ them hồng Đào đồng cung, Long Phượng đồng cung

Theo phú Trần Đoàn : Khôi Việt giáp vi Kỳ cách.

Chưa kể những cách hay khác của tuổi đứng chữ Quý:

– Khôi Việt cái thế văn chương

– Thiên Ất Quý nhân cách – tức là tọa Quý hướng Quý

– Khôi Việt đối chiếu. Giả Nghị niên thiếu đăng khoa

– Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri (giáp khôi Việt, giáp Long Phương, giáp hồng Đào đều là quý. Các tuổi đứng chữ quý phần nhiều là cÓ cách trên, cÓ tài năng. Chưa kể những cách giáp Tử Phủ, giáp Xương Khúc, giáp Khoa Quyền..vv…mà các tuổi đứng chữ Quý không cÓ)

– Khôi Việt phụ tinh vi phúc thọ

– Khôi Việt lâm mệnh vị chi tam thai (quyền cao chức trọng)

– Và những cách Long Phượng, hồng Đào theo phú Trần Đoàn:

– Long Trì Phượng Các thủ đắc quý nhân

– Khúc Xương Long Phương phát văn

– Giáp Long Phượng phú hữu lâu dài

– Đào hồng cư quan tảo tuế đắc quan hành chÍnh (đào hồng ở cung Quan sớm được làm công chức hành chánh). Khoa số tử vi của ta cÓ dịch :”

– Cung quan mà ga95p Đào hồng. thiếu niên đà thỏa tang bồng chÍ trai”

Theo những cách trên, trai hay gái đứng chữ Quý nhất định cÓ tài, cÒn ai phủ nhận nữa

Trai gái đều cÓ tài, nhưng gái đứng chữ Quý đi 2 lần đÒ, ý nÓi tình duyên đa truân. Đa truân thì cả 2 phái mới đúng vì cả trai gái đều cÓ những cách giống nhau, nhưng gái thì đa truân cÒn trai thì không, tôi sẽ trình bày trong đoạn sau:
Nghiên cứ về tuổi đứng chữ Quý đều cÓ Thiên mà ngộ Đà La (tọa hay xung chiếu) và Mà ngộ Tuần hay Triệt; Mà ngộ Tuyệt – Mà cư Hợi cung
Mà ngộ Đà là triết túc mà (ngựa què)
MÃ ngộ Tuần, Triệt, tuyệt là MÃ Tử (ngựa chết)
MÃ cư Hợi là MÃ cùng đường
(các cách trên ý nÓi gặp tai họa suy sụp, tang thương, chết choc hay thất bại. Mệnh, Phu hay hạn cũng thế)
Bị các cách trên, gái đứng chữ Quý thật là gian truân, vất vả, lao nhọc trăm đường. Lại them các cách Hồng Đào bất lợi cho phái nữ dù rằng cÓ tài hoa, tài năng tháo vát, siêng năng, tề gia nội trợ. Con gái tài hoa thường tài mệnh tương đố. Nguyễn Du mở đầu Truyện Kiều cÓ viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thÓi má hồng đánh ghen”

“Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Theo phú Trần Đoàn:
:”Sở ai giả hồng Loan tứ mộ Phu cung”
Nghĩa là:
Hồng loan đÓng ở cung Phu tại Thìn, Tuất, Sửu , Mùi là số tang phu tức là chon chồng

“Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư phu cung bất hảo chi thập”
Nghĩa là:
“Cung Phu tốt 100% cũng giảm đi 1 nửa”

“Hồng Loan thủ mệnh chủ nhị phu”
Chưa kể:” Đào hoa phạm chủ vị chÍ dâm”
Trai gái cÓ Khôi Việt, Long Phượng, hồng Đào đều tài năng lả lướt, đa tình, tâm hồn nghệ sĩ. Gái thì gian truân, trai thì hạnh phúc
Tôi biết 1 vị thương gia ở ngoài Trung cÓ 2 vợ, mỗi vợ nhà cửa đàng hoàng, mỗi bà cÓ 15-16 người con. CÓ năm 2 bà cùng chửa, cùng đẻ, thật là hạnh phúc cho anh chồng này vô cùng. Trong gia đình chả bao giờ cÓ sự ghen tuông đố kị dù rằng 2 bà này ở cùng 1 phố. Vị thương gia này cũng tuổi chữ Quý
Nhưng trái lại, cô phụ nữ nào đa nhân duyên, 2-3 chồng cÓ dám sinh hoạt và sống đàng hoàng như ông này không? Dù rằng cÓ của và nhất là vấn đề con cái, giải quyết như thế nào?
Vậy các bạn trai chữ Quý, nếu chưa vợ, tôi chúc các bạn thành công trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tình cảm, tình duyên

49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI

Các tuổi 49 và 53 đều cÓ các sao vào vận hạn như sau:

– Nam tuổi 49 gặp Thái Bạch, tán tận

– Nam tuổi 53 gặp Thái âm và Diêm Vương

– Nữ tuổi 49 gặp Thái âm và Huỳnh Tiền

– Nữ tuổi 53 gặp Thái âm và Thiên La

Ta cÓ câu: Thái Bạch sạch cửa nhà; tán tận tan gia bại sản; Diêm Vương, Huỳnh Tiền bệnh nặng, hồn quy địa phủ; Thái âm là tang khốc tinh;
“Thái âm đàn bà tai ách chẳng an
Nhất là sinh sản, bệnh mang hiểm nghèo”
Thiên La đề phÒng phu thê xa cách, lục đục
Nhưng cÓ phải cứ các tuổi 49, 53 đều vận hạn như thế không? Chắc là không. Chứng minh cụ thể vào tru7o7ng2ho75p của tôi. Tôi năm nay 61 tuổi, qua những năm 49 và 53 chẳng sao cả. CÓ lẽ vì tôi than cư Phúc Đức, lại tọa chiếu Tử Phủ, Sát, Phá Tham Vũ, tam hÓa nên không việc gì chăng?
Các bạn 49 và 53 tuổi, các bạn chẳng gì phải lo cho chÓng già. Muốn cẩn thận,t ất cả các bạn hÃy bắt đầu từ bây giờ, hÃy triệt để thực hiện c6am ngôn sau :”Đức năng thắng số” và “Dĩ đức báo oán: – thì cam đoan với các bạn là sẽ được:”
Tiêu tai diên thọ
Thường hoạnh cát tường
Viễn ly khổ hải
Tiêu tan nghiệp chướng
Vận bệnh tiêu trừ”
Trái lại, gieo giÓ ắt gặt bÃo. Xét hiện tại khả dĩ biết được phần nào quá khứ và suy ra phần nào tương lai (Vũ tài Lục)

NGƯỜI TA TUỔI NGỌ TUỔI MÙI
CÒN TÔI NGẬM NGÙI Vì ĐỨNG TUỔI THÂN

Cụ Đẩu Sơn cÓ giải thÍch về điểm:

– Tuổi Thân thuộc Kim, rất kị Linh hỏa, thương Sứ, dù mệnh ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên

– Tổi Thân chỉ cÓ Nhâm Thân thuộc Kiếm Phong Kim, cÒn Giáp Thân thuộc Tuyền Trung Thủy; BÍnh Thân thuộc Sơn hạ Hỏa; Mậu Thân thuộc Đại Trạch Thổ; canh Thân thuộc Thạch Lựu Mộc

– Sao Thiên thương bao giờ cũng ở Mộ cunug, Thiên Sứ bao giờ cũng ở ách cung thì làm sao mà: “dù mệnh an ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên?”

Theo tôi nhận xét, các tuổi Thân bao giờ cũng cÓ Kình Dương ngộ Lực Sĩ. Phú viết:
“Lý Quảng bất phong, Kình Dương phùng Lực Sĩ”
Vì sao Kình và Lực thủ mệnh thường là người giỏi giang, tháo vát nhưng lận đận. Cũng vì thế mà ông Lý Quảng, dù tài năng mà không được phong (Vũ Tài Lục). hạn hành Kình Dương Lực Sĩ công danh trắc trở, nếu cÓ quan chức cũng bị thải hồi và nếu cÓ công trạng cũng chẳng ai biết đến (VĐTTL)

Tử Vi Việt Nam Sưu Tầm – Theo Tử Vi Lý Số

- Advertisement -