Chương 5
(Tuvivietnam – siêu tầm)
THẬP BÁT LUẬN
十 八 論
Mười tám phần luận bàn
Thứ Nhất: PHÂN LOẠI DỤNG THẦN
– Phàm xem ông bà nội, cha mẹ, thầy, chủ nhà, chú bác, cô dì và những người ngang hàng với cha mẹ, thân hữu có tuổi như cha mẹ ta, cùng tường thành, nhà cửa, xe cộ, y phục, đồ dùng che mưa, vải vóc, chăn mền, chương sớ hâỳnh quán đều lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần.
– Phàm xem công danh, quan phủ, sấm chớp, chồng, anh em hay thân thuộc ngang hàng với chồng, bạn bè của chồng, cùng loạn thần, giặc cướp, âu lo, việc gian tà, bệnh tật, người cầm đầu, gió chướng đều lấy Quan Quỷ làm Dụng thần.
– Phàm xem cho anh em, chị em, chồng của chị em, anh em vợ, anh em kết nghĩa, bạn tri giao, bạn cùng làm quan đều lấy Huynh Đệ làm Dụng thần.
– Phàm xem cho chi dâu, em dâu, thê thiếp, cùng thê thiếp của bạn, tì bộc, vật giá, tiền tài châu báu, vàng bạc, kho chứa, lương tiền, vật loại đồ dùng, cùng xem trời nắng ráo sáng sủa đều lấy Thê Tài làm Dụng thần.
– Phàm xem cho con cái, cháu, chắc, rể, môn đồ , trung thần, lương tướng, thuốc men, tăng đạo, lục súc, chim chóc, cùng gió thuận, việc giải sầu, tránh hoạ và hỏi về thời tiết, nhật nguyệt, tinh đầu đều lấy Tử Tôn làm Dụng thần.
Thứ hai : THẾ ỨNG LÀM DỤNG THẦN
Hai hào Thế và Ứng ở trong các quẻ thì Thế là mình mà Ứng là người. Thế Ứng tương sinh, tương hợp là khách chủ hợp ý, Thế Ứng tương khắc tương xung là khách chủ bất hoà.
– Phàm xem tật bệnh cho mình hoặc hỏi tuổi thọ hoặc xem xuất hành hung hay cát, xem hao tổn lợi ích cho mình đều lấy hào Thế làm Dụng thần.
– Phàm xem cho người chẳng biết xưng hô ra sao, bạn bè không thâm giao, cửu lưu thuật sĩ, kẻ thù , quân địch, xem cho nơi nào đó, cho núi, sông, chùa chiền nào đó đều lầy Ứng làm Dụng thần.
– Như xem đất nào đó có thể chôn cất cho mình không thì Thế làm huyệt mà Ứng làm đối án . Còn như xem mua đất của người để mai táng, mà hỏi đất đó nếu chôn có lợi cho nhà mình không thì lấy Ứng làm huyệt mà Thế là nhà mình.
Thứ ba: HỎI ĐÁP VỀ DỤNG THÀN
– Có người hỏi : Nô bộc xem cho chủ nhânlấy hào Phụ Mẫu làm Dụng thần. Chủ nhân xem cho nô bộc vì sao không lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần ?
Đáp : Tất cả những gì nuôi dưỡng, che chở cho ta đều dùng Phụ Mẫu làm Dụng thần, tức như thành quách, nhà cửa, xe tàu, y phục.. .Các loại như vàng bạc, vật dụng, tì bộc, .. để sử dụng đều lấy Thê Tài làm Dụng thần.
– Lại hỏi: Xem cho vợ của anh em, cho chị em của vợ dùng hào Tài làm Dụng thần, mà sao xemcho anh em của chồng lấy hào Quan làm Dụng thần ?
Đáp: Xem cho vợ của anh em, chị em của vợ là những người ngang hàng với vợ, mà chồng xem cho vợ lấy hào Thê Tài làm Dụng thần vì thế tất cả đều dùng hào Thê Tài. Anh em của chồng là người ngang hàng với chồng, mà xem cho chồng lấy hào Quan Quỷ làm Dụng thần thì tất cả đều dùng hào Quan Quỷ.
– Hỏi: Sách xưa đều chép Huynh Đệ là gió mây, nay lấy hào Quan Quỷ là gió chướng, Tử Tôn là gió thuận, vì sao như thế ?
Đáp: Quí nhân dùng hào Quan là Quan tinh, thứ nhân lấy Quỷ làm hoạ hại. Quí nhân lấy Tử Tôn là ác sát, thứ nhân lấy Tử tôn làm Phúc thần. Quan là sao câu thúc, Quỷ là sao lo âu cản trở. Như gặp gió mưa liên miên, hoặc gặp gió chướng, tật bệnh, quan sự quấy nhiễu, giặc cướp xâm hại khiến người lo âu, há Phúc thần có thể chế Quan Quỷ mà giải ưu sầu sao. Cho nên có thế dùng được như vậy.
Thứ tư : LUẬN VỀ NGUYÊN THẦN, CỪU THẦN, KỊ THẦN
– Phàm xem quẻ muốn biết Nguyên thần thì trước tiên phải xem hào nào là Dụng thần. Hào sinh Dụng thần là Nguyên thần. Như Dụng thần gặp Tuần không, Nguyệt phá, suy nhược, hoặc phục tàng không hiện được Nguyên thần động sinh, hoặc được Nhật thần, Nguyệt kiến làm Nguyên thần sinh, thì đợi Dụng thần xuất Không, xuất Phá, đúng trị nhật[1] điều mong muốn tất toại. Nếu Dụng thần vượng tướng mà Nguyên thần hưu tù, bất động, hoặc động mà hoá Mộ, hoá Tuyệt, hoá khắc, hoá Phá, hoá Thoái, hoặc bị Nhật thần, Nguyệt kiến khắc chế đều không thể sinh Dụng thần tức gốc rễ của Dụng thần bị tổn thương, thì không chỉ vô ích mà ngược lại còn bị hại nữa.
– Phàm xem quẻ muốn biết Kị thần thì trước tiên phải biết Dụng thần, hào khắc Dụng thần là Kị thần. Như Kị thần động khắc Dụng thần, mà hào Dụng thần xuất hiện chẳng lâm Không tất sẽ chịu khắc . Còn như trong quẻ nếu có Nguyên thần động sinh Dụng thần thì ngược lại Kị thần lại sinh Nguyên thần, đó gọi là “tham sinh quê khắc” tức Dụng thần có gốc rễ vững chắc, tốt càng gấp bội.
Nếu Kị thần độc phát[2]mà Dụng thần lâm Không ấy là Tỵ không[3], còn nếu phục tàng thì gọi là Tỵ hung[4]. Nếu Nhật thần, Nguyệt kiến sinh Dụng thần là được cứu. Những điều như trên đều là điềm tốt chẳng có gì nghi ngờ nữa.
Nếu Kị thần biến hồi đầu khắc, hoặc bị Nhật thần, Nguyệt kiến khắc xung, hoặc động hào chế Kị thần ấy là giặc muốn hại ta mà giặc bị hại trước, ta đâu có hại gì.
Còn như Nhật thần, Nguyệt kiến sinh phò Kị thần, hoặc Kị thần chồng chất khắc Dụng thần thì dù Dụng thần Tỵ không hay phục tàng đi nữa, thì đến lúc xuất Không, xuất lộ tất bị hại chẳng cứu được.
– Phàm xem quẻ muốn biết Cừu thần thì hào chế khắc Nguyên thần mà sinh phò Kị thần ấy là Cừu thần. Nếu trong quẻ Cừu thần phát động thì Nguyên thần bị hại, Dụng thần không gốc rễ, Kị thần tăng sức thì hoạ khỏi phải nói.
[1] chỉ ngày có cùng địa chi với Dụng thần. Như Dụng thần là hào Dần lâm Không thì đợi đến ngày Dần, với Nguyệt phá cũng thế.
[2] có nghĩa một mình Kị thần động
[3] có nghĩa nhờ Không mà tránh.
[4] tức tránh được hung