25 C
Hanoi
Thứ Hai, 20 Tháng Năm, 2024
spot_img
Home Blog Page 71

Tính chất cơ bản của các sao trong Tử Vi (Phần 7) – SAO LIÊM TRINH

0
SAO LIÊM TRINH

Liêm Trinh miếu ở ba cung Dần, Mùi, Thân; hãm ở hai cung Tỵ, Hợi.

Liêm Trinh là sao thứ năm của Bắc Đẩu, ở ngũ hành thì thuộc âm hỏa. Là sao “đào hoa thứ” trong Đẩu số, Hóa khí làm “tù”. Về tính cách, chủ về thông minh mẫn tiệp, bại thì tà ác.

Về phương diện tính cách, người có Liêm Trinh thủ mệnh phần nhiều trọng tình cảm, thiếu lí trí, cho nên là người có phong độ, nhưng lại phóng túng, tận tình. Đây là tính chất cơ bản của sao “đào hoa thứ”.

Do tính chất “đào hoa”, nên Liêm Trinh rất ưa Văn Xương, Văn Khúc. Bởi vì lúc sao văn tương hội với đào hoa, tính chất đào hoa lập tức biến thành nhàn nhã, không chìm đắm trong sắc dục, có thể hóa giải thành thú phong lưu thơ rượu, hoặc chuyển hóa thành lực sáng tạo trong nghệ thuật. Văn học nghệ thuật phần nhiều mang sắc thái tình yêu, đây là đạo hóa giải. Trên thực tế, phàm là người có Liêm Trinh thủ cung mệnh, phần nhiều cũng yêu thích mĩ thuật, có khuynh hướng về thư họa; nếu không, cũng sẽ có cảm thụ khá đặc biệt về thưởng ngoạn, nhất là lúc hội hợp với Tham Lang thì càng đúng.

Nếu không gặp sao văn, mà chỉ hội hợp với các phụ diệu trong Đẩu Số như Thiên Khôi Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, trái lại sẽ dễ làm tăng tính hay lúng túng khó xử của Liêm Trinh, dẫn đến tiến thoái bất an.

Lực đề kháng của Liêm Trinh đối với tứ sát Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, rất yếu. Cho nên hễ Liêm Trình đóng ở cung mệnh, thì cần phải không gặp tứ sát, mới nên chuyện. Nhất là hai cung Tỵ hoặc Hợi, gặp tứ sát thì chủ về bôn ba tứ hải; nếu gặp thêm Thiên Hình, Đại Hao, Hóa Kị, càng chủ về sống chết ở tha hương.

Liêm Trinh là sao có tính chất biến hóa rất phức tạp, tuy có thuyết “ đào hoa thứ”, nhưng lại không chắc chắn là “mệnh đào hoa”, hoặc có tính cách dâm đãng. Chỉ có một tính chất cơ bản có thể khẳng định, đó là người này tất sẽ có chút lẳng lơ dí dỏm, nhưng nội tâm lại chủ quan cực mạnh, không dễ chiều theo ai.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Tham Lang là “đào hoa chính”, Liêm Trinh là “đào hoa thứ”, cùng thuộc đào hoa, nhưng người Tham Lang thủ mệnh lại khéo ăn khéo ở, khác với Liêm Trinh hơi có chút trôi nổi. Chỗ khác nhau này cần phải phân biệt rõ.

Liêm Trinh tuy dí dỏm nhẹ nhàng, trong giao tế hơi có chút hài hước, nhưng do có tính chất chủ quan mạnh, cho nên không thể thấy anh ta dí dỏm nhẹ nhàng rồi lây đó để bàn công việc

Trên thực tế anh ta rất có thể là một người có tính “làm việc theo nguyên tắc” Lúc hội hợp Địa Không, Địa Kiếp, tính chất này càng rõ rệt, cho nên thích hợp theo đuổi công việc nghiên cứu về phương diện khoa học kĩ thuật, bởi vì công trình khoa học kĩ thuật rất cần ngăn nắp thứ tự. Liêm Trinh đóng ở cung mệnh cũng thích hợp làm về kiến trúc, bởi vì công trình kiến trúc có mang ý vị nghệ thuật.

Liêm Trinh rất ngại Hóa Kị, chủ về bệnh tật máu mủ, Nó cư cung mệnh, cung tật ách và cung Thiên Di, đều có ảnh hường đến vận trình của người đó.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Tính chất cơ bản của các sao trong Tử Vi (Phần 9) – SAO THÁI ÂM – Tuvivietnam

0
SAO THÁI ÂM

Thái Âm miếu ở ba cung Hợi, Tí, Sửu; hãm ở ba cung Mão, Tỵ, Ngọ.

Thái Âm là sao của Trung Thiên, ngũ hành thuộc âm thủy, Hóa khí làm “phú” (giàu có).
Thái Âm và Thái Dương là cặp “sao đôi” quan trọng trong Đẩu số, do đó hai sao có tính chất tương đồng, và cũng có tính chất tương dị. Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chủ về quý; Thái Âm chủ về nữ, Thái Dương chủ về nam; Thái Âm chủ về nhu, Thái Dương chủ về cương; Thái Âm thuộc thủy, Thái Dương thuộc hỏa; Thái Âm là mẹ, Thái Dương là cha; Thái Âm là con gái, Thái Dương là con trai.

Thông thường, bất kể nam hay nữ mệnh mà gặp Thái Âm, đều bất lợi cho lục thân phái nữ. Có thể căn cứ cung vị Thái Âm bay đến, và tổ hợp tinh hệ của tam phương tứ chính để luận đoán mệnh vận của người bị bất lợi. Nói chung, thường chủ về lúc nhỏ mẹ bất lợi; nếu là nữ mệnh, thì lúc nhỏ bản thân bất lợi; nếu là nam mệnh, Thái Âm lạc hãm là bất lợi cho vợ hay con gái

Nam mệnh cung thân gặp Thái Âm, dễ tiếp cận người khác giới, cũng chủ về người này tính tình dịu dàng, nhiều nữ tính. Nếu cung phúc đức và cung phu thê không tốt, có thể có khuynh hướng đồng tính.

Nữ mệnh cung thân gặp Thái Âm, không hội sát tinh, chủ về là người đoan trang, thông minh. Nếu gặp các sao sát, hình, thì có khuynh hương khắc chồng hình con. Nếu gặp các sao đào hoa, mà cung phúc đức và cung phu thê không tốt, thì cũng có thể phát triển thành đồng tính luyến ái.

Thái Âm hội hợp Văn Xương, Văn Khúc, chủ về có tài năng, học rộng, có thể phát về văn chương. Rất ưa hội hợp với Lộc Tồn, Hóa Lộc, bởi vì Thái Âm chủ về cất giấu, phú, trữ, khí vị hợp với Lộc Tồn và Hóa Lộc. Hội hợp với Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì có thể cương nhu tương tề,

Thái Âm và Thái Dương hội hợp, nếu hai sao đều nhập cung miếu vượng, cũng cương nhu tương tề, người này có nội tài, nhưng cao thượng độ lượng, phóng khoáng bất phàm.

Thái Âm ở cung hãm không ngại Hóa Kị, vì Thái Âm của cung hãm vốn không sáng, đương nhiên không sợ mây mù che kín. Ở cung vị miếu vượng thi lại sợ Hóa Kị, vì có mây mù che trăng sáng. Nhưng Hóa Kị ở cung Hợi, thì gọi là “biến cảnh”, trừ phi có các sao sát, hình cùng chiếu, nếu không “biến cảnh” chỉ làm tăng vẻ rực rỡ của ánh trăng.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi, phàm là Thái Âm thủ mệnh, lúc luận đoán rất nên xem kèm cung phúc đức. Bởi vì Thái Âm chủ về phú, xã hội cổ đại khá đơn thuần, tuy có cạnh tranh nhưng không kịch liệt, do đó việc chủ về sự hưởng thụ tình thần của cung phúc đức có ảnh hưởng không lớn. Còn trong xã hội hiện đại thì cạnh tranh kịch liệt thủ đoạn cạnh tranh cũng nhiều âm mưu hơn, nếu cung phúc đức mà không tốt, do Thái Âm chủ về phú, thường thường sẽ trái lại, dễ dẫn đến đau khổ về phương diện tinh thần, khi luận đoán cần phải chú ý.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Lược đoán 12 cung nhập hạn

0

Lược đoán 12 cung nhập hạn
(Tuetvnb)
Cổ thư viết về 12 cung nhập hạn, kị tuổi nào. Mới đọc qua thì nghe có vẻ giản đơn, nhưng thực sự là đáng chú ý. Có trải nghiệm qua rồi mới biết. Cái gì cũng có cái LÝ của nó, càng ngẫm càng hay…

人生子命忌寅申
丑午生人丑午瞋
寅卯之人防巳亥
龍蛇切忌本身臨
申人鈴火災殃重
未遇豬雞墓患殷
戌亥羊陀須避忌
酉人陀刃亦非親

豬犬生人莫遇蛇,
辰戍切忌到網羅,
預先整頓衣冠木,
未免生人唱挽歌.
Phiên âm
————–

Nhân sinh Tí mệnh kị Dần – Thân
Sửu – Ngọ sinh nhân Sửu – Ngọ sân
Dần – Mão chi nhân phòng Tỵ – Hợi
Long – Xà thiết kị bản thân lâm
Thân nhân Linh – Hỏa tai ương trọng
Vị ngộ Trư – Kê mộ hoạn ân
Tuất – Hợi Dương – Đà tu Tỵ kị
Dậu nhân Đà – Nhận diệc phi thân
Trư – Khuyển sinh nhân mạc ngộ Xà,
Thìn – Tuất thiết kị đáo Võng La,
Dự tiên chỉnh đốn y quan mộc,
Vị miễn sinh nhân xướng vãn ca.

Thích nghĩa
—————-

1. Người tuổi Tí kị tuế hạn đáo Dần – Thân
2. Người tuổi Sửu – Ngọ, kị tuế hạn đáo Sửu – Ngọ
3. Người tuổi Dần – Mão, kị tuế hạn đáo Tỵ – Hợi
4. Người tuổi Thìn – Tỵ, kị tuế hạn đáo Thìn – Tỵ
5. Người tuổi Thân, kị Linh – Hỏa nhập hạn (tai ương trọng = tai nạn nặng)
6. Người tuổi Mùi, kị tuế hạn đáo Hợi –Dậu (mộ hoạn ân = lo mà đắp mộ)
7. Người tuổi Tuất – Hợi, kị Kình Dương – Đà La nhập hạn
8. Người tuổi Dậu, kị Kình Dương – Đà La nhập hạn
9. Người tuổi Hợi – Tuất, kị tuế hạn đáo Tỵ
10. Người tuổi Thìn – Tuất, kị tuế hạn đến Thìn – Tuất (La, Võng)

11. Nếu biết trước được như trên thì nên về chỉnh đốn quần áo, quan tài
12. (vì) khó tránh được cái cảnh người ta hát bài ca đưa đám.

(Kể ra 2 câu cuối cổ nhân viết có vẻ hơi… quá tay, tuy nhiên, nếu hạn ấy, cung ấy lại gặp thêm sát tinh, không được cứu giải thì cũng chưa biết chừng… )

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Tính chất cơ bản của các sao trong Tử Vi (Phần 8) – THIÊN PHỦ

0
THIÊN PHỦ

Thiên Phủ miếu ở sáu cung Tí, Sửu, Dần, Thìn, Mùi, Tuất; hãm ở cung Dậu.

Thiên Phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, thuộc dương thổ, chủ về hiền năng, là tiền bạc của kho phủ.

Do là chủ tinh nên Thiên Phủ cũng có năng lực lãnh đạo, nhưng tài lãnh đạo này lại theo khuynh hướng thủ thành, thiếu tính khai sáng. Đây giống như người giữ kho bạc, chức trách của ông ta là “quản lí tài chính” chứ không phải “kiếm tiền”, cho nên phải làm việc cẩn thận, khi làm việc thường có biểu hiện tỉ mỉ; chớ không rộng rãi như Tử Vi, cũng không phóng khoáng như Thái Dương. Cùng là chủ tinh nhưng có sự phân biệt, bạn đọc cần chú ý.

Vì vậy, người có Thiên Phủ thủ mệnh, chỉ thích hợp phát triển ở cục diện đã có sẵn, thiếu cái nhìn bao quát, cũng không có kiến giải riêng, không có lập trường riêng, có biểu hiện là một chủ quản xứng đáng với chức vụ. Do có tính chất “kho phủ”, nên người có Thiên Phủ thủ mệnh, khá “thương tiền”, cẩn thận, vững vàng, luôn cố tìm sự ổn định. “Kho phủ” không có năng lực kiếm tiền, chỉ có thể giữ tiền và sử dụng tiền bạc, do đó Thiên Phủ mị ưa gặp Lộc. Bất kể là hội hợp với Lộc Tồn hay Hóa Lộc, đều có thể làm tăng cách cục chiếm lợi, trở thành giàu có.

Thiên Phủ cũng ưa hội hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, như vậy có thể khiến cho người này có kiến giải riêng, đồng thời cũng làm tăng khí thế lãnh đạo của họ.

Thiên Phủ cũng ưa Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung; Long Trì, Phượng Các giáp cung; chủ về ngưòi hiền hậu, vững vàng/ giỏi giang, cẩn thận, giỏi tính toán, đủ sức đảm Iihiệm chức vụ cao.

Người có Thiên Phủ thủ mệnh không ưa gặp tứ sát. Nếu không gặp Lộc mà chỉ gặp tứ sát, thì không thích hợp với tính chất “kho tiền”, khó tránh giở thủ đoạn gian xảo để kiếm tiền.

Giả dụ Thiên Phủ gặp tứ sát, đồng thời còn hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc, có thể là người giàu có thanh nhã; bởi vì Văn Xương và Văn Khúc chủ về giỏi văn bút, kiêm giỏi biện luận, tuy hơi xảo quyệt nhưng cũng khong ma’t phong thái là văn nhân nho sĩ.

Nhưng nếu Văn Xương hoặc Văn Khúc Hóa Kị, thì đây là tinh hệ “Thiên Phủ gặp sát tinh, hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc”, kết cấu càng lớn càng giảm sắc, người này dễ trở thành hàn nho, bụng đầy lời oán trách, tự cho mình có tài mà không gặp thời.

Thông thường, Thiên Phủ không nên độc tọa, bởi vì quan giữ kho tiền không nên cô độc, cô độc thì dễ thành người mắt thấy tiền thì lòng mưu toan. Nếu độc tọa mà không có sao cát, hội tứ sát, thì biến thành xảo trá, mưu mô. Cũng không nên gặp sao không, chủ về sông cô lập, không có cứu viện. Nếu Thiên Phủ độc tọa, gặp sao không và Thiên Diêu, chủ về người này đầy âm mưu thủ đoạn.

Thiên Phủ và Thiên Tưóng, là một cặp “sao đôi” quan trọng trong Đẩu số; cho nên cổ nhân có thuyết “phùng Phủ tầm Tướng”, ”phùng Tướng tầm Phủ”.

Do là “sao đôi”, cho nên “Phủ Tướng triều viên” có thể thành cách cục, “Tử Phủ triều viên” thì rất khiên cưỡng. Tức là, do Thiên Phủ, Thiên Tướng có quan hệ “sao đôi”, còn Tử Vi, Thiên Phủ thì không phải “sao đôi”

Nữ mệnh Thiên Phủ, thông thường đều chủ về trung hậu hiền từ, thông minh, khéo léo, thích giúp người. Nếu hội sao cát, đặc biệt là hội hợp với Tả Phụ, Hữu Bật, sẽ có oai nghi của bậc nam tử, cũng có thể phú quý. Gặp các sao tứ sát hình kiếp, thì chồng con bất toàn, hoặc phải tái hôn.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Sơ luận về Tứ Hóa

0
Vẽ tranh phong cảnh bằng bút chì đẹp đơn giản

(Trích bài viết của Thầy TUETVNB)


1. Tứ hóa là Hóa LộcHóa QuyềnHóa KhoaHóa Kị. Là thùy tượng của tổ hợp sao trong đẩu số ứng với thời gian. Cho nên, phối hợp tứ hóa để đoán cát hung phải lấy Sao làm thể, Tứ hóa làm dụng.

2. Hóa Lộc – Ngũ hành thuộc Kim, ứng số 4,9 ở phương tây, chủ về mùa Thu. Mùa thu – là lúc vạn vật thu tàng, thông qua gặt hái mà thu lợi. Cho nên Hóa Lộc chủ vất vả, được lợi, tài lộc, thực lộc, hưởng thụ, nhân duyên, giải ách, quý nhân, tình duyên, thông minh và tài nghệ. Khởi đầu của việc tốt (nguyên nhân dẫn tới cái sự tốt).

3. Hóa Quyền – Ngũ hành thuộc Hỏa, ứng số 2.7 ở phương Nam. Hỏa bốc lên mà chủ về nóng nhiệt. Nên Hóa Lộc chủ về thế lực, tranh chấp, thành tựu, nỗ lực phấn đấu, cao ngạo, sĩ diện, giá trị gia tăng, bá đạo, tự phụ, không khuất phục, cầm quyền, tài hoa, giỏi giang, chuyên kỹ thuật, cố chấp, quản lý chặt chẽ, phung phí, ngoại thương, bệnh cấp tính. Hóa Quyền tốt nhất là nên nhập Tài- Quan cung, còn nếu nhập vào Lục thân cung thì dễ xuất sinh tranh chấp, cọ sát.

4. Hóa Khoa – Ngũ hành thuộc Mộc, ứng với số 3,8 ở phương Đông, chủ về mùa Xuân. Mùa xuân thuộc Mộc, trong cái vòng sinh sôi bất tận thì chính là thời điểm manh nha, đâm chồi. Vì thế, Khoa chủ sinh trưởng, giáo hóa, công danh, thanh danh, thiện duyên, quý nhân, giải ách, khoa giáp, danh dự, quý trọng, thanh bạch, thuận lợi, cao thượng, khí chất tốt.

5. Hóa Kị – Ngũ hành thuộc Thủy, ứng với số 1,6 ở phương Bắc. Phương Bắc là nơi trời Đông lạnh giá. Vạn vật thu tàng, suy kiệt. Cho nên Hóa Kị chủ thu tàng, cất chứa, suy kiệt, không thuận, ẩn trạng, tình nghĩa, đạo nghĩa, quản thúc, bám dính, hung hiểm, dịch mã, tai họa, biến thiên, thua thiệt, tử vong, mê muội, tự ti, tật bệnh, phá tài, lục thân hình khắc, thị phi, quan tụng, tai nạn xe cộ.

6. Hóa Lộc tối kị Không Kiếp, Không Vong, Hóa Kị – đó là cách “Lộc phùng xung phá”. Rất tốt nếu được cát tinh, quyền tinh, khoa tình hội hợp.

7. Hoa Quyền mà tam hợp có Hóa Khoa, Khôi Việt thì chủ về văn chương, danh tiếng vang xa.

8. Hóa Khoa hội Khôi Việt Xương Khúc chủ về khoa giáp. Nhưng nếu gặp Kình Dương, Hỏa tinh thì dễ vất vả. Khoa hội Kiếp Không, chủ về khoa giáp bất thuận, có tài mà không gặp thời.

9. Hóa Kị mà lạc hãm, gặp hại thì càng hung hiểm. Gặp Kị tinh hội hợp hay xung phá đều là không tốt. Riêng kị tinh xung phá thì lại trở nên lợi hại.

10. Hóa Lộc nhập lục thân cung, thì gia đình tình nghĩa, lục thân tốt.

11. Hóa Quyền nhập lục thân cung, dễ gặp xung đột trong gia đình, nhiều ý kiến.

12. Hóa Khoa nhập lục thân cung thì tình cảm gia đình trước sau đều đẹp

13. Hóa Kị nhập lục thân cung, là sự quản thúc, quan tâm, thiếu nợ, là nghiệp quả.

14. Hóa Lộc nhập tài bạch cung, tài nguyên dồi dào, dễ kiếm tiền mà cũng dễ tiêu tiền.

15. Hóa Quyền nhập tài bạch cung, có khả năng quản lý tài chính, vận dụng tài chính.

16. Hóa Khoa nhập tài bạch cung, tài nguyên thuận lợi, việc làm tốt.
17. Hóa Kị nhập tài bạch cung, dễ vì tiền mà phiền não, nguồn tài chính cũng không thuận, câu nệ vào chuyện tiền bạc, dễ thành nô lệ của tiền bạc, việc làm tốt.

18. Hóa Lộc nhập Quan Lộc, vận khí cả đời tốt, có nhiều khả năng phát huy trên đường sự nghiệp.

19. Hóa Quyền nhập quan lộc, trong sự nghiệp thường được nắm quyền hành, là cách của ông chủ thực sự.

20. Hóa Khoa nhập quan lộc, Sự nghiệp bình thuận, công việc tốt, hợp với mình.

21. Hóa Kị nhấp quan lộc, cả đời gặp vận khí xấu, trên đường sự nghiệp ít nhất phải trải quan một lần khốn đốn mà về sau mới may ra có thành công. Là người rất câu nệ vào sự nghiệp.

22. Hóa Lộc nhập Điền trạch, là người nặng gánh gia đình, nhưng tuổi trẻ đã dễ dàng tạo dựng được sản nghiệp. Cũng là người biết quan tâm, lo lắng đến gia đình.

23. Hóa Quyền nhập điền trạch, thích gia trưởng, thích quản chế từ công việc trong nhà đến gia nhân. Đối với Lục thân thường dễ có tranh chấp. Tuổi trẻ dễ tạo dựng được điền sản.

24. Hóa Khoa Nhập cung Điền trạch, gia trạch bình thuận, trong gia đình, quan hệ trong gia đình tốt, tuổi trẻ dễ tạo dựng điền sản, gia phong nền nếp.

25. Hóa Kị nhập Điền trạch, gia trạch không thuận, thường gặp cảnh đau lòng trong gia đình, gia đình không hòa thuận. Phải vãn niên mới tạo dựng được điền sản của chính mình.

26. Họa Lộc nhập tật Ách, là người lạc quan, nhưng tuổi nhỏ thường nhiều tật bệnh.

27. Hóa Quyền nhập Tật ách, là người ngang ngược, tuổi trẻ thường gặp thương tích.

28. Hoa Khoa nhập tật ách, người có phọng độ, tuổi trẻ bình an, ít tật bệnh.

29. Hóa Kị nhập tật Ách, là người tự ti, nội tâm, tuổi nhỏ thường gặp nhiều tai ách.

30. Hóa Lộc nhập Phúc đức, là người thích hưởng thụ, tiêu tiền không biết tiếc, tâm tình thư thái, nhưng cũng là người bận rộn.

31. Hóa Quyền nhập Phúc Đức, là người tiêu tiền phung phí, người thường béo đầy, tâm không nhàn.

32. Hóa Khoa nhập Phúc đức, là người tiêu tiền có kế hoạch, tâm tình nhàn tản, bình hòa.

33. Hóa Kị nhập Phúc đức, không cso tiền tiêu, có tiền cũng không dám tiêu, cả đời vất vả, không một phút thanh nhàn.

34. Hóa Lộc nhập Thiên Di, đi ra ngoài dễ gặp quan hệ tốt

35. Hóa Quyền nhập thiên di, ra ngoài dễ tranh chấp, nhưng cũng rất dễ thành công, có quyền hành.

36. Hóa Khoa nhập Thiên Di, đi ra ngoài được bình thuận, gặp gỡ quan hệ tốt.

37. Hóa Kị nhập Thiên Di, đi ra ngoài bất thuận, lý hương lập nghiệp thì tốt, (càng xa càng tốt).

38. Hóa Lộc nhập Mệnh, Thông Minh, tự lập, quan hệ tốt, có khả ăng giải trừ tai ách.

39. Hóa Quyền nhập Mệnh, tính tự cao, phóng khoáng, chuyên quyền, cơ trí, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, hay chủ quan, thích quản chế tất cả mọi chuyện.

SÁT PHÁ THAM và TỨ HÓA

Ngày xưa, cổ nhân thường không thích cách Sát Phá Tham. Phần nhiều đều cho nó là hung cách hoặc hạ cách.

Vì xưa cho rằng :
Tham lang mê hoa luyến tửu
Phá quân cừu thị lục thân
Thất sát thân ngâm bất phúc

(Tham lang thì thường mê đắm tửu sắc,
Phá quân coi lục thân như kẻ thù,
Thất sát thì hay than vãn mà chẳng có phúc).

Phần nhiều là đều chê bai mà ít khi tán dương. Nhưng trong xã hội hiện đại, nắm được tiên cơ, thành công trong sóng gió – lại là một phương thức rất thích hợp với Mệnh có cách Sát Phá Tham. Thậm chí có người còn cho rằng, có không ít Mệnh của những nhân vật thành đạt, đều là Sát Phá Tham cách. Là những người có ý chí đặc biệt, lại thích nghi được với hoàn cảnh, vì thế dễ dàng tận dụng được cơ hội mà thành công.

Tứ hóa trong Tử vi vốn là một điểm trọng yếu, cho đến nay thì vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng nào cho việc xuất sinh của Tứ hóa. Quan hệ của Sát Phá Tham và Tứ hóa cũng là một quan hệ cơ bản của Tử vi. Nhân lúc rảnh rỗi, thử ghé mắt bàn qua xem thế nào.

Trước hết, trong Thập can hóa diệu thì chúng ta có thể thấy rằng, trong tổ hợp với Tứ Hóa, thì Phá Quân chỉ đi với Quyền, LộcTham lang đi với Quyền Lộc Kị. Riêng Thất sát thì không hóa, và Sát Phá Tham không hóa với Hóa Khoa.

Người tuổi Giáp : Phá Quân – Hóa Quyền
Người tuổi Quý : Phá Quân – Hóa Lộc
Người tuổi Mậu : Tham Lang – Hóa Lộc
Người tuổi Kỷ Thang Lang – Hóa Quyền
Người tuổi Quý : Tham Lang – Hóa Kị

Với người tuổi Giáp : được gặp tổ hợp Phá quân – Hóa quyềnHóa quyền chủ về quyền hành, hơi có tính chuyên quyền gia trưởng. Phá quân cũng là một sao chủ về cương liệt, rất chuyền quyền, độc tôn. Vì thế mà khi tổ hợp này đứng với nhau, nếu lập vào Mệnh thân thì tuy cũng là một cách quý, nhưng có điểm yếu là hay cố chấp, trong giao tiếp thường thiếu tính mềm dẻo, ôn hòa. Do vậy, cũng rất dễ dẫn đến tranh đấu, sát phạt. Nếu gặp vận xấu hoặc sát tinh hội hợp thì có thể mạng họa vào thân, nếu được Cát tinh trợ giúp thì cũng là kẻ “thân tâm bất nhàn”.

Thành công đối với người tuổi Giáp, mệnh lập Phá quân trong trường hợp này thường xây trong khó nhọc. Trong đời đa phần phải trải qua bôn ba mới thành nghiệp. Tuy nhiên, khi vận đến thì như diều gặp gió, không có gì có thể cản trở.

Trong tổ hợp của Tứ Hóa với Sát Phá Tham, đặc biệt có người tuổi Quý là được cả Phá Quân, Tham lang cùng hóa. Phá – Hóa Lộc, Tham – Hóa Kị.

Phá gặp Lộc, các sách tử vi thường cho rằng tốt, nhưng trên một phương diện nào đó thì tổ hợp này cũng cần xem xét cẩn thận. Bởi lẽ khi ấy, Tham lang sẽ gặp Hóa kị. Bản thân Hóa Lộc chủ về sinh tài, hưởng lộc. Nhưng bản thân Phá Quân lại là Hao tinh, chủ về hao tán, cho nên khi kết hợp với nhau cũng khó lòng có thể nói là tốt. Phá Quân khó dụng được Hóa lộc, nếu có gặp cách tốt, thì bất quá cũng chỉ là được một giai đoạn đắc tài nhất thời, mà khó giữ đến chung cuộc.

Hơn nữa nếu lập Mệnh Thân là Phá Quân, thì Tham – Kị sẽ đóng ở cung Quan. Tham lang vốn không ưa Hóa Kị, bản chất của Tham vốn là sao của hư hoa, đam mê, sắc dục. Gặp hóa Kị thì giống như trang sách bị đổ mực, không thể toàn mỹ. Nhất là khi đóng cung Quan, tối kị gặp Tham – Kị rất dễ bị biếm chức, giáng quan.

Giữa Mệnh Thân và Quan lộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong trường hợp này, Mệnh biểu ý hao tán tiền tài, Quan biểu ý đứt gánh công danh. Do đó có thể phác thảo một đời người đầy thăng trầm, trong cuộc đời rất dễ có lần tay trắng. Là kẻ sĩ thì khó tránh khỏi gẫy đổ quan trường, là thường dân thì khó tránh khỏi khuynh gia bại sản. Nếu bị sát tinh xâm phạm, chính tinh lạc hãm thì rất nặng nề, nếu được cát tinh cứu giải thì tuy cũng đỡ được phần nào nhưng cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả…

Tất nhiên, đây mới chỉ là bàn riêng lẻ một góc, cốt yếu nhất vẫn phải là tổng thể toàn tinh bàn mới cho ra được lời giải luận bao quát.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Xem Thêm:

LẬP LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẤY LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẬP LÁ SỐ TỬ VI

LẤY LÁ SỐ TỬ VI

LẬP QUẺ DỊCH

LẤY QUẺ DỊCH

Hùng Tú Triêu Nguyên Cách – Tuvivietnam

0

Tử vi không có cách HÙNG TÚ CÀN NGUYÊN, mà chỉ có cách HÙNG TÚ TRIỀU VIÊN. “Hùng tú” là mỹ danh của sao Liêm Trinh, khi triều về Mệnh thì gọi là HÙng Tú Triều Viên. Không phải là Thất sát.
Trong phần dịch trên có một số chỗ chưa chuẩn, để mọi người tham khảo, ta dịch lại giúp :

“Hùng Tú triều viên cách” – Tức là Liêm Trinh tại hai cung Mùi-Thân thủ mệnh (mệnh đóng vào đấy). Cổ ca nói rằng :”Thân Mùi liêm trinh đắc địa phương, túng gia thất sát bất vi hung, thanh danh hiển đạt phong vân viễn, nhị hạn ưu du phú quý trung.”

Tức là : Liêm trinh đắc địa tại hai cung Thân – Mùi, dù cho có gia Thất sát thì cũng chẳng thành hung cách được. Thanh danh ắt sẽ hiển đạt, tiếng tăm vang xa. Nhị hạn đi đến đấy chắc sẽ được phú quý cả hai đằng.

Liêm Trinh được gọi là Hùng Tú, là bởi vì nó có tính uy vũ, nguyên do Phá Quân là “Anh Tinh” sát khí lớn hơn tính chất “hùng tú” của Liêm Trinh. Phản ánh trên cuộc đời, người gặp phải Liêm trinh thủ mệnh thì tính tình bình hòa hơn, cuộc đời cũng ít bôn ba trắc trở.

Tại cung Liêm trinh đóng mà gặp Thất sát, bởi vì Liêm Trinh là Âm Hỏa, có khả năngrèn đúc cho Thất sát Âm Kim, biến Thất sát thành dụng cụ. Khi Liêm trinh và Thất sát đồng cư ở Mùi thì cố nhiên là có năng lực rèn đúc. Còn nếu Liêm trinh cư tại Thân, Thất sát cư Ngọ cũng có năng lực luyện kim, vì thế mà cổ nhân cho đó là cách đẹp.

Nguyên nhân tại Sửu cung cũng có Liêm Sát đồng cung như lại không được cho là đẹp, là bởi vì tại Mùi là đất Mộ của hành Mộc, Mộc sinh Hỏa, có lợi cho Liêm Trinh (2) (ND : tam hợp Mộc cục là Hợi – Mão – Mùi, trong đó Mùi là Mộ) còn Sửu là Mộ của hành Kim bất lợi đối với Liêm Trinh.
Nếu Dần cung mà gặp Liêm Trinh thì Thất Sát đóng tại Tí, cũng không phải là cách đẹp, nguyên do là vì nếu tại Thân thì Thân thuộc Kim mới có lợi cho cái sự rèn luyện của Liêm trinh (còn cung Dần thuộc mộc – bất lợi cho Liêm).

Cổ nhân luận đẩu số, đôi khi rất coi trọng Ngũ hành sinh khắc, mà cách này (hùng tú triều viên) là một ví dụ. Tuy nhiên, người sinh vào cách này, tất phải trải qua giai đoạn gian nan nguy hiểm rồi sau mới thành. Đây là đặc điểm cơ bản của cách này.

Kính.
TUETVNB

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Xem Thêm:

LẬP LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẤY LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẬP LÁ SỐ TỬ VI

LẤY LÁ SỐ TỬ VI

LẬP QUẺ DỊCH

LẤY QUẺ DỊCH

Tuyển dịch phần Phu Thê Cung trong “Tử vi đẩu số đại toàn”

0

夫妻宮
夫妻宮涵義:
紫微鬥數的夫妻宮配合其三方(含本�� �起算,順、逆數各第五宮),四正(� ��宮之「對宮」,即含本宮順逆數均第 七宮)星曜組合之特性,可以論斷一�� �人的 :
配偶之相貌、體型、個性、所從事的�� �業。
感情的性向,即結交異性朋友的方式�� �─浪漫主義或速戰速決。
處理感情的態度與方法。
婚姻生活的美滿度與「離異」變數之�� �寡。
較賞識的異性類型。
夫妻間感情之濃淡。
配偶較在意「精神面」或「物質面」�� �

Tử vi đẩu số lấy cung Phu thê phối hợp với Tam phương (bao gồm Bản cung và các cung tính từ cung phu thê theo chiều Thuận và Nghịch đến cung thứ 5), cung Tứ chính ( tức là bản cung và Đối cung, tức là từ bản cung tính thuận nghịch đến cung thứ 7). Tổ hợp các đặc tính của các tinh diệu, có thể luận đoán cho một cá nhân những vấn đề sau :

– Tướng mạo của người phối ngẫu, thể hình, cá tính, sở thích cá nhân cho đến sự nghiệp.

– Xu hướng của cảm tình, tức là kết giao theo phương thức bạn bè, lãng mạn chủ nghĩa, hoặc tốc chiến tốc quyết (đánh nhanh – thắng nhanh).

– Phương pháp xử lý tình cảm cho đến thái độ

– Sinh hoạt hôn nhân cho đến độ mỹ mãn hoặc li dị, biến đổi ít nhiều.

– So sánh, thưởng thức với các loại hính tính khác

– Tình cảm nồng – đạm của Vợ chồng

– So sánh người phối ngẫu trên phương diện tinh thần và vất chất.

男女兩盤同參,配合兄弟宮及命身、�� �祿、財帛、福德宮來看夫妻之對待關� ��、是聚是離的概率,則更準確。
命宮屬陰,為無形,而身宮屬陽,則�� �有形。所以命,身兩宮同參,較能抓� ��一個人的心性和其外貌之美醜。當「 身宮」與「夫妻宮」同宮時,除可看�� �本人 與配偶較易有「夫妻臉」之傾向外,�� �可知其人一生特別在意感情,容易有� ��情困擾。亦即其人對男女情感特別敏 銳,中晚年往住有感情困擾。但如夫�� �宮星曜旺 吉,則可因配偶得貴。
夫妻宮星曜解析:

Bàn chung cho cả Nam và Nữ, phối hợp với các cung Huynh đệ, Mệnh Thân, Quan lộc, Tài Bạch, Phúc đức để xem xét sự đối đãi với cung Phu Thê, đại khái đó là Tụ, là Chia, để thêm phần chuẩn xác

Mệnh cung thuộc Âm, là vô hình, mà Thân cung thuộc Dương, là hữu hình. Sở dĩ Mệnh, Thân hai cung cùng tham gia, vì khả năng của cá nhân dựa trên tâm tính hòa hợp, ngoại hình xấu đẹp. Thân cung với Phu Thê mà đồng cung (Thân cư Phu thê) thì có thể loại trừ khả năng đương số với người phối ngẫu có thể thay đổi (Phu thê kiểm soát), cũng có thể biết con người có thể sinh cái ý cảm tình đặc biệt, khó có sự thay đổi cảm tình. Cũng tức là đối với tình cảm Nam Nữ đặc biệt nhạy cảm, Thời trung-vãn niên đi qua, tình cảm vẫn còn lại không bị mờ nhạt. Còn như Cung Phu Thê mà có tinh diệu Cát Vượng, tất sẽ phối ngẫu với quý nhân.

Giải thích các sao đóng ở cung Phu Thê :

紫微:

紫微入夫妻宮會吉星, 配偶俊美, 因而得貴, 但易造成桃花之象; 紫微無會吉星則感情平淡. 男命尊重太太, 女命能因夫得貴. 紫微入夫妻宮選擇配偶眼光較高, 故不宜早婚.
Tử Vi :

Tử vi nhập cung phu thê mà hội được cát tinh, người phối ngẫu đẹp đẽ khôi ngô. Bởi thế nên cũng được gọi là quý cách. Nhưng dễ biến thành tượng của Đào Hoa (nhiều dâm tính, lẳng lơ). Nếu Tử vi mà không hội được cát tinh thì tình cảm nhạt nhẽo, Nam mệnh thì tôn trọng vợ, mà nữ mệnh thì có khả năng lấy được chồng quý.

Tử vi nhập phu thê cung, khi chọn người phối ngẫu nên tinh tường, kỹ lưỡng, không nên tảo hôn.

天機:
天機入夫妻宮配偶較勞碌,因天機主�� �務事,是以天機居女命宮、福德,常� ��為家務事而忙碌。夫妻多是非爭執、 口舌亦多,天機逢擎羊則不利配偶。�� �妻之生活方式宜聚少離多,感情會比� ��。配偶年齡差距較大,男得賢妻,個 性剛烈,女配夫必有學術專長。

Thiên cơ

Thiên cơ nhập cung Phu thê chủ về người phối ngẫu vất vả, bận rộn, bởi vì Thiên cơ chủ về việc nhà. Thiên cơ cư cung Mệnh nữ nhân, hoặc phúc đức thì thường gặp việc nhà bận rộn vất vả. Phu thê nhiều thị phi tranh chấp, nhiều khẩu thiệt. Nếu Thiên cơ gặp Kình dương thì bất lợi cho việc hôn nhân. Sinh hoạt vợ chồng nên gần ít, xa nhiều thì tình cảm mới được tốt. Người phối ngẫu chênh lệch tuổi tác nhiều thì Nam có thể lấy được vợ hiền nhưng cá tính cứng rắn. Nữ lấy được chồng sẽ là người có học thuật chuyên về một môn nào đó.

太陽:
太陽入夫妻宮廟旺逢吉星,男有賢內�� �,尊重妻子,妻能幹體壯,因妻而貴� ��太陽落陷加煞不利妻子,妻體弱多病 或早喪,女命則易喪夫。尤以夫妻在�� �宮, 太陽加煞化忌,主配偶易早喪或離異�� �感情易因忙碌工作而疏淡。不宜早婚� ��女命雖主貴,但丈夫較專制獨裁。女 太陽在戌、亥、子位,男在卯、辰、�� �位,主婚姻 不美,逢煞星有外遇,太陽在 丑、未宮感情複雜。

Thái Dương

Thái Dương nhập vào cung phu thê mà miếu vượng lại gặp được cát tinh thì Nam lấy được vợ hiền, tôn trọng vợ con, vợ là người khỏe mạnh, nhờ vợ mà được quý. Thái Dương lạc hãm, gia sát tinh thì bất lợi cho vợ con, vợ là người yếu ớt, nhiều bệnh, hoặc sớm mang tang vợ. Nếu là nữ mệnh thì dễ sớm để tang chồng. Đặc biệt, Nếu cung phu thê tại Tuất có Thái Dương gia sát tinh, hóa kị, chủ về phối ngẫu dễ mất sớm hoặc ly dị. Chuyện tình cảm dễ vị công việc bận rộn mà nhạt nhẽo. Không nên tảo hôn, nữ mệnh tuy chủ về QUÝ, nhưng thường là chồng chuyên chế độc tài. Nữ, cung phu thê tại Tuất, Hợi, Tí, Nam tại Mão, Thìn Tỵ, có Thái Dương thì chủ về hôn nhân không được tốt, gặp thêm sát tinh dễ ngoại tình. Thái Dương tại Sửu, Mùi thì tình cảm rất phức tạp.

武曲:
武曲入夫妻宮晚婚為宜,生活平淡較�� �氣氛,在四墓(辰、戌、丑、未宮)� ��偶內向。武曲逢「化權」易有爭執, 武曲逢擎羊、陀羅、化忌、火星、易�� �離死 別。武曲化權逢煞星加左輔或右弼,�� �緣不妙。武曲入夫妻宮男命娶妻個性� ��烈,獨立性強,不喜串門子,女命孤 獨晚婚,配夫個性較暴燥,較獨斷獨�� �。

Vũ Khúc

Vũ khúc nhập cung Phu thê nên kết hôn muộn, sinh hoạt vợ chồng bình thường, nhạt nhẽo không nồng nhiệt. Tại tứ mộ (thìn, tuất, sửu, mùi) người phối ngẫu thường hướng nội. Vũ khúc gặp Hóa quyền, dễ có tranh chấp, Vũ khúc gặp Kình dương, đà la, hóa kị, hỏa tinh thì dễ tử biệt sinh ly. Vũ khúc, hóa quyền gặp sát tinh, gia thêm tả phù hoặc hữu bật, chuyện hôn nhân không đẹp. Vũ khúc nhập Phu thê cung, Nam mệnh lấy vợ có cá tình cương liệt, tính cứng rắn mà độc lập, không thích quán xuyến nhà cửa con cái. Nữ mệnh thì cô độc, lấy chồng muộn, lấy chồng có tính cách táo bạo, độc đoán độc hành.

 

天同:
天同入夫妻宮男命得賢內助,聰明美�� �,女命得夫溫柔體貼,感情和睦。但� ��同於辰、戌、丑、未宮配偶年紀較小 ,易有外遇。

Thiên Đồng

Thiên Đồng nhập vào cung phu thê, Nam lấy được vợ hiền. thông minh xinh đẹp. Nữ lấy chồng ôn nhu chiều vợ. Tình cảm hòa thuận. Nhưng nếu Thiên Đồng đóng vào các cung Thìn Tuất Sửu Mùi, thì người phối ngẫu thường ít tuổi, dễ ngoại tình.

廉貞:
廉貞入夫妻宮夫妻和諧,但較不甜蜜�� �相敬如賓。廉貞逢化祿,易有豔遇;� ��貞逢化忌,易有感情糾紛。廉貞會七 殺,易常打架;廉貞會四煞〈羊、陀�� �火、鈴〉太太常挨揍;廉貞會貪狼,� ��撒嬌;廉貞會天府反吉。

Liêm Trinh

Liêm Trinh nhập Phu thê cung thì vợ chồng hài hòa, nhưng không ngọt ngào mà “tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách). Liêm Trinh gặp Hóa lộc thì dễ gặp đàn bà đẹp. Liêm Trinh mà gặp Hóa kị thì dễ có tranh chấp tình cảm. Liêm trinh gặp Thất Sát thường xảy ra đánh lộn. Liêm Trinh hội Tứ sát (Dương, Đà, Hỏa Linh) thì bà xã thường bị ăn đòn. Liêm Trinh hội Tham Lang thì thích làm nũng, Liêm trinh hội Thiên Phủ, ngược lại lại là tốt.

天府:
天府入夫妻宮男命妻子能幹,尊重太�� �,老婆理財能力強,上班族,持家有� ��,陷地嘮叨。女命老公大男人主義, 沈默、守財,感情平淡。天府入夫妻�� �較重精神享受;天府逢四煞星 (羊、陀、火、鈴)宜晚婚,耳根恐�� �得清靜。

Thiên Phủ

Thiên phủ nhập Phu thê cung, Nam mệnh lấy vợ có đảm đang, lại là người tôn trọng vợ, vợ có khả năng quản lý, phát huy tài chính tốt, là người có vai vế trong họ tộc – gia đình, quản lý gia đình tốt. Nếu Phủ hãm địa thì lại là người nói nhiều. Nữ mệnh lấy chồng rất có nam tính, trầm tĩnh, giữ tiền tốt, tình cảm bình thường. Thiên Phủ nhập phu thê cung thì thường vợ chồng coi trọng tinh thần hưởng thụ. Thiên Phủ gặp Tứ sát (dương – đà – hỏa – linh) thì nên kết hôn muộn, nếu không thì tai không lúc này được yên (ý nói là cãi nhau ầm ĩ).

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

HUYỀN VI PHÚ – Tuvivietnam

0

HUYỀN VI PHÚ

(TUETVNB dịch)

Hi di tiên sinh viết: đẩu số chi lệ, do đại dịch chi phân bát quái. Bát quái phi thoán từ bất minh, chúng tinh phi giảng minh hà thố. Thị dĩ quan đẩu số giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ, đệ nhất biện tân chủ chi phân. Động tĩnh hồi quyển bất dĩ, chủ tân canh điệt vô câu. Chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu? Tân bất năng đối, hà túc thủ tai?
Hi Di tiên sinh nói rằng : Lẽ của đẩu số, giống như cái sự phân bát quái của Dịch, Bát quái mà không có thoán từ thì không minh bạch được, chư tinh của đẩu số mà không giảng minh thì làm sao dùng được. Xem đẩu số, phải xem thật kỹ cái Động cái Tĩnh. Thứ nhất là biện luận về phân chia Chủ-Khách. Động – Tĩnh thì quay vòng không dứt mà chủ-khách luân phiên không rời. Chủ mà vô tình thì làm sao có khách, khách mà không ứng đối, thì sao gặp chủ được?

Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, nhập ngô nhật nguyệt, dã tư không kiếp chi hưng vong. Sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu. Hình hữu hình nhi cô đan, chung thân bất khắc. Hỏa tinh vượng cung vi phú luận, dương đà đắc lệnh khởi thành hung.

Quý Dương – Đà, chỉ có Lộc tồn là thích tính ác của nó, xem vào Nhật Nguyệt, cũng nên nghĩ đến sự hưng vong của Không Kiếp. Sát gặp Sát mà vô hình thì tuy Sát vẫn có thể cứu, Hình gặp Hình mà cô đơn thì chung thân cũng không khắc. Hỏa tinh ở Vượng cung thì phải luận là Phú, Dương Đà mà đắc lệnh lại thành hung.

Lưỡng lân gia vũ, thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu, tối nan phòng bị. Phiến hỏa phần thiên mã, trọng dương trục lộc tồn. Kiếp không thân thích vô thường, quyền lộc hành tàng mỹ định. Quân tử tai khôi việt, tiểu nhân dã dương linh. Hung bất giai hung, cát vô thuần cát. Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu, chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến. Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi, vận hạn mệnh thân đương hỗ kiến.

Lưỡng lân mà uy hiếp, ngõ hầu vẫn có thể giữ vững, nhưng cùng một nhà mà ủ mưu thì rất khó phòng bị. Nơi Hỏa thì đốt chết Thiên Mã, mà chuồng Dê thì đuổi Lộc Tồn (1), Kiếp Không thân thích chẳng được bình thường, Quyền Lộc mà ẩn đi thì hoài phí.
Quân tử thay! – Khôi Việt
Tiểu nhân vậy! – Dương Linh
Hung cũng không thể toàn hung, cát cũng chẳng thuần là cát, Chủ cường khách nhược, chẳng cần lo nghĩ, Chủ nhược khách cường thì hung nguy liền thấy. Chủ khách được mất đều cùng nhau, Vận Hạn thì Mệnh-Thân phải gánh.

(1) Nguyên văn câu này : Phiến Hỏa phần Thiên Mã, Trùng Dương trục Lộc tồn – chưa hiểu nghĩa, tạm dịch

Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, lâm chi vị miễn vi hung. Nhị hạn thậm kị sát phá cự tham, phùng chi định nhiên tác họa. Mệnh ngộ khôi xương thường đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.

Thân mệnh rất kị Dương Đà Thất Sát, lâm vào khó tránh được tai ương.
Nhị hạn tối kị Sát Phá Cự Tham, gặp nó nhất định gây họa
Mênh ngộ Khôi-Xương thường quý hiển
Hạn phùng Tử-Phủ ắt nhiều tiền.

Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung, nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc; hoặc phùng dương đà, tuy đề khốc nhi lệ bất cán. Nhược đoạn nam mệnh, thủy dĩ tài phúc vi chủ, tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn. Hạn phùng cát diệu, bình sinh động dụng hợp hài; mệnh tọa hung hương, nhất thế cầu mưu nan toại.

Phàm là xem mệnh nữ nhân, trước phải xem hai cung Phu-Tử, nếu gặp sát tinh, nhất định ba chồng vẫn chưa đủ. Hoặc gặp Dương Đà, tuy mắt khóc mà lệ chẳng rơi. Nếu đoán Nam mệnh, trước phải lấy Tài Phúc làm chủ, lại xem Thiên Di như thế nào. Nhị hạn mà cùng một nguyên nhân thì phải đoán có cả cát-hung. Hạn gặp sao tốt, suốt đời sẽ được hài hòa, Mệnh mà ngồi ở chỗ Hung, một đời suy tính không thành.

Liêm lộc lâm thân, nữ đắc thuần âm trinh khiết chi đức; đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm. Quân tử mệnh trung, diệc hữu dương đà hỏa linh; tiểu nhân mệnh nội, khởi vô khoa quyền lộc tinh. Yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất miếu.

Liêm Lộc lâm vào Thân, Nữ được cái đức thuần âm trinh khiết
Đồng Lương thủ mệnh, Nam được cái tâm thuần dương trung chính
Trong Mệnh người quân tử, cũng có Dương Đà Hỏa Linh, nhưng trong Mệnh kẻ tiểu nhân không thể có Khoa Quyền Lộc.
Muốn xem Đắc viên-Thất viên, phải luận Nhập miếu-Thất miếu.

Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn. Tiểu nhi mệnh tọa hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yêu chiết, canh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chủ yêu vong. Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân. Đa học thiểu thành, chích vi kình dương phùng kiếp sát. Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phủ.

Nếu luận số cho tiểu nhi, phải biết xem Đồng hạn, Tiểu nhi mệnh ở vào chỗ hung, dăm ba tuổi ắt yểu chiết, nếu thấy hạn phùng ác sát, năm bảy tuổi tất yểu vong. Có Văn xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc sách mà nên người. “Đa học thiểu thành” chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp sát. Người thích kiện tụng, phần lớn là do Thái Tuế ngộ Quan phù.
Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa; sổ chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy. Bắc cực gia hung sát, vi tăng vi đạo; dương đà ngộ ác tinh, vi nô vi bộc. Như vũ phá liêm tham, cố thâm mưu nhi quý hiển, gia dương đà không kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.

Muốn biết lẽ tinh vi của Mệnh, phải thạo cách xem tinh thần biến hóa
Muốn biết cái sâu xa của Số, phải tường sự hưng suy của cách cục
Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển, thêm Dương Đà Không Kiếp, ngược lại là kẻ nghĩ ngắn mà lại cô hàn.

Hạn phụ tinh vượng, hạn tuy nhược nhi bất nhược; mệnh lâm cát địa, mệnh tuy hung nhi bất hung. Đoạn kiều tiệt không, đại tiểu nan hành; mão dậu nhị không, thông minh phát phúc. Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân; nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc. Mưu nhi bất toại, mệnh hạn ngộ nhập kình dương; đông tác tây thành, hạn thân tao phùng phụ bật. Khoa quyền lộc củng, định vi kình trụ chi cao nhân; không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu chi thuật sĩ. Tình hoài thư sướng, xương khúc mệnh thân; quỷ trá phù hư, dương đà hãm địa. Thiên ki thiên lương kình dương hội, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô; tham lang vũ khúc liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu hưởng phúc.

Phụ tinh nhập hạn mà vượng, thì hạn tuy nhược mà thành không nhược
Mệnh lâm cát địa, thì mệnh dẫu hung mà lại chẳng hung
Chặt cầu là Triệt Không, lớn bé đều khó qua, Nhị Không ở Mão Dậu, thông minh mà phát phúc.
Mệnh thân ngộ Tử Phủ, chồng chất bạc vàng.
Nhị chủ mà gặp Kiếp Không, ăn mặc không đủ.
Mưu mà không toại là bởi mệnh – hạn có Kình Dương ngộ-nhập, làm một được hai là bởi Thân – Hạn có Phụ Bật tao-phùng.
Khoa Quyền Cộc củng chiếu, nhất định là kẻ trụ cột cao nhân
Không Kiếp Dương Linh, nhất định là kẻ cửu lưu thuật sĩ
Ôm tình thư thái, do Xương Khúc ở Mệnh Thân
Dối trá hư huyền, là do Dương Đà hãm địa
Thiên Cơ Thiên Lương Kình dương hội, sớm thì gặp tội, mà muộn thì cô độc.
Tham Lang Vũ Khúc Liêm trinh phùng, nhỏ chịu nghèo, mà sau hưởng phúc.

Thử giai đẩu số chi áo quyết, tập giả tường chi.

Đây đều là cái sâu xa của đẩu số, người học nên biết.

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

SAO THIÊN TƯỚNG

0

Thiên tướng phụ luận:
Sao Thiên Tướng thuộc Nam đẩu tinh hệ, an cách Thiên Phủ 5 cung theo chiều thuận. Thiên tướng là sao hành thủy, chuyên trông coi việc binh nhung, phò trợ cho Đế tinh. Trong nhóm Tử Phủ Vũ Tướng thì Thiên tướng đóng vai trò là Tá Tinh (sao trợ giúp). Hóa khí sao này là Ấn tinh, chuyên về quyền chức, quan lộc, ngoài ra nếu hội cung Thiên Phủ thì còn mang thêm ý nghĩa về Tài tinh. Về tính chất, Thiên Tướng là Quyền lệnh, Uy dũng, Phú quý, Thanh sắc, Tài phú.
Tuvivietnam – sieutam
Con người Thiên Tướng điềm tĩnh, “Kiến nhân nan, hữu trắc ẩn chi tâm; Kiến nhân ác, bão bất bình chi khí” (thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình). Khí chất thanh cao, con người quảng bác, ưa thanh sắc bề ngoài. Nếu gặp Đào Hồng – Nữ nhân thì nhan sắc sáng ngời, Nam nhân thì dung nhan tú mỹ. Nhưng nếu hội cùng bọn dâm tinh, Cái Đào Riêu Khúc Mộc, ắt dâm phong thuần tược, ăn chơi sa đọa một đời.
Thiên Tướng hợp với các bộ sao tá tinh cấp dưới như Tả Hữu, Tướng Ấn, Phụ Cáo. Cực tốt nếu hội được văn tinh và quý tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc. Nhưng nếu hội văn tinh mà thiếu quyền tinh thì dễ sa đà. Thiên Tướng muốn thành nghiệp hơn đời phải cần có Tả Hữu, Binh Hình Tướng Ấn, Tứ Linh hội hợp, thì công danh phú quý không thể nói hết.
Thiên Tướng là Quyền Lệnh tinh nên nó có khả năng khắc chế, giải trừ được các sao hung sát tinh như Không Kiếp Kình Đà, nhưng khí đó Thiên tướng sẽ bị hao tổn nguyên thần mà ảnh hưởng đến số mệnh, cuộc đời thêm nhọc nhằn, bôn ba. Nếu hung sát tinh quá nhiều, hội đủ bộ thì “mãnh hổ nan địch quần hổ”, sẽ gây nguy hiểm cho Thiên tướng, không nhưng mất hết tốt đẹp mà còn gây nhiều tai họa.
Vì Thiên tướng là Tá Tinh, cho nên nó phò trợ rất tốt cho Đế tinh, khi đóng tại Thìn Tuất, Thiên Tướng hộ giá cho Tử Vi, tăng thêm quyền lực. Nhưng vì lúc này Tử vi đã xa rời chính cung nên thiên về bôn ba, ly hương thoái tổ.
Khi Thiên tướng là Tài tinh, hội cùng Thiên Phủ thì Thiên Tướng sẽ hóa tài tinh do ảnh hưởng từ Tài khí của thiên Phủ mà làm nên phú quý. “Thiên Phủ, Thiên Tướng, nãi vi y lộc chi thần” (Thiên Phủ, Thiên Tướng hội vào mệnh là cách Phủ Tướng triều viên nên trở thành Thần của Y Lộc).

Về Thiên Tướng, Tử Vi Đẩu số toàn thư có viết :

“….Thiên tướng chúc thủy, nam đấu đệ ngũ tinh dã. Vi ti tước chi túc, vi phúc thiện, hóa khí viết ấn, thị vi quan lộc văn tinh, tá đế chi vị. Nhược nhân mệnh phùng chi, ngôn ngữ thành thật, sự bất hư ngụy. Kiến nhân nan, hữu trắc ẩn chi tâm; Kiến nhân ác, bão bất bình chi khí. Quan lộc đắc chi tắc hiển vinh, đế tọa hợp chi tắc tranh quyền. Tá Nhật Nguyệt chi quang, kiêm hóa liêm trinh chi ác. Thân Mệnh đắc chi nhi vinh diệu; Tử tức đắc chi nhi tự tục xương, thập nhị cung trung giai vi tường phúc, bất tùy ác nhi biến chí, bất nhân sát nhi cải di. Hạn bộ phùng chi, phú bất khả lượng. Thử tinh nhược lâm sinh vượng chi hương, tuy bất phùng đế tọa, nhược đắc Tả Hữu, tắc chức chưởng uy quyền. Hoặc cư nhàn nhược chi địa, dã tác cát lợi, nhị hạn phùng chi chủ phú quý…”
Tạm dịch: Thiên Tướng thuộc thủy, là ngôi thứ 5 của Nam Đẩu hệ, là nơi coi sóc việc chức tước, là phúc thiện tinh, hóa khí là Ấn Tinh – là quan lộc văn tinh, phò tá cho Đế tinh. Nếu nhân Mệnh gặp được thì là người ngôn ngữ thành thật, không dối trá. Thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình. Quan lộc cung mà được thì dễ hiển vinh, đứng cùng Đế tinh dễ tranh đoạt quyền hành. Giúp cho Nhật Nguyệt thêm sáng, gặp Liêm Trình thì thành ác. Nhập vào Thân Mệnh thì vinh hoa. Nhập vào Tử tức thì con cái tốt đẹp, 12 cung đều tốt cả. Không theo ác mà đổi chí, không sợ ác mà thay dạ. Hạn mà gặp thì phú quý không đo hết được. Sao này nếu vào đất Sinh Vượng, tuy chẳng gặp Đế tọa mà được gặp Tả Hữu thì vẫn có uy quyền chấp chưởng. Hoặc nếu cư vào nhàn địa, vẫn được tốt đẹp. Nhị hạn mà gặp chủ về phú quý.

Hi Di tổ sư viết về Thiên Tướng:

“….Thiên tướng Nam đấu ti tước chi tinh, hóa khí vi ấn. Chủ nhân y thực phong túc, xương khúc tả hữu tương hội, vị chí công khanh. Hãm địa tham liêm vũ phá dương đà sát thấu, xảo nghệ an thân. Hỏa linh trùng phá tàn tật, nữ nhân chủ thông minh đoan trang, chí quá trượng phu. Tam phương cát củng phong tặng luận, nhược xương khúc trùng phá thị thiếp, tại tăng đạo chủ thanh cao….”
Tạm dịch : Thiên tướng là Nam đẩu tinh coi việc quyền chức, hóa khí là ấn tinh, chủ về ăn mặc phong túc (đầy đủ), hội cùng Xương Khúc Tả Hữu, là số công khanh. Hãm địa mà gặp Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tinh thì nhờ xảo nghệ (nghề khéo) mà được yên thân. Ngộ Hỏa Linh cung xâm phá thì dễ tàn tật. Nữ nhân có Tướng chủ thông minh, đoan trang, có chí khí như nam nhi. Ba phương mà có cát tinh củng chiếu dễ được phong tặng. Nếu bị Xương Khúc trùng phá thì dễ làm phận tỳ thiếp. Nếu là tăng đạo đi tu thì chủ về thanh cao…”

Bài ca về Thiên Tướng trong Đẩu số toàn thư như sau :

Thiên tương nguyên chúc thủy,
Hóa ấn chủ quan lộc,
Thân mệnh nhị cung phùng,
Định chủ đa tài phúc,
Hình thể hựu phì mãn,
Ngữ ngôn bất khinh độc,
Xuất sĩ chủ phi đằng,
Cư gia chủ tài cốc,
Nhị hạn nhược phùng chi,
Bách sự khán sung túc.
Tạm dịch :
Thiên tướng nguyên thuộc thủy, Hóa Ấn tinh, chủ về Quan lộc Thân mệnh hai cung mà gặp thì nhiều tài nhiều phúc, hình thể to lớn mập mạp, ngôn ngữ cẩn trọng không khinh độc, nếu đi vào quan trường dễ thành công lớn, nếu ở nhà thì cũng chủ tài cốc, nhiều lúa nhiều tiền, Đại tiểu hạn mà gặp, mọi sự đều tốt đẹp, sung túc.
Còn trường hợp Thiên Tướng gặp Tuần Triệt thì sao? Trong cổ thư không thấy nói đến trường hợp Tướng ngộ Tuần Triệt. Nhưng lấy hình tượng mà suy thì khi gặp Tuần Triệt, là đất không vong, Thiên tướng không còn đất dụng võ, trở nên khốn quẫn, bí bách. Cuộc đời đương số khó thành đạt, công danh tài lộc đều bị ảnh hưởng. Nếu lại bị gặp bọn Hung Sát tinh hội hợp thì chẳng khác nào tướng bị vây khốn, không những vất vả bôn ba lao toái, mà còn gây tai họa khôn lường. Tượng của thiên tướng là Đầu, Mặt, cho nên dễ mang thương tích. Gặp trường hợp này, binh gia tối kị – dễ bỏ thân nơi trận mạc. Nhưng cần xem xét kỹ, nếu chỉ lạc Không vong mà không bị Sát tinh xâm phá thì cũng không đến nỗi nào, cuộc đời tiên trở hậu thành, nghèo trước sướng sau, trường hợp này rất cần tránh xa dâm tinh.

Luận về Thiên Tướng ngộ Tuần-Triệt: các sách Tử vi mới đều nói là “tướng cụt đầu” hay “ấn tín bị sứt mẻ” – mất hết uy quyền, lại dễ bị mắc tai nạn khủng khiếp, tàn tật, đầu-mặt mang thương tích… Nhưng thực tế chiêm nghiệm cho thấy điều này chưa hoàn toàn đúng. Ngộ Tuần Triệt nhưng cần phải xem xét 3 phương xem tốt xấu nặng nhẹ thế nào, các sao cứu giải ra sao, nhất là bộ Tử Vi – Vũ Phủ – Tả hữu, nếu sáng sủa tốt đẹp thì cũng chẳng đáng lo ngại, cuộc đời vẫn phong túc như thường. Trong nhóm các Cát tinh, thì Thiên Tướng là sao rất tốt, vừa uy dũng, vừa tài phú. Con người – Số mệnh đều tốt, chế hung giải nguy, cho nên cũng không mấy khi “đầu mình phân hai” như một số nhận định.

 

ST – Tuvivietnam – Phongthuythanglong

Sao Thất Sát

0

Bàn chút về Thất sát :Có 2 thế đứng (cách) liên quan đến Thất Sát
– Thất Sát triều Đẩu
– Thất Sát ngưỡng Đẩu

Như thế nào là Thất Sát triều đẩu? như thế nào là Thất Sát ngưỡng Đẩu?
Hai câu trên đều nói về Thất Sát, còn có tên khác là :
– Phủ Sát triều Đẩu
– Phủ Sát ngưỡng Đẩu
Vì Thất Sát luôn đối cung với Thiên Phủ, nên có thể dùng cả hai cách gọi trên đều đúng.
Cả hai cách đều dùng để chỉ Thất Sát khi đóng ở vị trí Tí-Ngọ. Chẳng qua nó chỉ là chuyện câu chữ thôi, vì trong Thiên Văn học, phương Bắc là phương vị của sao Bắc Cực, và ở Bắc phương có chòm sao Bắc Đẩu (gồm 7 ngôi), mà người ta thường gọi nó là ĐẨU, ĐẨU tức là chòm sao Bắc Đẩu, hoặc bóng gió thì dùng để chỉ phương Bắc, vì trung thiên Bắc cực là nơi Tử vi cung đóng ở đó.

Chữ NGƯỠNG tức là ngửa mặt lên để xem xét, nhìn ngắm. Cho nên cách THẤT SÁT NGƯỠNG ĐẨU là thường dùng khi thất sát đứng ở phương Nam (cung Ly) mà nhìn về phương Bắc, tức là đứng tại Ngọ, nhìn về Tí.

Còn chữ TRIỀU tức là tập trung vào, chầu vào, trong Tử vi chữ Triều được dùng trong trường hợp có 1 sao hoặc 1 nhóm sao hội hợp trong tam phương tứ chính, thì được gọi là Triều. Vì thế, trường hợp Thất Sát đóng tại chính BẮC CUNG thì được gọi là THẤT SÁT TRIỀU ĐẨU. Chính là trường hợp Thất sát cư Tí.

Luận tử vi, quan trọng nhất là cái sự Miếu hãm, còn vì sao là miếu, vì sao là hãm thì vẫn còn trong vòng bí ẩn. Đối với Thất Sát, Miếu ở Dần Thân Tí Ngọ, cổ nhân dựa trên tiêu chí này để đánh giá cát hung cho Thất Sát.

Trong các quan điểm về Thất Sát, cụ Vũ Tài Lục có xu hướng thiên về luận Ngũ Hành sinh khắc, vốn dĩ là căn bản của môn Tử Bình. Do vậy mới suy ra như thế. Các danh sư đời trước không viết như vậy. Theo sự giải thích của cổ thư, Chữ TRIỀU đã nói là hội hợp trong TAM PHƯƠNG TƯ CHÍNH. Tức là bao gồm cả Dần Thân, tuy nhiên Thất Sát Dần Thân được coi là Bàng cách, cư Tí là chính cách.
Trong các câu phú về Thất sát có nói :
Thất sát triều đẩu, nhập Tướng ư phủ môn – Nhập cách thất sát triều đẩu có thể làm Tướng trong phủ.Kể cũng là tốt, bởi Thất Sát là lệnh tinh, nhập tướng là đỉnh cao rồi. Vả lại, tốt hay xấu còn phụ thuộc vào trợ tinh, tá tinh nữa. Trong Đẩu Số Toàn thư viết :

Thất sát Dần Thân Tí Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn xương hội
Quyền lộc danh cao, thực vạn chung

(Thất sát cư cung Dần – Thân – Tí – Ngọ thì bốn phương đều chắp tay phục là kẻ anh hùng, nếu được Khôi Việt Tả Hữu Văn xương hội hợp, ắt sẽ là kẻ quyền cao chức trọng, giầu có vạn chung)

Như vậy, cổ nhân không cho rằng Thất Sát cư Tí là xấu. Nếu xét trong Ngũ hành, thì khó lý giải, bởi lẽ Thất sát hành Kim (chứ không phải Hỏa Kim như cụ Vũ Tài Lục nói), cư cung Tí thuộc thủy, vẫn là sinh xuất, có hao tổn nhưng không thể gọi là xấu. Trường hợp tại Dần thuộc Mộc => Sao khắc cung, Thất Sát cũng không bị tổn thương, chỉ gây khó nhọc. Thất sát cư cung Thân, thuộc Kim => bình hòa, cũng không bị tổn thương. Do vậy, cái lý thuyết Miếu hãm, không thể trộn với lý thuyết Sinh Khắc của Ngũ hành được. Việc Ngũ hành chế hóa, là trên phương diện khác, trên diễn đàn tôi đã có viết, tìm đọc thêm sẽ rõ.

ST

- Advertisement -

BÀI VIẾT KHÁC