14 C
Hanoi
Thứ Tư, 26 Tháng Hai, 2025
spot_img
Home Blog Page 65

Cung Tử Tức – Cách xem, Luận Cung Tử Tức Vô Chính Diệu

0

Cung Tử Tức – Cách xem, Luận Cung Tử Tức Vô Chính Diệu

Cung Tử Tức dùng để luận đoán con cái nhiều hay ít, tình cảm giữa đương số với con cái, sinh con cái có thuận lợi hay không. Tương lai của con cái đại khái như thế nào, trong quá trình trưởng thành có hiện tượng hung hiểm gì hay không…Tất cả đều phải luận đoán thông qua Cung Tử Tức…

(Tuvivietnam – Siêu Tầm)

Trường sinh đế vượng đa nhân

Giáp chiếu Nhật Nguyệt có lần sinh đôi.

Sinh con Quyền Lộc hiển vinh

Sinh con Khôi Việt Văn tinh đỗ đầu

Sinh con Long Phượng sang giàu

Khúc Xương chiếu giáp thập hầu tặng phong.

 

Cung Tử Tức là gì?

Cung Tử Tức là 1 trong 12 cung địa bàn của lá số Tử Vi, chủ quản vấn đề sinh nở, con cái.. Bao gồm toàn bộ các vấn đề về con cái như sinh được mấy con, con cái với đương số thân hay sơ, con cái bình thường hay phát đạt, hiền lành hay ngỗ nghịch, …

Bài viết này, Cổ Học sẽ viết sâu nhất & bao quát nhất có thể về Cung Tử Tức, mong bạn đọc kiên nhẫn theo dõi…

Luận giải Cung Tử Tức

Luận giải Cung Tử Tức - Cohoc.vn

Trong môn Tử Vi, Cung Tử Tức và Cung Điền Trạch đối nhau, tương hội với Cung Phụ Mẫu và Cung Nô Bộc (Cung Nô Bộc). Kết cấu dạng này rõ ràng phản ánh chế độ đại gia tộc thời xưa.

Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái (tử tức) là do đầy tớ (nô bộc) phục dịch. Do đó Cung Nô Bộc có ảnh hưởng nhất định đối với Cung Tử Tức. Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ “kế thừa sự nghiệp của cha ông” từ tổ hợp các sao của Cung Phụ Mẫu và Cung Tử Tức. Còn Cung Điền Trạch, môn Tử Vi dùng để quan sát gia trạch, đương nhiên càng có mối quan hệ với Cung Tử Tức.

Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của Cung Huynh Đệ là phô bày cả một đại gia tộc. Dùng để quan sát tình huống thế hệ bề ngang của đương số, thì tổ hợp tinh hệ của Cung Phụ Mẫu và Cung Tử Tức là một biểu đồ theo chiều dọc, dùng để quan sát từ ông tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ đến con cái, cả một dòng họ truyền từ đời trước sang đời sau.

Ngày nay chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết cấu của tinh hệ ở Cung Tử Tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã mất đi một số ý nghĩa ban đầu. Nhất là Cung Nô Bộc, ngoại trừ dùng để xem mối quan hệ với nhân viên làm thuê và người dưới quyền, ngày nay còn dùng để quan sát quan hệ bạn bè, đương nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa Cung Tử Tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng, càng cần phải định ra một số nguyên tắc khác.

Sự tương quan hợp lý nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan sát “mối quan hệ gia tộc” như trước kia cải biến thành quan sát địa vị xã hội. Bởi vì từ các tình trạng tốt xấu của cha mẹ, nhân viên làm thuê và bạn bè, cho tới con cái của đương số, có thể luận đoán ra địa vị xã hội của họ.

Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì đương số phải là người lúc nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè giúp đỡ ủng hộ, đồng thời còn được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trung niên thì phát triển sự nghiệp, đến vãn niên có con cái có thể kế thừa sự nghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình của loại “lúc nhỏ là thiếu gia, lúc già được gọi là lão gia”, có địa vị xã hội như thế nào chắc là không cần phải nói.

Nếu Cung Phụ Mẫu và Cung Nô Bộc đều không cát tường, nhưng Cung Tử Tức thì có cát tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán đương số rất có khả năng phải trải qua gian lao vất vả, rồi mới tay trắng tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạng trung lưu.

Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận trình của bản thân đương số. Ngược lại, từ vận trình của bản thân đương số cũng có thể luận đoán ra con cái của đương số có thành tựu hay không.

Ví dụ như, nếu Cung Phụ Mẫu cát, Cung Mệnh cũng cát, Cung Nô Bộc không xấu, nhưng Cung Tử Tức lại rất xấu, thế thì, có khả năng không có người kế thừa, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh quá kém.
Vì vậy, có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ như, quan sát sự hiển thị của Cung Tử Tức để biết tính cách của con cái đương số mà đưa ra một số lời khuyên.

Đây cũng chính là nói, tứ tam phương tứ chính của Cung Tử Tức ngoại trừ xem có con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của đương số đối với con cái, và tính cách chủ yếu của con cái. Nhưng liên quan về những luận đoán này, chúng ta phải kết hợp xem Cung Tử Tức của đại vận hay lưu niên để đánh giá về mệnh vận của con cái, xem có thành tựu hay không.

Sao Tử Vi ở Cung Tử Tức

Tử Vi ở Cung Tử Tức, chủ về con cái tính tình cương cường, chí cao khí ngạo. Nhưng phần nhiều đều phát đạt.

  • Khi Sao Tử Vi hội Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa ắt có con xinh đẹp. Nhưng nên chậm có con, chủ về sang quý và có lộc.
  • Tử Vi hội Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về có năm con trở lên. Nếu đồng thời hội chiếu tứ sát, thì có hình khắc, chủ về hư ảo, không chắc chắn. Hoặc chủ về con cái vì cao ngạo mà phá tán.
  • Tử Vi hội Văn Xương, Văn Khúc, hoặc Hóa Khoa, chủ về con cái thông minh. Hội Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về con cái trung hậu.
  • Tử Vi hội Thiên Mã, chủ về xa cách con cái.
  • Tử Vi hội Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, chủ về con cái có thể giàu có.
  • Tử Vi có Kình Dương đồng độ, chủ về con cái có phá tướng. Hoặc cha con bất hòa, hoặc không thể hưởng phúc về con cái.
  • Tử Vi hội Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về con cái sang quý.
  • Tử Vi độc tọa, miếu vượng, chủ về ba trai, hai gái. Có thêm cát tinh như Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc thì chủ về năm người. Có thêm Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về hai người, vợ lẽ hoặc vợ hai sinh con, hoặc xin con nuôi. Nhất là gặp Địa Không, Địa Kiếp càng chủ về có con dòng thứ.
  • “Tử Vi Thiên Phủ”, chủ về có ba người con. Thêm Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ về có năm người, còn sang quý. Nếu gặp thêm Phá Quân, các hình tinh, kị, chủ về sinh con thì nhiều nhưng còn sống thì ít.
  • “Tử Vi Tham Lang”, chủ về có hai người con nhưng chậm có. Nếu Tham Lang Hóa Kị thì nên đề phòng con cái làm khuynh gia bại sản. Nếu thêm tứ sát, các hình tinh, kị thì chủ về có một hai người con, mà còn chủ về khó sinh hoặc sinh non.
  • “Tử Vi Thiên Tướng”, chủ về hai người con, có thêm Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về có ba bốn người con, còn quý hiển, tình cảm cha con lúc đầu tốt, về sau xấu đi. Hoặc gặp các sao sát, kị, chủ về có một con, nhưng tính khí quật cường, chí cao, phá gia chi tử. Gặp cát tinh, chủ về con cái được hưởng phúc ấm của cha.
  • “Tử Vi Thất Sát”, chủ về có một hai con. Thêm cát tinh, chủ về có ba người con. Gặp sát tinh thì chủ về con cái cứng đầu cứng cổ. Thêm cát tinh thì có thể trở thành hữu dụng, nhưng cũng phải vất vả trước mới an nhàn sau.
  • “Tử Vi Phá Quân” chủ về hai người, thêm cát tinh chủ về có ba người con. Gặp thêm sao lộc thì con cái có thành tựu. Gặp thêm tứ sát, các hình tinh, Kị tinh, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về nhiều khắc hại, hoặc trụy thai, sinh non, hoặc con cả có hình khắc, phá tướng, sinh thiếu tháng.

Thiên Cơ Cung Tử Tức

Sao Thiên Cơ nhập miếu, chủ về con cái con cái thông minh cơ trí, khéo léo. Nhưng Thiên Cơ nhập Cung Tử Tức cũng chủ về ít con cái, hoặc chậm sinh con.

Thiên Cơ lạc hãm, rất kị gặp các sao sát, kị, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về không con, có cũng bất hòa, hoặc con cái phẩm cách không tốt, nhiều tâm cơ, xảo trá, hoặc khắc hại.

Thiên Cơ thủ Cung Tử Tức, cũng chủ về có con dòng thứ. Hoặc có con rể.

  • Thiên Cơ độc tọa, miếu vượng, chủ về có hai người con, hoặc có nhiều con dòng thứ. Nếu độc tọa ở cung Dậu, hội Hồng Loan Thiên Hỷ và Đại Hao, chủ về nhiều con gái, ít con trai.
  • “Thiên Cơ Thái Âm”, chủ về hai gái, một trai. Nếu Thái Âm lạc hãm, thì nên xin con trai nuôi trước. Nếu Thiên Cơ ở cung Dần, hội chiếu Thiên Lương, thì có ba con trai.
  • “Thiên Cơ Cự Môn”, chủ về một người. Có thêm các sao cát, chủ về có hai người con, nhưng phải cho làm con thừa tự hoặc ở riêng, nếu không sẽ khó nuôi.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương ở cung Thìn, chủ về có hai ba con. Ở cung Tuất thì chủ về có một con trai, nhiều con gái, cũng chủ về sinh non.

Thái Dương ở Cung Tử Tức

Thái Dương ở Cung Tử Tức, có Cự Môn hội chiếu mà Thái Dương miếu vượng, chủ về con cái thông minh, có thể sáng lập sự nghiệp, gặp Lộc, Quyền, Khoa hoặc Văn Xương, Văn Khúc, chủ về có tài nói năng, biện luận.

Thái Dương lạc hãm ở Cung Tử Tức, bất lợi cho con trưởng.

  • Thái Dương Hóa Kị, chủ về con cái nhiều bệnh. Gặp tứ sát, hình tinh, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về hình khắc tử tôn, chỉ có một con trai.
  • Thái Dương độc tọa, miếu vượng, không có sát tinh, chủ về tám con trở lên.
    Thái Dương Thái Âm, chủ về bốn, năm con. Gặp sát tinh, chủ về chỉ còn hai ba người con.
  • “Thái Dương Cự Môn”, chủ về ba người, sinh con khó nuôi. Hóa Lộc thì chủ về con quý hiển. Cự Môn Hóa Lộc mà Thái Dương Hóa Quyền, trái lại nên cẩn thận trong việc nuôi dưỡng, dạy dỗ, nếu không con cái sẽ cao ngạo, phá tán.
  • Thái Dương, Thiên Lương ở cung Mão, chủ về ba con. Ở cung Dậu, chủ về hai con. Gặp sát tinh, dễ bị sinh non, sinh thiếu tháng, con cái dễ xa cha mẹ. Gặp Văn Xương, Lộc Tồn, chủ về con cái học hành đều có thành tích tốt, còn có tính nguyên tắc cực mạnh.

Vũ Khúc Cung Tử Tức

Vũ Khúc nhập Cung Tử Tức, chủ về vợ hai, vợ lẽ sinh con trai, chính thất phần nhiều chỉ sinh con gái. Chủ về con cái cương trực, nhưng xử sự không hòa hợp.

  • Vũ Khúc chủ về khắc, gặp Thất Sát và Hóa Kị, chủ về sinh thiếu tháng.
  • Phàm Cung Tử Tức có “Vũ Khúc, Thất Sát” hội chiếu, đều chủ về sinh con phải phẫu thuật.
  • Vũ Khúc nhập Cung Tử Tức còn chủ về có con rể đắc lực, hoặc con rể tốt.
  • Vũ Khúc mà gặp đủ tứ sát, các hình tinh, kị, Địa Không, Địa Kiếp, thì chủ về tuyệt tự.
  • Vũ Khúc độc tọa, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ về con cái thông minh, còn chủ về ít con. Nếu gặp Hồng Loan, Thiên Hỷ, Đại Hao thì chủ về có con gái.
  • Vũ Khúc, Thiên Phủ, chủ về hai người, thêm sát tinh, chủ về một con.
  • Vũ Khúc, Tham lang, chủ về sau bốn mươi mới có con trai, có thể có hai người con.
  • Vũ Khúc, Thiên Tướng, chủ về có con rể trước rồi mới sinh con trai.
  • Vũ Khúc, Thất Sát, chủ về không có con trai, có con trai cũng phải đề phòng tổn thương, tàn tật, gặp sát tinh thì càng đúng, vợ hai hoặc vợ lẽ sinh con trai thì không sao. Gặp cát tinh thì có con trai nhưng rất muộn.
  • Vũ Khúc, Phá Quân, chủ về con trai có phá tướng. Cũng chủ về “hình”, “hình” đến một hai người. Nếu có thêm Văn Xương, Văn Khúc,Tả Phụ, Hữu Bật thì chủ về có ba người.

Thiên Đồng Cung Tử Tức

Phàm Thiên Đồng ở Cung Tử Tức, có con gái đầu là tốt.

Thiên Đồng độc tọa ở cung Tỵ, đối cung có Thiên Lương, chủ về con trai có khả năng bị nhược trí, nhưng phải gặp các sao sát, kị mới đúng.

Thiên Đồng chủ về con cái nhu nhược, lười biếng, thích hưởng thụ, không có chí phấn đấu, khó chịu đựng nổi sóng gió trên đường đời, tính tình ủy mị.

  • Thiên Đồng ở Cung Tử Tức, hội Thiên Cơ, chủ về có hai con, nhưng hơi muộn.
  • Thiên Đồng Hóa Lộc, không nên gặp sát tinh, nếu không con cái sẽ phá gia, đây là do con cái chìm đắm trong thú hưởng lạc gây ra.
  • Thiên Đồng lạc hãm gặp sát tinh, chỉ có một con trai.
  • Thiên Đồng, Cự Môn, chủ về có ba người con. Thêm tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về có một người con. Nếu có thêm Hóa Kị, Đại Hao, chủ về con cái nhiều bệnh tật, nạn tai, phá tán, hao tài, về sau còn bị hình khắc. Nên cho làm con nuôi người khác, hoặc ở riêng.
  • Thiên Đồng Thiên Lương, chủ về sinh con gái trước sinh con trai sau là thuận, con cái hai người.
  • Thiên Đồng Thái Âm ở cung Tí, chủ về có năm người con, nhiều gái, ít trai là quý. Ở cung Ngọ, chủ về có hai người con, cũng nên sinh gái trước. Có thêm Thiên Hình đồng cung, chủ về con bị phá tướng hoặc xa cha mẹ. Gặp thêm sát tinh, nên xin con nuôi, còn chủ về con cái hướng nội.

Liêm Trinh Cung Tử Tức

  • Liêm Trinh rất ưa tương hội với Thiên Phủ, chủ về sinh quý tử, có ba người con.
  • Liêm Trinh Hóa Kị, chủ về con cái nhiều nạn tai tật bệnh, hoặc bị phá tướng.
  • Liêm Trinh hội Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, chủ về con cái bị “hình thương”.
  • Liêm Trinh hội tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, chủ về xin con nuôi.
  • Liêm Trinh lạc hãm ở Cung Tử Tức, gặp cát tinh, cũng bị “hình thương”.
  • Liêm Trinh độc tọa ở cung miếu vượng, chủ về một trai một gái. Ở cung bình, có một trai. Ở cung hãm, chủ về có “khắc” .
  • Liêm Trinh, Thiên Phủ, chủ về có ba người con, còn có quý tử, con cái tính tình cẩn thận, trung hậu, văn nhã. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, chủ về con cái phát quý, nhưng không chủ về phú. Nếu có Văn Khúc đồng độ thì chủ về “hình khắc”.
  • Liêm Trinh, Tham Lang, chủ về ít con trai. Thêm cát tinh cũng chỉ có hai người. Gặp thêm Văn Xương, Văn Khúc, chủ về thông minh, nhạy bén. Gặp thêm sát tinh thì chủ về cơ thể hư nhược.
  • Liêm Trinh, Thiên Tướng, chủ về có hai con, con cái trung hậu, có thể giữ gìn gia nghiệp.
  • Liêm Trinh, Thất Sát, chủ về cô độc. Hóa Kị mà thêm cát tinh, chủ về có một con, cũng nhiều nạn tai tật bệnh.
  • Liêm Trinh, Phá Quân, chủ về một con, gặp sát tinh thì có “khắc”.

Sao Thiên Phủ ở Cung Tử Tức

  • Trong tình hình thông thường, chủ về có nhiều con cái.
  • Thiên Phủ hội Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về con cái thông minh, đa tài, có hiếu.
  • Thiên Phủ ở Cung Tử Tức gặp các sao sát, hình, kị, chủ về con cái quật cường, hoặc bị phá tướng.
  • Thiên Phủ độc tọa ở cung miếu vượng, chủ về có năm người. gặp tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về có ba người. hội Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về có năm con trở lên.
  • Thiên Phủ, Liêm Trinh, Văn Khúc đồng độ, ắt sẽ có hình khắc.

Sao Thái Âm ở Cung Tử Tức

Khi Sao Thái Âm miếu vượng, trong tình hình thông thường, chủ về con cái giàu có, nên sinh con gái trước, sinh con trai sau, nếu không sẽ nhiều con gái, ít con trai.

Thái Âm lạc hãm, chủ về con trai nhu nhược, hoặc “hình khắc”, nên có con rể trước. Thêm tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về ít con trai. Hội Hồng Loan, Thiên Hỷ thì chủ về nhiều con gái. Thiên Cơ đồng độ, thêm cát tinh, chủ về chỉ có hai con. Thái Âm lạc hãm, nên có con rể trước, con đẻ mới có thể tránh “hình khắc”.

Thái Âm độc tọa ở cung miếu vượng, chủ về có ba con gái, hai con trai. Thêm sát tinh, Kiếp Sát, chủ về có hai con. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, chủ về có con thông minh. gặp Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về con cái có thể giữ gìn gia nghiệp. Gặp Thiên Khôi, Thiên Việt thì con cái sáng quý. gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, chủ về con cái giàu có.

Tham Lang Cung Tử Tức

  • Tham Lang hội Hàm Trì, Thiên Diêu, chủ về nhiều con gái, ít con trai. Cũng chủ về sinh gái trước, sinh trai sau, nếu không, vợ lẽ hay vợ hai sinh con trai.
  • Tham Lang nhập miếu, hội Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quý, chủ về có hai con, mà còn quý hiển.
  • Tham Lang Hóa Lộc ở Cung Tử Tức, gặp cát tinh, chủ về con trai giỏi kinh doanh. Gặp sát tinh, chủ về con cái kiêu kì.
  • Tham Lang Hóa Kị, chủ về con cái gặp nhiều trắc trở, bất đắc chí, hoặc lãng phí, có lý tưởng nhưng không thể thành tựu.
  • Tham Lang gặp tứ sát, chủ về sinh non hoặc khó sinh. Gặp Thiên Hình, chủ về con cái khó nuôi.
  • Tử Vi và Tham Lang đồng độ, chủ về có con muộn.
  • Vũ Khúc và Tham lang đồng độ, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ về có ba người, nếu không sẽ có hai con nhưng muộn.
  • Liêm Trinh, Tham Lang, chủ về có hai con, con trai thì có một.

Cự Môn Cung Tử Tức

Cự Môn thủ Cung Tử Tức, chủ về nên có con trai muộn, nếu không khó nuôi. Sao Cự Môn chủ về cô độc, cần phải gặp Thái Dương mới giải được “ám” của nó. Được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hoặc Lộc Tồn, mới có khí tường hòa.

Thiên Đồng, Tả Phụ, Hữu Bật cùng ở một cung, chủ về con trai dòng chính đắc lực, con trai dòng thứ đưa tang.

Cự Môn độc tọa, nhập miếu, chủ về có hai con. Lạc hãm hoặc gặp sát tinh, chủ về có một con. Gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, thì tuyệt tự, có thể chỉ có con gái.

“Cự Môn, Thái Dương” gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, “Tam Hóa”, chủ về có ba con trở lên, hơn nữa còn có thể phú quý, thông minh, đa tài. Gặp các sao cát ủng hộ, con cái có thể là nhân tài ngoại giao. Gặp Văn Xương, Văn Khúc đồng độ, con cái nên theo ngành pháp luật.

Thiên Tướng ở Cung Tử Tức

Thiên Tướng ở Cung Tử Tức, gặp Vũ Khúc, Phá Quân vây chiếu, chủ về “hình khắc”, nên chậm có con, con đầu dễ sinh non, sinh thiếu tháng, hoặc bị tổn thương. Sinh con gái trước là tốt, nếu không vợ lẽ hay vợ hai sinh con trai.

Thiên Tướng hội tứ sát, còn gặp Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về ba đứa con đầu dễ bị mất, vợ lẽ hay vợ hai sinh con trai thì đỡ hơn, nhưng con đầu vẫn dễ bị sinh non.

Thiên Tướng gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, có Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Phủ hội chiếu, chủ về có năm con trở lên, con cái nhân từ hiếu thuận.

Thiên Tướng rất sợ gặp sát tinh, chủ về xin con nuôi, hoặc có con dòng thứ, có con rể trước.

Sao Thiên Lương ở Cung Tử Tức

Sao Thiên Lương nhập miếu ở Cung Tử Tức, hội chiếu các sao Tả Phụ, Hữu Bật, tam cát hóa, Thiên Vu, Ân Quang, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về con cái thông minh, đa tài, làm việc có nguyên tắc, tính tình thẳng thắn, tâm từ, có thể phú quý.

  • Thiên Lương miếu vượng, chủ về có hai con. Hãm địa, chủ về có một con.
  • Thiên Lương ở Cung Tử Tức, phần nhiều có con gái trước.
  • Thiên Lương gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Đồng, có một đứa con trai dòng thứ.
  • Thiên Lương thủ Cung Tử Tức không nên gặp sát tinh, chủ về có con trai sớm thì khắc. Lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, chủ về mất hết con, có nguy cơ tuyệt tự. Thiên Lương có Hóa Kị hội chiếu, chủ về con cái nhiều nạn tai tật bệnh.
  • Thiên Lương, Thiên Cơ, chủ về sinh non, hai con.

Thất Sát Cung Tử Tức

Thất Sát thủ Cung Tử Tức, nhập miếu hoặc thừa vượng, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, chủ về con cái có thể hưng thịnh.

Thất Sát thủ Cung Tử Tức chủ về cô độc, nên sinh gái trước, sinh trai sau.

Thất Sát miếu vượng hội cát tinh, chủ về có một con trai. Ở cung bình nhàn, có một con trai nhưng là phá gia chi tử. Ở hãm địa mà gặp sát tinh, chủ về tuyệt tự.

  • Thất Sát chỉ ưa đồng độ với Tử Vi, chủ về có ba con, mà còn hiếu thảo.
  • Thất Sát thủ Cung Tử Tức, chủ về tình cảm cha con có khoảng cách.
  • Thất Sát độc tọa, gặp tứ sát, các hình tinh, kị, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về không có con trai, nhưng không nên bắt rể, vì không đắc lực.
  • Thất Sát có Hóa Kị hội chiếu, sát tinh ít, chủ về có con cái nhưng nhiều nạn tai tật bệnh.
  • Thất Sát có Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu, con cái phá tán tiền bạc.

Sao Phá Quân Cung Tử Tức

Phá Quân nhập Cung Tử Tức, chủ về con đầu bị “hình thương”, phần nhiều sinh thiếu tháng, sinh non. Vợ lẽ hay vợ hai sinh con trai thì đỡ hơn, lập con thừa tự trước cũng được.

  • Phá Quân nhập miếu, chủ về có ba con trai, tính cương cường. Gặp sao lộc thì con cái làm hưng thịnh gia nghiệp.
  • Phá Quân thủ Cung Tử Tức gặp tứ sát, chủ về có một con trai, nhưng không đắc lực.
  • Phá Quân gặp Kình Dương, Đà La, là tương sinh mà có khắc chế, chủ về có một con trai nhưng khó nhờ.
  • Phá Quân gặp Hỏa Tinh/Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về có một con trai nhưng khó nhờ.
  • Phá Quân nhập Cung Tử Tức, con trưởng dễ bị phá tướng, hoặc nói cà lăm, sinh thiếu tháng.

Hóa Lộc Cung Tử Tức

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Lộc (năm sinh) ở Cung Tử Tức như sau

  1. Hóa Lộc ở Cung Tử Tức, là ở cung lục thân, chủ về con cái khá tốt. Nhưng do vị trí của Hóa Lộc và Hóa Kị không thích đáng. Nên phương thức nuôi dạy con cái quá nuông chiều, hơi giống như “phụng sự” con cái.
  2. Vì đương số mang những điều mình trông mong đặt vào cung này. Nên họ kỳ vọng quá nhiều ở con cái, mong muốn con cái thành rồng, thành phượng. Hóa Lộc ở Cung Tử Tức, chủ về con cái đa tình hơn đương số. Hoặc con cái rất có duyên với người chung quanh. Còn vấn đề con cái có thể thành tài hay không, cần phải xem hiện tượng Cung Tử Tức phi hóa mà định.
  3. Một hàm nghĩa khác của Hóa Lộc là “nhiều”, vì vậy Hóa Lộc ở Cung Tử Tức là chủ về muốn sinh con cái (Hóa Lộc là kì vọng, hi vọng, mong muốn), và có nhiều con.
  4. Huyền nghĩa của Cung Tử Tức là chủ về vận đào hoa nam nữ thân mật, nên người Hóa Lộc ở Cung Tử Tức phần nhiều đều được hưởng thụ niềm vui và sự trói buộc mềm mại của tình yêu, vui vẻ chìm đắm trong tình cảm lãng mạn.
  5. Theo nguyên tắc “kép”, Cung Tử Tức còn chủ về đối tượng của mối quan hệ yêu đương. Lúc có Hóa Lộc, bản thân đối tượng cũng là người được hưởng thụ, còn đa tình hơn Đương số, có thể “người ấy” có kinh nghiệm phong phú trong tình trường.
  6. Do Hóa Lộc (năm sinh) ở Cung Tử Tức, nên điều mong cầu là con cái, tình yêu. Vì vậy lúc còn trẻ dễ gặp vận đào hoa thân mật, mà còn có nhiều đối tượng yêu đương.
  7. Do tuyến “tử điền” là tuyến dẫn động vận đào hoa, có Hóa Lộc là chủ về trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn đều dễ xảy ra tình trạng không chuyên nhất trong hôn nhân, hay theo đuổi những tình yêu gặp ở bên ngoài, sau khi kết hôn cơ hội đào hoa cũng nhiều hơn người bình thường.
  8. Cũng do Hóa Lộc ở “tha cung”, dễ bị Hóa Kị phá, gặp Hóa Quyền thúc đẩy làm thay đổi. Đây là lúc vận đào hoa bị ảnh hưởng mà mất dần, khiến cho đoạn tình cảm đào hoa này không duy trì được lâu.
  9. Cung Tử Tức còn chủ về việc tiêu xài, lúc các sao trong cung quá mạnh, thì tình trạng tiêu xài, chi xuất sẽ nhiều hơn người bình thường một cách rõ rệt. Nhất là trường hợp có Hóa Lộc ở Cung Tử Tức, Đương số sẽ rất dễ vì tính bốc đồng nhất thời mà tiêu xài tiền một cách liều mạng.
  10. Do tuyến “tử điền” còn đại biểu cho sự vui vẻ, có Hóa Lộc là chủ về giao tế thù tạc nhiều, tiền tiêu xài trong lúc thù tạc cũng nhiều, đồng thời cơ hội gặp dịp vui chơi cũng tương đối cao.
  11. Vì Cung Tử Tức cũng là cung vị hợp tác sự nghiệp, do ảnh hưởng của 9 và 10. Đương số thường tích cực đi tìm cơ hội hợp tác ở bên ngoài, đồng thời cũng tốn khá nhiều thời gian trong chuyện thù tạc, mà việc hợp tác sự nghiệp cũng đa dạng. Nhưng rốt cuộc hợp tác có thành công hay không thì phải xem tình hình ở cung tam hợp của Cung Tử Tức, và hiện tượng Cung Tử Tức phi hóa, để luận giải.
  12. Hóa Lộc ở Cung Tử Tức chiếu Cung Điền Trạch, là chủ về Đương số rất quan tâm gia đình, nhưng lại thu xếp không hợp lý, vì đây chỉ là quan tâm bằng tình cảm, chớ không có hành động thực tế.
  13. Hóa Lộc vốn chủ về “nhiều”, nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, tự Hóa Kị, hoặc Lộc Tồn, là chủ về trong lòng thì muốn có nhiều, nhưng cảnh gặp gỡ tình cảm trong thực tế lại rất ít.

Hóa Quyền Cung Tử Tức

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Quyền [năm sinh] ở Cung Tử Tức như sau

  1. Cung Tử Tức là cung lục thân, không phải là “ngã cung”, trường hợp Hóa Quyền rơi vào cung này, nếu dùng phương pháp so sánh để luận đoán thì con cái sẽ ở thế mạnh hơn Đương số. Hơn nữa, Hóa Quyền ở cung vị thiên di của cưng điền trạch, có thể luận chúng là người nắm quyền trong nhà.
  2. Trên đã nói qua, Hóa Quyền có thể đại biểu cho một sở trường hay chuyên môn nào đó. Lấy phương thức so sánh để luận, con cái sẽ có nghề chuyên môn ở một lãnh vực nào đó, hơn Đương số.
  3. Hóa Quyền ở “tha cung”, bản thân Đương số sẽ thiếu động lực và sự toan tính, sau khi có con cái, Hóa Quyền mới khơi động làm cho Đương số tích cực hơn. Ngoài ra, Hóa Quyền ở Cung Tử Tức, là chủ về Đương số vì muốn con cái có cuộc sống tốt hơn mà phải cố gắng, người này còn có tâm lý rất kì vọng con cái thành đạt.
  4. Nhưng vì Hóa Quyền ở Cung Tử Tức, nên phải phòng Đương số có cách giáo dục sai lầm khiến con cái phát triển “cái tôi” một cách thái quá, dễ có trạng thái tâm lý lúc nào cũng cho mình là đúng. Tổng hợp với các điều trên, Đương số sẽ cảm thấy con cái ngỗ nghịch, khó dạy dỗ, và cũng có sự ngăn cách giữa hai đời.
  5. Đối với bản thân Đương số, Hóa Quyền ở Cung Tử Tức là khởi động cung vị thiên di của Cung Điền Trạch, bình thường Đương số ở nhà không đi đâu, cũng sẽ thành thường hay ra bên ngoài, phần nhiều nguyên nhân ra bên ngoài là vì công việc, hoặc vì giao tế thù tạc, hơi khác với “dịch động” của chính Cung Thiên Di.
  6. Cung Tử Tức cũng là cung vị chủ về hợp tác, trường hợp có Hóa Quyền, là chủ về Đương số muốn đầu tư và hợp tác làm ăn, tham gia nhiều công việc làm ăn, đồng thời cũng có tượng hợp tác nhanh mà tan rã cũng nhanh.
  7. Nếu xem về tình hình hợp tác, thì người hợp tác sẽ chuyên nghiệp và có năng lực hơn Đương số, nhưng trong quá trình hợp tác dễ xảy ra tình trạng tranh chấp trong các cổ đông bầu không khí hợp tác không được tốt.
  8. Trường hợp này còn có thể xem là Hóa Quyền ở cung vị quan lộc của Cung Nô Bộc, trong lúc sự nghiệp hợp tác tiến triển, bản thân Đương số tham dự với mức độ thấp, cũng có ý tượng giao quyền cho cổ đông khác.
  9. Cung Tử Tức là cung vị tiêu xài, trường hợp có Hóa Quyền là Đương số rất dám tiêu xài tiền. Tuyến “tử điền” còn có hàm ý tiêu tốn vì giải trí và hưởng thụ, cho nên cũng sẽ là kiếu tiêu xài mang tính tâm trạng, và tốc độ tiêu xài khá nhanh.
  10. Cung Tử Tức còn chủ về quan hệ tính dục, hành vi tính dục, trường hợp có Hóa Quyền, Đương số sẽ có nhu cầu nhiều về phương diện sinh hoạt tình dục. Nếu Cung Phu Thê và Cung Phúc Đức bị ảnh hưởng của Hóa Quyền ở Cung Tử Tức, thì mức độ hòa hợp ân ái trong đời sống tình cảm sẽ cao hơn.
  11. Cung Tử Tức còn là cung vị giao tế, thù tạc của Đương số, trường hợp có Hóa Quyền sẽ chủ về có nhiều cơ hội giao tế thù tạc, quen bạn bè cũng nhiêu, mà cơ hội gặp gõ đào hoa cũng nhiều hơn.
  12. Tổng hợp điều 9 10 11 là chủ về quan hệ đào hoa và sự tiêu xài hưởng thụ của Đương số thường liên quan đến việc giao tế thù tạc, vui chơi “phong hoa tuyết nguyệt”.
  13. Xem xét tuyến “từ điền”, do tác dụng của Hóa Quyền, nên tình huống đào hoa của Đương số không có tính lâu dài, mà thường chỉ là tình một đêm, khả năng lớn nhất là do Đương số ở xa nhà nên xảy ra chuyện đào hoa.
  14. Hóa Quyền ở Cung Tử Tức, vì không có tính ổn định, nên lúc nghĩ đến chuyện sinh đẻ và mang thai, cần phải xem Cung Tử Tức có hung tinh hay không. Nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, thì cần phải cẩn thận, dễ xảy ra trường hợp khó sinh, hoặc có khả năng phải sinh mổ.

Sao Hóa Khoa Cung Tử Tức

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Khoa [năm sinh] ở Cung Tử Tức như sau

  1. Hóa Khoa là tượng trưng cho một dạng động thái, cung vị có động thái ắt sẽ sinh ra biến động thay đổi. Trường hợp Hóa Khoa ở Cung Tử Tức, phần nhiều là chủ về có thể có con, trong một số ít tình huống là chủ về đối tượng đào hoa.
  2. Các cung lục thân đều có hàm ý so sánh hơn kém với Đương số, Hóa Khoa ở Cung Tử Tức là chủ về con cái khá ưu tú, tâm tính, tư duy đều bình ổn. Hơn nữa, phần nhiều là tướng mạo thanh tú, khí chất xuất chúng, nhiều lúc cũng có thể luận đoán mở rộng là con cái có thân hình xinh đẹp, không quá mập.
  3. Trong mệnh bàn của Đương số, Hóa Khoa [năm sinh] duy nhất đặt ở Cung Tử Tức, là chủ về Đương số cũng sẽ tận tâm tận lực che chở bảo vệ con cái, trong quá trình sinh đẻ phần nhiều cũng được “gặp hung hóa cát”, con cái ít gặp nạn ai.
  4. Cung Tử Tức là cung vị thiên di của Cung Điền Trạch, cho nên trường hợp Cung Tử Tức có Hóa Khoa, xem từ góc độ Cung Điền Trạch (tức gia đình của Đương số), là người trong nhà trông mong con cái thành tựu. Nhưng vì tác dụng của Hóa Khoa là ổn định, thực dụng. Nên cũng chủ về gia đình Đương số không có kì vọng cao xa, cũng sẽ không mong ước hay theo đuổi cuộc sống xa hoa. Vì vậy an định, bình dị, thực thà, không lo phiền và không có tai họa là những mong ước chủ yếu.
  5. Cung Tử Tức là cung vị chủ về đầu tư hợp tác, ở Cung Tử Tức thấy Hóa Khoa, là chủ về lúc tiến hành đầu tư phần nhiều Đương số dựa vào lý trí và rất thực dụng. Cũng chủ về việc hùn vốn làm ăn được bình yên thuận lợi, giữa những người hợp tác có chế độ hợp lý và tôn trọng lẫn nhau, đối tượng hợp tác cũng là người bình dị, thực thà, quá trình hợp tác cũng thấy có hòa khí.
  6. Vì Cung Tử Tức là cung vị khí số của Cung Nô Bộc, cho nên không chỉ đại biểu cho tố chất của con cái, mà còn có thể dùng để luận giải về bạn bè giao du. Cung Tử Tức có Hóa Khoa là chủ về bạn bè qua lại gần gũi, sốt sắng. Phần nhiều bạn bè là người thấu tình đạt lý, tâm tính thiện lương, không trái với quy củ.
  7. Cung Tử Tức là cung vị biểu hiện (cung vị tài bạch) của Cung Phụ Mẫu, cho nên ý tượng của trường hợp Cung Tử Tức có Hóa Khoa là cha mẹ có thái độ đối nhân xử thế hòa hợp, bao dung, bình dị, thực thà, là người có trong giới chuyên nghiệp hoặc có sở học tinh chuyên. Phần nhiều cha mẹ không phải là người trong giới kinh doanh buôn bán, mà là người đi làm hưởng lương (bao gồm nhân viên công vụ), trừ phi là Vũ Khúc Hóa Khoa hoặc có tổ hợp sao đặc biệt khác đồng cung. Vì Hóa Khoa ở cung vị biểu hiện của Cung Phụ Mẫu, nên phần nhiều là cha mẹ sống với nhau yên bình hòa hợp, có tác dụng giáo dục đối với Đương số.
  8. Cung Tử Tức là cung chủ về tiêu xài chi ra, thấy Hóa Khoa là chủ về dùng tiền hợp lý, có quan niệm thu chi cân đối, cho nên đương sự không đến nỗi theo đuổi cuộc sống xa hoa, mà có kế hoạch chi tiêu rõ ràng. Có lúc cũng chủ về tình hình chi tiêu cho vấn đề nào đó một cách lâu dài, đặc biệt là chi tiêu cho bảo hiểm hay mua nhà trả góp.
  9. Do Hóa Khoa ở Cung Tử Tức. Vì vậy sau khi sinh con mới khởi động cơ chế của Hóa Khoa, mới bắt đầu có tác dụng “che chở”. Cho nên có thể xem con cái là quý nhân của đương số. Lúc con cái còn bé, Hóa Khoa ở đây có tác dụng ổn định gia đình, trợ lực cho việc duy trì hôn nhân của Đương số và người phối ngẫu. Sau khi con cái trưởng thành, Hóa Khoa ở đây có tác dụng ngầm trợ lực cho Đương số.
  10. Cung Tử Tức còn là cung chủ về hưởng lạc, là cung chủ về tình hình hưởng thụ sinh hoạt tình dục. Hóa Khoa ở Cung Tử Tức, là có hàm ý lãng mạn, về tinh thần Đương số được hưởng thụ đầy đủ niềm hoan lạc, tức vợ chồng có sinh hoạt tình dục hòa hợp viên mãn, tình cảm giữa hai người cũng có thể duy trì lâu dài. Nhưng Cung Tử Tức thấy Hóa Khoa, ngoại trừ hàm nghĩa chú trọng sinh hoạt tình dục, còn ngầm báo ý mất đi sự bình lặng thường có, vì vậy cũng tiềm phục ý tượng ngoại tình.
  11. Hóa Khoa có hàm ý lâu dài, từ từ, chậm, tăng cường độ hành động. Vì vậy Hóa Khoa ở Cung Tử Tức, nếu xảy ra chuyện ngoại tình, thường thường là kéo dài. Hơn nữa, do sức ảnh hưởng của Hóa Khoa có thể thấm vào tận tâm hồn, cho nên nếu có người khác ở bên ngoài thì không phải vì tính dục, mà chỉ vì hợp nhau về tinh thần, cho nên một khi xảy ra ngoại tình thì khó mà đứt đoạn giữa chừng.
  12. Hóa Khoa vốn chủ về lý trí, lý tính, và tuân thủ quy củ, nhưng một khi xảy ra ngoại tình, thì tình cảm sẽ lừa gạt lý trí, trong tình huống này, lúc lý trí bị phá hoại, cũng là lúc Hóa Khoa mất đi hiệu lực. Cho nên, một khi xảy ra ngoại tình thì rẩt dễ bị “phát hiện”.

Sao Hóa Kị Cung Tử Tức

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Kị [năm sinh] ở Cung Tử Tức như sau

  1. Các trường hợp tử hóa ở Cung Tử Tức, bất luận là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, hay Hóa Kị, đều chủ về xảy ra biến hóa, tức có hàm ý là, Đương số có thể có con. Có điều, trong trường hợp Hóa Kị ở cung tứ nữ, Đương số sẽ có con khá chậm, sinh con trai hay sinh con gái đều gặp khó khăn, mà thể chất của con cái cũng không được tốt.
  2. Ý tượng của Hóa Lộc là “kì vọng” và “đáp trả”. Còn ý tượng của Hóa Kị là “thu vào”, “quy thuộc và trông mong”. Trường hợp Hóa Lộc hay Hóa Kị ở Cung Tử Tức đều có khuynh hướng nuông chiều con cái, nhưng “kì vọng” của Hóa Lộc thường thường là mong muốn con cái thành tựu về học vấn, học hành có thành tích tốt, vui vẻ, hạnh phúc … mà không có tâm lý mong chờ con cái báo đáp. còn tính chất của Hóa Kị là quá kì vọng và có áp lực, mong muốn con cái nỗ lực học hành, còn trông mong con cái cống hiến cho gia đình, nhưng thường thường con cái rất khó đạt yêu cầu của Đương số, mà nhiều còn trở thành tai hạn.
  3. Tiếp theo trên, vì ảnh hưởng của Hóa Kị, cách Đương số đối đãi với con cái, cho đến thái độ đáp trả của con cái, thường thường là trái với mong đợi. Cho nên, không chỉ Đương số sẽ cảm thấy có sự ngăn cách với con cái, mà quan hệ giữa con cái với Đương số cũng sẽ không được hòa mục, khá khổ sở.
  4. Vì Hóa Kị ở Cung Tử Tức, đối với Đương số là Hóa Kị nhập “tha cung” và xung cung vị điền trạch của Đương số, tức là vì con cái mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Đây cũng là nói, trong quá trình mang thai sinh đẻ, Đương số dễ gặp tình huống khó sinh hoặc sinh non, nhưng muốn biết rốt cuộc thế nào thì phải quan sát Cung Phụ Mẫu (cung vị khí số của Cung Tử Tức).
  5. Tiếp theo trên, vì Hóa Kị xung kích Cung Điền Trạch, là chủ về cả gia đình phải gánh vác những tai hại bất lợi do con cái gây ra, hoặc hành vi của con cái không hợp trào lưu, đồng thời tiền đồ phát triển của con cái sẽ thành trọng tâm của cả gia đình. Lúc này cần xem lại ý 1và 2. Bản thân con cái có vấn đề về sức khỏe, cũng sẽ khiến cho Đương số và cả gia đình rất lo lắng.
  6. Vì Cung Tử Tức còn tượng trưng cho cung vị chủ về hợp tác, trường hợp có Hóa Kị ở Cung Tử Tức, là Đương số sẽ rất muốn đầu tư, hợp tác để kiếm tiền. Vì Hóa Kị ở “tha cung”, nên lúc hợp tác làm ăn với người khác thường thường sẽ khiến Đương số mất cả chì lẫn chài, không những vốn đầu tư lỗ mất, mà cuộc hợp tác làm ăn có thể giống như cái hố sâu, cần phải liên tục đổ của cải vào. Do đó trường hợp Hóa Kị ở Cung Tử Tức là có ý tượng không nên hợp tác làm ăn.
  7. Cung Tử Tức cư ở cung vị khí số của Cung Nô Bộc, trường hợp Cung Tử Tức thấy Hóa Kị, là chủ về trong số người giao du qua lại, có người trạng thái tâm lý không được lành mạnh, đồng thời cũng sẽ có người thiếu nhân cách, nhưng Đương số cũng có thể có một số bạn bè có nhân cách đặc biệt.
  8. Vì ý tượng của Hóa Kị là “trông mong” và “thu vào”, cho nên Đương số kì vọng rất nhiều vào con cái, đồng thời cũng chủ về Đương số quá chiều chuộng con cái.
  9. Cung Tử Tức là “tha cung”, thấy Hóa Kị là thấy xung hướng Cung Điền Trạch, sẽ phá hoại Cung Điền Trạch, tức phá hoại sự hòa hợp trong gia đình. Ngoài ra, Cung Điền Trạch là đại biểu cho “kho tiền”, thấy xung kích là “kho tiền” dễ phá. ý tượng là, tiêu xài lãng phí, đầu tư không thích đáng, làm tổn hao tài phú. Còn có ý tượng khác là, con cái tiêu xài rất nhiều tiền (thường thường là chi xuất ngoài kế hoạch).
  10. Cũng vì Hóa Kị ở Cung Tử Tức, xung kích Cung Điền Trạch, thường thường Đương số rất khó giữ bất động sản, nhất là nhà mua lần đầu thì càng khó sống lâu trong đó.
  11. Vì tuyến “tử điền” liên quan đến dục tình, trường hợp Cung Tử Tức thấy tứ hóa, đều dễ xuất hiện cơ hội ngoại tình, có điều dưới sức ảnh hưởng của Hóa Kị hay Hóa Quyền, tình huống ngoại tình thường sẽ rất ồn ào, hoặc không được vui vẻ, thậm chí thành chuyện đáng tiếc.

Cung Tử Tức phi hóa

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung mệnh

Đào hoa nhiều, có duyên với người khác giới, nhiệt tình, có tinh thần đào hoa, ưa phong hoa tuyết nguyệt. Nhất định có con, quan hệ đối đãi giữa đương số với con cái rất tốt, tình cảm thân mật, hợp tác thì sinh tài.

  • Nếu cung mệnh chuyển phi Hóa Kị quay lại nhập Cung Tử Tức, là ý tượng: con cái khá ít, không phải tượng đào hoa.
  • Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, là ý tượng: phần nhiều là quan hệ ờ chung như vợ chồng, hơn nữa còn không muốn sinh con.
  • Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng: vợ chồng thường cãi vã nhau.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung huynh đệ:

Con cái có duyên với người chung quanh, nhiệt tình với mọi người, tình cảm giữa anh chị em rất tốt, xem trọng hưởng thụ, hơi lười biếng, kiếm tiền dễ, thích làm việc bằng đầu óc. Muốn kiếm tiền phái thù tạc trước, thích hường lạc, đào hoa nhiều, có thể theo ngành giải trí. chuộng hư vinh, tâm thần bất định, thiên tính phong lưu tao nhã, nữ mệnh dễ luân lạc chốn phong trần.

Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung quan lộc, nữ mệnh chủ về làm nhị phòng. Nam mệnh chủ về lấy vợ là phụ nữ đã li hôn hoặc đã từng có chồng, đương số có tình nhân ở bên ngoài, nặng quan hệ tình dục.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung phu thê:

Con cái rất có duyên với người khác giới, trưởng thành sớm, quan hệ với cha me rất tốt đẹp, hiếu thuận, sự nghiệp thuận lợi, có tiền để hưởng thụ, nhưng thể chất yếu, cần lưu ý thói quen ăn uống của chúng.

Sau kết hôn, đương số vẫn rất có duyên với người khác giới, đương số dễ có tình nhân ở bên ngoài, sống chung như vợ chồng với người khác bên ngoài, hoặc vợ chồng đương số không có danh phận chính thức. Cũng có người theo đuổi, dụ dỗ người phối ngẫu.

Nếu sinh con gái đầu lòng, chú ý sức khỏe con cái; người phối ngẫu xinh đẹp (hay anh tuấn). Nếu Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung mệnh, là ý tượng: kết hôn muộn, khó kết hôn, trước khi kết hôn phần nhiều đã có ở chung như vợ chồng với người khác.

Nếu Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung tật ách, là ý tượng: quan hệ ở chung như vợ chồng khá tốt đẹp mà không cần danh phận. Nữ mệnh là người phong trần, hoặc làm nhị phòng. Nam mệnh là người phong lưu, tình cảm bừa bãi.

Nếu Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung nô bộc, là ý tượng: vợ chồng thường cãi vã.

Cung Tử Tức tự Hóa Lộc:

Con cái thông minh lanh lợi, hiếu thảo; con cái có duyên phận rất sâu với Đương số. Đương số rất có duyên với người khác giới, dễ có đào hoa, giao du thân mật với bạn bè khác giới, dễ có hành vi vượt quá tình bạn, có thể kết hôn hơi sớm. Cơ năng tính dục của Đương số rất tốt; cần phải lưu ý, sinh con gái đầu dễ bị lưu sản. Đương số có quan hệ giao tế rất tốt, giao du nhiều; có nhiều cơ hội hợp tác sự nghiệp với người khác.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung tài bạch:

Con cái rất thích tiền, thích hưởng thụ, khả năng giao tế rất tốt, có nhiều cơ hội sáng lập cơ nghiệp, kiếm tiền dễ dàng, vận tiền tài vừa ý. Đương số rất có duyên với người chung quanh, nên hợp tác, có thể kiếm tiền, tài phú của Đương số hơn anh em. Có tính lấy “cái tôi” làm trung tâm, thích hợp làm thầy giáo, cũng có thể theo ngành giải trí. Về già con cái sẽ phụng dưỡng. Nếu Đương số có tình nhân ở bên ngoài sẽ phải tiêu xài nhiều tiền; có thể đây là đào hoa theo kiểu mua bằng tiền. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung thiên di, thì không nên hợp tác. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ, là ý tượng: vợ chồng thường hay oán trách nhau.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung tật ách:

Con cái tính tình lạc quan, dễ phát phì, thể chất yếu nhưng đầu óc lại mạnh, rất có duyên với người chung quanh, hiếu thuận, dễ được bậc trưởng bối hay cấp trên yêu mến, sự nghiệp dễ có phát triển. Đương số trưởng thành khá sớm, cơ năng tính dục rất tốt, cơ thể cường tráng, đào hoa bám vào người đối tượng phần nhiều là người đã kết hôn. Thích hợp mở tiệm buôn bán, không nhất định phải hợp tác. Nếu Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung mệnh, là ý tượng: trưởng thành sớm, nhiều dục tình, trước khi kết hôn phần nhiều đã có quan hệ ở chung như vợ chồng, dễ có hai lần phối ngẫu, cơ thể khỏe mạnh, xuất ngoại vất vả. Nam mệnh chủ về có nhị phòng, nữ mệnh chủ về có hai lần hôn nhân.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung thiên di:

Con cái có tính lười biếng, hướng ngoại, thích đi đó đi đây, ra ngoài cát lợi, rất có duyên với người chung quanh, gặp nhiều quý nhân, thường có cơ hội viễn du, phần nhiều sẽ đi xa kiếm tiền. Đương số rất có duyên với người khác giới, nếu có đào hoa thì thuộc loại hưởng thụ tinh thần, ưa phong hoa tuyết nguyệt, người phối ngẫu đối xử tốt với Đương số. Đương số không có tổ nghiệp, là mệnh cách tự lập. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung quan lộc, là ý tượng: vì có đào hoa ờ bên ngoài mà li hôn. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, là ý tượng: có quan hệ ở chung như vợ chồng, nhưng không muốn sinh con.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc:

Con cái có tính hướng ngoại, rất dễ thân thiện với người khác, có nhiều bạn bè, đối đãi bạn bè rất tốt, nhưng cũng dễ bị người ta giật tiền, giật nợ. Rất thích hợp làm công việc quan hệ công cộng, ngoại giao, cũng thích hợp buôn bán bách hóa, nghệ thuật biểu diễn. Đương số là người thích vui chơi giải trí, thích hưởng lạc, muốn kiếm tiền phải thù tạc trước, có thể làm việc trong ngành giải trí. Nhiều đào hoa, rất có duyên với người khác giới, nếu có đào hoa, tình nhân ở bên ngoài, đối tượng phần lớn là người chưa kết hôn, mà còn chú trọng quan hệ tính giao. Nữ mệnh dễ thành người phong trần hoặc lấy đào hoa làm nghề nghiệp. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, là ý tượng: gặp dịp thì vui chơi đào hoa, do đó vợ chồng hay cãi vã. Có hành vi luyến ái với đối tượng chưa kết hôn, tình nhân ở bên ngoài của Đương số nặng quan hệ tính dục.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung quan lộc:

Con cái thông minh, xem trọng sự nghiệp, lúc còn đi học có thành tích khá tốt, lúc đi làm việc cũng có nhiều cơ hội, vừa ý, lương cao, thăng tiến nhanh, cũng có thể tay trắng làm nên, tự lập cơ nghiệp, nhưng cũng thường hay thay đổi việc làm, có thể thành tựu; có thể kiếm được tiền liên quan đến đào hoa như tổ chức du lịch, quán cà phê, v.v…; thích hợp hợp tác làm ăn, nhưng sức khỏe kém, cần chú ý thói quen ăn uống không đúng cách. Bên ngoài có thể có quan hệ ở chung như vợ chồng, hoặc là vợ chồng không có danh phận chính thức, nhưng đối xử tốt với người phối ngẫu; chú ý sức khỏe của con cái. Nếu đồng thời Cung Tử Tức tự Hóa Kị thì vợ chồng hay cãi vã, nhưng, không li hôn. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung thiên di, là ý tượng: vợ chồng không hợp nhau, trước khi kết hôn đã ở chung như vợ chồng với người khác; cũng chủ về không nên kết tóc.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch:

Con cái sẽ lo cho gia đình, sinh hoạt gia đình vui vẻ, xem trong tiền bạc, sẽ dành dụm tiền vì gia đình, mua bất động sản. Đương số thích hợp công việc liên quan đến bất động sản, nên hợp tác hoặc đi xa làm ăn, sau khi có con, gia vận sẽ tốt hơn, Đương số trưởng thành sớm, có duyên với người khác giới, chú trọng sinh hoạt tính giao hơn tiền bạc, nhiều đào hoa, đối xử tốt với người phối ngẫu. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phu thê, là ý tượng: có nhiều quan hệ ở chung như vợ chồng ở bên ngoài, hơn nữa phần nhiều đối tượng là những người đã có gia đình; thường xuất ngoại đi công tác, hoặc hợp tác làm ăn.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức:

Con cái có phúc khí để hưởng, độ lượng, xem trọng hưởng thụ, thích động não, không thích lao động chân tay, kiếm tiền khá dễ. Nếu Đương số hợp tác có thể kiếm được tiền, rất có duyên với người khác giới, dễ có tình nhân ở bên ngoài, thường tiêu xài tiền vào chuyện hưởng thụ đào hoa. Nếu chuyển phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu, nữ mệnh có thể bán thân để kiếm tiền, sinh hoạt tính dục quá độ khiến cơ thể cũng không được khỏe.

Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập cung phụ mẫu:

Con cái hiếu thuận, quan hệ tốt với bậc trường bối, cấp trên, có thể được họ yêu quý, quan tâm. Lúc còn đi học có thành tích tốt, là cách cục làm doanh nhân, nhân vật thuộc cấp chủ quản. Đương số rất có duyên với người khác giới, ở bên ngoài giao du nhiều bạn bè khác giới. Thích hợp mở tiệm làm, làm mậu dịch, cũng có thể hợp tác nhưng phải cẩn thận. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, là ý tượng: cha mẹ đa tài; Đương số ở bên ngoài có nhiều đào hoa, có duyên với người khác giới. Nữ mệnh phần nhiều làm nhị phòng, nam mệnh phần nhiều có đối tượng đào hoa là người đã từng có gia đình.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền:

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung mệnh:

Con cái thông minh, có tài năng, lí tưởng cao xa, yêu cầu cao ờ bản thân, tư tưởng dễ cực đoan, thích nắm quyền, cố chấp, ưa ra oai, xem trọng sự nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, sẽ có thành tựu, nhưng cũng dễ chuốc thị phi. Đương số có nhiều đào hoa, thường dẫn đến tình trạng rắc rối, khó xử về tình cảm. Nữ mệnh dễ bị khinh bạc, dễ bị cưỡng bức, buổi tối ra ngoài phải cẩn thận.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung huynh đệ:

Con cái thường có thái độ ra oai, phách lối với bạn bè, xã giao kém, phạm vi quen biết qua lại rất hẹp, cũng ưa can thiệp vào chuyện của anh chị em, anh em thường xảy ra tranh cãi, nhưng tình cảm anh em không bị ảnh hưởng. Thích hợp với sinh nhai bằng nghệ thuật biểu diễn hoặc công việc có tính chất tiếp xúc nhiều với quần chúng, ở nơi đông đúc, náo nhiệt. Công tác hoặc công việc làm ăn của Đương số cần phải thù tạc nhiều, kiếm được tiền, cũng có thể hợp tác với người khác, lúc hợp tác có thể nắm quyền. Nếu Đương số có đào hoa, dễ phát triển thành quan hệ thân mật nhục thể.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung phu thê:

Con cái cá tính cương cường, cố chấp, ưa tranh luận, không dễ tiếp nhận ý kiến của người khác, hơi khó dạy nhưng hiếu thảo, cần lưu ý sức khỏe và cơ thể của chúng, dễ bị ngoại thương, cũng dễ bị bệnh đau eo lung. Đương số có tình yêu theo kiểu sét đánh, mới gặp đã yêu, kết hôn chớp nhoáng; sau kết hôn, sẽ có người thứ ba xen vào hôn nhân của hai người, xảy ra nhiều thị phi rắc rối, có người quyến rũ hay dụ dỗ người phối ngẫu; nam mệnh cũng muốn có nhị phòng; Đương số có thể tự sáng lập cơ nghiệp, nếu đi làm hưởng lương sẽ thăng tiến dễ dàng; làm cổ đông, hoặc hợp tác vói người sẽ dễ xảy ra tranh chấp.

Cung Tử Tức tự Hóa Quyền:

Đương số nhất định sẽ có con, nhưng có hiện tượng khó sinh hoặc phải sinh mổ, con cái cá tính cương cường, hiếu động, khó dạy, dễ bị ngoại thương, phản ứng mẫn tiệp, có tài năng, ưa tranh cường hiếu thắng, thường không giữ được bình tĩnh, dễ xung động, nhưng thiếu nghị lực. Lúc Đương số giao du với người khác giới, hoặc có tình nhân ờ bên ngoài, có đào hoa, muốn chia tay thường sẽ có phiền phức, rắc rối.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung tài bạch:

Con cái giao du với người khác sẽ có tác phong của kẻ mạnh. Đương số lấy cái tôi làm trung tâm, nhưng anh em kiếm tiền nhiều hơn; Đương số có năng lực kinh doanh tài chính rất tốt, thích vận dụng tiền bạc một cách linh hoạt, không thích gởi tiết kiệm để kiếm lời, ưa đầu tư sáng lập cơ nghiệp, cũng thích đầu cơ; nếu đi làm hưởng lương, cũng có thể nắm quyền về tài vụ; nên hợp tác với người khác, vừa ra vốn vừa ra sức lực; nếu Đương số hợp tác làm ăn với người khác, thường sẽ nắm về kĩ thuật và ra vốn nhiều hơn, không ngừng mở rộng đầu tư.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung tật ách:

Con cái có cá tính mạnh, nghịch ngợm hiếu động, không chịu nghe lời khuyên của người khác, có chủ kiến, hay chống đối bậc trường bối, có thể lực tốt, dễ xảy ra sự cố té ngã bị thương. Đương số trưởng thành sớm, rất có duyên với người khác giới, có nhu cầu tính dục nhiều, dễ bị người ta qụyến rũ hay dụ dỗ quan hệ tính giao. Đương số thích hợp mở tiệm, buôn bán làm ăn, không nhất định phải hợp tác. Nếu đồng thời Cung Tử Tức tự Hóa Kị, cơ thể của con cái dễ bị thương hổn, khó dạy; nữ mệnh dễ bị cưỡng bức, trưởng thành sớm, tính dục mạnh, dễ có hiện tượng khó sinh hoặc dùng phẫu thuật.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung thiên di:

Con cái ra ngoài ưa biểu hiện “cái tôi”, thích cạnh tranh với người khác, cũng thích làm nhân vật lãnh đạo, được người ta kính trọng; có lúc vì quá bành trướng “bản ngã” mà chuốc thị phi; con cái cũng hay có ý kiến với Đương số, nhưng vẫn hiếu thảo. Đương số bôn ba ở bên ngoài, gặp nhiều cạnh tranh, trải gió dầm sương, cũng thường phải dời chuyển chỗ ở; thích hợp với công việc ngoại vụ.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung nô bộc:

Con cái đối đãi với người khác sẽ ở thế mạnh, tích cực, thích cạnh tranh với người khác, cũng ưa lãnh đạo người khác, giao du bạn bè có chọn lựa, thích bạn bè có năng lực, ở tầng lớp cao, có thể nâng địa vị của mình lên, đối với bạn bè rất trung thành, thích kiếm tiền, có tiền sẽ sáng lập cơ nghiệp mà không tính đến hậu quả, thích hợp với những nghề nghiệp ở nơi đông đúc, náo nhiệt, ví dụ cửa hàng bách hóa, khu resort, khu vui chơi giải trí, nghệ thuật biểu diễn… Nếu Đương số làm ăn, muốn kiếm tiền thường phải giao tế thù tạc; cơ năng tính dục khá mạnh, đòi hỏi nhiều chuyện tính giao, khá chủ động.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung quan lộc:

Con cái ưa cạnh tranh, không chịu thua, phản ứng lanh lẹ, có năng lực, học giỏi, làm việc tích cực và có nỗ lực, yêu cầu cao ở bản thân, đi làm dễ thăng tiến, cũng có thể làm chủ sáng lập cơ nghiệp. Đương số nên chú ý sức khỏe con cái; thích vui chơi đào hoa ở bên ngoài, không mang về nhà; nhân viên của Đương số phần nhiều là người có tài; Đương số cũng có thể hợp tác làm ăn, thuê người làm, sự nghiệp sẽ thành tựu.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung điền trạch:

Con cái ở nhà ưa phách lối, hiếu động; sẽ có quyền thế, tương lai cũng sẽ mua tậu được bất động sản, cũng có thể kinh doanh làm ăn liên quan đến bất động sán. Đương số rất có duyên với người khác giới, nếu có đào hoa sẽ khá chủ động; Đương số đối xử tốt với người phối ngẫu, nhưng bị áp lực. Đương số ra ngoài nỗ lực làm việc, được khẳng định; nếu hợp tác làm ăn, sẽ gặp cạnh tranh nhưng có thành quả; có thể xuất ngoại tung hoành.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyền nhập cung phúc đức:

Con cái có tài quản lí tài chính, biết kiếm tiền, ưa sự nghiệp đầu cơ, có sở học chuyên sâu; xem trọng hưởng thụ, khá phô trương,tiêu tiền rộng rãi. Sau kết hôn đòi hỏi nhiều ở người phối ngẫu về chuyện tính giao, dễ xung động tính dục, nên phòng quá độ sẽ tạo thành áp lực nơi người phối ngẫu; có con nam ít nữ nhiều. Đương số có thể hợp tác làm ăn với người khác để kiếm tiền. Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu, nữ mệnh có thể bán thân để kiếm tiền, sinh hoạt tính dục quá độ, sức khỏe không tốt.

Cung Tử Tức phi Hóa Quyên nhập cung phụ mẫu:

Con cái hiếu động, thường ra ngoài; có thể chất kém, cơ thể dễ bị ngoại thương, ư cãi lí, thường có ý kiến không hợp với cha mẹ và bậc trưởng bối, nhưng vẫn hiếu thảo với cha mẹ, được bậc trưởng bối khẳng định; rất nỗ lực học hành thi cử, có thành tích tốt. Đương số dễ xung động tính dục; nếu hợp tác làm ăn với người khác, sẽ khá vất vả, chịu áp lực, nhưng có thể phát triển.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa:

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung mệnh:

Con cái đối xử vui vẻ với nhau, có lí tính, hòa hợp, ít xảy ra tranh chấp; con cái có thái độ tốt, dễ dạy. Đương số rất có duyên với người khác giới, lúc giao du với bạn bè khác giới rất chú trọng tình cảm, thường là do giới thiệu mà đến; Đương số là người phong nhã, có phong độ; hợp tác làm ăn có thể kiếm tiền, không nhiều nhưng đều đặn.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung huynh đệ:

Đương số có thể hợp tác làm ăn, tài chính bình ổn; công việc làm ăn thường dựa vào thương hiệu hoặc nhờ người ta giới thiệu, giúp đỡ, kiếm được tiền mà không cần phải giao tế thù tạc; đào hoa có hiện tượng thương yêu, chăm sóc sức khỏe cho Đương số. Anh em phong lưu, rất có duyên với người khác giới. Con cái đối xừ vui vẻ, hiền hòa với anh em bạn bè của Đương số, dùng tiền có kế hoạch, không lãng phí.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung phu thê:

Con cái với người phối ngẫu của Đương số có tình cảm rất tốt, không có sự ngăn cách giữa hai đời, công việc hay sự nghiệp của chúng bình ổn, hôn nhân thường là do người khác giới thiệu mà thành. Người phối ngẫu của Đương số rất có duyên với người khác. Sau kết hôn vẫn giao du với bạn bè khác giới. Đương số sau khi có con, công việc hay sự nghiệp đều thuận lợi hơn; cần chú ý sức khỏe của con cái; nam mệnh muốn có nhị phòng, có đào hoa phong tình.

Cung Tử Tức tự Hóa Khoa:

Con cái thanh tú, thông minh, rất có duyên với người chung quanh, có phong độ, hiền hòa lễ độ, có khí chất, có tài văn nghệ. Đương số rất có duyên với người khác giới, lúc giao du với bạn bè khác giới, rất ôn hòa, vui vẻ, chú trọng lễ nghĩa; nếu có đào hoa sẽ giao du thiên về phương diện tinh thần, nhung cũng sẽ gây ra phiền phức, rắc rối; tính hơi chuộng hư vinh, thích được người khác khen ngợi; nếu có hợp tác làm ăn cũng không lớn lắm.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung tài bạch:

Con cái dùng tiền có kế hoạch cân đối thu chi, tính toán rõ ràng, thu nhập ổn định, thường thường thuộc nhóm người đi làm hưởng lương, có thái độ hiền hòa với mọi người. Đương số rất có duyên với người khác giới, sẽ giao du với nhiều bạn bè khác giới, nhưng thiên về phương diện tinh thần, đào hoa chi ở cái miệng; Đương số nên hợp tác với người khác, mở tiệm làm ăn sẽ hưng vượng.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung tật ách:

Con cái có thể chất tốt, ít khi mắc bệnh nặng, có bệnh cũng dễ chữa. Đương số ra ngoài, thân tâm vui vẻ; nếu gặp cảnh khó khăn, có thể được quý nhân tương trợ; xuất ngoại có quý nhân trợ giúp, gặp tai ách được cứu; giao du với người khác giới khá chú trọng cảm giác, thích lãng mạn; nặng duyên với người khác giới; mở tiệm, làm ăn buôn bán, không nhất định phải hợp tác, sẽ không đầu tư lớn, tuy không kiếm được nhiều tiền, nhưng rất bình ổn.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung thiên di:

Con cái ra ngoài cát lợi, gặp nhiều quý nhân, có thanh danh. Đương số ra ngoài cũng gặp nhiều quý nhân, hiếm khi gặp tai ách, gặp tai ách thì được cứu; nhân viên cùa Đương số phần lớn đều giúp Đương số; hợp tác làm ăn ờ bên ngoài rất có tiếng tăm; Đương số rất có duyên với người khác giới, có đào hoa ở bên ngoài.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung nô bộc:

Con cái giao du hiền hòa với bạn bè, bạn bè không nhiều, nhưng có trợ lực, phần nhiều đều là người lễ độ. Đương số sống với người phối ngẫu chú trọng bầu không khí tao nhã đầm ấm; hai người đều có duyên với người khác giới; có thể hợp tác, nhờ bạn bè trợ lực mà kiếm được tiền, mà không cần tốn tiền giao tế thù tạc.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung quan lộc:

Con cái ưa yên tĩnh, văn nhã, hiếu học, có tài, thành tích ở trường rẩt tốt; lớn lên dễ có tiếng tăm; chuyên tâm làm việc, xử sự hòa hợp với bạn học, đồng sự, đồng nghiệp; dễ được cấp trên trọng dụng, có thể làm việc trong lãnh vực văn hóa, giáo dục, hoặc nghề nghiệp có tính phục vụ. Đương số có thể hợp tác làm ăn, kinh doanh thuận lợi, nhưng không làm lớn; sau kết hôn ở bên ngoài vẫn rất có duyên với người khác giới; là đào hoa ở bên ngoài, không mang về nhà.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung điền trạch:

Môn phong gia giáo tốt đẹp, con cái hiền hòa, lễ độ, có thể lo cho gia đình, cuộc sống gia đình vui vẻ. Đương số ở bên ngoài luôn nghĩ về gia đình, đối xử tốt với người phối ngẫu; rất có duyên với người khác giới, hợp tác làm ăn kinh doanh khá bình ổn, dễ có thanh danh; nếu gặp khó khăn trắc trở, có thể ứng phó hợp cách, hoặc được gia đinh giúp sức chống đỡ, giải trừ nguy cơ.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung phúc đức:

Con cái có tâm tình cởi mở, tư duy ổn định, có công phu tu dưỡng về văn nghệ, có thị hiếu thanh nhã, giỏi quản lí tài chính, lập kế hoạch, làm ăn khó có chuyện thua lỗ lớn, giỏi tích lũy. Người phối ngẫu giỏi quản lí gia đình. Đương số có thể hợp tác để tạo dựng sự nghiệp, có kế hoạch chu đáo, vận kinh doanh bình thuận; sau kết hôn Đương số có thể sẽ có hồng nhan tri kỉ, bạn tinh thần.

Cung Tử Tức phi Hóa Khoa nhập cung phụ mẫu:

Gia đình vui vẻ, con cái hiếu thuận, dễ được bậc trưởng bối hoặc cấp trên đề bạt, nâng đỡ; vận thi cử không tệ, học hành hay đi làm đều có thành tích tốt, nên làm việc trong cơ cấu lớn, hoặc cơ cấu công, cơ cấu văn hóa giáo dục; nếu có đào hoa sẽ chú trọng bầu không khí tao nhã, phần nhiều giao du thiên về tinh thần hoặc có nhiều ảo tường. Đương số thu nhập ổn định.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị:

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung mệnh:

Có con cháu nhưng không nhiều, dễ có sự ngăn cách giữa hai đời nhưng con cái hiếu thuận, con cái có tính tiết kiệm, ỷ lại khá nặng, thiếu tự tin. Đương số thường bôn ba vất vả ở bên ngoài, nhưng không thuận lợi, dễ có tai kiếp; nếu hợp tác làm ăn, vận kinh doanh không được tốt; Đương số dùng tiền lãng phí, công ti dễ phá sàn, sập tiệm; có kiếp số hợp tác không thuận lợi; một đời nhiều đào hoa, thuộc loại bị động, có bất hòa, tranh chấp, phiền phức, rắc rối trong vận đào hoa, duyên khởi duyên diệt, phần nhiều có hai lần hôn nhân hoặc ở rể; nữ mệnh dễ bị dụ dỗ; có hiện tượng kết hôn muộn, khó kết hôn, ờ chung như vợ chồng mà không có danh phận.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ:

Con cái phần nhiều đều có thái độ không tốt với anh em bạn bè, không có bạn bè tri kỉ, dễ có tranh chấp với người khác, qua lại tiền bạc càng dễ xảy ra chuyện không hay.

Đương số trước 40 tuổi không nên hợp tác với người khác, tài chính dễ bị tổn thất; có tượng ra nước ngoài định cư, thường đi nước ngoài; giữa vợ chồng, sinh hoạt tính giao không hòa điệu. Đương số có tính chuộng hư vinh, phong lưu tao nhã, thường ở bên ngoài ăn uống vui chơi hưởng thụ; nếu có đào hoa phần nhiều là đào hoa phải tốn tiền, đối tượng thường là người trẻ tuổi, chưa kết hôn, dễ hư thai.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phu thê:

Vợ chồng Đương số vì nguyên nhân sinh lí hoặc tâm lí mà không sinh con, cũng có hiện tượng có sinh nhung khó dưỡng. Con cái có tính ỷ lại, lúc nhỏ đeo dính cha mẹ, sự nghiệp phát triển không thuận lợi, thành tích học tập không được tốt, tình cảm không thuận lợi, nên kết hôn muộn.

Đương số sau kết hôn, dễ có đào hoa phiền phức, dễ có hai lần hôn nhân; bản thân có tình nhân ở bên ngoài, nhưng cuối cùng chẳng có kết quả; đối tượng đào hoa thường đã kết hôn, đối tượng giao du ở tầng lớp không cao; khó kết hôn; bên ngoài có quan hệ ở chung như vợ chồng, hoặc vợ chồng không có danh phận chính thức; không thể hợp tác.

Nam mệnh thường có quan hệ đào hoa với phụ nữ đã có chồng hoặc đồng sự; con cái khó nuôi. Nếu cung phu thê chuyển phi Hóa Kị nhập Cung Tử Tức, đối tượng làm nhị phòng là người đã kết hôn; sinh hoạt tính dục không hòa hợp. Đương số không nên hợp tác làm ăn, sẽ có nguy cơ.

Cung Tử Tức tự Hóa Kị:

Ít con cái, con cái khó nuôi dưỡng, sinh đẻ không được thuận lợi, dễ bị lưu sản, hoặc phải sinh mổ; tâm trạng của con cái không ổn định, thiếu tự tin, tính thẳng thắn nên lời nói dễ làm người khác bị tổn thương, nhưng có tính thương người, cũng quan tâm lo lắng cho người khác. Đương số ít có đào hoa, hơi khó kết hôn, cũng khó có người yêu; nếu giao du với người khác giới thường sẽ bị phá tài; cuộc sống gia đình không được yên ổn; sau kết hôn nếu có tình nhân ờ bên ngoài, thường không lâu, không giữ được, mà còn bị phá tài, gặp phiền phức, rắc rối.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung tài bạch:

Con cái ít bạn bè, không giỏi giao lưu với người khác, tính thẳng thắn, nói không lựa lời nên dễ gây ra tranh cãi, ít bạn bè, tình cảm không thuận lợi, mà thường theo đuổi tiền bạc, vì tiền mà bôn ba, ít hưởng phước, tâm thần không yên ổn. Con cái sẽ phụng dưỡng Đương số. Đương số không nên hợp tác làm ăn với người khác, kiếm không được tiền, dễ bị phá sản, sập tiệm; đầu tư lỗ vốn mà còn gặp chuyện không vui, phạm tai ách tiểu nhân, tổn tài, hao tài vì bạn bè; thường có quan hệ đào hoa trao đổi bằng tiền bạc; nữ mệnh dễ làm

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung tật ách:

Con cái có thể chất yếu, tình cảm bạc bẽo, dễ tâm trạng hóa, số khá vất vả; dễ có ý kiến không hợp với cấp trên, khó được đề bạt, nâng đỡ, vận thi cử kém; con cái bất hiếu; dịch mã, lang bạt tha hương, không nên hợp tác, có tượng bị giảm bớt, tổn thất.

Vợ chồng Đương số sinh hoạt tính giao không hòa điệu; đào hoa đeo theo người, tính dục mạnh; nếu Đương số có đào hoa, sẽ thiên nặng nhục dục, đối tượng thường là quả phụ hay phụ nữ lớn tuổi; nữ mệnh dễ bị khinh bạc, dễ ngoại tình, li hôn.

Đương số di truyền bệnh tật cho con cái; không con trai, có cũng khó nuôi; nếu có hợp tác làm ăn, sẽ khá vất vả, dễ gặp phiền phức, rắc rối, thậm chí là phạm quan phi, do đó mà gây ra tổn thất; thường có dịch mã viễn du tha hương.

  • Nếu cung tật ách chuyển phi Hóa Kị quay lại nhập Cung Tử Tức, là ý tượng: nghèo đói, đối tượng là người đã kết hôn hoặc lớn tuổi.
  • Nếu cung tật ách chuyển phi Hóa Kị nhập cung tài bạch, là ý tượng: dùng tiền mua đào hoa, hoặc kiếm được tiền liên quan đến ngành giải trí. Nếu cung tật ách chuyển phi Hóa Kị nhập cung nô bộc, là ý tượng: có đào hoa, đối tượng là người chưa kết hôn.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung thiên di:

Con cái nên rời gia đình sớm, ra ở riêng, phần nhiều không có con trai, có cũng khó nuôi, hoặc có con trai cũng như không, vì lớn lên sẽ đi xa, ít gặp Đương số. Đương số không có đào hoa (bản tính không thích), không nên hùn hạp trong sự nghiệp; không được “chơi hụi”, cũng không nên làm người bảo đảm, nếu không sẽ có tổn thất lớn; thường bôn ba các nơi, rất ít khi định cư một chỗ, phải thuê nhà ở.

Nếu đồng thời Cung Tử Tức phi Hóa Lộc nhập tam phương của Cung Tử Tức, là ý tượng: không có duyên với con trai. Nếu cung phu thê tự Hóa Kị, là ý tượng: sinh con gái nhiều hơn. Nếu cung mệnh hoặc cung thiên di cũng tự Hóa Kị, là dễ hư thai, có con gái nhiều hơn; Đương số có tượng dịch mã, ra nước ngoài, nên phòng sự cố giao thông.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung thiên di xung cung mệnh, là ý tượng: không nên hợp tác với bạn bè, sẽ bất lợi đối với Đương số.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung nô bộc:

Có con cái, con cái có thể tự kiếm tiền để tiêu xài, giữa con cái với nhau thường có chuyện không hợp nhau; con cái ít có bạn bè, có cũng không lâu dài, rất quan tâm lo lắng cho bạn bè, nhưng bạn bè lại không trợ lực, nếu qua lại tiền bạc với bạn bè, sẽ bị tổn thất.

Con cái không thích anh em bạn bè của Đương số, cũng không hòa hợp với thành viên trong gia đình. Đương số thường tụ họp bạn bè ăn uống vui chơi, hưởng lạc đào hoa. Có tượng ra nước ngoài định cư, hoặc thường đi nước ngoài; thuộc về đào hoa ăn chơi, đối tượng là người trẻ tuổi; không thể hợp tác, muốn hợp tác phải sau 40 tuổi (giống như trường hợp cung từ nữ phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ).

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung quan lộc:

Con cái không thích học hành, thành tích kém, thường thường không nắm được mấu chốt sự việc, thích hợp đi làm hưởng lương. Đương số không nên hợp tác làm ăn, làm việc vất vả mà còn dễ bị phá sản. Đương số có bệnh kín về chức năng tính dục, sinh hoạt tính giao khó thỏa mãn; khó kết hôn; nếu có đào hoa tình nhân ở bên ngoài, đối tượng thường là phụ nữ đã có chồng hoặc trong nghề nghiệp. Hành hạn đến cung này, công việc làm ăn dễ bị phá sản, sập tiệm. Nếu cung quan lộc chuyển phi Hóa Kị nhập Cung Tử Tức, là ý tượng: nhà vàng giấu mĩ nhân.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung điền trạch:

Con cái tiêu xài tiền của Đương số, quan tâm gia đình, không thích ra ngoài, thường xảy ra tranh chấp với người nhà. Đương số có duyên bạc với con cái, ít con, có thể nhận con nuôi. Bất kể Đương số có thích hay không, cũng thường phải bôn ba ở bên ngoài, tiêu xài nhiều tiền ở bên ngoài, dễ bị trộm cắp; không nhất định sẽ có đào hoa, nếu có giao du đào hoa cũng không lâu, không giữ được; có quan hệ ờ chung như vợ chồng trước khi kết hôn, mang đào hoa về nhà.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phúc đức:

Con cái có bụng dạ hẹp hòi, dễ xung động, tư tưởng khá cực đoan, tâm thần không yên ổn, hay đâm đầu vào những chuyện không giải quyết được, bình thường lười biếng, tính tình không cởi mò, nhưng cũng có thể vất vả vì người khác mà không than oán, ưa hưởng thụ, không giữ được tiền, tiêu xài tiền của Đương số, tài sản cùa Đương số sẽ để lại cho con cái. Đương số không nên hợp tác, hợp tác rẩt khó kiếm tiền; nếu có đào hoa, phải dùng tiền mua.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phúc đức xung cung tài bạch, là ý tượng: nếu Đương số hợp tác với bạn bè, bản thân bạn bè sẽ bị bất lợi.

Cung Tử Tức phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu:

Con cái thiện lương, không làm chuyện xấu, trực tính, hiếu thuận với cha mẹ, sức khỏe của con cái không tốt, nhiều bệnh đau, vận khí kém; không được bậc trường bối nâng đỡ.

  • Nữ mệnh thường khó sinh, hoặc sau khi sinh con cơ thể không được khỏe, hoặc ít con cái.
  • Nữ mệnh nếu là Văn Xương Hóa KỊ hay Liêm Trinh Hóa Kị ờ cung phụ mẫu, là ý tượng: phải sinh mỗ; có bệnh kín về tính dục. Hành hạn đến cung này, là tượng bị giảm bớt, tổn thất; dịch mã, lang bạt tha hương.

Nếu cung phụ mẫu chuyển phi Hóa Kị nhập Cung Tử Tức, là ý tượng: tinh trùng loãng; xuất ngoại có tai ách, sự cố về con cái, hoặc giải thể việc hùn hạp, hợp tác (lấy tình hình phi Hóa Lộc để quyết định).

Ảnh hưởng của các sao phụ tinh

Lộc Tồn ở Cung Tử Tức

Chủ về vợ lẽ, vợ hai sinh con trai đắc lực, hữu dụng. Con cái tính tình cẩn thận, giỏi giữ tiền. Gặp sát tinh thì chủ về keo kiệt, bủn xỉn.

Thiên Mã Cung Tử Tức

Chủ về xa con cái. Gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, con cái nên ra nước ngoài phát triển. Gặp “Tam Hóa”, con cái ắt phát đạt.

Thiên Mã hội tứ sát, các hình tinh, kị, chủ về con cái không phụng dưỡng cha mẹ. Nếu gặp thêm Thiên Hình thì nhiều nạn tai tật bệnh.

Sao Tả Phù Hữu Bật ở Cung Tử Tức

Chủ về con cái đắc lực, có thể làm hưng gia nghiệp. Cũng chủ về nhiều con cái.

Văn Xương, Văn Khúc ở Cung Tử Tức

Chủ về con cái thông minh, phát đạt, thành tích học tập tốt.

Văn Xương, Văn Khúc hội sao cát, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về quý hiển.

Văn Xương, Văn Khúc gặp tứ sát, chủ về con cái dễ có tính thiếu thực tế.

Sao Thiên Khôi, Thiên Việt ở Cung Tử Tức

Chủ về con cái có thể trở thành sang quý, tính cách trưng hậu, tuổi già có thể nương nhờ con cái. Nếu gặp các sao sát, hình, thì con cái thích theo tà đạo.

Hỏa Tinh, Linh Tinh Cung Tử Tức

Chủ về cô độc, tính nóng vội. Nhưng nếu nhập miếu thì trung hậu. Gặp các hình tinh, kị nặng thì chủ về bị tổn thương, tàn tật thân thể.

Kình Dương, Đà La Cung Tử Tức

Chủ về “hình”, chủ về cô độc. Nếu hội hợp với các sao có tính hiếu động, trôi nổi, thì tính cách dễ thành giả dối, xảo trá. Nếu có các sao sát, kị nặng thì chủ về bất hiếu.

Địa Không, Địa Kiếp Cung Tử Tức

Nếu có Địa Không, Địa Kiếp và Hóa Kị hội hợp Cung Tử Tức, e rằng tuyệt tự. Nếu có sao cát hóa giải, có con trai phần nhiều cũng yểu mệnh, chủ về vợ lẽ hoặc vợ hai sinh con trai, cũng có thể xin con nuôi

Cách xem Cung Tử Tức – Theo báo Khoa Học Huyền Bí

Cách xem Cung Tử Tức - Theo báo Khoa Học Huyền Bí

Xin nói ngay rằng cung Tử Tức là một trong các cung mà sự giải đoán thiếu sự chính xác (khác với sự chính xác của các cung Mệnh, Thân, Tài, Di …).

Nhưng cũng nên nói ngay rằng sự chính xác của cung Tử Tức chỉ nằm trong những yếu tố rất đại cương. Ví dụ như có những sao xấu nào đó, là không con, hoặc được những cách tốt khác, là người nhiều con. Sự ít con hay hay nhiều con cũng như con thành đạt hay không thành đạt, là những ý niệm rất tương đối. Trong 5 đứa con ra đời, thế nào cũng có đứa thành đạt và đứa không thành đạt.

Ngoài ra, số con cái cũng phải tùy theo cả hai vợ chồng. Một người số ít con, lấy một người có số nhiều con, sẽ thành ra thế nào? Nếu thêm một người hai vợ, hoặc một người hai ba chồng, thì phải xét khác. Nếu số cả hai người cùng một vợ một chồng thì cái sự nhiều con hay ít con tùy theo số của vợ hay của chồng lại phải tính khác.

Cũng bởi thế, khi tìm hiểu về con cái, phải có cả hai lá số vợ và chồng và phải biết rõ tình trạng hôn nhân (một vợ, nhiều vợ, người chồng lấy vợ kế, người vợ tái giá …)

Vị thế của cung Tử Tức

Con cái là một yếu tố quan trọng của hạnh phúc. Người không con, hoặc có con cái mà không ra gì, hoặc có con cái mà không nuôi được, là người thiếu hẳn hạnh phúc.

Bởi thế mà xem cung Tử Tức cũng phải xem Cung Phúc Đức. Cung Phúc Đức được coi là chỉ về sự thịnh vượng hay sự tán tụ của họ hàng (vả chăng, cung Phúc Đức cũng có ảnh hưởng chủ chốt vào cả 11 cung khác). Cung Mệnh, Thân cũng có ảnh hưởng. Nói chung, cung Phúc Đức tùy theo chính tinh tốt hay xấu, miếu vượng hay khắc hãm, mà chủ về gia đình đông đúc hay hiếm hoi, thì cái đó cũng chỉ về con cái. Ngoài ra cung Mệnh, Thân phải tốt, thì do đó mà số con tăng lên, sự nuôi con cũng dễ dàng và mình cũng được nhờ con. Nói cách khác là Cung Phúc Đức và Mệnh Thân tốt, thì tăng độ số của cung Tử Tức. Ngược lại, cung Tử Tức mà tốt, nhưng Phúc Đức lại xấu, Mệnh Thân cũng xấu. Thì phải cho rằng cung Tử Tức bị chiết giảm. Hoặc đương số được con cái tốt mà chẳng được hưởng, chẳng được con cái phụng dưỡng.

Tuy nhiên, cũng còn tùy theo kinh nghiệm. Như có người mạng số thật xấu, nhưng cung Tử Tức lại quá tốt. Người đó về già được hưởng sự phụng dưỡng của con cái. Có người cung Tử Tức thật xấu, kể như không con, thế mà nhờ Phúc Đức và Mệnh, Thân tốt, cũng thành có con.

Con Trai và con Gái

Có thể phân định trai nhiều hay gái nhiều bằng sự hiện diện của chính tinh tại Cung Tử Tức là Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh.

Nam đẩu tinh là: Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ. Cung Tử Tức có Nam đẩu tinh tọa thủ thì con trai nhiều hơn con gái.

Bắc đẩu tinh là: Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân. Cung Tử Tức có Bắc Đẩu tinh tọa thủ, thì con gái nhiều hơn con trai.

Nếu có 2 chính chinh tọa thủ, 1 là Nam đẩu tinh, 1 là Bắc đẩu tinh thì sao? Ảnh hưởng Nam đẩu tinh chia đều. Vậy phải xem cung Tử Tức là cung Dương thì con trai nhiều hơn. Nếu là cung Âm, thì con gái nhiều hơn.

Nếu là Tử Vi đồng cung với một chính tinh khác: Tử Vi lại là cả Nam và Bắc đẩu tinh, thì ảnh hưởng phân định trai gái không còn nữa. Vậy phải xét tính chất của chính tinh đồng cung kia. Nếu chính tinh đó là Nam đẩu tinh, thì sinh con trai nhiều hơn. Nếu là Bắc đẩu tinh, thì sinh con gái nhiều hơn.

Vấn đề con truyền tinh

Vấn đề này được nhiều người nhắc nhở đến và cho là một yếu tố quan trọng cũng như trường hợp vợ chồng truyền tinh.

Vợ chồng truyền tinh: Cung Thê của chồng có một bộ chính tinh nào, thì cung Mệnh của Vợ có đúng một bộ chính tinh đó. Hoặc ngược lại, cung Phu của vợ có bộ chính tinh nào thì cung Mệnh của chồng có bộ chính tinh đó. Các bộ chính tinh như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, và không cứ phải đúng chinh tinh tọa thủ tại cung. Cung Mệnh của vợ có Liêm Trinh, cung Thê của chồng có Thất Sát, và cả hai cung cùng có bộ Sát Phá Liêm Tham, Thế cũng là truyền tinh.

Con truyền tinh: Cung Tử Tức của đương số có chính tinh hay bộ chính tinh nào đó, xem cung Mệnh trong lá số đứa con. Nếu cũng có chính tinh hay bộ chính tinh đó, thì đó là đứa con truyền tinh. Đứa con truyền tinh là đứa con sau này có nhiều liên quan với mình. Như sau này nó chăm lo phụng dưỡng cho mình, hoặc là sống chung với mình, ở gần mình, hoặc cũng có thể là mình phải chăm sóc cho nó. Không hẳn phải là như vậy có nghĩa là các đứa con khác không có hiếu với mình. Cũng có thể có những đứa con không phải là truyền tinh cũng có hiếu với mình, nhưng chúng vì hoàn cảnh mà ở xa thì chúng không thể chăm sóc đến cha mẹ theo lối sớm khuya thăm hỏi, thế thôi.

Vấn đề có mấy đứa con

Trong các sách Tử Vi, có ghi những cách chỉ dẫn số con trong mấy trường hợp. Ví dụ: Có chính tinh này miếu thì năm con, có chính tinh kia hãm thì một con, có sao xấu nọ thì “đến già không có tay bồng con thơ “.

Chúng ta chỉ có thể tin ở những cách đó một cách rất tương đối. Chưa kể rằng phải phối hợp các cách đó để “tạm đưa ra một đáp số về con”. Ngoài ra, lối đoán cũng không thể chính xác, là vì có những đứa con đẻ ra, mà có đứa sống được, có đứa hữu sinh vô dưỡng. Xét tuổi của đương số, nếu là tuổi đương độ sinh đẻ, chưa thể biết rõ đã đành. Nếu là người đã quá tuổi sinh (thí dụ 60 tuổi) thì số con cũng khó thể chính xác. Là vì ngày nay, những thanh niên, con cái của các ông bà lớn tuổi, chết một cách lãng xẹt, thì như vậy có kể cả không?

Có nhiều vị nổi danh về Tử Vi chủ trương rằng số con mình là số con mà mình nuôi được đến tuổi trưởng thành (18, 21 tuổi) chứ không phải là số con sinh ra (kể cả những đứa con chết yểu).

Nhiều vị nổi danh Tử Vi cũng chủ trương những nguyên tắc để giải đoán số con như sau:

Chỉ kể đến số con của hai vợ chồng chính thức (có hôn thú) và ở trường hợp một vợ một chồng, sống với nhau lâu dài thì phải tính như sau: ước lượng số chồng mấy con, ước lượng số vợ mấy con, đem cộng lại rồi chia hai. Thí dụ: Theo lá số chồng là 8 con, theo lá số vợ 2 con. Cộng lại rồi chia hai thì hai vợ chồng đó được 5 con. Trong Tử Vi các Cung Tài Bạch, Điền Trạch và Tử Tức của hai vợ chồng bù trừ cho nhau.

Có một ông bạn, cung Tử tức ở Dần, có Tham Lang, Bạch hổ, số con đến 16 đứa (phải chăng là con nhiều như hổ lang?)

Một người thường, không phải là thứ đại lãnh tụ, có Cung Tử Tức rất xấu là người không có con với người vợ duy nhất của mình. Nhưng nếu Cung Nô Bộc thật tốt, cũng có thể có nghĩa là người đó có những đứa con ngoại hôn với những nhân tình, vợ bé.

Hạn sinh con: Sinh Trai hay sinh Gái

Vận sinh con, cần nhất phải có sao Thai.

Gặp Tiểu vận mà có sao Thai và những hỷ tinh như Đào Hồng Hỷ, Sát Phá Liêm Đào, Nhật, Nguyệt. Thì có tin mừng sinh con. Sao Thai là quan trọng nhất.

Tuy nhiên, không có sao Thai ở Tiểu Vận. Sao Thai có thể đóng ở Đại vận, hay ở Nguyệt Vận. Vậy ta cộng chung các sao ở Đại Vận, Tiểu Vận, Nguyệt Vận, thấy có sao Thai và các bộ Hỷ tinh thì đó có thể vận tốt sinh con. Tuy nhiên, ở Đại vận và Tiểu vận mạnh hơn là ở Nguyệt Vận.

Còn sinh con Trai hay con Gái thì xem cung Tiểu vận báo hỉ. Có Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh. Gặp Nam đẩu tinh thì sinh Trai. Gặp Bắc đẩu tinh thì sinh Gái. Nếu gặp Tuần Triệt đóng ngay cung, thì ảnh hưởng ngược lại, Nam đẩu tinh sinh Gái, Bắc đẩu tinh sinh Trai.

Thay lời kết

Tóm lại, Cung Tử Tức dùng để luận đoán đường con cái của đương số như đương số có con hay không? Trai nhiều hay gái nhiều? Tình cảm giữa đương số và các con như thế nào? Con cái thành đạt hay bình thường, có hiếu thuận hay không…Tuy nhiên cũng như phương pháp luận đoán các cung vị khác. Khi luận đoán Cung Tử Tức, bạn đọc cũng không nên chỉ tập trung vào mỗi Cung Tử Tức mà phải nhìn rộng ra tam phương tứ chính của nó để cân nhắc lời luận đoán.

Cung Phu Thê – Luận giải, Xem Cung Phu Thê Vô Chính Diệu

0

Cung Phu Thê – Luận giải, Xem Cung Phu Thê Vô Chính Diệu

Cung Phu Thê trong lá số Tử Vi biểu hiện quan hệ vợ chồng, hình dáng vợ chồng. Đồng thời bộc lộ một số điều cơ bản về sinh hoạt vật chất và tinh thần của người chồng hay người vợ đương số.

(Tuvivietnam – Siêu Tầm)

Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào Hồng

Trai lấy vợ đẹp gái chồng giàu sang.

Sao Thai mà Ngộ Đào Hoa

Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng.

Vợ chồng viễn phối tha phương

Đào Hồng đối chiếu vào làng Thiên Di.

Phu cung Hóa Kị một mình

Tơ lòng chưa dứt mối tình đã lui.

Thiên Riêu bất chính cả đời

Liêm Trinh viễn phối ở nơi bần hàn.

Triệt Tuần ngộ Mã Hành thê vị

Vợ bỏ chồng Đào Tỵ tha hương.

Vợ chồng nay giận mai hờn

Phục Binh Hóa Kị nơi toà phu thê.

Vợ về có của muôn vàn

Ân Quang, Nguyệt Đức, Thái Dương, Mã Đồng

Ai mà Thiên Tướng, Đào Hồng

Ai mà Thiên Mã Lộc phùng Thanh Long.

 

Luận giải Cung Phu Thê

Việc luận giải Cung Phu Thê trong Lá Số Tử Vi rất là quan trọng. Bởi nó biểu thị mối quan hệ giữa đương số và người phối ngẫu. Sự nghiệp thành công hay thất bại. Cuộc đời thuận buồm xuôi gió hay trắc trở gập ghềnh. Tất thảy đều không thể bằng có được một người phối ngẫu tốt.

Nữ nhân có thể vì tình cảm mà Hi Sinh. Nam nhân có thể vì tình cảm mà lấy lại Đấu Chí

(*Đấu Chí – Ý chí phấn đấu trong cuộc sống)

Trong “Tam phương tứ chính”, Cung Phu Thê hội hợp với các cung: Cung Phúc ĐứcCung Quan Lộc và Cung Thiên Di. Cách bài bố này đặc biệt phù hợp với triết lý nhân sinh của đời người.

Sự nghiệp của một người, đương nhiên chịu ảnh hưởng của đời sống hôn nhân. Thiên Di có nghĩa là đi xa, là vợ chồng chia ly hay gặp gỡ nhau nơi đất khách quê người. Phúc Đức lại chủ về đời sống tinh thần của hôn nhân. Vợ chồng hòa hợp hay xung khắc, gần gũi hay xa lạ tất chịu ảnh hưởng từ cung này

Cho nên việc quan sát và luận đoán Cung Phu Thê. Cần phải xem xét kỹ các tinh diệu tọa thủ tại 3 cung Phúc Đức, Thiên Di và Quan Lộc. Tinh diệu từ 3 cung này, tất cũng chịu sự ảnh hưởng chi phối ngược từ Cung Phu Thê, điều này cũng là sự hợp lý

Bài viết chuyên sâu về Cung Phu Thê này. Ngoài việc phân tích tính chất của 14 Tinh hệ chính diệu khi nhập vào Cung Phu Thê. Còn trình bày thêm tính chất của lũ Phụ tinh, Tá tinh, Sát tinh… khi chúng cùng nhập vào Cung Phu Thê. Mọi người cần dung nhập những tính chất này với tính chất của các chính tinh để cân nhắc xem tình hình mạnh lên hay yếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa thế nào để đưa ra luận đoán.

Chẳng hạn “Thiên Cơ Cự Môn” chủ trước lúc hôn nhân có sóng gió trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt trôi nổi. Mà  tính chất của Lộc Tồn lại chỉ phu thê ân ái đằm thắm, duy có vấn đề là đương số dễ bị người phối ngẫu ức hiếp bắt nạt. Bởi vậy mà vợ chông li tán, phân ly. Trường hợp luận đoán, có thể tham khảo 2 tính chất này, phối hợp thêm vòng đại hạn hoặc lưu niên để xét đoán xem cụ thể xảy ra chuyện gì.

Có điều, khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem Cung Phu Thê. Mà còn nên xem thêm tinh hệ của cung mệnh, mọi người có thể tham khảo thêm phần này, đã được trình bày rõ ở các sao tương ứng. (Ví dụ Sao Thiên CơSao Thiên Lương)

Trong xã hội hiện nay, đời sống sinh hoạt hôn nhân giữa vợ chồng. Việc luận đoán không ngoài những vấn đề như tình cảm, tài năng, nhan sắc và tiền bạc. Thế sự rất khó toàn mĩ, tài năng và nhan sắc rất khó lưỡng toàn. Nhưng cũng không phải là không có khả năng tài năng, nhan sắc và tiền bạc đều có đủ. Cho tới trường hợp khi các phương diện đều hợp với lí tưởng, thì tình cảm thường thường lại dễ xảy ra thay đổi.

Cho nên đạo vợ chồng quý ở chỗ biết “Thấy vừa là đủ”. Những điều được trình bày ở bài viết này không những chỉ ra những hiện tượng quan trọng, mà còn gợi ý biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và thích ứng với cuộc sống hôn nhân. Hy vọng mọi người có thể lĩnh ngộ ra một đôi điều gì đó…

Cách xem Cung Phu Thê Tốt hay Xấu trong Lá Số Tử Vi

Để luận đoán xem hôn nhân có được mĩ mãn hay không. Ngoại trừ xem xét Cung Phu Thê. Cần phải đồng thời quan sát Mệnh, Thân. Sau đó đem cả 2 tính chất xem xét được tiến hành dung hòa, tổng hợp lại để luận đoán.

Lưu ý, đại hạn có Cung Phu thê đều cần phải xem xét cẩn thận để có thể nhìn ra được sự thay đổi trong quan hệ tình cảm vợ chồng. Thông thường, không nhất thiết phải sử dụng quan hệ giữa các tinh hệ tại đại hạn Mệnh Thân để hỗ trợ luận đoán, trừ khi xem xét bệnh tật

Muốn luận đoán về hôn nhân, tốt nhất là mang Lá Số Tử Vi của cả hai người nam và nữ ra quan sát một lượt. Miễn là chỉ cần cân nhắc cặn kẽ, tỉ mỉ thì có thể nhìn ra một số tình tiết.

Muốn xem Cung Phu Thê tối hay xấu, cần phải lưu ý một số nguyên tắc sau:

  • Nhiều cát tinh tụ hội chưa hẳn đã có lợi. Như Văn Xương Văn Khúc chủ được người phối ngẫu quan tâm chăm sóc, nhưng cũng có khả năng có tình nhân bên ngoài.
  • Hung tinh ác sát cũng chưa hẳn là không cát. Như Đà La chủ phối ngẫu phương xa. Nhưng nếu gặp Lộc Mã lại chủ tha hương phát tài, hơn nữa cảm tình phu thê có khả năng rất tốt đẹp.

Cho nên tất cần phải tử tế cẩn thận cân nhắc đắn đo

Tử Vi Cung Phu Thê

Khi Sao Tử Vi ở Cung Phu Thê, chủ về người phôi ngẫu có tính gia trưởng, tính thống trị, mà cũng có tinh thần trách nhiệm. Tử Vi Hóa Quyền, chủ về vợ đoạt quyền chồng, hôn nhân tuy không như ý nhưng không dễ nói lời chia li.

  • Gặp cát tinh, nữ mệnh chủ về chồng vinh hiển, nam mệnh chủ về vợ có khí khái đàn ông.
  • Gặp hung tinh, thì nội tâm đau khổ nhưng bề ngoài vẫn khoan dung.

Tử Vi độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, không có cát tính, chủ về gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, hoặc bằng mặt mà không bằng lòng, hoặc có xu hướng hay hứng thú khác nhau, hoặc người phối ngẫu bị ám tật.

  • Tử Vi ở cung Tí thì người phôi ngẫu có tính hướng nội
  • Tử Vi ở cung Ngọ thì người phối ngẫu có nghề nghiệp đặc biệt.

Tử Vi độc tọa Tí Ngọ, Nam mệnh nên lấy vợ nhỏ tuổi. Nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi hơn mình.

  • Tử Vi Phá Quân đồng cung thì phần nhiều lấy vợ lớn tuổi hơn mình, còn chủ về nạp thiếp, hoặc có tình nhân bên ngoài. Nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi hơn mình. Chủ về vợ chồng gần nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc có sóng gió, trắc trở.
  • Tử Vi Thiên Phủ đồng cung thì nội tâm thường có tâm sự giấu kín. Chủ về hôn nhân muộn, nhưng có thể sống đến bạc đầu.
  • Tử Vi Tham Lang đồng cung thì chủ vợ có chí đàn ông, khó tránh hình khắc, nên kết hôn muộn. Người phối ngẫu nhiều tài nghệ, có tình cảm thú vị. Gặp sát tinh thì trăng gió, gặp đào hoa thì có tình nhân bên ngoài, rơi vào mê lộ nhưng cuối cùng biết quay trở về. Nếu Cung Phu Thê vô chính diệu, đối cung có “Tử Vi Tham Lang”, mà tứ sát cùng chiếu cung phu thê. Kình Dương và Linh Tinh lại đổng độ với “Tử Vi Tham Lang”, thì trái lại, không có niềm vui gia đình.
  • Tử Vi Thiên Tướng đồng cung ở hai cung Thìn hoặc Tuất, là “Thiên La Địa Võng”, dễ xảy ra thay đổi bất ngờ. Vợ tuy có thể giúp chồng về sự nghiệp nhưng bạc tình. Nên kết hôn muộn. Nam mệnh nên lấy vợ nhỏ tuổi.
  • Tử Vi Thất Sát đồng cung là người phối ngẫu có thuật giữ chồng, có lực khai sáng, giỏi nói năng.

Sao Thiên Cơ Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Cơ ở Cung Phu Thê, điều này chủ về người phối ngẫu dễ thích ứng hoàn cảnh, tình cảm dễ thay đổi. Không nên gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Hỏa Tinh, Linh Tinh. Chủ về tình cảm thay đổi thường do tính tự do phóng khoáng, thích sao làm vậy mà ra. Gặp hạn tốt có thể hòa hợp trở lại. Người phối ngẫu có nhiều tài, nam mệnh nên lấy vợ nhỏ tuổi hơn mình, cần phải chênh lệch từ ba tuổi trở lên, vợ tính tình khéo léo, cơ trí và biết chăm lo gia đình, dễ bất hòa với thân gia, gặp các sao sát, kị thì càng đúng. Thường có hôn lễ một cách không chính thức, hoặc chủ về người phối ngẫu thích đầu cơ lợi dụng.

  • Thiên Cơ độc tọa ở cung Sửu thì chủ về người phối ngẫu dễ đi xa, li biệt. Ở cung Mùi thì chồng dễ bị dụ dỗ, trước hôn nhân dễ xảy ra sóng gió, trắc trở.
  • Thiên Cơ Thái Âm đồng cung thì hôn nhân ắt phải có một thời kì sóng gió, trắc trở. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Hỏa Tinh, Đà La, Văn Xương, Hóa Kị thì càng nặng. Gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền và lục cát tinh thì văn nhã phong lưu, được vợ là người thông minh, nên lấy người nhỏ tuổi hơn mình.
  • Thiên Cơ Cự Môn đồng cung thì trước hôn nhân dễ xảy ra sóng gió, trắc trở. Cũng chủ về nửa cuộc đời phiêu bạt, hoặc sớm thành cô quả, nhẹ thì bằng mặt mà không bằng lòng, người phối ngẫu mê cờ bạc hoặc có tình nhân bên ngoài.
  • Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung thì trước hôn nhân từng li hôn, hoặc bị gia đình phản đối. Sau kết hôn dễ có sóng gió, trắc trở, hoặc người phối ngẫu bị nạn tai tật bệnh, nhưng rốt cuộc có thể hóa giải.
  • Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, chủ về tình cảm dễ thay đổi, yêu đương hay bị trở ngại. Nữ mệnh đoan trang gặp người không đàng hoàng.

Sao Thái Dương Cung Phu Thê

Khi Sao Thái Dương ở Cung Phu Thê, nếu hội Kình Dương, Đà La là lúc đầu nồng ấm về sau nguội lạnh, chủ về kết hôn không chính thức. Nữ chủ về người phối ngẫu quý hiển. Thái Dương lạc hãm thì người phối ngẫu bình thường, nhưng cũng được đầm ấm

Thái Dương hãm mà Hóa Ky, chủ về vợ thì đa nghi, chồng thì nhiều nạn tai tật bệnh, hoặc dễ chia ly.

Thái Dương gặp cát tinh, nam chủ về nhờ vợ mà được quý.

  • Thái Dương gặp Phá Quân thì thành hôn mà không có nghi lễ chính thức.
  • Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì được vợ kiên trinh, biết chăm lo gia đình. Nữ mệnh có chồng lớn tuổi, lạnh nhạt mà tự cam chịu. Dù tình cảm có sóng gió, trắc trở, rốt cuộc cũng được hóa giải. Gặp nhiều sao trong lục cát tính, lại gặp thêm sát tinh và sao đào hoa, thì vợ chồng đều có tình nhân bên ngoài.
  • Thái Dương ở hai cung Sửu hoặc Mùi mà có Thái Âm đồng độ, có sự thay đổi trước hôn nhân hoặc sau kết hôn. Gặp lục sát tinh, Hóa Kị, Tả Phụ, Hữu Bật thì càng nặng, chủ về người phối ngẫu ích kỉ, thân gia bất hòa. Nữ mệnh thì nặng hơn nhiều, chủ về làm vợ lẽ.
  • Thái Dương Cự Môn đồng cung ở cung Dần rất có lợi, không có Hóa Kị và Hữu Bật thì đẹp đôi, cũng chủ về lấy người khác văn hóa.
  • Thái Dương Thiên Lương đồng cung ở hai cung Mão hoặc Dậu, chủ về ly tán rồi xum họp. Hoặc trước hôn nhân có trở lực, người phối ngẫu gặp hiểm nạn, rốt cuộc có thể hóa giải. Nữ mệnh chồng không nên kinh doanh làm ăn.
  • Thái Dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp cát tinh, chủ về người phối ngẫu nhường nhịn. Gặp sát tinh nên lấy chồng lớn tuổi, lấy vợ nhỏ tuổi, nên kết hôn muộn.
  • Thái Dương độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ở cung Tỵ thì tốt hơn cung Hợi. Ở cung Tỵ chỉ chủ về hôn nhân không có nghi lễ chính thức. Ở cung Hợi, kết hôn sớm phần nhiều chủ về li dị, là một đôi không hoàn mĩ, còn chủ về vợ tính cương cường.

Vũ Khúc Cung Phu Thê

Khi Sao Vũ Phúc ở Cung Phu Thê. Bởi Vũ Khúc chủ về cô độc và hình khắc nên nếu gặp Thất Sát, Phá Quân, chủ về ba lần nhân duyên. Vũ Khúc nhập miếu thì khó tránh khỏi việc kết hôn muộn.

Vũ Khúc gặp Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, chủ về vợ hiền năng (có đức, có tài). Gặp Lộc Tồn, Thiên Mã thì nhờ vợ mà
được tiền bạc. Gặp sao hung thì vì vợ mà phá tài.

Vũ Khúc rất ngại Hóa Kị, thường vì nghèo mà li dị, không vì tình cảm.

Vũ Khúc gặp Thiên Diêu, nếu nhờ bà mai ắt sẽ hình khắc hoặc chia li, chủ về vì yêu đương mà lấy nhau.

Nữ mệnh Vũ Khúc hội Thất Sát, Phá Quân, Hóa Kị, chủ về tái hôn, hoặc làm nhị phòng, hoặc chồng không thể thực hiện được nghĩa vụ làm chồng ở phòng the. Nếu Vũ Khúc Hóa Kị gặp Thất Sát, Phá Quân thì cũng chủ về hữu danh vô thực.

  • Vũ Khúc gặp Hỏa Tinh, chủ về nửa cuộc đời cô độc; gặp Hóa Kị càng nặng.
  • Vũ Khúc Hóa Lộc đồng cung chủ về chồng là nhân tài trong giới làm ăn kinh doanh.
  • Vũ Khúc Hóa Quyền thì chủ về chồng là người có quyền thế, vinh hiển.
  • Vũ Khúc Hóa Khoa là chồng có đủ danh lợi, gặp sát tinh thì giảm chiết.
  • Vũ Khúc Thiên Phủ đồng cung nữ mệnh dễ yêu người đã có gia đình.
  • Vũ Khúc Tham lang đồng cung chủ về vợ đoạt quyền chồng, còn có tính đào hoa. Vì vậy nên lấy vợ lớn tuổi, hoặc lấy chồng lớn hơn mười tuổi. Người phối ngẫu nên làm việc trong ngành giải trí, vui chơi, hay sự nghiệp văn nghệ.
  • Vũ Khúc Thiên Tướng đồng cung chủ về sóng gió, trắc trở. Nam mệnh lấy vợ đẹp nên nhiều tranh giành. Nữ mệnh nêu tuổi tương đương với chồng thì gần nhau ít mà xa nhau nhiều.
  • Vũ Khúc Thất Sát đồng cung gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Khúc, Thiên Việt, chủ về dễ nảy sinh tình yêu kì lạ, hoặc tranh đoạt tình yêu. “Vũ Khúc Thất Sát” mà gặp Đà La, chủ về trước hôn nhân xảy ra sóng gió, trắc trở. Nữ mệnh chủ về đoạt quyền chồng. Nếu các sao sát, kị mà nặng thì chủ về người phối ngẫu gặp chuyện thương tâm bất ngờ.
  • Vũ Khúc Phá Quân đồng cung chủ về sợ vợ. Nữ mệnh thì chủ về gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Nếu Hóa Kị hoặc gặp Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Tả Phụ, Hữu Bật chủ về vợ ngoại tình. Hoặc chủ về chồng mắc chứng bệnh bất trị, hoặc không thể thực hiện được nghĩa vụ làm chồng ở phòng the, chủ về tái hôn, hoặc làm kế thất

Thiên Đồng ở Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Đồng ở Cung Phu Thê. Nếu gặp lục cát tinh, chủ về người phối ngẫu xinh đẹp, ung dung, tự nhiên, lịch sự. Nữ mệnh Thiên Đồng thủ Cung Phu Thê gặp tứ sát, Hóa Kị, chủ về hữu danh vô thực, làm nhị phòng, hoặc li hôn, tái giá. Hoặc người phối ngẫu bị tật bệnh nạn tai. Gặp Cự Môn thì điều tiếng liên miên.

Nam nữ đều nên kết hôn muộn, chủ về đã đính hôn rồi hủy bỏ hôn ước sau đó mới kết hôn. Hoặc lấy nhau nhưng không cử hôn lễ chính thức. Nếu không, thì dễ có nhiều vợ, khó tránh lấy vợ nhỏ tuổi. Gặp tứ sát cũng chủ về hữu danh vô thực.

  • Thiên Đồng Cự Môn, chủ về trắc trở, trước hôn nhân xảy ra sóng gió. Nữ mệnh gặp bản cung, có thể lấy chồng sang quý. Chủ về không có danh phận chính thức, nếu không, đến trung niên có thể xảy ra sóng gió.
  • Thiên Đồng Thiên Lương đồng cung,  thời kì tân hôn và lúc già thì cát, thời kì trung niên gần nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc tái hôn. Cũng chủ về sau khi li hôn có thể lấy vợ đẹp, hoặc lấy chồng đa tài. Nam mệnh chủ về lấy được vợ giỏi giang biết chăm lo gia đình. Nữ mệnh chủ về bản thân vất vả chăm lo gia đình.
  • Thiên Đồng độc tọa ở hai cung Mão hoặc Dậu. Ở cung Mão nện kết hôn sớm. Ở cung Dậu nên kết hôn muộn. Nữ mệnh thiếu duyên với chồng, trung niên cô độc. Gặp các sao đào hoa như Hàm Trì, Hồng Loan, Thiên Hỉ, chủ về tình cảm thay đổi, có người khác.
  • Thiên Đồng độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về yêu đương gặp trở ngại, sau kết hôn ở nơi khác. Vợ chồng không cùng xu hướng, sở thích. Ở cung Tuất nặng hơn.
  • Thiên Đồng độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, chủ về hình dáng, địa vị sang hèn, tư tưởng đều không hợp nhau, thân gia bất hòa, dễ có tình nhân bên ngoài.
  • Thiên Đồng Thái Âm đồng cung , chủ về nên lấy chồng lớn tuổi. Hoặc lấy được vợ có năng lực làm việc. Nữ mệnh dễ nảy sinh thay đổi tình cảm, chỉ cuộc hôn phôi cuối cùng mới đẹp.

Liêm Trinh ở Cung Phu Thê

Khi Sao Liêm Trinh ở cung Phu Thê, bởi Liêm Trinh chủ về hình khắc. Nên nếu gặp nhiều sát tinh thì phải đôi ba lần vợ (khắc ba lần).

Nam mệnh lấy được vợ đẹp, gặp Hóa Kị thì ly hôn rồi tái hôn lấy được vợ đẹp. Gặp đào hoa thì vợ có tình nhân bên ngoài, gặp Thất Sát, Phá Quân thì vợ chồng bất hòa, gặp tứ sát thì hình khắc, vì chuyện tinh cảm nam nữ mà có kiện tụng.

Nữ mệnh, Liêm Trinh gặp sát tinh, chủ về chồng chỉ có hư danh, hoặc chủ về không cử hành hôn lễ.

  • Liêm Trinh gặp Thiên Phủ, chủ về người phối ngẫu tính cương cường, khó tránh khắc khẩu.
  • Liêm Trinh Thiên Tướng đồng cung, gặp Tả Hữu, lục sát, Văn Xương, Văn Khúc,Hóa Kị, chủ về chia ly. Hoặc người phối ngẫu không trung trinh. Sát tinh nặng thì chủ về tranh chấp bất hòa, không có con cái.
  • Liêm Trinh Thất Sát đồng cung chủ về vợ đẹp mà dâm. Gặp cát tinh thì có thể tránh được họa. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật, lục sát, Hóa Kị thì hôn nhân bất lợi. Nữ mệnh chủ về có chồng giỏi quản lý tài chính.
  • Liêm Trinh độc tọa hai cung Dần hoặc Thân, chủ về gần nhau ít mà xa nhau nhiều. Nam mệnh chủ về lấy được vợ thanh bạch. Gặp các sao sát, kị, vẫn có sóng gió, trắc trở. Nữ mệnh thì chồng không có tình cảm thú vị.
  • Liêm Trinh Phá Quân đồng cung gặp sát tinh thì chủ về bất hòa. Không có sát tinh thì chủ về hôn nhân mĩ mãn, nhưng cũng có tình nhân bên ngoài.
  • Liêm Trinh Thiên Phủ đồng cung chủ về tình cảm bất hòa, có tranh chấp, người phối ngẫu giỏi giao tế. “Liêm Trinh Thiên Phủ” gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Hóa Kị, lục sát, chủ về có người bên ngoài, người phối ngẫu tính cương mà không khắc. “Liêm Trinh, Thiên Phủ” gặp sao đào hoa, chủ về yêu người đã có chồng.
  • Liêm Trinh Tham Lang đồng cung phần nhiều chủ về người phối ngẫu xính đẹp. Nam mệnh chủ về vợ không hiền thục nhưng giỏi giao tiếp thù tạc.

Thiên Phủ Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Phủ ở Cung Phu Thê, chủ về người phối ngẫu làm việc có năng lực, cũng giỏi quản lý tài chính. Người phối ngẫu có gia thế hoặc xu hướng, sở thích hợp nhau. Nam mệnh chủ về có vợ thông minh, nhỏ tuổi. Nữ mệnh chủ về lấy chồng sang quý, lớn tuổi.

Thiên Phủ lâm hãm địa gặp sát tinh, chủ về sủng ái vợ lẽ mà quên đi chính thât. Thiên Phủ ở hãm địa mà có cát tinh hội hợp chủ về giống như chia ly mà không chia ly, tình cảm còn vấn vương, không dứt khoát. Nữ mệnh phần nhiều nội tâm bất mãn.

  • Thiên Phủ có Vũ Khúc đồng độ, là theo đuổi người đã có gia đình. Thiên Phủ có Vũ Khúc đổng độ mà gặp sao sát, hình thì nhiều ảo tưởng, phần nhiều làm vợ lẽ, nếu không dễ sinh li tử biệt.
  • Thiên Phủ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về có vợ hiền thục, nhưng vẫn có thiếp hoặc có tình nhân bên ngoài. Hoặc chủ về có vợ tái hôn, người vợ thứ hai thông minh đa tài, biết chăm lo gia đình. Nữ mệnh Thiên Phủ độc tọa cung phu thê ở cung Sửu hoặc Mùi, chủ về cát tường.
  • Thiên Phủ độc tọa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp sát tinh, chủ về có người bên ngoài. Không có sát tinh thì chủ về người phối ngẫu dịu dàng, biết quan tâm, chăm sóc vợ (hoặc chồng).
  • Thiên Phủ độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, thường kết hôn muộn. Gặp các sao sát, kị, hoặc cung mệnh có Vũ Khúc Hóa Kị, thì chủ về hôn nhân có thay đổi. Gặp Thái Âm, Thiên Mã thì dễ sinh li tử biệt, khó tránh tình huống vợ đoạt quyền chồng, có cát tinh cũng vậy.

Thái Âm Cung Phu Thê

Khi Sao Thái Âm ở Cung Phu Thê. Nam mệnh chủ về có vợ nhỏ tuổi, thông minh, xinh đẹp, có thêm Văn Xương, Văn Khúc thì cực đẹp, cũng chủ về dễ có nhiều vợ. Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, dễ kết hôn sớm.

Thái Âm gặp tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, sao kị thì không khắc nhưng chủ về sinh ly.

Thái Âm gặp cát tinh, chủ về người phối ngẫu giàu có.

  • Nữ mệnh có Thái Âm ở cung phu thê, gặp “tam hóa cát”, bên ngoài thì giỏi giao tiếp thù tạc, ở nhà thì có thể vỗ về, an ủi chồng. Nữ mệnh có Thái Âm ở cung phu thê rất ngại Hóa Kị, chủ về người phối ngẫu rời xa quê hương, hoặc không có duyên với lục thân của mệnh tạo.
  • Thái Âm độc tọa ở hai cung Mão hoặc Dậu, nam mệnh tốt hơn nữ mệnh, chủ về tình yêu gặp nhiều sóng gió trắc trở, sau mới lấy nhau. Nếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Hóa Kị, chủ về chồng có tình nhân bên ngoài.
  • Thái Âm độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, trước hôn nhân gặp nhiều sóng gió, trắc trở, sau kết hôn thì mĩ mãn.
  • Thái Âm độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, nên là nam mệnh mà không nên là nữ mệnh. Ở cung Hợi tốt hơn cung Tỵ. Nếu gặp các sao sát, kị, Tả Phụ, Hữu Bật, nếu lấy chồng lớn hơn mình từ mười tuổi trở lên thì có thể sống với nhau đến bạc đầu, nếu không sẽ có sóng gió, trắc trở… Thái Âm độc tọa ở cung Hợi là nhập miếu, có vợ hiền thục. Gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về nhờ vợ mà có tiền bạc. Nữ mệnh thì không nên có Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung, chủ về chồng có tình nhân bên ngoài, mà lại không đẹp bằng mệnh tạo.

Sao Tham Lang Cung Phu Thê

Khi Sao Tham Lang ở Cung Phu Thê. Nếu Tham Lang gặp sát tinh, nam mệnh chủ về ba lần làm chú rể. Nếu nhập miếu chủ về lấy vợ muộn mới tránh được hình khắc. Nữ mệnh thì nên lấy chồng lớn tuổi và kết hôn muộn. Gia thêm Tứ Sát, chủ về sinh ly.

  • Tham Lang hội Liêm Trinh, gặp các sao đào hoa, nam mệnh chủ về có đàọ hoạ và có bất hòa, tranh chấp với vợ. Hoặc sủng ái vợ lẽ mà giảm yêu thương bà cả. Tham Lang độc tọa, gặp đào hoa, cũng chủ về vợ là người xuất thân từ chốn phong trần.
  • Nữ mệnh mà cung phu thê có Tham Lang, phần nhiều chồng có tình nhân bên ngoài, khó tránh hình khắc. Nam mệnh và nữ mệnh đều chủ về người phôi ngẫu có tài nghệ.
  • Tham Lang gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về người phối ngẫu phát đạt; nếu Tham Lang Hóa Kị gặp sao không, chủ về người phối ngẫu tính tình trầm lặng.
  • Tham Lang gặp Kình Dương, người phối ngẫu có kĩ năng đặc biệt.
  • Tham Lang gặp Đà La, người phối ngẫu có diện mạo xấu xí.
  • Tham Lang độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất ưa gặp sao lộc, người phối ngẫu giàu có, nên lấy vợ nhỏ tuổi. Nhưng Tham Lang cư Tí là “Phiếm thủy đào hoa” chủ về có tình nhân bên ngoài.
  • Tham Lang độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình Dương Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, chủ về người phối ngẫu là nhân tài về kĩ thuật chuyên môn. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về người phối ngẫu khôi ngô tuấn tú hoặc kiều diễm, nhưng e là có tình nhân bên ngoài.
  • Tham Lang độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, là “Thiên La, Địa Võng”, sẽ giảm sắc đào hoa. Không gặp các sao sát, kị thì chủ về thanh bạch. Nữ mệnh thì trước hôn nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.

Cự Môn ở Cung Phu Thê

Khi Sao Cự Môn ở Cung Phu Thê. Vì Sao Cự Môn có tượng là thị phi khẩu thiệt nên sẽ chủ về thường có điều tiếng, nên lấy vợ lớn tuổi.

  • Cự Môn Thiên Cơ đồng cung, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về người phối ngẫu xinh đẹp.
  • Cự Môn có Thiên Đồng đồng độ, chủ về người phối ngẫu xinh đẹp nhưng hình khắc sinh ly.
  • Cự Môn ưa gặp Lộc Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật; chủ về chồng phú quý đa tài, sự nghiệp lớn lao.
  • Cự Môn có Thái Dương đồng cung, người phối ngẫu tính tình rõ ràng, minh bạch.
  • Cự Môn gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh. Nam mệnh phần nhiều khắc vợ hoặc chia ly. Lại gặp Thiên Hình, nữ mệnh chủ về không cử hành hôn lễ, nếu không sẽ nhiều lần lên xe hoa.
  • Cự Môn Hóa Kị, phần nhiều tình cảm vô vị, hay cãi vả. Nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi, nếu không tình cảm dễ thay đổi, có người khác. Nam mệnh và nữ mệnh trước hôn nhân đều dễ yêu người đã có gia đình. Mối tình đầu thường không thể kết hợp.
  • Cự Môn độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, chủ về vợ có chí hướng của đàn ông. Gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, chủ về người phối ngẫu có danh tiếng hơn mệnh tạo. Nữ mệnh thường gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật nhưng một sao ở cung phu thê, còn một sao ở cung mệnh, chủ về sinh ly. Gặp cát tinh thì gần nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc ở riêng nơi khác, nhưng tình cảm lại hòa mục.
  • Cự Môn độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp Hóa Kị, chủ về người phối ngẫu lúc nhỏ gặp nhiều trắc trở, bất đắc chí, hơn nữa còn chuốc nhiều thị phi. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về tình cảm không tốt. Không có sát tinh thì chủ về người phối ngẫu vất vả làm việc.
  • Cự Môn độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, cung mệnh tất sẽ hội Thái Dương và Thiên Lương, chủ về bất hòa với cha vợ hoặc nhà chồng. Gặp lục sát, trước hôn nhân và sau kết hôn đều xảy ra chuyện tình cảm thay đổi. Nam mệnh chủ về có vợ tài giỏi xinh đẹp.

Sao Thiên Tướng Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Tướng ở Cung Phu Thê, sẽ chủ về người phối ngẫu là do yêu nhau mà kết hôn, chứ không do gia đình sắp đặt. Hoặc chủ về gần nhau ít mà xa nhau nhiều.

Nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thân càng thêm thân, hoặc tình cũ trở lại, hoặc quen biết cũ gặp lại rồi yêu nhau.

Nữ mệnh nên lấy người lớn tuổi. Gặp cát tinh, chủ về được chồng quan tâm, chăm sóc, xử sự dịu dàng.

  • Có Tử Vi đồng độ, chủ về có vợ chí cao, nên kết hôn muộn.
  • Thiên Tướng gặp Vũ Khúc, Phá Quân, chủ về có nạn tai, điều tiếng, là mệnh hai lần kết hôn. Nếu đã từng hủy hôn ước thì có thể miễn.
  • Thiên Tướng gặp Hóa Lộc và có Lộc Tồn đồng cung, chủ về vợ có tiền.
  • Thiên Tướng độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về được giúp đỡ ở nhà. Nam mệnh hơi bị tình trạng vợ đoạt quyền chồng. Nếu cung mệnh có Vũ Khúc Hóa Kị, chủ về chia li. Nữ mệnh thì đẹp đôi với người lớn tuổi.
  • Thiên Tướng độc tọa ở hai cung Mão hoặc Dậu, chủ về kết hôn muộn, vợ chồng không cùng xu hướng, sở thích. Vợ thì chủ về hiền thục nhưng tính cương cường, chồng thì chủ về hướng nội. Không có sát tính thì có thể sống với nhau đến bạc đầu.
  • Thiên Tướng độc tọa ở hai cưng Tỵ hoặc Hợi, nam mệnh thì chủ về có vợ đỡ đần việc nhà, thuận theo ý chồng. Nữ mệnh thì chồng không mấy tốt, mệnh đào hoa, thường nhìn ngó bên ngoài.

Sao Thiên Lương ở Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Lương ở Cung Phu Thê. Nam mệnh, chủ về có vợ xinh đẹp, nhưng nên lớn hơn mệnh tạo ba tuổi trở lên.

  • Thiên Lương có Thiên Đồng đồng cung mà Hóa Kị, chủ về chia li rồi tái hợp nhưng khắc, khắc rồi lại chia li.
  • Thiên Lương có Thái Âm và Thiên đồng vây chiếu, chủ về vợ xinh đẹp, sinh ly nhưng tình cảm còn vương vấn chưa dứt khoát. Nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về trước hôn nhân hay sau kết hôn dễ xảy ra tình huống thay đổi. Hoặc từng hủy bỏ hôn ước, hoặc gặp trở lực của người lớn. Hoặc vì hoàn cảnh mà dẫn đến kết hôn sai lầm, chỉ có người yêu cuối cùng mới thành người thân thuộc thực sự. Sau kết hôn dễ gặp trở ngại, hoặc hiểu lầm mà chia ly, nếu không gặp sát tinh thì sẽ tái hợp.
  • Thiên Lương độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, chủ về vợ đoạt quyền chồng, hoặc vợ lớn tuổi coi chồng như em. Nữ mệnh chủ về người phối ngẫu có phong độ của một danh sĩ. Nếu gặp Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, cung mệnh có Tả Phụ, Hữu Bật độc tọa, hoặc Thiên Lương và Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung, chủ về sinh ly.
  • Thiên Lương độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về vợ lớn tuổi, là người có phong độ. Nữ mệnh, chủ về có chồng sang quý thanh cao. Ở cung Sửu tốt hơn cung Mùi.
  • Thiên Lương độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thường gặp những tình huống bối rối, khó xử trùng trùng. Trước hôn nhân từng yêu đơn phương, hoặc thất tình, hoặc bị người lớn phản đối hôn nhân. Sau kết hôn gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Nữ mệnh thì chủ về mẹ chồng nàng dâu bất hòa, hoặc chồng bệnh hoạn. Nam mệnh thì chủ về vợ cơ thể hư nhược. Gặp sát tinh thì phần nhiều chia li, trong hạn tốt thì chia li rồi tái hợp.

Thất Sát Cung Phu Thê

Khi Sao Thất Sát ở Cung Phu Thê. Chủ về lấy người khác nền văn hóa. Thất Sát gặp Thái Dương và Cự Môn ở cung mệnh thì càng đúng.

Thất Sát gặp Tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, là khắc ba lần. Không có sát tinh, chủ về cô đơn nhưng không khắc.

Nam mệnh và nữ mệnh đều bề ngoài thì hòa hợp hạnh phúc, nhưng bên trong thì bất mãn, có nợ mà không duyên. Nữ mệnh, chủ về có chồng thành đạt, có trách nhiệm với gia đình.

  • Thất Sát độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, chủ về trước kết hôn gặp nhiều sóng gió, trắc trở, sau kết hôn thì hòa hợp hạnh phúc. Gặp lục sát, vợ chồng ở hai nơi, hoặc vợ chổng có xu hướng, sở thích không hợp nhau.
  • Thất Sát độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân, chủ về thường kết hôn muộn, trước hôn nhân thì mắt loạn vì nhiều đào hoa. Nam mệnh chủ về có nhị phòng hơn mình năm tuổi trở lên. Nữ mệnh nên lấy chồng lớn hơn mình năm đến mười tuổi. Còn chủ về người phối ngẫu bận rộn, vất vả.
  • Thất Sát độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, là “Thiên La, Địa Võng”. Chủ về không hòa hợp, thiếu hạnh phúc. Trước hôn nhân có sóng gió, trắc trở. Không gặp sát tinh thì chủ về người phối ngẫu có kĩ năng chuyên môn, nhất là nên theo ngành y dược. Gặp sát tính thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát, gặp Liêm Trinh Hóa Kị thì càng hợp.

Phá Quân Cung Phu Thê

Khi Sao Phá Quân nhập vào Cung Phu Thê. Nam mệnh chủ về khắc vợ, hoặc chia ly rồi lấy người khác. Nên kết hôn muộn, thường gặp nhiều sóng gió, trắc trở, gần nhau ít mà xa nhau nhiều, sở thích không hợp nhau, dễ vì giận hờn mà chia ly, trong hạn tốt thì có thể tái hợp.

Gặp lục cát tinh thì tình cảm thiếu thú vị. Hoặc chủ về vợ hơi lớn hơn tuổi hơn chồng. Hoặc ở chung mà không có nghi lễ chính thức hay sau kết hôn thì ở hai nơi.

  • Có Vũ Khúc đồng độ, chủ về sinh ly, có thêm Hóa Kị thì chủ về người phối ngẫu bị nạn tai tật bệnh.
  • Có Liêm Trinh đồng độ, nên đề phòng có tình nhân bên ngoài.
  • Có Tử Vi đồng độ thì nên lấy người lớn tuổi. Nếu gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, trái lại sẽ chủ về bất lợi cho gia đình, nam mệnh thì vợ chế ngự chồng, nữ mệnh thì chồng có tính gia trưởng, ưa chi phối vợ.
  • Phá Quân độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, chủ về người phối ngẫu tính cương, vợ đoạt quyền chồng. Phá Quân Hóa Quyền thì vợ chồng tuổi tác ngang nhau.
  • Phá Quân độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân. Nữ mệnh chủ về trước hôn nhân hủy bỏ hôn ước, hoặc yêu người đã có vợ, còn chủ về người phối ngẫu bận rộn, vất vả. Nam mệnh có thể lấy được vợ hiền thục. Nhưng bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về vợ chồng gần nhau ít mà xa nhau nhiều.
  • Phá Quân độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, vợ tính cương cường. Nếu cung mệnh hoặc bản cung gặp sao kị, sao không, Tả Phụ, Hữu Bật thì dễ chia ly. Nữ mệnh nên giúp chồng về sự nghiệp, phối hợp với chồng gánh vác trách nhiệm gia đình.

Cung Phu Thê Vô Chính Diệu

Trường hợp Cung Phu Thê vô chính diệu. Phương pháp luận đoán vẫn lấy việc xem xét kỹ tam phương tứ chính của Cung Phu Thê để luận đoán.

  • Nếu tam phương tứ chính hội được cát diệu. Trường hợp này là bản cung được trợ giúp, gặp cát lợi
  • Nếu tam phương tứ chính hung, thì phải luận là hung
  • Vô chính diệu đắc hung tinh. Trường hợp này hôn nhân dễ thành nhưng cũng dễ phân ly

Ảnh hưởng của Tá diệu đối với Cung Phu Thê

Lộc Tồn Cung Phu Thê

Khi Sao Lộc Tồn ở Cung Phu Thê. Nữ mệnh cung phu thê có thêm tứ sát, chủ về làm nhị phòng hay làm kế thất. Có thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, gặp Triệt Không, là cô độc. Ưa tam phương có Hóa Lộc, hoặc hội hợp Thiên Mã, chủ về có thể giải cô độc, còn nhờ người phối ngẫu mà có tiền, vợ chồng ân ái, nhưng dễ bị người phối ngẫu hiếp đáp. Cũng chủ về người phối ngẫu giỏi quản lý tài chính.

Lộc Tồn gặp lục sát, Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Toái, Kiếp Sát, sao không, sao kị, chủ về tình cảm bất hòa.

Sao Thiên Mã Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Mã ở Cung Phu Thê. Nam mệnh chủ về được vợ giúp đỡ, nhờ vợ mà có tiền, hoặc vợ có vận giúp chồng. Thiên Mã gặp sao lộc, tài khí vượng, giàu có sung túc.

Thiên Mã ưa Tử Vi, Thất Sát, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tham Lang, Thái Dương, Cự Môn, Vũ Khúc. Ưa nhất là Thiên Phủ, Thiên Tướng.

Tả Phù Cung Phu Thê

Khi Sao Tả Phù ở Cung Phu Thê. Chủ về người phối ngẫu đã từng trắc trở trong hôn nhân, hoặc lấy nhau mà không có hôn lễ chính thức. Nhưng nếu không gặp sát tinh thì chủ về vợ chồng ân ái. Gặp “tam hóa cát” thì người phối ngẫu có thành tựu. Có thêm Thái Dương, Thái Âm, Cự Môn, Thiên Cơ, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Vũ Khúc, Thất Sát, chủ về sinh ly. Hữu Bật cũng giống như vậy.

Sao Hữu Bật Cung Phu Thê

Khi Sao Hữu Bật ở Cung Phu Thê.Bởi Hữu Bật có tính đào hoa, nên chủ về có người thứ ba xen vào. Độc tọa thì càng đúng.

Chủ về hai người phụ nữ có chung một chồng. Gặp “Thiên Cơ, Thái Âm” thì càng đúng.

Hữu Bật gặp sao kị, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về sinh ly.

Văn Xương Cung Phu Thê

Khi Sao Văn Xương ở Cung Phu Thê. Chủ về người phối ngẫu bụng dạ tinh tế.

Văn Xương có Thái Âm đồng độ, chủ về xinh đẹp.

Văn Xương ưa đồng cung với Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, Thiên Tướng, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt.

Văn Xương gặp tam hóa cát thì chủ về phú quý. Văn Xương không ưa Hữu Bật, Liêm Trinh, Phá Quân, tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị.

Văn Xương gặp Liêm Trinh, chủ về có tình nhân bên ngoài. Gặp Phá Quân, người phối ngẫu vất vả. Văn Xương Hóa Kị, về hôn nhân thiếu học thức.

Văn Xương chủ về nhiều lần yêu đương. Gặp sát tinh cùng ở cung mệnh hay cung phúc đức, chủ về không cát tường, ngoại tình.

Sao Văn Khúc Cung Phu Thê

Khi Sao Văn Khúc ở Cung Phu Thê. Chủ về có tài ăn nói, mang tính đào hoa. Luận đoán giống Văn Xương.

Văn Khúc đồng cung với Văn Xương, chủ về có nhiều tình cảm thú vị ở khuê phòng.

Văn Khúc và Văn Xương, một sao ở cung phu thê và một sao ở cung thiên di, chủ về người phối ngẫu dương danh nơi đất khách quê người. Nhưng gặp sát tình thì có người khác ở bên ngoài.
Cung Tuất gặp Văn Khúc Văn Xương, chủ về dễ chia ly. Văn Khúc độc tọa cũng dễ chuốc đào hoa.

Sao Thiên Khôi ở Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Khôi ở Cung Phu Thê. Chủ về người phối ngẫu có gia thế không tầm thường.

Thiên Khôi ưa Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tử Vi, Vũ Khúc, Tham Lang, Phá Quân, Thái Dương, Thái Âm, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, “tam hóa cát”, Lộc Tồn, Thiên Mã.

Sao Thiên Việt ở Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Việt ở Cung Phu Thê. Có tính đào hoa, chủ về gặp quý nhân là người khác giới.
Kị gặp Văn Xương, Văn Khúc, Đào Hoa. Chủ về dễ có tình nhân bên ngoài.

Luận đoán giông Thiên Khôi.

Thiên Khôi và Thiên Việt chia ra một sao nhập cung phu thê, một sao nhập cung phúc đức, gặp Sao Đào Hoa, ắt sẽ có người thứ ba xen vào.

Sao Hỏa Tinh ở Cung Phu Thê

Khi Sao Hỏa Tinh ở Cung Phu Thê. Hỏa Tinh rất ưa gặp Kình Dương, cung mệnh gặp thì tốt nhất, cung phu thê gặp thì thứ cát.

Hỏa Tinh lạc hãm, chủ về người phối ngẫu vất vả.

Hỏa Tinh nhập miêu, chủ về gần nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc sự nghiệp của người phối ngẫu có biến đổi.

Hỏa Tinh nhập miếu, rất ưa gặp Tham Lang, chủ về nhờ người phối ngẫu mà có tiền bạc. Không có Tham Lang thì cũng được một thời rực rỡ.
Thông thường nam mệnh, nữ mệnh đều chủ về người phối ngẫu nóng nảy. Gặp sát tinh, dễ xảy ra tình huống xung đột tình cảm nam nữ.

Sao Linh Tinh ở Cung Phu Thê

Khi Sao Linh Tinh ở Cung Phu Thê. Linh Tinh rất ưa gặp Hóa Lộc và Tham Lang.

Linh Tinh và Hỏa Tinh chia ra một sao ở cung phúc đức, một sao ờ cung phu thê, chủ về thành hôn vội vàng, hoặc kết hôn với người mình không ngờ.

Linh Tinh và Hỏa Tinh chia ra một sao ở cung phu thê , một sao ở cung thiên di, chủ về chồng (hoặc vợ) tính cương cường.

Kình Dương Cung Phu Thê

Khi Sao Kình Dương ở Cung Phu Thê. Nam mệnh chủ về anh tuấn. Nữ mệnh xinh đẹp, lạnh lùng.

Kình Dương độc tọa cung phu thê, người phối ngẫu phần nhiều ở trong quân đội hay cảnh sát, hoặc nhân viên kĩ thuật. Cũng chủ về kết hôn với người ngoại quốc.

Kình Dương độc tọa, người phối ngẫu bị thương hoặc phải phẫu thuật.

Kình Dương gặp Liêm Trinh, Thái Âm, sao đào hoa, Đại Hao, chủ về bỏ nhà theo người tình.

Sao Đà La ở Cung Phu Thê

Khi Sao Đà La ở Cung Phu Thê. Chủ về người phối ngẫu cô độc, rời xa quê hương.

Cũng chủ về kết hôn muộn, lần nữa trong chuyện hôn nhân

Sau kết hôn việc nhà nhiều thị phi.

Sao Địa Không ở Cung Phu Thê

Khi Sao Địa Không ở Cung Phu Thê. Chủ sau hôn nhân tình cảm ngày càng phai nhạt. Nếu cùng Sát Phá đồng cung, không Đào Hoa, ít có cơ hội kết giao làm quen với người khác giới tính, thích nghi hôn ước mai mối.

Cùng Tuần Không, Thiên Không hội, khó tìm được người tri âm.

Độc tọa tại Ngọ cung, chủ về thành hôn một cách bất ngờ. Thích nghi với Dương Hỏa (Kình Dương Hỏa Linh) độc tọa Mệnh cung hoặc Cung Phu Thê của người phối hợp.

Sao Địa Kiếp ở Cung Phu Thê

Khi Sao Địa Kiếp ở Cung Phu Thê. Nếu Địa Kiếp độc tọa, tình cảm và tiền tài đều bất lợi.

Địa Kiếp gặp Kiếp Sát, trong tình yêu, chưa thành hôn đã nảy sinh thay đổi một cách bất ngờ, chia li nhưng còn vướng víu, quấy rầy nhiều lần. Hoặc sau kết hôn phần nhiều có chuyện kín khó nói.

Địa Kiếp nên phối hợp với Đà La nhập miếu ở cung mệnh hoặc ở cung phu thê.

Địa Kiếp có Địa Không đồng cung, ít có lực phá hoại đối với hôn nhân, chỉ làm tăng nhiều tính chất đặc thù.

Địa Kiếp giáp cung phu thê, chủ về bất lợi, chỉ có trường hợp giáp Vũ Khúc Hóa Kị thì cát.

Thế nào là kết hôn muộn trong lá số Tử Vi?

Kết hôn muộn trong lá số tử vi

Thông thường người luận đoán mệnh thấy Cung Phu Thê không tốt thì khuyên người ta nên kết hôn muộn, nhưng rốt cuộc thế nào mới tính là kết hôn muộn? Tại sao cần phải kết hôn muộn? Thực tế ra, một lá có liên quan đến việc thêm một tuổi thì tâm trí càng trưởng thành hơn, hai là đại vận này không nên thì đợi đến đại vận sau.

Ngoài ra, lấy cục số và hành hạn để nói, có 5 tình huống có thể luận kết hôn sớm hay muộn, phàm là kết hôn trước khi đại vận thứ 2 kết thúc là thuộc nhóm kết hôn sớm, sau khi đại vận thứ 3 kết thúc mà vẫn chưa kết hôn là thuộc nhóm kết hôn muộn.

  • Thủy nhị cục: Kết hôn lúc ở đại vận 12~21 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 22-31 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 31 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.
  • Mộc tam cục: Kết hôn lúc ở đại vận 13~22 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 23-32 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 32 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.
  • Kim tứ cục: Kết hôn lúc ở đại vận 14~23 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 24-33 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 33 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.
  • Thổ ngũ cục: Kết hôn lúc ở đại vận 15~24 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 25-34 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 34 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.
  • Hỏa lục cục: Kết hôn lúc ở đại vận 16~25 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 26-35 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 35 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Kết hôn sớm do tổ hợp Cung Phu Thê không tốt, nguyên nhân là vì có nhiều bại cục, do tuổi trẻ chưa có kinh nghiệm sống nên dễ có phán đoán và quyết định sai lầm. Bất luận cục số nào, đều cần phải có tâm trí khá trưởng thành, hiểu biết trách nhiệm và nghĩa vụ trong hôn nhân. Đồng thời phải biết cách xử lý hôn nhân như thế nào, rồi mang chúng vào đời sống hôn nhân một cách thích hợp, những điều kiện này thường đều ở trong khoảng thời gian của đại vận thứ 3. Nhưng cũng có trường hợp vốn thuộc cách cục kết hôn sớm, mà hôn nhân vẫn hạnh phúc mĩ mãn, cho nên còn phải xem thái độ điều chỉnh sao cho thích hợp với cuộc sống hôn nhân và phương pháp xử lý hôn nhân của song phương, mới là điểm quan trọng.

10 cách hóa giải Cung Phu Thê xấu

Bài viết này dành cho những người có Cung Phu Thê (đường vợ chồng) không được hoàn hảo hay khiếm khuyết về 1 mặt nào đó (mà tôi tin số này chiếm đa số chúng ta).

Còn với những người sinh ra đã được định sẵn là sau này sẽ lấy được 1 người bạn đời tâm đầu ý hợp và 2 người sẽ sống hạnh phúc cho đến đầu bạc răng long mà không cần phải cố gắng gì (tôi tin số này chiếm thiểu số rất nhỏ), thì bài viết sau hy vọng cũng bổ ích để làm cho cái duyên nợ vợ chồng tốt đó càng được tốt hơn.

Lấy chồng/vợ già (lớn tuổi)

Thông thường người ta càng lớn tuổi càng có xu hướng chiều chuộng người bạn đời hơn. Càng lớn tuổi, ta càng bớt đi tính “ngựa non háu đá”, bớt đi những ý thích, ham muốn bồng bột thời trẻ, bớt đi tính nhõng nhẽo, trẻ con, bớt đi tính “sớm nắng triều mưa”, bớt đi tính tự ái, nông nối, bất cần… Đây là những điều tối kị cho 1 hạnh phúc gia đình bền vững.
Theo tôi vợ chồng chênh nhau từ 4-11 tuổi là hợp lý, từ 12 trở lên là bắt đầu cách nhau 1 thế hệ, sẽ dẫn đến khó nói chuyện và chia sẻ tâm tư, tình cảm, sở thích với nhau.

Lấy chồng/vợ muộn

Thông thường việc lập gia đình muộn sẽ tránh được việc lập gia đình nhiều lần (2, 3 đời chồng/vợ). Tôi thành thực tin rằng nếu tôi lập gia đình sớm (ở độ tuổi 20-30) thì bây giờ xác suất sẽ rất cao là tôi đã ly dị (lý do tôi giải thích ở trên và ở dưới đây)
Hiển nhiên khi lập gia đình muộn mình càng có nhiều kinh nghiệm sống hơn. Lúc này mình đã đạt được độ chín về mặt tâm lý, tình cảm, càng biết rõ mình muốn gì, mình cũng có xu hướng biết nhường nhịn hơn. Đây là những phẩm chất rất cần có ở 1 người bạn đời để cả 2 cùng gây dựng 1 gia đình hạnh phúc.

Vậy muộn là bao nhiêu? Theo tôi con gái trên 28 tuổi, con trai trên 30 tuổi thì được coi là muộn.

Lấy chồng/vợ xa

Ai biết qua về bói toán đều biết 1 trong những cách để hóa giải lá số có cung Phúc Đức (cung quan trọng nhất trong 1 lá số) xấu là nên rời quê hương bản quán để lập nghiệp ở phương xa.
Có lẽ đó cũng là lý do các ông thầy bói khuyên các cô/các anh có Cung Phu Thê xấu là nên lấy chồng/vợ và lập gia đình ở phương xa để thay đổi vận mệnh của mình. Vậy thế nào là xa? Người hôn phối có quê hương bản quán khác với quê hương bản quán của mình thì gọi là xa, thậm chí theo tôi lấy chồng/vợ ngoại quốc cũng được (tất nhiên với điều kiện người chồng/vợ ngoại quốc đó yêu thương mình thật lòng).

Mình là người đến sau (lấy người đã từng lập gia đình)

Với người có quá khứ không vui về cuộc hôn nhân cũ, khi mình là người đến sau, người ta thường có xu hướng yêu thương trân quý những đức tính của mình hơn. Có mất 1 lần rồi, có cay đắng 1 lần rồi mới biết trân quý cái mình đang có.
Với người đã từng lập gia đình thì những cái xấu (trong Cung Phu Thê của người đó) hy vọng là đã rơi hết vào người hôn phối trước đó. Giờ đến lượt mình (là người đến sau) thì hy vọng mình sẽ được hưởng phần tốt đẹp trong Cung Phu Thê của người đó.

Trải qua nhiều trắc trở trước khi đến được với nhau

Cái xấu của Cung Phu Thê thường hoặc là ứng với trước hoăc ứng với sau hôn nhân. Vậy thì hãy để cho những cái xấu đó ứng với trước hôn nhân còn hơn là ứng với sau hôn nhân.

Những lời nói xấu, dị nghị, dèm pha, ngăn cản… của bố mẹ, của bạn bè… khi 2 người đang yêu nhau không phải là điều đáng buồn đâu mà là đáng vui đấy, nó góp phần làm giảm bớt cái xấu và tăng thêm phần hạnh phúc khi 2 người sau này chung sống với nhau. Và hãy để cho những hiểu lầm, xích mích… giữa 2 người xảy ra trước hôn nhân, để 2 người hiểu được lòng nhau và tự vấn lòng mình xem là liệu mình có chấp nhận được người kia hay không.

Lấy chồng/vợ có hình thức (tài năng) bình thường, chấp nhận khiếm khuyết của người bạn đời

“Vợ đẹp là vợ người ta”. “Chồng đẹp trai và tài hoa cũng khó là chồng của riêng mình”. Những câu nói này được đúc kết từ xưa đến nay không phải là không có lý. Vậy thì giữa 2 giải pháp bạn có thể lựa chọn cho mình giải pháp an toàn hơn là lấy người bạn đời có hình thức (và tài năng) ở mức trung bình. Người có hình thức trung bình và dưới trung bình thường biết mình là ai và ít đòi hỏi người khác phải chiều chuộng mình.

Chấp nhận những khiếm khuyết của người bạn đời như khiếm khuyết về gia cảnh, về học thức, về quá khứ… theo tôi cũng là một cách để hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng. Đi xa hơn, với những cô gái/chàng trai cực kỳ cao số, các ông thầy bói xưa thậm chí còn khuyên những người đó nên lấy chồng/vợ tàn tật để tránh hình khắc sau này.

Thời gian tìm hiểu đủ dài

Những mối tình sét đánh 2 người gặp nhau, yêu nhau một thời gian ngắn và sau đó lấy nhau sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long ít tồn tại trên thực tế. Ở thái cực ngược lại, nhiều cặp đôi yêu nhau, tìm hiểu nhau 5-7 năm vậy mà sau khi cưới nhau chỉ vài tháng vẫn ly dị như thường. Yêu nhau 5-7 năm thì dễ, sống với nhau 5-7 năm mới là khó.

Thức lâu mới biết đêm dài, cần phải có đủ thời gian mới hiểu được lòng người, và càng trải qua nhiều gian khổ người ta càng có điều kiện hiểu lòng nhau. Việc trải qua thời gian tìm hiểu đủ dài (theo tôi tối thiểu là 6 tháng) sẽ giúp cho quyết định lập gia đình trở nên chín chắn và đỡ rủi ro hơn cho sau này. Tất nhiên thời gian tìm hiểu nên hướng vào chất (tức là hiểu về tính nết nhau được nhiều hay ít) chứ không phải hướng vào lượng (dài bao lâu).

Nhường nhịn, nhường nhịn, nhường nhịn!

Một điều nhịn chín điều lành. Theo tôi cho dù Cung Phu Thê có xấu bao nhiêu, trong cuộc sống vợ chồng mình cứ chịu nhường đi một chút thì thường mọi việc sẽ ổn thỏa. 1 người bạn của tôi so sánh cũng hay:
“Hãy tưởng tượng hạnh phúc như 1 sợi dây, nếu cả 2 cùng cương cả (cùng kéo cả) thì chắc chắn sẽ đứt. Chi bằng khi bạn đời mình cương thì mình trùng xuống, khi mình cương thì bạn đời mình trùng xuống, để duy trì sợi dây hôn nhân.”

Thay đổi chính mình

Đây là cách khó nhất nhưng cũng là cách công hiệu nhất để hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng. Thay đổi chính mình tức là thay đổi quan niệm của mình về người bạn đời lý tưởng, thay đổi cách nhìn của mình về tình yêu.

Ví dụ nếu mình là người trọng hình thức (là cái sẽ phai nhạt theo thời gian) thì nên thay đổi để hướng tới việc tìm hiểu tính nết và cách cư xử của người bạn đời (là những giá trị mang tính bền vững khi chung sống với nhau sau này). Nếu mình là người có xu hướng quan trọng hóa chuyện tình cảm thì cũng nên thay đổi, nên kết hợp tình yêu với lý trí để cho tình yêu được lâu bền hơn.

Các cách hóa giải khác

Tôi cũng nghe nói và chứng kiến một số “thủ thuật” nhằm trách chuyện 2, 3 đời chồng/vợ như trả lại cau trầu, giả cưới 2, 3 lần… Theo tôi những “thủ thuật” này cũng có tác dụng nhất định, tuy không “công hiệu” bằng các cách đã đề cập ở trên.

Kết luận

Nào bây giờ bạn hãy thử kiểm nghiệm xem người bạn đang tìm hiểu đạt được mấy điều trong 10 điều “hóa giải” đề cập ở trên? Không phải là tuyệt đối, nhưng tôi tin rằng càng đạt được nhiều điều, khả năng hạnh phúc sau này của 2 người là càng cao.

Cung Phu Thê Phi Hóa

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc

Cung Phu Thê tự Hóa Lộc

Người phối ngẫu có tính tình hiền hòa, có duyên với người chung quanh, duyên vợ chồng tình thâm, ân ái hạnh phúc, trông nom cho nhau, có trợ lực; sau khi kết hôn sự nghiệp của mệnh tạo khá thuận lợi, kiếm được nhiều tiền; nếu mệnh tạo tự sáng lập cơ nghiệp, người phối ngẫu sẽ giúp vốn; hôn nhân của mệnh tạo là do yêu nhau mà kết hợp.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung mệnh

Mệnh tạo rất có duyên với người khác giới, có duyên vợ chồng với người phối ngẫu; người phối ngẫu có tình yêu sâu đậm với mệnh tạo, trợ giúp mệnh tạo về sự nghiệp, làm việc không ngại gian khổ, không oán không trách, tình cảm vợ chồng rất tốt đẹp, có thể sống với nhau đến đầu bạc; sau khi kết hôn mệnh tạo có tài vận tốt, công việc hay sự nghiệp có phát triển.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung huynh đệ

Người phối ngẫu rất hiếu thuận, có duyên với trưởng bối, có thể được đề bạt, nâng đỡ, sự nghiệp có thành tựu, có thể gánh vác sinh kế gia đình; người phối ngẫu có thể xử sự vui vẻ với anh em bạn bè của mệnh tạo; sau kết hôn, công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo sẽ phát triển thuận lợi.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung tử tức

Người phối ngẫu rất yêu thương và quan tâm chăm lo cho con cái, ra ngoài phải thù tạc nhiêu, mà tiêu xài cũng nhiều; sau kết hôn, vì công việc hay sự nghiệp, mệnh tạo cũng sẽ hưởng thụ và giao tế thù tạc nhiều; vợ lẫn chồng đều rất có duyên với người khác giới, sau kết hôn vẫn giao du với bạn bè khác giới, dễ phát triển thành tình nhân ờ bên ngoài hoặc ngoại tình; người phối ngẫu đối xử vui vè với anh em bạn bè cùa mệnh tạo.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung tài bạch

Người phối ngẫu có tài vận tốt, có tiền nhiều hơn mệnh tạo; sau kết hôn có thể nhờ người phối ngẫu trợ lực mà tăng thêm tài phú; tình cảm vợ chồng tốt đẹp, người phối ngẫu giỏi giao tế, có trợ lực cho mệnh tạo phát triển sự nghiệp; người phối ngẫu kiếm tiền thuận lợi toại ý, có khuynh hướng sáng lập cơ nghiệp, dễ kiếm tiền, thích hưởng thụ.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung tật ách

Người phối ngẫu tính tình lạc quan, dễ phát phì, năng lực tính dục mạnh, sẽ đeo dính mệnh tạo, nhưng không tạo áp lực cho mệnh tạo, con cái khá nhiều, cũng khá lao tâm. Mệnh tạo có hứng thú với chính giới, rất có duyên với người khác giới, dễ có cơ hội đào hoa, lình cảm vợ chồng tốt đẹp, có lòng thương người, quan tâm nhiều về sức khỏe của mình.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung thiên di

Người phối ngẫu có tính hướng ngoại, duyên ở bên ngoài khá tốt, đi xa vui vẻ, có nhiều quý nhân trợ giúp, thường hay viễn du. Mệnh tạo rất có duyên với người khác giới, duyên hôn nhân đến sớm, tình cảm thuận lợi, được người phối ngẫu quan tâm, chăm lo, trợ giúp kiếm tiền, có điều kiện để hôn nhân hạnh phúc.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc

Người phối ngẫu xử sự với bạn bè của mệnh tạo rất tốt đẹp, tính cách hướng ngoại, nhiều bạn bè, biết giao tế, lạc quan, dễ phát phì, có duyên với trưởng bối. Mệnh tạo biết kiếm tiền, nhưng cũngdễ bị người giật liền; công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo gặp nhiêu co hội lốt, có không gian để phát triển, có thể làm ăn mua bán.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung quan lộc

Người phối ngẫu rất có duyên với người chung quanh, quan tâm sự nghiệp của mệnh tạo, có trợ lực cho sự nghiệp của mệnh tạo; người phối ngẫu nặng tinh thần sự nghiệp, có hứng thú với nhiều lãnh vực, công việc hay sự nghiệp đêu vừa ý, vùi vẻ trong công việc, làm việc bận rộn, đi làm có lương cao, thăng tiến nhanh.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch

Người phối ngẫu rất chăm lo cho gia đình, rất có duyên với người khác giới, nhiều bạn bè, cuộc sống vợ chồng khá hạnh phúc. Hoàn cảnh công việc hay sự nghiệp cùa mệnh tạo khá tốt đẹp, có phát triển.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức

Người phối ngẫu có phúc khí, được hường thụ, cuộc sống vợ chồng khá hạnh phúc, người phối ngẫu có sự nghiệp riêng của mình, còn có thể chi viện tiền bạc cho mệnh tạo.

Cung Phu Thê phi Hóa Lộc nhập cung phụ mẫu

Người phối ngẫu có mối quan hệ tốt đẹp với cha mẹ và bậc trưởng bối của mệnh tạo, là người thông minh, biết kiếm tiền, quan tâm chăm sóc gia đình của mệnh tạo, có tiền mang về nhà.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền

Cung Phu Thê tự Hóa Quyền

Người phối ngẫu có cá tính mạnh, tính bướng bỉnh, có năng lực, có tài năng, có thể giúp mệnh tạo sáng lập cơ nghiệp, thích can dự vào sự nghiệp của mệnh tạo. Hôn nhân của mệnh tạo là kiểu tiếng sét ái tình, mới gặp đã yêu; cũng có thể vì người nhà ép buộc hoặc lỡ có con mà phải kết hôn; vợ chồng không nhường nhịn nhau, dễ xảy ra tranh chấp, cãi vả.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung mệnh

Người phối ngẫu có thế mạnh, sẽ quản thúc mệnh tạo, giữa vợ chồng dễ có tranh chấp; lúc người phối ngẫu ra bên ngoài, đều có mục tiêu rõ ràng, khá chủ động, tích cực; về sự nghiệp hay công việc đều có tác phong hành sự quả quyết, rõ ràng và mau lẹ.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung huynh đệ

Người phối ngẫu nắm quyền về sinh kế gia đình, thường cónhiều ý kiến về anh chị em của mệnh tạo, nhưng thái độ xử sự rất tốt đẹp, có thể cùng nhau bàn bạc; công việc hay sự nghiệp của người phối ngẫu có thể được khẳng định. Công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo cũng tiến hành thuận lợi, có dục vọng vềquyền lực, thường xảy ra tranh chấp với cấp trên.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung tử tức

Người phối ngẫu dạy dỗ con cái khá nghiêm khắc, có nhiều ý kiến và yêu cầu cao đối với gia đình, nhung cũng rất quan tâm chăm lo cho gia đình; cơ năng tính dục của người phối ngẫu rất tốt; cũng có dục vọng cao về bất động sản.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung tài bạch

Người phối ngẫu giỏi quản lí tài chính, nắm quyền về kinh tế, có thể giúp mệnh tạo kiếm tiền; thái độ xử sự với người khác ở thế mạnh, nặng phô trương, xem trọng thể diện, chú trọng hưởng thụ, sẽ quản thúc mệnh tạo nhưng cũng chăm lo cho mệnh tạo.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung tật ách

Người phối ngẫu có thân thể cường tráng, làm việc chăm chỉ, cá tính mạnh, không dễ nghe lời khuyên của người khác; sẽ đeo dính mệnh tạo, nhưng cũng bắt mệnh tạo làm việc. Mệnh tạo có hứng thú với chính giới.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung thiên di

Người phối ngẫu ở bên ngoài thích được người ta khẳng định, ưa tranh cường hiếu thắng, ưa ra lệnh; cũng rất thích quản thúcmệnh tạo, nhất là hoạt động giao tế ở bên ngoài. Mệnh tạo thường vì đi làm việc ở bên ngoài mà phải bôn ba vất vả, thích hợp công tác ngoại vụ.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung nô bộc

Người phối ngẫu không tùy tiện giao du bạn bè, mà có chọn lựa, rất trung thành với bạn bè; nhưng cũng có cạnh tranh, có nhiều ý kiên tranh luận với bạn bè; đối với vấn đề sinh kế gia đình thì không được vừa ý, nhưng cũng có thể gánh vác; đối với anh em bạn bè của mệnh tạo cũng có nhiều ý kiến, nhưng vẫn xừ sự tốt.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung quan lộc

Người phối ngẫu hành sự tích cực, có húng tâm tráng chí, có trạ lực cho sự nghiệp của mệnh tạo, phàm chuyện gì cũng ưa chiếm thượng phong, giữa vợ chồng thường xảy ra tranh chấp; thích sáng lập cơ nghiệp, có thể nắm quyền, tài năng và năng lực đều có thể được khẳng định.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung điền trạch

Người phối ngẫu ờ nhà hay ra oai, nắm quyền, có sức ảnh hường, ưa ra lệnh, nghiêm khắc với con cái. Mệnh tạo có thể nhờ người phối ngẫu trợ giúp mở tiệm làm ăn, kiếm tiền mua tậu nhà cửa.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung phúc đức

Người phối ngẫu có vận sự nghiệp tốt, cũng có thể giúp mệnh tạo phát triển, chú trọng hưởng thụ, vì thể diện có thể tiêu xài một khoản tiền lớn, nhưng cũng có năng lực quản lí tài chính rất tốt.

Cung Phu Thê phi Hóa Quyền nhập cung phụ mẫu

Người phối ngẫu có sức ảnh hưởng trong gia đình của hai người, có nhiều ý kiến không hợp với cha mẹ của mệnh tạo, nhưng vẫn cư xử phải đạo, lại rất quan tâm chăm lo cho mệnh tạo.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa

Cung Phu Thê tự Hóa Khoa

Người phối ngẫu có công phu tu dưỡng, có phong độ, lịch sự nhã nhặn, tú lệ đoan trang, xem trọng hình tượng của bản thân, rất có duyên với người chung quanh, có tố chất văn nghệ, gia thế thanh bạch, thường là con nhà thư hương. Hôn nhân của mệnh tạo thường là đồng sự, đồng hương, hoặc do người khác giới thiệu; công việc cùa mệnh tạo bình yên thuận lợi, ít sóng gió trắc trở, tự sáng lập sự nghiệp có thê có thanh danh, nhưng làm gì cũng không mở rộng, chi bình ổn mà thôi; hôn nhân cùa mệnh tạo dễ có người thứ ba xen vào, mà còn bị phát hiện rất nhanh.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung mệnh

Vợ chồng hai người đều có duyên với người khác giới, dễ có ngưòi thứ ba xen vào, tuy khó tránh có sóng gió, nhưng tình càm của hai người không mất, vẫn có thể sống với nhau đến đầu bạc. về sự nghiệp, người phối ngẫu có thể xoay sở vốn giúp mệnh tạo.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung huynh đệ

Người phối ngẫu đối xừ hiên hòa với anh em bạn bè; công việc hoặc sự nghiệp của người phối ngẫu đều bình ổn, có kế hoạch rõ ràng về sinh kế gia đình.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung tử tức

Người phối ngẫu dạy dỗ con cái rất sáng suốt, đúng cách, khiến cho chúng có không gian tự phát triển. Vợ chồng hai người đều rất có duyên với người khác giới, sau kết hôn vẫn còn có người theo đuổi.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung tài bạch

Người phối ngẫu xừ lí tài vụ rất có kế hoạch, tính toán rõ ràng, còn có thể trợ giúp mệnh tạo điều chuyển vốn liếng, xử sự rất có phong độ, hiền hòa, sáng suốt; vợ chồng tôn trọng nhau, hình tượng lúc nào cũng mới mẻ.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung tật ách

Người phối ngẫu hiền hòa, sáng suốt, có lí lẽ , tôn trọng và quân tâm chăm sóc mệnh tạo, hiếu thuận với bậc trưởng bối, đối đãi anh em bạn bè của mệnh tạo rất tốt. Mệnh tạo có hứng thú hoạt động trong chính giới

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung thiên di

Người phối ngẫu ra bên ngoài khá thuận lợi, gặp nhiều quý nhân, có hình tượng tốt, có tiền riêng, quan tâm chăm sóc mệnh tạo, thái độ hiền hòa, nhã nhặn.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung nô bộc

Bạn bè của người phối ngẫu phần lớn đều sáng suốt, có lí lẽ, thái độ hiền hòa lễ độ, xử sự hòa hợp, có thể giúp đỡ lẫn nhau; về công việc hay sự nghiệp, người phối ngẫu có thể được cấp trên hay đông sự trợ lực.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung quan lộc

Người phối ngẫu rất có duyên với người chung quanh, có trợ lực cho sự nghiệp công danh cùa mệnh tạo; về phương diện sự nghiệp hay công việc cùa họ, đêu có thể phát huy tài năng, được khẳng định.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung điền trạch

Người phối ngẫu rất có duyên với người khác giới, biết trông nom lo liệu cho gia đình, sinh hoạt gia đình thư thả và thoải mái.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung phúc đức

Người phối ngẫu có sự tu dưỡng tốt, có khí chất, có thị hiếu thanh nhã, làm việc có kế hoạch, chú trọng phẩm chất của cuộc sống, hường thụ có cân đối thu chi, công việc hay sự nghiệp đều bình ổn, có thể giúp mệnh tạo lên kế hoạch về tài chính, trợ giúp mệnh tạo trong sự nghiệp, đời sống hôn nhân hạnh phúc, có bầu không khí lãng mạn.

Cung Phu Thê phi Hóa Khoa nhập cung phụ mẫu

Người phối ngẫu là con nhà có gia giáo, đối xử vui vẻ với cha mẹ của mệnh tạo, quan hệ rất tốt với bậc trưởng bối, có thể được cấp trên đề bạt, nâng đỡ; thích hợp làm biệc trong cơ cấu lớn như cơ cấu công hay cơ cấu giáo dục.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị

Cung Phu Thê tự Hóa Kị

Người phối ngẫu có tính tình thẳng thắn , nhưng thiếu tự tin, hơi bi quan , dễ chuốc oán với tiểu nhân, thể chất yếu, nhiều bệnh đau, không trợ lực được cho công việc hay sự nghiệpcủa mệnh tạo. Mệnh tạo có duyên bạc với hôn nhân, khó tìm được đối tượng kết hôn, có khả năng sẽ không có hôn nhân, sau kết hôn dễ xảy ra tinh trạng đồng sàng dị mộng, thường vì chuyện nhỏ mà cãi vả, hôn nhân khó hạnh phúc.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung mệnh

Tốt nhất là mệnh tạo nên kết hôn muộn, kết hôn sớm thường thường sẽ khó sống với nhau đến đầu bạc; nữ mệnh thường là người mẹ đơn thân, giữa vợ chồng có nhiều lời oán trách nhau. Sự nghiệp của mệnh tạo phát triển không được thuận lợi.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ

Người phối ngẫu khó hòa hợp với anh em bạn bè của mệnh tạo, con đường giao lưu cảm thông giữa vợ chồng dễ bị đứt đoạn giữa chừng, đây là cuộc hôn nhân không được chúc phúc; sau kết hôn sinh kế gia đình dễ bị rơi vào cảnh khó khăn; trước khi kết hôn cũng gặp nhiều sóng gió trắc trở, hoặc khó có hôn nhân; sự nghiệp làm ăn không thuận lợi.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung tử tức

Người phối ngẫu quàn tâm lo liệu cho con cái thái quá, gây áp lực lớn cho con cái, tạo ra sự ngăn cách giữa hai bên, cách xử sự không được tốt đẹp; người phối ngẫu không thích ngồi đợi ở nhà, thường ra ngoài, đi xa. Lúc đi ra ngoài mệnh tạo nên cẩn thận, dê xảy ra sự cố giao thông. Sau kết hôn gia đình không yên ổn, dễ có ngườithứ ba xen vào, có thể sẽ có hôn nhân lần thứ hai, quan hệ giao tế không được tốt.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung tài bạch

Mệnh tạo xừ lí vấn đề tình cảm với bạn khác giới không thỏa đáng, nên đánh mất tình yêu. Người phối ngẫu xem trọng tiền bạc, nhưng không giỏi quản lí tài chính, thường không giữ được tiền; tình càm vợ chồng không được tốt đẹp, sẽ vì tiền bạc mà cãi vả.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung tật ách

Người phối ngẫu cá tính thẳng thắn, thể chất yếu, hay ghen tuông, sẽ đeo dính mệnh tạo, gây áp lực lớn cho mệnh tạo, dễ đánh mất tình yêu. Mệnh tạo thiếu duyên vợ chồng, dễ có tình hình sống chung như vợ chồng mà không kết hôn chính thức, nhưng nếu có kết hôn chính thức thì khó li hôn; sinh hoạt tính giao của vợ chồng không hòa điệu; sau kết hôn sẽ ra riêng, nhưng cuộc sống dễ xảy ra sóng gió.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung thiên di

Người phối ngẫu không giữ được tiền, thường bôn ba ở bên ngoài, ra ngoài dễ có tai ách; trước khi kết hôn phần nhiều người phối ngẫu đã từng có tình yêu. Mệnh tạo nên kết hôn muộn, vợ chồng duyên phận bạc, dễ bị tình trạng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc sinh li tử biệt; nếu phối ngẫu ỉà người xứ khác hoặc lớn hơn trên bảy tuổi, thì có thể sống với nhau lâu dài. Hôn nhân khó hạnh phúc, trước khi kết hôn tuy có đào hoa, nhưng cũng khó kết hôn.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung nô bộc

Người phối ngẫu có thể chất kém, khó mập; ít bạn bè, đối với bạn bè rất trọng tình nghĩa, nhưng thường gặp thị phi phiền phức, nếu có qua lại tiền bạc thì dễ bị thua thiệt. Sau kết hôn sinh kế gia đình dễ bị khủng hoảng, tiền giành dụm cũng dễ bị ,bạn bè giật; sự nghiệp gặp sóng gió, phát triển không thuận lợi.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung quan lộc

Người phối ngẫu có tính hướng ngoại, thường bôn ba ở bên ngoài, không trợ lực cho sự nghiệp của mệnh tạo. Mệnh tạo sẽ sổng với người phối ngẫu đến già, và cũng cãi nhau đến già. Người phối ngẫu dốc toàn bộ tinh thần vào công việc, có tính chuyên nghiện, nhưng công việc hay sự nghiệp không ổn định, thường có tình trạng bò dở nửa chừng. Lúc ra ngoài mệnh tạo nên cẩn thận, phòng sự cố giao thông; nên kết hôn muộn.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung điên trạch

Mệnh tạo thường kết hôn muộn, muộn thì có con trai. Người phối ngẫu tuy chăm lo cho gia đình, nhưng thường bôn ba ở bên ngoài. Tình cảm vợ chồng không được hòa hợp, hôn nhân dễ có người thứ ba xen vào, nhưng dù có tình nhân ở bên ngoài vẫn khó li hôn; mệnh tạo ra ngoài phải cẩn thận phòng sự cố giao thông.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung phúc đức

Tâm thần của người phối ngẫu không được yên ổn, hay đâm đầu vào những chuyện không giải quyết được, tư tưởng dễ bị xung động, đời sống hôn nhân của hai người khồng được hạnh phúc, vợ chồng dễ vì tiền bạc mà cãi vả; người phối ngẫu không giữ được tiền, thường vì tâm trạng không tốt mà tiêu tiền để giải khuây.

Cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu

Người phối ngẫu có gia thế không tốt, thể chất yếu, xử sự không hòa hợp với cha mẹ của mệnh tạo. Vợ chồng duyên bạc, gần nhau ít mà xa nhau nhiều, dễ xảy ra tình trạng li hôn. Công việc hay sự nghiệp của người phối ngẫu không thuận lợi, khó được đề bạt, nâng đỡ; sau kết hôn sự nghiệp thường xuống dốc.

Thay lời kết

Cung Phu Thê trong lá số Tử Vi rất là quan trọng. Khi xét đoán cần cân nhắc ảnh hưởng từ các tinh diệu tại Cung Quan Lộc và Cung Thiên Di và Cung Phúc Đức để đưa ra luận đoán phù hợp. Trường hợp cẩn trọng cần quan tâm thêm Mệnh Thân đương số. Điều cần lưu ý là Cung Phu Thê chỉ phản ánh mối quan hệ giữa người phối ngẫu và đương số. Chứ tuyệt đối không dùng Cung Phu Thê để luận về người phối ngẫu của mình…

Cung Thiên Di – Luận Cung Thiên Di Vô Chính Diệu

0
Cung Thiên Di – Luận Cung Thiên Di Vô Chính Diệu

Cung Thiên Di biểu thị không gian hoạt động bên ngoài của mỗi cá nhân cũng như khả năng thích ứng với sự thay đổi hoàn cảnh của đương số. Bám chặt quê hương để phát triển sự nghiệp là điều thuận lợi, nhưng cũng có người phải bôn tẩu tha hương, xuất ngoại trùng dương mới có thể cuốn gió tung mây, tung hoành ngang dọc trong nghề nghiệp của mình. Đây là những điều thường gặp trong thực tế xã hội.

(Tuvivietnam – Siêu Tầm)

Chính vì thế, môn Tử Vi Đẩu Số mới có Cung Thiên Di để luận đoán sự xa rời tổ nghiệp, truy tìm công danh nơi đất khách quê người có thích hợp cho vận mệnh hay không…

Thiên Di ấy mã binh ngồi

Đánh đông dẹp bắc pha phôi cõi ngoài

Long đong đông tẩu tây trì

Chẳng qua thiên mã Thiên Di hãm nhàn

Thiên Di Nhật Nguyệt giáp đôi

Nhất sinh xuất ngọai nhiều nơi thế thần.

Thiên Di, Hoá Kị ra ngoài

Kẻ thù người oán chẳng ai gần mình.

Thiên Di Địa Kiếp cơ Liêm

Hồn quy phách lạc cánh tiên lánh phàm.

Quan cung Hỉ ngộ Hồng Đào

Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào.

Thiên Di Hoa cái Hỉ Thần

Thiên Di Phụ bật quý nhân yêu chiều

Chơi bời du thuỷ du sơn

Thiên Di ngộ Mã gặp thằng Đà La.

 

Cung Thiên Di là gì – Luận Cung Thiên Di

Cung Thiên Di là gì? - Luận Cung Thiên Di - Cohoc.vn

Trong Tử Vi Đẩu Số, Cung Thiên Di dùng để luận đoán về vấn đề từ nơi sinh ra, dời đến nơi khác để ở. Đồng thời cũng có thể dùng để luận đoán tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên Di của lưu niên (Lưu niên Thiên Di Cung), cũng có thể luận đoán về những tao ngộ khi đi xa, như có vui vẻ hay không, có bị trộm cướp hay không, có gặp điều gì bất ngờ hay không…

  • Do Cung Thiên Di và Cung Mệnh xung chiếu nhau. Vì vậy các sao ở Cung Thiên Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo. Đặc biệt là về năng lực xã giao, quan hệ giao tế…
  • Cung Thiên Di tam hợp với Cung Phúc Đức, nên sự hưởng thụ tinh thần của một người đúng là có liên quan đến quan hệ giao tiếp hay hoạt động xã giao của người đó. Còn việc sinh hoạt nơi đất khách phương xa về mặt tinh thần là tốt hay xấu. Đương nhiên có thể căn cứ vào đây để mà luận đoán.
  • Môn Tử Vi Đẩu Số bài bố Cung Thiên Di tam hợp với Cung Phu Thê là rất hợp lý. Bởi vì,cho dù là ở thời cổ đại, một người rời xa gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê hương sinh sống làm ăn. Đương nhiên cũng có quan hệ với đời sống sinh hoạt vợ chồng. Ngay cả những mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng từ phía người phối ngẫu. Còn mang gia đình đi nơi khác lập nghiệp thì lại càng có quan hệ mật thiết với người phối ngẫu.

Do đó có thể thấy Cung Thiên Di hay các tổ hợp sao từ nó là rất quan trọng. Thậm chí có thể nói chỉ kém hơn Cung Mệnh và cung thân. Hơn nữa, khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cần biết. Đó là khi một người rời nơi mình sinh ra để đến nơi khác ở. Xu thế mệnh vận của năm đầu tiên là do Cung Thiên Di quyết định, chứ không phải Cung Mệnh. Do đó cần phải lấy Cung Thiên Di làm Cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác thì vẫn không thay đổi.

Giả sử như một người không ngừng di chuyển (như thủy thủ, thương gia,…). Vĩnh viễn không ở lâu dài một nơi nào đó, thì Cung Thiên Di càng trở nên quan trọng, đến mức tiệm cận Cung Mệnh thân.

Sao Tử Vi ở Cung Thiên Di

Khi Sao Tử Vi thủ Cung Thiên Di, chủ về xuất ngoại được người ngoài kính trọng. Nếu lại có Tả phụ hữu bật hội chiếu thì chủ đi xa là có người trợ giúp, cũng chủ về giao du rộng rãi, có nhiều bạn bè tốt.

Nếu gặp Thiên Khôi, Thiên Việt hoặc Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì chủ về có quý nhân trợ lực nên được lợi ích. Nếu các sao của Cung Mệnh không cát tường, thì nên suy tính đến việc rời khỏi nơi sinh ra để phát triển.

Tử Vi hội chiêu Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã, chủ về đi xa được tiền bạc, cũng nên xuất ngoại. Nhưng nếu đồng thời có sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu thì chủ về xuất ngoại tuy kiếm được tiền bạc nhưng lại có cạnh tranh và giao du với kẻ xấu.

Nếu Tử Vi và Lộc Tồn đồng độ, chủ về xuất ngoại có thể phát tài nhưng dễ bị người ta chèn ép, bài xích. Nên tránh quá lộ tài năng.

Kình Dương, Đà La hội chiếu với Tử Vi, chủ về ít duyên với người, quan hệ giao tế kém. Cũng chủ về tâm tính không yên. Tử Vi có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, Thiên Hình hội chiếu, thì ở bên ngoài gặp nhiều điều tiếng thị phi. Sát tinh nặng lại chủ về phạm pháp, phá tài.

  • Tử Vi Thiên Phủ đồng cung, xuất ngoại được người ta tôn trọng hoặc đề bạt. Rời quê hương kinh doanh hoặc làm việc, có thế đắc lợi, còn được nâng cao địa vị xã hội. Tử Vi gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, Hóa Lộc, chủ về xuất ngoại tài khi dồi dào.
  • Tử Vi Phá Quân đồng cung, xuất ngoại được người giúp đỡ. Nhưng đồng thời ắt cũng sẽ có tiểu nhân đô Kị, thị phi.
  • Tử Vi Thiên Tướng đồng cung, có sát tinh thì bán cát bán hung. Vừa được người trợ lực mà cũng bị người phá. Nếu không có sát tinh hội chiếu thì ở bên ngoài sẽ được như ý nguyện, cũng chủ về có thể phát đạt.
  • Tử Vi Tham Lang đồng cung, không có sát tinh hội chiếu, đi xa thường được người ta hoan nghênh, tôn trọng, và giao tế thù tạc vui vẻ. Có sát tinh, chủ về phải lao tâm lao lực mới thành sự nghiệp. Nếu gặp nhiều sao sát, Hóa Kị, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hinh, thì chủ về bị trộm cướp mà hao tài tốn của.
  • Tử Vi Thất Sát đồng cung, đi xa được người kính nể. Hoặc đi xa gặp quý nhân. Nhưng nếu có sát tinh và Thiên Hình hội hợp, thì chủ về ở bên ngoài bị người ta làm liên lụy hoặc hãm hại.

Sao Thiên Cơ ở Cung Thiên Di

Khi ở Cung Thiên Di, bởi Sao Thiên Cơ là vì sao hiếu động, trôi nổi, chủ về hoạt động, thay đổi. Cho nên phàm Thiên Cơ ở Cung Thiên Di, trái lại sẽ có lợi nếu rời khỏi quê hương để phát triển. Nếu ở quê hương, sẽ chủ về tâm chí dao động, không ổn định, hay đứng núi này trông núi nọ, hơn nữa còn dễ sinh điều tiếng thị phi.

Nhưng nếu Thiên Cơ ở Cung Thiên Di có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu lại chủ về đi xa bất lợi, có điều tiêng thị phi, phá tài, nạn tai hung hiểm bất ngờ.

Nếu Thiên Cơ ở Cung Thiên Di có Thái Âm vây chiếu, chủ về đi xa có thể kiếm được tiền bạc. Có Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu, cũng chủ về đi xa có tài khí. Hội hợp với Thiên Mã càng chủ về phát đạt ở phương xa. “Lộc Mã Giao Trì” mà gặp sát tinh, chủ về cuộc đời bôn ba bận rộn; sát tinh nặng thậm chí sẽ phiêu bạt chân trời, tuy có thể đắc lợi, nhưng vất vả dị thường.

  • Thiên Cơ, Thái Âm củng chiếu hay tương hội đều chủ về đi xa kiếm được tiền bạc. Thêm sao cát thì càng tốt. Nếu “Lộc Mã Giao Trì” càng chủ về đi xa hoặc đi nơi khác ở có thể trở thành cự phú.
  • Tổ hợp “Thiên Cơ Cự Môn” bất kể Thiên Cơ hội chiếu hay đồng độ với Cự Môn thì đều nên xuất ngoại để sáng lập sự nghiệp, nhưng phải dùng khẩu tài. Nếu đồng thời có sát tinh hội chiếu, thì chủ về ở bên ngoài có điều tiêng thị phi, bị xâm phạm, quây nhiễu. Nếu gặp Hóa Kị và Thiên Hình, thì chủ về có tai họa bất ngờ hoặc phạm pháp.
  • Tổ hợp “Thiên Cơ Thiên Lương” chủ về xuất ngoại gặp cơ duyên, phần nhiều là cơ hội trở thành hiện thực, không làm mà được. Hoặc chủ về được quý nhân trợ lực. Gặp một hai sát tinh, lại gặp thêm Văn Xương, Văn Khúc, thì nghèo nàn, thất chí, hoặc là văn sĩ giang hồ.

Sao Thái Dương ở Cung Thiên Di

Sao Thái Dương cũng không phải là sao yên tĩnh, tuy tính hiếu động, trôi nổi không bằng Thiên Cơ. Nhưng cũng nên động mà không nên tĩnh. Cho nên phàm Thái Dương ở Cung Mệnh, không nên tịnh thủ, nên xuất ngoại phát triển. Nếu đi xa hoặc đi nơi khác ở, có thể nhờ được gần quý nhân mà thành sự nghiệp.

Nhưng nếu Thái Dương rơi vào hãm địa, thì lại chủ về xuất ngoại phải bôn ba bận rộn, lao tâm lao lực. Tuy gần quý nhân, cũng chỉ để quý nhân sai bảo.

Nếu Thái Dương Hóa Kị, thì nhiều bôn ba nhưng cuối cùng chẳng có thành tựu. Nếu Hóa Kị mà còn gặp sát tinh, ở bên ngoài dễ bị nạn tai hoặc bệnh tật.

Thái Dương ở Cung Phúc Đức gặp tứ sát tinh, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh và Địa Không, Địa Kiếp, đi xa ắt có thị phi, phá tán, hư hao.

  • “Thái Dương Thái Âm” đồng độ, xuất ngoại ắt bận rộn, vất vả bôn ba. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt thì được nhiều quý nhân trợ lực, có thể phát đạt, nhưng không được tranh chấp với người khác. Nếu không, dù không gặp sát tinh cũng chủ về phá tán, hư hao.
  • Thái Dương và Cự Môn đồng độ ở cung Dần là tốt nhất trong các cung. Gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hoặc Lộc Tồn. Chủ về đi xa có thể thành tựu sự nghiệp lớn, lời nói được người khác tín nhiệm. Còn được người ở nơi xa tán thưởng và ủng hộ, có thu hoạch bất ngờ. Nếu Cự Môn Hóa Kị thì chủ về điều tiếng. Thái Dương Hóa Kị, thì bôn ba vất vả mà không có thành tựu.
  • Thái Dương, Thiên Lương ở Cung Thiên Di, rất có lợi về xuất ngoại cầu danh, nên đi xa cầu học. Nếu có bộ sao Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn hội hợp Cung Thiên Di. Nhất định chủ về danh thành lợi tựu ở quê người. Thái Dương Hóa Kị, thì nhiều điều tiếng thị phi. Có điều, nếu ở nơi xa mà dạy học, làm công việc nghiên cứu học thuật, hoặc làm nghề luật sư, bán hàng, chào hàng, thì có Hóa Kị cũng không sao.

Sao Vũ Khúc ở Cung Thiên Di

Khi Sao Vũ Khúc thủ Cung Thiên Di, trong tình huống thông thường thì bất lợi về đi xa hoặc không nên dời đi nơi khác ở. Vì Vũ Khúc là sao chủ về tiền bạc, nên tĩnh không nên động.

Cho nên phàm Vũ Khúc ở Cung Thiên Di, xuất ngoại ắt sẽ lao tâm phí sức. Dù có sao cát phù trì cũng chủ về bôn ba vất vả rổi mới phát tài. Nếu có các sao ác sát Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Hư hội chiếu thì ở bên ngoài dù bôn ba vất vả vẫn không có kết quả. Vì vậy sẽ dễ thành bi quan, tiêu cực. Hoặc làm việc hay phạm lỗi mà sinh ra bất hòa, tranh chấp. Thường thường việc sắp thành lại hỏng, cũng đủ khiến cho người ta bi quan thất vọng.

Nếu Vũ Khúc Hóa Kị, lại gặp các sao sát, hình, Kị, thì chủ về ở quê người bị nạn tai tật bệnh, phá tán hao tài rất lớn.

  • “Vũ Khúc Thiên Phủ” đồng độ, chủ về đi xa phát tài, trở nên giàu có, xuất ngoại càng tốt. Nhưng nếu gặp Đà La, Hỏa Tinh, Kiếp Sát, thì nên đề phòng bị tiểu nhân ám hại. Nếu gặp Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp thì vì âm mưu mà xảy ra nạn tai tật bệnh. Nếu gặp Kình Dương thì chủ về bị kiện tụng, phạm pháp.
  • Vũ Khúc và Tham Lang đồng độ, chủ về ở nơi xa phát đạt, giàu có. Nhưng không nên gặp thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh. Sẽ không chủ về phát lên một cách nhanh chóng, mà chỉ chủ về thị phi, bất hòa, tranh chấp. Vũ Khúc và Tham Lang đổng độ, ưa gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về danh lợi song thu.
  • “Vũ Khúc Thiên Tướng” đồng độ, chủ về ở bên ngoài danh lợi song thu, tiền tài đắc ý. Nhưng nếu gặp tứ sát và Thiên Hình hội chiếu, thì trái lại, chủ về ở quê người cô độc. Các sao sát, hình, Kị mà nặng thì chủ về bị tiểu nhân hãm hại.
  • “Vũ Khúc Thất Sát” đồng độ, chủ về ở quê người năng lực hoạt động rất mạnh, giao du rộng rãi, nhờ đó mà có tiền tài lợi lộc. Nhưng nếu Vũ Khúc Hóa Kị, ở quê người sẽ bị nạn tai tật bệnh, hoặc sự nghiệp thất bại. Nếu định cư ở nước ngoài, thì trong cuộc đời ắt sẽ có lần phạm pháp. Nếu gặp nhiều sao sát, hình, Kị thì còn chủ về bị tai họa lao ngục.
  • Vũ Khúc và Phá Quân đồng độ, chủ về ở nước ngoài làm nghề, hoặc làm công việc chuyên môn hay nghệ thuật để mưu sinh. Gặp cát tinh cũng có thành tựu, nhưng vẫn chủ về tình thần không yên ổn.

Thiên Đồng Cung Thiên Di

Sao Thiên Đồng ở Cung Thiên Di, chủ về động tĩnh đều được. Nếu gặp “Lộc Mã Giao Trì” ở Cung Thiên Di, chủ về ở tha hương có thể trở nên giàu có. Nếu không cũng chủ về đi xa được phúc.

Nhưng nếu Thiên Đồng lạc hãm có Kình Dương, Đà La hội chiếu, thì ở bên ngoài phần nhiều bị rối bời và tai họa. Nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh và Thiên Hình hội chiếu, thì ở bên ngoài có tranh chấp, đấu đá. Nếu có Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu, chủ về mất mát tiền bạc, tài vật trong chuyến đi xa. Hoặc vì chuyện phá tán hao tài mà phải ở lại nơi đất khách quê người.

Nếu Thiên Đồng nhập miếu, gặp tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, vẫn chủ về không yên ổn.

  • “Thiên Đồng Thái Âm” đồng độ, chủ về viễn du trùng dương, đi xa trở nên giàu có. Nhưng khó tránh bôn ba vất vả. Nếu Thái Âm lạc hãm, thì chủ về gian khổ.
  • “Thiên Đồng Cự Môn” đồng độ, rất ưa có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền đồng cung. Chủ về viễn du trùng dương, tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng cũng gặp nhiều buồn phiền, điều tiếng thị phi.
  • “Thiên Đồng Thiên Lương” đồng độ, chủ về đi xa phát triển ổn định. Nếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, phần nhiều được trợ lực, dìu dắt, giúp đỡ. Nhưng nếu Thiên Đồng Hóa Kị thì gặp nhiều điều tiếng, sự tình rối bời, không được yên ổn. Gặp sát tình, chủ về bị tiểu nhân âm mưu xâm hại.

Liêm Trinh Cung Thiên Di

Sao Liêm Trinh ở Cung Thiên Di thì không nên lưu luyến nơi mình sinh ra, mà nên đi xa, ở tha hương. Ưa được các sao cát hội chiếu. Tất ngại Hóa Kị, kế đến là ngại gặp sát tinh.

Liêm Trinh là sao thứ đào hoa. Vì vậy nếu Liêm Trinh Hóa Kị, chủ về ở bên ngoài vì tửu sắc mà chuôc họa. Gặp thêm sát tinh, Thiên Hình, Đại Hao ở tam phương tứ chính, mà không có cát tinh hóa giải, thì chủ về chết ở tha hương. Nếu các sao sát, hình mà nhẹ, có sao cát nâng đỡ, nhưng gặp Thiên Nguyệt thì chủ về nhiễm bệnh ở tha hương.

Liêm Trinh rất ưa gặp Tử Vi, Thiên Tướng, có thể hóa giải tính hung của nó. Chủ về ở quê người được quý nhân trợ lực.

  • Liêm Trinh được Thiên Tướng đồng độ, khí chất sẽ chuyển thành “may mắn, bình hòa”. Chủ về xuất ngoại nhưng có tính kiên nhẫn cương nghị, cuối cùng có thể sáng lập sự nghiệp. Ưa gặp nhất là tam cát hóa và Lộc Tồn, chủ về đạt được danh lợi, dù gặp các sao sát, Kị, hình, hao, cũng có thể chuyển nguy thành an. Nhưng cũng chủ về ở nơi xa ít có duyên với người. Dù được Tả Phụ, Hữu Bật nâng đỡ, vẫn khó tránh khỏi sự cô độc.
  • Liêm Trinh và Thất Sát đồng độ, tình huống cát hung sẽ thay đổi rất lớn. Có Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu, chủ về ở nơi xa phát đạt. Nhưng nếu có sát tinh, Hóa Kị hội chiếu, thì chủ về ở nơi xa vì tiền bạc mà sinh tai nạn, hoặc vì tửu sắc mà sinh họa, hoặc có tai nạn chảy máu. Cho nên gặp kết cấu sao dạng này ở Cung Thiên Di của lưu niên hoặc của đại hạn thì trong niên hạn đó không nên xuất ngoại, đi xa, Nếu người đã rời quê hương thì nên ở yên, không được đi nơi khác nữa, đợi niên hạn đó qua mới có thể di động.
  • Kết câu Liêm Trinh và Phá Quân đồng độ tương đồng với kết cấu Liêm Trinh và Thất Sát đồng độ, mọi người có thể tham khảo ở phần trên. Nhưng Liêm Trinh và Phá Quân thủ Cung Thiên Di mà gặp sao cát, tuy có thể phát đạt, cũng chủ về phải lao tâm phí sức, nhưng thành tựu không lớn bằng kết câu Liêm Trinh và Thất Sát.
  • Liêm Trinh và Tham Lang đồng độ ở Cung Thiên Di, chủ về có sở trường giao thiệp ở nơi xa, quan hệ giao tế rất tốt, nhiều thù tạc. Gặp cát tinh thì có thể nhờ đó mà phát phúc. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ, lại chủ về phát lên một cách nhanh chóng ở nơi khác. Nếu gặp Tham Lang Hóa Kị, thì việc sẽ không như lí tưởng. Nếu Liêm Trinh Hóa Kị, thì chủ về ở nơi xa vì tửu sắc mà sinh tai ách.
  • “Liêm Trinh Thiên Phủ” đồng độ, ở bên ngoài giao du rộng rãi. Gặp cát tinh, có thể làm thương gia giàu có. Gặp sát tinh, thì làm việc phần nhiều phải hao tổn tinh thần.

Sao Thiên Phủ ở Cung Thiên Di

Sao Thiên Phủ ở Cung Thiên Di, chủ về nên có đủ động tĩnh. Nếu xuât ngoại hoặc đi ở nơi khác, có thể vừa ý, hơn nữa còn được người ta tôn trọng, có trợ lực, sáng lập sự nghiệp hoặc kinh doanh làm ăn đều có thể thành giàu có. Nhất là có Vũ Khúc đồng độ hoặc hội chiếu, lợi về viễn du trùng dương, sẽ trở nên giàu có.

Thiên Phủ rất ngại lạc hãm, gặp Đà La, Hỏa Tinh mà còn gặp thêm Ác Sát, thì ở nơi xa nên đề phòng tiểu nhân có âm mưu hãm hại.

Nếu có Kình Dương, Thiên Hình đồng độ, thì chủ về bị tiểu nhân gây tổn hại. Gặp Đại Hao thì chủ về phá tài.

Nếu có Kình Dương, Thiên Nguyệt đồng độ, thì chủ về nhiễm bệnh ở tha hương.

Thái Âm Cung Thiên Di

Sao Thái Âm ở Cung Thiên Di nhập miếu, chủ về có duyên với người cực tốt, ở nơi xa được quý nhân nâng đỡ. Nếu Thái Âm lạc hãm, thì chuốc nhiều điều tiếng thị phi, hoặc có âm mưu hãm hại. Nếu lại gặp Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, Âm Sát, thì càng nhiều tiểu nhân ngầm gây tổn hại. Dù có cát tinh hội hợp giải cứu, cũng chủ về bôn ba vât vả mà không có kết quả.

Thái Âm Hóa Kị ở cung miếu vượng, chủ về do dự, thiếu quyết đoán. Hoặc bị dẫn dụ đầu tư mà gây nên tổn thất; gặp sát tinh càng chủ về nhiều điều tiếng thị phi.

Thái Âm có Địa Kiếp, Địa Không đồng độ, ở nơi xa ắt có phá tán hao tài.

Phàm Thái Âm ở Cung Thiên Di, bất kể ở cung độ nào, dù có cát tinh hội hợp, cũng không nên tranh cường hiếu thắng với người khác. Phàm việc gì cũng nên nhường ba phần, trái lại sẽ biến thành phúc trạch.

Sao Tham Lang ở Cung Thiên Di

Sao Tham Lang là sao chính đào hoa, chủ về ham mê tửu sắc. Cho nên phàm Tham Lang ở Cung Thiên Di, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hoặc Lộc Tồn. Đều chủ về ở quê người có nhiều thù tạc tửu sắc, nhiều bạn bè ăn nhậu hay cờ bạc, hoặc bạn trăng gió tửu sắc. Tốt nhất nên là người có tín ngưỡng tôn giáo và có nhiều bạn bè trong tôn giáo.

Nếu gặp Văn Xương và Văn Khúc, thì chủ về có nhiều lạc thú trong thù tạc thi tửu. Nhưng nếu có Liêm Trinh đồng độ, đương nhiên thù tạc cũng nhiều. Còn chủ về tự nhiên mà vất vả, không cách nào sống an nhàn. Gặp sát tinh thì vì sắc mà chuốc họa.

Tham Lang ở Cung Thiên Di có Kình Dương, Đà La, Đại Hao, Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu. Chủ về đi xa bị trộm cướp. Nếu có thêm Hàm Trì, Thiên Diêu hội hợp thì vì sắc mà gây họa.

Phàm có Liêm Trinh đồng độ mà gặp sát tinh, lạc hãm hoặc Hóa Kị. Ngoài việc vì tửu sắc mà chuốc họa, còn chủ về bị người hãm hại. Nếu có cát tinh đồng thời hội chiếu, tuy có tai họa, nhưng vẫn có thể hưởng thụ ở nơi xa.

Tham Lang Hóa Kị, chủ về làm người đoạt tình.

Liêm Trinh Hóa Kị, đề phòng bệnh tật về máu mủ.

Sao Cự Môn Cung Thiên Di

Sao Cự Môn thủ Cung Thiên Di, rất ưa có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc Tổn đồng độ. Nếu Cự Môn nhập miếu thì chủ về có tài giảng giải, biện luận, nổi tiêng ở nơi khác. Vì vậy nên làm nhân viên ngoại giao.

Nếu Cự Môn Hóa Kị, thì đi xa gặp nhiều điều tiếng thị phi, sự tình rối bời, khiến tinh thần không yên. Hơn nữa còn vất vả bôn ba mà ít thành tựu.

Nếu có Thái Dương ở cung Tỵ hoặc cung Ngọ hội chiếu. Do ánh sáng của Thái .Dương quá mạnh, thì trái lại, sẽ dễ bị tiểu nhân đố Kị.

Cự Môn ở Cung Thiên Di gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Đại Hao hội chiếu. Xuất ngoại dễ bị tai họa, còn chủ về duyên với người không tốt, bị nhiều thị phi. Nếu lại gặp Lưu Hóa Kị và lưu sát tinh cùng đến, thì có tai họa lao ngục, hoặc lục thân hình khắc.

Vì vậy Cự Môn ở Cung Thiên Di mà hội hợp các sao xấu thì không nên rời quê hương đi xa.

Thiên Tướng Cung Thiên Di

Sao Thiên Tướng thủ Cung Thiên Di, rất thích các sao cát tinh như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Mã hội chiếu. Chủ về ở nơi xa gặp cơ hội bất ngờ, vừa được quý nhân đề bạt, bạn bè trợ lực, còn được người ở nơi đó tôn trọng và ủng hộ. Có thể trở nên giàu có, hoặc phát phúc.

  • Thiên Tướng có Tử Vi đồng độ, càng chủ về có địa vị cao, được người ngưỡng mộ.
  • Thiên Tướng có Vũ Khúc đồng độ, chủ về ở nước ngoài được nguồn tiền tài bất ngờ.
  • Thiên Tướng có Vũ Khúc và Phá Quân vây chiếu. Chủ về ít duyên với người dẫn đến thành bại bất nhất. Nên nhẫn nại sáng lập sự nghiệp hay giữ nghề.

Thiên Tướng không nên có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, Kiếp Sát hội chiếu. Nếu không sẽ chủ về gặp nhiều sóng gió, trắc trở ở nơi xa. Nếu có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình hội chiếu, thì chủ về ở nơi xa dễ bị họa, bị tiểu nhân hãm hại. Có sao cát tinh hóa giải, cũng chủ về ít duyên với người.

Sao Thiên Lương ở Cung Thiên Di

Sao Thiên Lương thủ Cung Thiên Di, ở nơi xa được người kính nể. Nếu độc tọa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, hoặc ở cung Thân có Thiên Đồng đồng độ. Chủ về ở nơi sinh ra chỉ chủ về bôn ba vất vả, không bằng đi xa ở tha hương, thì trái lại, sẽ phát phúc. Rất ưa được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, chủ về ở nước ngoài có thể thành danh lập nghiệp.

Thiên Lương thủ Cung Thiên Di ở Ngọ, cũng ưa đi xa, nhưng Thiên Lương mà ở cung độ này thì dễ bị tiểu nhân đố kị, không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên phê bình sai lầm của người khác.

Thiên Cơ và Thiên Lương cùng thủ Cung Thiên Di, chủ về có nhiều cơ hội đi xa, nhưng ở bên ngoài sẽ gặp nhiều biến động, khiến mệnh tạo bất an, không bằng ở quê nhà.

Thái Dương và Thiên Lương đồng độ, chủ về thành danh ở quê người. Thích hợp theo ngành y dược, pháp luật, kế toán, hoặc nghiên cứu khoa học.

Nếu Thiên Lương và Hóa Kị đồng độ, chủ về xuất ngoại sẽ bị nhiều điều tiếng thị phi. Nếu lại gặp tứ sát tinh hội chiếu, xuất ngoại sẽ có tai họa, còn chủ về bị tiểu nhân ngầm tổn hại.

Sao Thất Sát ở Cung Thiên Di

Khi Sao Thất Sát ở Cung Thiên Di, thông thường đều chủ về ở quê người, có quyền thế, có uy phúc, và khiên cho người ở đó kính nể.

Nếu có Thiên Hình đồng độ, thì có tai họa ở quê người. Nếu Thất Sát lạc hãm, chủ về ở nơi xa bị người ta làm liên lụy, hoặc bị áp lực. Nếu lại gặp sát tinh, thì chủ về bị uy hiếp.

Thất Sát ở Cung Thiên Di có Kình Dương và Đà La đồng độ, ở quê người rất nên theo võ nghiệp. Hoặc theo ngành khoa học ứng dụng, nghề nghiệp chuyên môn. Nếu không sẽ chủ về ít duyên với người, còn phải trải qua gian khổ mới được ổn định.

Thất Sát ưa Hỏa Tinh và Thất Sát đồng cung, chủ về có tiền của bất ngờ. Nếu có Linh Tinh và Thất Sát đồng độ, chủ về lấy võ nghiệp, hoặc nghề nghiệp để lập thân, thì sự nghiệp có thể thành tựu.

Nếu Thất Sát có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, thì nên đầu tư vào ngành công nghiệp, nếu không sẽ chủ về lông bông không nơi nương tựa.
Thất Sát có Vũ Khúc Hóa Kị đồng độ, chủ về ở quê người có tai họa. Hoặc sự nghiệp thất bại, còn chủ về dính dáng đến phạm pháp.

Thất Sát và Liêm Trinh đồng độ ở cung Sửu, chủ về xuất ngoại khó được tốt lành, còn chủ phát sinh điều tiếng thị phi.

Nhưng Thất Sát và Tử Vi mà cùng thủ Cung Thiên Di, thì chủ về xuất ngoại được người ở đó tôn trọng, kính nể, rất là cát tường.

Sao Phá Quân ở Cung Thiên Di

Sao Phá Quân thủ Cung Thiên Di, nếu rời quê hương. Đều chủ về dùng nghề nghiệp để mưu sinh, hoặc dựa vào tri thức chuyên môn, kĩ năng chuyên môn để lập nghiệp. Nếu gặp cát tinh, sẽ được người kính phục, ngưỡng mộ.

  • Phá Quân thủ Cung Thiên Di ở cung Tí hoặc cung Ngọ. Rất nên xuât ngoại đi xa, hoặc định cư ở nước khác. Gặp sao cát thì có thể phát đạt
  • Phá Quân rất ưa cùng Tử Vi thủ Cung Thiên Di, chủ về được người trợ lực, có thể sáng lập sự nghiệp.
  • Nếu Phá Quân và Vũ Khúc đồng độ, ắt có tài năng kiêm văn võ, có thể ở nước ngoài lập nghiệp.
  • Phá Quân có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ. Chủ về xuất ngoại phần nhiều bị phá tán, thất bại, không bằng phát triển ở quê hương. Nếu không sẽ mất công vô ích, uổng phí công sức bôn ba vất vả.
  • Phàm Phá Quân ở Cung Thiên Di, xuất ngoại đều chủ về ít duyên với người, chỉ có trường hợp Tử Vi và Phá Quân là ngoại lệ.
  • Phá Quân cũng không ưa có Văn Xương hay Văn Khúc hội hợp, là hàn sĩ lang thang. Nếu Phá Quân có Văn Xương và Vũ Khúc đồng thời hội chiếu, thì cuộc sống lang bạt giang hồ, viễn du trùng dương để mưu sinh.
  • Nếu Phá Quân có Liêm Trinh và Thiên Tướng vây chiếu, gặp Văn Xương và Văn Khúc, thì ở nơi xa kiếm tiền bằng âm nhạc hoặc văn nghệ.

Ảnh hưởng của các sao phụ tá – tá tinh – tá diệu tới Cung Thiên Di

Văn Xương, Văn Khúc Cung Thiên Di

Gặp sao cát thì phát đạt, thêm sát tinh thì thiếu yên ổn.

Văn Xương, Văn Khúc Hóa Kị ở Cung Thiên Di, ở nơi xa có khả năng mất trộm, hoặc phá tài.

Tả Phù, Hữu Bật Cung Thiên Di

Gặp sao cát thì chủ về có nhiều trợ lực.

Thêm các sao sát, hình, Kị, thì trái lại, sẽ chủ về có tiểu nhân cạnh tranh, bị điều tiếng thị phi.

Thiên Khôi, Thiên Việt Cung Thiên Di

Ớ nơi xa chủ về gặp quý nhân phù trợ; hoặc chủ về nhờ thích ứng phong tục, tập quán của nơi xa đó nên dẫn đến việc phát phúc.

Gặp các sao sát, Kị, hình, hao, trái lại sẽ chủ về làm việc phí sức

Lộc Tồn Thiên Mã Cung Thiên Di

Hội được cát tinh thì ở nơi xa có thể kinh doanh và trở nên giàu có. Gặp hung sát tinh thì ít duyên với người.

Kình Dương Cung Thiên Di

Chủ về bị cạnh tranh, chủ về duyên với người không tốt, quan hệ nhân tế kém, cũng chủ về thị phi; gặp thêm Thiên Hình, Đại Hao thì nạn tai tật bệnh, hoặc chủ về phạm pháp kiện tụng.

Đà La Cung Thiên Di

Chủ về tuy có cơ hội tốt để xuất ngoại nhưng vì tính lần nữa mà không thành.
Gặp các sao ác, hung hội hợp, chủ về ít duyên với người, quan hệ nhân tế kém, bị người đố Kị.

Hỏa Tinh, Linh Tinh Cung Thiên Di

Thông thường chủ về đi xa có chuyện thị phi. Gặp Hóa Kị, Thiên Hình thì chủ về đi xa có điều tiếng thị phi, phạm pháp. Nếu gặp các sao cát, thì trái lại, sẽ phát đạt ở quê người, nhưng vẫn phải lao tâm lao lực, bôn ba vất vả.

Địa Không, Địa Kiếp Cung Thiên Di

Thông thường đều chủ về trở ngại. Gặp thêm Kình Dương, Thiên Hình, Hóa Kị, thì thất bại ở quê người.

Mạn đàm tứ Hóa đối với Cung Thiên Di

Hóa Khoa với Cung Thiên Di

Nếu lấy Sao Hóa Khoa để luận về cách nhìn vấn đề, thì chủ về người này có cách phán đoán và suy nghĩ hợp lý. Dưới ảnh hưởng của Hóa Khoa ở Cung Thiên Di, mệnh tạo đối với tiền đồ tương lai đều có tính toán hợp lý, không rơi vào mơ mộng cao xa, ít có cách suy nghĩ không tưởng, mà có thể vạch ra kế hoạch một cách hợp lý.

  • Vì Hóa Khoa chủ về công danh, danh tiếng. Nên trường hợp Hóa Khoa ở Cung Thiên Di, mệnh tạo có ước vọng danh tiếng và học vấn khá cao, có thể sẽ đi du học, đi xa để học hỏi, hoặc vì một lý tưởng công ích nào đó mà đầu tư thời gian. Cũng vì lực tác động của Hóa Khoa, nên các hành vi tạo tác của mệnh tạo đều phù hợp với nguyên tắc “tiến từng bước”.
  • Cung Thiên Di là đại biểu cho toàn bộ hoàn cảnh lớn bên ngoài, trường hợp có Hóa Khoa, là mệnh tạo ở bên ngoài được bảo vệ yên ổn, hoàn cảnh nơi ở của mệnh tạo hiếm khi xảy ra chuyện gì kì lạ. Nói một cách khác, bản thân mệnh tạo là người quân tử khiêm tốn, toàn bộ hoàn cảnh chung quanh cũng ngầm chuyển biến tương tự.
  • Vì Cung Thiên Di có Hóa Khoa, nên bất luận là đi chơi xa hay đi công tác xa, trước đó mệnh tạo đều có kế hoạch chu đáo tỉ mỉ, và theo kế hoạch mà làm. Vì vậy, việc đi công tác xa của họ không phải hứng đâu làm đó. Ngoài ra, toàn bộ hoàn cảnh bên ngoài đều ở trong tình huống khó xảy ra chuyện bất ngờ, cho nên ngầm báo vận đi xa hay ra bên ngoài là tốt đẹp.
  • Cung Thiên Di là cung vị khí số của Cung Phúc Đức. Mà Cung Phúc Đức là dùng để luận đoán mức độ cảm xúc của bản thân, quyết sách trước khi hành động và thời gian đầu của sự ứng biến. Vì vậy, Cung Thiên Di đóng vai trò khá quan trọng trong việc định ra quyết sách hay hoặc dở. Trường hợp Cung Thiên Di có Hóa Khoa, là có quyết sách hay.
  • Tiếp theo, vì Cung Phúc Đức còn chủ về hứng thú và thị hiếu của mệnh tạo. Nên trong trường hợp Cung Thiên Di có Hóa Khoa là chủ về mệnh tạo có phẩm cách cao, hứng thú và thị hiếu rất lành mạnh, có nội hàm, phẩm chất cuộc sống cũng khá tốt.
  • Cung Thiên Di là cung vị biểu hiện của Cung Phu Thê, Hóa Khoa ở Cung Thiên Di, có thể thấy người phối ngẫu có sở học thâm sâu, lời nói cử chỉ của họ rất có phép tắc. Do tác dụng của Hóa Khoa, người phối ngẫu không phải là thương nhân, cũng ít có khả năng tự kinh doanh. Do đó, thường thường có thể luận người phối ngẫu sau khi kết hôn vẫn duy trì nghề nghiệp cũ.
  • Tiếp theo trên, Cung Thiên Di đã là cung vị biểu hiện của Cung Phu Thê, còn có Hóa Khoa ở trong đó hộ vệ, là chủ về người phối ngẫu trầm ổn, có lễ phép, hai người sống với nhau trong sự tôn trọng lẫn nhau. Dù Hóa Kị [đại vận] nhập Cung Thiên Di giữa hai người vẫn trò chuyện trao đổi với nhau, tình cảm không đến nỗi đổ vỡ, trừ phi Cung Phúc Đức có tượng biến hóa khác.
  • Vì Hóa Khoa ở Cung Thiên Di, mệnh tạo làm cho người ta có cảm giác họ là người có ngăn nắp, phần nhiều đều biểu đạt được cách suy nghĩ của mình một cách hữu hiệu, để lại ấn tượng tốt nơi người khác, quan hệ giao tế rất khả quan.
  • Lúc Cung Thiên Di thấy Hóa Kị sẽ tấn công Cung Mệnh, nhưng ở Cung Thiên Di thấy Hóa Khoa thì có thể hóa giải sự công kích của Hóa Kị. Xét ở một góc độ khác, người có Hóa Khoa ở Cung Thiên Di, phần nhiều có duyên với người ở bên ngoài, trong vô hình còn có thể hóa giải mầm tai ách, nhờ vậy mà ít gặp họa.
  • Tiếp theo trên, luận về mầm tai ách, Cung Thiên Di chủ về tai nạn giao thông và có liên quan đến tính mạng. Cung Thiên Di có Hóa Khoa, dưới sự bảo vệ của Hóa Khoa, bản thân mệnh tạo ít khi bị tai nạn giao thông, dù bị tai nạn phần nhiều cũng hóa hiểm thành yên.

Hóa Quyền với Cung Thiên Di

Cung Thiên Di là cung vị chủ về toàn bộ thế giới ở bên ngoài. Vì vậy luận về phạm vi, nó còn lớn hon cả Cung Mệnh. Trường hợp Cung Thiên Di có Sao Hóa Quyền là chủ về hoàn cảnh ở bên ngoài có khá nhiều cơ hội, và cũng sẽ tạo thành tình trạng mất quân bình giữa hai Cung Mệnh và di.

  • Hóa Quyền ở Cung Thiên Di tuy có nhiều cơ hội. Nhưng vì Hóa Quyền vốn có hàm ý là biến đối mau lẹ. Thêm vào đó, nếu sao Hóa Quyền là loại sao có tính biến động lớn, thì cơ hội sẽ qua đi nhanh như chóp, mệnh tạo rất khó nắm bắt. Muốn biết có nắm bắt được hay không thì phải xem vị trí của Hóa Lộc và Hóa Kị [năm sinh], tâm khơi động niệm giữa hai bờ không thích đáng, rất dễ làm cơ hội vuột mất.
  • Ở bên ngoài có cơ hội, nhưng cũng có áp lực, những người mệnh tạo gặp nếu không phải là giới chuyên nghiệp thì cũng là quyền quý. Cho nên Cung Thiên Di có Hóa Quyền có thể khiến mệnh tạo thường xuyên phải đối mặt với cơ hội và áp lực, đương nhiên sẽ thúc đẩy mệnh tạo trưởng thành.
    Ngoài ra, Hóa Quyền ở Cung Thiên Di, là chủ về thấy một mục tiêu lớn, cho nên bản thân đương số cảm thấy sứ mệnh của mình khá nặng, trong lòng sẽ vạch ra một viễn trình, một mục tiêu trường kỳ, cũng sẽ đốc thúc bản thân gấp rút, nỗ lực để đạt thành.
  • Tiếp theo trên, Cung Thiên Di tượng trưng những sự tình thấy trước mắt, có thể mở rộng ra để luận về kì vọng trong tương lai. Hóa Quyền chủ về biến động mạnh, nếu là Phá Quân Hóa Quyền ở cung Tí thủy, tuy mệnh tạo có mục tiêu trường kì, nhưng mục tiêu này lại thay đổi khá nhanh, liên đới với môi trường làm việc, có thể cũng sẽ thay đổi nhanh chóng.
  • Tiếp theo điều (1), tuyến “mệnh di” có Hóa Quyền khơi động sẽ khiến mệnh tạo bị dẫn dắt ra bên ngoài phát triển. Đồng thời, Hóa Quyền là chủ về biến hóa, nên cũng tượng trưng cho hoàn cảnh thường thay đổi. Tổng hợp để luận, có thể nói lực “dịch động” khá mạnh.
  • Tiếp theo điều (4) và (5), vì có Hóa Quyền, nên mục tiêu và lý tưởng của mệnh tạo là đối tượng khá cụ thể. Đồng thời Hóa Quyền còn là lực hành động và lực tạo tác, cho nên việc mệnh tạo thực hiện được lý tưởng là có khả năng khá cao, lúc ở bên ngoài cũng rất tích cực. Hơn nữa, vì lực hành động mạnh, nên có tượng chủ động ra bên ngoài, chứ không phải bị hoàn cảnh bức bách mà phải ra bên ngoài, còn có cơ hội thực hiện lý tưởng của mình sau khi rời xa quê hương.
  • Tiếp theo trên, mệnh tạo có vận thế đi xa rất mạnh, thường được sai phái đi xa. Ngoài ra, Cung Thiên Di còn là cung vị xuất ngoại, dùng để đánh giá tình hình tiếng tăm của mệnh tạo và thái độ của người khác ở bên ngoài. Trường hợp này chủ về ở đất lạ, dưới áp lực của hoàn cảnh luôn thay đổi, mệnh tạo có cảm giác gánh nặng hơn người bình thường, mà năng lực phán đoán cũng rất nhạy bén.
  • Nếu Hóa Quyền [năm sinh] và Hóa Kị [năm sinh] cùng ở Cung Thiên Di, hoặc lúc Hóa Kị [đại vận] nhập Cung Thiên Di, sẽ khiến Hóa Quyền và Hóa Kị thành tình trạng “giao chiến”. Khi ra bên ngoài phải phòng tai nạn giao thông, xảy ra bất trắc. Lúc này phải xem xét tình hình cát hung ở Cung Phu Thê (cung vị khí số của Cung Thiên Di) để định.
  • Cung Thiên Di đồng thời còn là cung vị tài bạch (cung vị biểu hiện) của người phối ngẫu. Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Thiên Di, là chủ về người phối ngẫu có thể mạnh trong môi trường làm việc. Cũng vì Hóa Quyền nên mệnh tạo sẽ kiếm tiền khá vất vả, nhưng cũng có thể thúc bách làm cho mệnh tạo có lý tưởng, có nguyện vọng.
  • Cũng cùng một dạng, Hóa Quyền ở cung vị biểu hiện của người phối ngẫu, là chủ về trong cuộc sống chung của hai người, người phối ngẫu sẽ là phía chủ đạo, cá tính cũng mạnh mẽ hơn; dưới áp lực (hoặc yêu cầu) của người phối ngẫu (có biểu hiện xuất sắc), sẽ khiến cho mệnh tạo không còn cách nào khác, phải nỗ lực.

Cung Thiên Di còn là cung vị khí số của Cung Phúc Đức, trường hợp Hóa Quyền ở Cung Thiên Di, cũng chủ về sở thích, thị hiếu của mệnh tạo không kéo dài và hay thay đổi. Ngoài ra, quan niệm của mệnh tạo về nghỉ ngơi, giải trí cùng khác với người ta. Quá trình hưởng thụ, nghỉ ngơi của mệnh tạo thường không được nhẹ nhàng, thường là bồi dưỡng kiến thức, hay học tập một nghề mới.

Hóa Lộc với Cung Thiên Di

Vị trí của Cung Thiên Di trong mệnh bàn là đối nhau với Cung Mệnh, hàm nghĩa rộng là tượng trưng cho thế giới ở bên ngoài. Trường hợp thế giới ở bên ngoài có Hóa Lộc, thường thường chủ về được trời ban cho khá nhiều cơ hội, mệnh tạo phóng tầm mắt đến đâu cũng đều thấy có lợi.

Sao Hóa Lộc không chỉ là “Tài lợi”, mà còn chủ về “Tình”. Có nghĩa là hoàn cảnh bên ngoài đầy những sự vật và con người hữu tình đối với mệnh tạo, cho nên cũng gặp vận đào hoa ở bên ngoài khá nhiều.

  • Do Cung Thiên Di còn là cung vị chủ về xuất ngoại, danh tiếng ở bên ngoài. Nên trường hợp Cung Thiên Di có Hóa Lộc sẽ chủ về cho người ta ấn tượng đầy tình người, thường thường quan hệ với người chung quanh rất tốt đẹp.
  • Cung Thiên Di cũng tượng trưng cho những gì thấy trước mắt. Có thể luận đoán về những khó khăn sẽ phải đối mặt, còn có thể luận đoán về kì vọng tương lai của mệnh tạo. Vì có Hóa Lộc, nên mệnh tạo đầy mơ tưởng ở tương lai và không cam chịu trong cô đơn tịch mịch.
    Hóa Lộc chủ về “nhiều”, cũng chủ về mệnh tạo muốn theo đuổi rất nhiều điều, khó có sự thỏa mãn. Không ngừng tìm kiếm giấc mộng đẹp, nhưng tâm tư của mệnh tạo cũng dễ dao động. Nhiều lúc có lối suy nghĩ hơi thiếu thực tế.
  • Hóa Lộc cũng chủ về hi vọng, trường hợp Hóa Lộc ở Cung Thiên Di, là chủ về có nhân sinh quan đúng hướng, rõ ràng. Hơn nữa, vì Hóa Lộc [năm sinh] là tồn tại vĩnh viễn trong Cung Thiên Di của nguyên cục, dù Hóa Kị [năm sinh] ở “tha cung”, họ vẫn sẽ nỗ lực, lạc quan theo đuổi viễn cảnh tương lai.
    Nhưng nếu Hóa Kị [năm sinh] ở vào vị trí không thích đáng, mà Hóa Lộc ở Cung Thiên Di. Thì phải lo đại vận sẽ khiến Hóa Lộc chuyển sang Hóa Kị, tức thành “Song Kị”. Sẽ khiến mệnh tạo vì lạc quan quá đáng mà bị đả kích rất nặng.
  • Cung Thiên Di có Hóa Lộc, là chủ về sự vật ở hoàn cảnh bên ngoài thu hút sự chú ý của mệnh tạo. Một khi có được sức mạnh của đại vận tác động, là chủ về sẽ đạt được nguyện vọng ra bên ngoài, đi xa. Đồng thời còn có nhiều cơ hội “dịch động”.
  • Cung Thiên Di còn là cung vị giao dịch (cung vị đối đãi) của Cung Phu Thê. Trường hợp Hóa Lộc xuất hiện ở cung vị đối đãi của hai người. Có thể đoán người phối ngẫu đối xử khá tốt với mệnh tạo, tình cảm qua lại của hai người cũng không tệ.
  • Do là cung vị tài bạch của người phối ngẫu, thông thường còn chủ về người phối ngẫu có năng lực. Nhưng vì Hóa Lộc còn tượng trưng cho “có tiền”, nếu sao hóa thuộc loại sao chủ về tiền bạc, thì năng lực kiếm tiền của người phối ngẫu cũng không phải vừa.

Cung Thiên Di là cung vị khí số của Cung Phúc Đức, Hóa Lộc là chủ về có sở thích khá rộng, phạm vi của thị hiếu, hứng thú phần nhiều có liên quan đến dật lạc, hưởng thụ, mà còn có thiên hướng trữ tình, mĩ cảm, nặng về tinh thần.

Hóa Kị với Cung Thiên Di

Cung Thiên Di đại biểu cho kiến văn và cảm quan của mệnh tạo về tiền đồ, viễn cảnh tương lai. Trường hợp có Sao Hóa Kị ở Cung Thiên Di, trong cách nhìn về tương lai của mệnh tạo, là cảnh trí đầy chông gai và hỗn loạn, khó sáng sủa. Do đó sẽ khiến mệnh tạo có cách suy nghĩ toàn là màu xám, quá độ bi quan.

Hơn nữa, vì đại vận sẽ dẫn khởi Hóa Kị đến xung kích Cung Mệnh, nên cuộc đời của mệnh tạo hay đối mặt với những áp lực. Tình huống bất lợi, và trở ngại trùng trùng, dù đang ở trong đại vận bình an vô sự, đương sự cũng dễ vì kinh nghiệm đã trải qua mà cảm thấy lo lắng không yên về tiền đồ tương lai, không cách nào diễn tả được.

  • Cung Thiên Di cũng là cung vị khí số của Cung Phúc Đức, Cung Phúc Đức chủ về thị hiếu, hứng thú, và trạng thái tâm lí có điều chỉnh cho thích ứng hay không. Trường hợp có Hóa Kị ở Cung Thiên Di, ngoại trừ tình huống xung kích Cung Mệnh, còn chủ về năng lực điều chỉnh tâm trạng của mệnh tạo không được tốt, phẩm chất của sở thích và thị hiếu cũng không tốt, sự ràng buộc với thị hiếu cũng không mạnh. Mệnh tạo rất khó dựa vào sở thích và thị hiếu để giải tỏa áp lực hay điều chỉnh tâm trạng.
  • Tiếp theo trên, Cung Phúc Đức là cung vị chuẩn bị trước khi động tâm khởi niệm. Lúc cung vị khí số của nó (tức Cung Thiên Di) thấy Hóa Kị, là chủ về trước khi hành động, mệnh tạo thường hay có hướng suy nghĩ không chính xác, EQ cũng không cao, trực tiếp bị ảnh hưởng chính là quyết sách của mệnh tạo, thường thường quyết sách của mệnh tạo không được cao minh.
  • Về người phối ngẫu, Cung Thiên Di là cung vị biểu hiện của họ. Có Hóa Kị là người phối ngẫu rất mong muốn kiếm tiền, hoặc muốn dùng mọi phương thức để kiếm tiền. Nhưng do Hóa Kị xung kích Cung Mệnh, tức động tác kiếm được tiền của người phối ngẫu sẽ xung kích mệnh tạo. Vì vậy về biểu hiện công tác và năng lực kiếm tiền (bất luận năng lực kiếm tiền cao hay thấp) của người phối ngẫu, mệnh tạo đều sẽ có cảm giác bất an. Người phối ngẫu không kiếm tiền để lo lắng cho tương lai của hai người, mà rất muốn kiếm tiền là vì lo lắng bản thân có thể sẽ không có bạn đời, hoặc vì có tâm lí so sánh hơn thua với mệnh tạo.
  • Tiếp theo ý (2), (3), (4), tình yêu (hôn nhân) lần đầu của mệnh tạo sợ rằng sẽ bị thất bại. Bởi vì năng lực và biểu hiện của người yêu tạo áp lực quá lớn cho mệnh tạo. Đồng thời nhân tố hành vi đan xen phức tạp giữa hai người cũng dễ liên quan đến tiền bạc, khiến cho mệnh tạo cảm thấy hai người sẽ không có cùng một tương lai. Ngoài ra, Hóa Kị ở Cung Thiên Di cũng sẽ khiến cho Cung Phúc Đức chủ về phẩm chất không tốt, nên tình cảm đầu đời của mệnh tạo phần nhiều là đau buồn.
  • Hóa Kị ở Cung Thiên Di cũng sẽ tác động bắt buộc mệnh phải “dịch động”. Thường thường mệnh tạo phải đi xa, đi công tác xa, hay đi du học. Nhưng do tác động của Hóa Kị, mệnh tạo đi xa rồi sẽ muốn quay về nhà, quay về nhà rồi lại muốn đi xa.
  • Tiếp theo trên, vì lực tác động của Hóa Kị, nên có lúc mệnh tạo ở bên ngoài sẽ có tâm trạng không tốt, cảm thấy khó yên ổn. Nguyên nhân sinh ra tâm trạng này phần nhiều là do mệnh tạo ở bên ngoài dễ bị nơi khác không chấp nhận. Hoặc ở bên ngoài khó có bạn tri kỉ, thiếu cảm giác an toàn. Hóa Kị còn có ý tượng “làm cho rối rắm”, “làm phiền”. Trong các tình huống đã thuật ở trên, mệnh tạo rất dễ ở nơi khác (nước khác) đến già, khó quay về nơi sinh ra.
  • Như đã biết, Cung Thiên Di là đại biểu cho cảm quan của mệnh tạo đối với viễn cảnh tương lai. Đúng là có quan hệ bất khả phân với sự “dịch động” ở bên ngoài. Trường hợp Cung Thiên Di có Hóa Kị, vì nó xung kích mệnh tạo, là chủ về nên phòng tai nạn giao thông. Nếu có Hóa Kị ở Cung Thiên Di hay cung tử nữ của đại vận, cần đặc biệt chú ý vấn đề an toàn giao thông.
  • Vị trí của Cung Thiên Di nằm ở giữa cung nô bộc và Cung Tật Ách. Là tượng trưng cho cung vị giao lưu giữa “đại ngã” của hoàn cảnh bên ngoài, với “tự ngã” bên trong tâm hồn. Trường hợp Cung Thiên Di xuất hiện Hóa Kị, là chủ về trong và ngoài khó thông nhau. Nói một cách cụ thể, quan hệ giao tế của mệnh tạo không được tốt, lòng tự tôn quá nặng và “da mặt quá mỏng”.

Cung Thiên Di cư ở cung vị tật ách của cung phụ mẫu. Trường hợp có Hóa Kị, tức sức khỏe của song thân có vấn đề, mà vấn đề này sẽ làm cho mệnh tạo rất bối rối. Vì Hóa Kị ở Cung Thiên Di trực xung Cung Mệnh. Do đó, thường thường trong đại vận thứ nhất mệnh tạo phải đối mặt với hoàn cảnh biến động thay đổi, một trong song thân sẽ có vấn đề về sức khỏe, lúc này không nên thấy Thiên Hình, nếu không sẽ có tang sự báo hiếu với tầng suất rất cao.

Cung Thiên Di Phi Hóa trong Tử Vi Tứ Hóa Phái

Cung Thiên Di phi Hóa Lộc

Cung Thiên Di tự Hóa Lộc

Rất có duyên với người chung quanh, có tính độc lập và tự chủ; có thể gánh vác công việc một mình ở bên ngoài.

Thường bôn ba ở bên ngoài, thời gian ở bên ngoài nhiều và lâu dài, nhưng lúc ở ngoài sẽ nhớ nhà, cho nên thường cũng không đi xa lắm.

Đi xa dễ kiếm tiền hơn, cũng có phát triển hơn.

Kiếm tiền nhẹ nhàng, tự kiếm tiền tự tiêu xài.

Có tiền cũng không mua nhà cửa, cảm thấy thỏa mãn với gia sản của tổ tiên.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Mệnh

Là người thông minh, ở bên ngoài có duyên với người chungquanh.

Kiếm được tiền thích hưởng thụ, ra ngoài vui vẻ, lộc ăn không thiếu.

Ra ngoài phải dựa vào bản thân, có nhiều cơ hội, kiếm đượctiền.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Huynh Đệ

Rất có duyên với người chung quanh, giao du rộng, hòa hợp với bạn bè, tình cảm anh chị em tốt đẹp, vui vẻ hạnh phúc.

Có thể nhờ anh em hoặc bạn bè trợ giúp mà kiếm tiền, có tiền cũng mang về cho anh em bạn bè hường chung.

Công việc hay sự nghiệp phát triển thuận lợi, có nhiều cơ hội kiếm tiền.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Phu Thê

Sự nghiệp có không gian để phát triển, có thể được người phối ngẫu trợ giúp, làm cho sự nghiệp phát triển thuận lợi.

Người phối ngẫu rất có duyên với người chung quanh, có thể nhờ quý nhân khác giới tương trợ mà lập nên cơ nghiệp, có nhiều cơ hội kiếm tiền.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập cung tử tức

Con cái có duyên với người chung quanh, ra ngoài vui vẻ, có nhiều trợ lực.

Con cái sống với nhau vui vẻ hạnh phúc.

Ra ngoài nhiều giao tế thù tạc, thích nơi đông đúc, náo nhiệt quan hệ giao tế rất tốt.

Ra ngoài vui vẻ, nên đi xa, thường biến động; phần nhiều lúc xuất ngoại đều có kế hoạch tỉ mỉ.

Ở bên ngoài có nhiều cơ hội kiếm tiền.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch

Tài vận tốt, có nhiều cơ hội kiếm tiền.

Sống khá thọ, có thế trên 90 tuổi.

Người phối ngẫu sẽ giúp vốn cho mệnh tạo làm ăn.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Tật Ách

Là người lạc quan, tâm trạng bình hòa, có duyên với người chung quanh, có quan hệ tốt, ra ngoài thường được như ý, thân tâm vui vẻ.

Ở bên ngoài gặp nhiều đào hoa, cũng cần phải chú ý vấn dề ăn uống.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập cung nô bộc

Rất có duyên với người chung quanh, giao du rộng, hòa hợp với bạn bè; có thể được anh em, bạn bè trợ giúp mà kiếm được tiền, có tiền cũng sẽ mang về cho anh em và bạn bè cùng hưởng.

Công việc hay sự nghiệp ổn định.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Quan Lộc

Công việc hay sự nghiệp khá bôn ba vất vả, nhưng có nhiều cơ hội kiếm tiền, tài vận tốt.

Có thể được cấp trên xem trọng, đồng sự vui vẻ.

Sống rất thọ, có thể thọ trên 90 tuổi.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch

Ra ngoài có nhiều cơ hội kiếm tiền, có thể mua tậu nhà cửa, nuôi dưỡng gia đình.

Sàn nghiệp sẽ tăng lên, vợ chồng hòa mục.

Cẩn thận phòng nạn tai bất ngờ.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập Cung Phúc Đức

Ra ngoài có khẩu phúc, tài vận tốt, được hưởng thụ.

Vợ chồng hòa mục.

Sự nghiệp của người phối ngẫu có phát triển.

Cung Thiên Di Hóa Lộc nhập cung phụ mẫu

Ra ngoài tự lo liệu, không để người khác phải lo lắng; dễ được trường bối, quý nhân tương trợ.

Thích hợp làm công chức, cẩn thận phòng nạn tai bất ngờ.

Chú ý thói quen ăn uống, và vấn đề vệ sinh.

Cung thiên đi phi Hóa Quyền

Cung Thiên Di tự Hóa Quyền

Không quá tín nhiệm ai, trong ngoài phân biệt rất rõ ràng, khá chuyên quyền, sợ quyền lực rơi vào tay người khác.

Cá tính mạnh, sáng suốt tài cán và có kinh nghiệm, thích lãnh đạo người khác, nhưng lại không có thực quyền.

Thích đấu đá với người khác, dễ chuốc thị phi.

Tính bướng binh, ưa ra oai, phách lối, không câu nệ tiểu tiết.

Thích biểu hiện cái tôi, ưa được người ta kính trọng, dễ phạm tiểu nhân.

Sức hoạt động khá mạnh, làm việc khó giữ giới hạn cùa mình,ưa can thiệp, xen vào chuyện cùa người khác.

Ờ bên ngoài dễ bị tổn hại.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Mệnh

Có năng lực và tài năng, là người có bản lãnh; ra ngoài biểu hiện ưu tú, được người ta tôn trọng và khẳng định.

Nhưng nếu mệnh tạo muốn nắm quyền hoặc tranh giành địa vị lãnh đạo với người khác, sẽ dễ xảy ra phiền phức, rắc rối.

Lực cạnh tranh khá mạnh, có phát triển, cần phải trải qua nỗ lực phấn đấu mới có thành tựu.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Huynh Đệ

Giao tế rộng, có tác phong thương nghiệp đô thị; có tài năng, địa vị và danh vọng, ưa tranh cường hiếu thắng, thích làm nhân vật lãnh đạo, tranh giành địa vị, mà xúc phạm, làm người khác khó chịu, chuốc thị phi.

Công ty hoặc nơi làm việc có lực cạnh tranh.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Phu Thê

Người phối ngẫu có địa vị, có thể nắm quyền, hay có nhiều ý kiến, dễ xảy ra tranh chấp.

Sự nghiệp thuận lợi, có nhiều cơ hội phát triển.

Người phối ngẫu rất có năng lực, có tài năng, làm việc chăm chi hay cạnh tranh, nhiều thị phi.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập cung tử tức

Thích ra bên ngoài, ở bên ngoài phần nhiều đều có biểu hiện ưu tú; ở nhà hay ra oai, ưa khiêu khích.

Hợp tác làm ăn có phát triển.

Ở bên ngoài dễ có đào hoa theo kiểu nhục dục, dễ có hành vi khinh suất.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch

Thích kiếm tiền, cũng có nhiều cơ hội; khá bận rộn, vì công việc làm ăn mà phải giao tế thù tạc nhiều.

Kiếm tiền vất vả, gặp nhiều cạnh tranh.

Tiêu xài tiền rộng rãi cho việc hưởng thụ; có phong cách thương nghiệp đô thị.

Có thể dựa vào tài năng, nghề nghiệp chuyên môn để tự lực kiếm tiền.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Tật Ách

Cá tính mạnh, rất nóng nảy, sức hoạt động mạnh.

Cơ thê dễ bị tai nạn gây tổn thưcmg.

Có tài năng, sự nghiệp như ý, có tham vọng quyền lực, dễ xảy ra xung đột, sẽ gặp phiền phức, rắc rối.

Tâm trạng bất ổn, dễ có mâu thuẫn nội tâm.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập cung nô bộc

Giao du rộng, tiêu xài tiền hào phóng, giỏi giao tế, có năng lực lãnh đạo, được nhiều trưởng bối và bạn bè trợ lực.

Giao du bạn bè có chọn lựa, bạn bè có năng lực, cạnh tranh nhau, dễ có tranh chấp.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Quan Lộc

Có tinh thần trách nhiệm, có nhiều cơ hội thăng tiến, sùng thượng địa vị và quyền lực, có xung lực sáng lập cơ nghiệp, sự nghiệp có phát triển.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch

Bất động sản thường sẽ tăng giá trị, không thỏa mãn với tổ nghiệp.

Mua thêm bất động sản, hoặc cho thuê nhà.

Thường ra ngoài, ờ bên ngoài không bị câu thúc.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập Cung Phúc Đức

Thích hường thụ, sẽ phô trương, sang trọng, hào phóng, ưa thể diện, tạo sự chú ý.

Có năng lực quản lí tài chính, tài vận tốt.

Cung Thiên Di Hóa Quyền nhập cung phụ mẫu

Ra ngoài được trưởng bối, quý nhân đề bạt, nâng đỡ, trợgiúp.

Ra ngoài dễ bị người ta cưỡng bức, gây tổn thương, khiến người nhà lo lắng.

Cung Thiên Di phi Hóa Khoa

Cung Thiên Di tự Hóa Khoa

Nói năng nhã nhặn, cử chỉ có phong độ, lịch sự, thông minh,hiền hòa, không tính toán so đo.

Nên đi xa để học tập, ròi xa gia đình tìm hướng phát triển sẽ dễ có thanh danh.

Ở bên ngoài cát lợi, làm việc sẽ có quý nhân giúp đỡ, giới thiệu, đề bạt, nâng đỡ; thích hợp làm công việc về văn. (Xin xem thêm mục liên quan trong chương 6)

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Mệnh

Rất có duyên vói người chung quanh, cộ tiếng tăm ờ bên ngoài, có thể nhờ văn hóa nghệ thuật mà danh tiếng vang xa.

Ra bên ngoài sẽ vui vẻ, được nhiều quý nhân tương trợ.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Huynh Đệ

Trợ lực cho anh chị em, là quý nhân của họ.

Xã giao hòa hợp với bạn bè, bạn bè phần nhiều là người hiền hòa, lễ độ, “quân tử chi giao”, bạn bè thường là người có tiếng tăm.

Bạn bè phần nhiều có thể giúp đỡ lẫn nhau.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Phu Thê

Sáng lập được cơ nghiệp, trong công việc có quý nhân giúp đỡ, sự nghiệp bình ổn, có tiếng tăm nhưng không mở rộng.

Người phối ngẫu có thanh danh, có trợ lực cho sự nghiệp của mệnh tạo.

Vợ chồng sống với nhau bình yên, hòa hợp, ít xảy ra tranhchấp.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập cung tử tức

Thường đi xa, ra ngoài nhiều vui vẻ, có quý nhân giúp đỡ; cũng sẽ có đào hoa, nhưng thuộc loại đào hoa về tinh thần.

Mệnh tạo ờ bên ngoài thường nghĩ về gia đình; con cái ở bên ngoài có tiếng tăm.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch

Dùng tiền có kế hoạch rõ ràng, cân đối thu chi, thu nhập ổn định, tài vận bình ổn, thuận lợi, ít nhưng đều đặn.

Ở bên ngoài có quý nhân giúp đỡ, xừ sự với mọi người một

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Tật Ách

Rất có duyên với người chung quanh, sức khỏe tốt, gặp nhiều quý nhân, dễ được trưởng bối quan tâm.

Ở bên ngoài có tâm tình tốt, tâm trạng ổn định, ít nạn tai.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập cung nô bộc

Giao du với bạn bè hiền hòa, lễ độ, có quý khí,cólítính,cónhiều trợ lực, có thể giúp đỡ lẫn nhau.

Anh chị em quan tâm lẫn nhau, đối xử với nhau rất tốt, ít có chuyện tranh chấp.

Bạn bè phần nhiều đều có chút tiếng tăm.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Quan Lộc

Công việc hay sự nghiệp đều bình yên, ổn định, có tiếng tăm, ít xày ra biến động, nhưng quy mô không lớn.

Đi làm hưởng lương sẽ ổn định, dễ thăng tiến.

Vợ chồng hòa hợp, ít có chuyện tranh chấp.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch

Thường có cơ hội đi ra ngoài, sinh hoạt gia đình vui vẻ, có không khí thư hương thanh nhã, có danh tiếng.

Gia sản ít biến động, cảm thấy thỏa mãn với tổ nghiệp, sống yên ở quê nhà.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập Cung Phúc Đức

Ra ngoài có tâm tình tốt, có thể hường phước, làm công việc khá nhàn hạ.

Dùng tiền có kế hoạch rõ ràng, có thể cân đối thu chi, “tài vận” binh ổn, ít sóng gió.

Cung Thiên Di Hóa Khoa nhập cung phụ mẫu:

Có thể được trường bối quan tâm chiếu cố, đề bạt, nâng đỡ.

Ra bên ngoài không được chuyện thị phi, tâm tình ổn định, có nhiều trợ lực, không làm cho gia đình lo lắng.

Cung Thiên Di phi Hóa Kị

Cung Thiên Di tự Hóa Kị

Tính khí bất định, tâm trạng dễ bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh hường hoặc kích thích.

Tính tình kì quái, thẳng ruột ngựa.

Có mặc cảm tự ti, dễ bị thiệt thòi.

Ra bên ngoài không được yên ổn, thường nhớ gia đình.

ít gặp quý nhân, duyên với người chung quanh rất kém, ít được trợ lực, dễ phạm tiểu nhân, chuốc nhiều thị phi.

Không nhẫn nại, thiếu bình tĩnh, thường có cơ hội xuất ngoại hay đi xa, ra bên ngoài sẽ bôn ba nhiều, không được thuận lợi, nên phòng nạn tai bất ngờ, dễ có “huyết quang”.

Cơ thể suy nhược, tiên thiên bất túc; làm lụng khá vất vả; giữa vợ chồng thường hay xảy ra tranh chấp.

Vận về già khá cô độc, một đời nhiều thăng trầm, khá gập ghềnh

Người phối ngẫu tiêu xài nhiều tiền ở bên ngoài.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Mệnh

Không thích đi xa, đi xa sẽ muốn về nhà, không chịu ở lại lâu; nhưng cũng thường bôn ba ở bên ngoài.

Ra bên ngoài không được thuận lợi không nên đi xa làm ăn, ở bên ngoài không có quý nhân, dễ phạm tiểu nhân, duyên với người chung quanh rất kém, thường bị thiệt thòi.

Sự nghiệp ở tha hương hay nước ngoài đều bất lợi, nên phát triến ở quê nhà, thích hợp làm nghề buôn bán có tính lưu động.

Không nên đầu tư sáng lập cơ nghiệp, thích hợp dựa vào nghề nghiệp chuyên môn để mưu sinh.

Đi xa dễ gặp sự cố giao thông, nên cẩn thận phòng tai họa “huyết quang”.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Huynh Đệ

Anh chị em không có trợ lực, bạn bè giao du không nhiều, ít bạn bè tri kỉ, bạn bè không trợ lực, qua lại tiền bạc với bạn bè dễ gặp phiền phức, rắc rối.

Công việc hay sự nghiệp không được thuận lợi, ít phát triển.

Ra bên ngoài sẽ tiêu xài nhiều tiền, thu không bằng chi, ảnh hưởng đến sinh kế gia đình.

Cung Thiên Di Hóa KỊ nhập Cung Phu Thê

Người phối ngẫu tiết kiệm tiền, sợ bị chịu thiệt, hay so đo tính toán.

Sự nghiệp rơi vào hoàn cảnh xấu, không thuận lợi, mệt mỏi bận rộn mà không có thu nhập.

Ra bên ngoài dễ gặp nạn tai, dễ mắc bệnh.

Tình cảm vợ chồng không hòa hợp; sự nghiệp của người phối ngẫu không có trợ lực.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập cung tử tức

Dịch mã động, thường đi xa, bôn ba nhiều mà không thuận lợi.

De gặp nạn tai, thường hay dời nhà, xuất ngoại, có khả năngdi dân.

Gia vận không phát, rất ít khi ở nhà, cần chú ý phòng sự cố giao thông hoặc đánh nhau với người ta.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch

ít có cơ hội kiếm tiền, vì tiền mà phải bôn ba nhiều, khó sống hòa hợp với người khác, không biết giao tế, sự nghiệp phát triển không thuận lợi.

Ra bên ngoài không thuận lợi, vì hưởng thụ mà tiêu xài tiền một cách uổng phí.

Tài vận của người phối ngẫu không thuận lợi, tiền bạc dễ bị hao tốn; bận rộn kiếm tiền nên không có phúc hưởng thụ.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Tật Ách

Thường có cơ hội đi nước ngoài, nhưng ra bên ngoài không được thuận lợi, thường không hợp thủy thổ, ảnh hưởng đến sức khỏe thân tâm.

Nơi làm việc, cơ sở doanh nghiệp không ổn định.

Ra bên ngoài gặp nhiều nạn tai, tâm trạng không ổn định, dễ bị thua thiệt, ít được trưởng bối, quý nhân quan tâm.

Cung Thiên Di Hóa KỊ nhập cung nô bộc

Anh chị em ít trợ lực, ít gặp quý nhân; không có bạn bè tri ki, ít bạn bè, giao tế kém.

Công việc hay sự nghiệp đều phát triển không thuận lợi, đi làm công ty quy mô nhỏ.

Sinh hoạt gia đình khá vất vả khổ sở.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Quan Lộc

Sự nghiệp phát triển không thuận lợi, không có bối cảnh nhân sự tốt trong công việc, bận rộn mà thu hoạch không lớn, làm nhiều mà thành ít.

Ra bên ngoài cần phải phòng tai họa, nạn tai bất ngờ.

Không thích hợp tự sáng lập cơ nghiệp, dễ có nguy cơ.

Vợ chồng sống với nhau kkông được hòa hợp, sinh hoạt tình cảm không thuận lợi.

Cung Thiên Di Hóa KỊ nhập Cung Điền Trạch

Chủ về biến động, sẽ dời nhà hoặc sẽ dời công ty.

Ra bên ngoài dễ có sự cố giao thông, phải cẩn thận gây ra tai nạn, dễ xảy ra nạn tai bất ngờ.

Không cảm thấy thõa mãn với tổ nghiệp, nhưng khó mua tậu nhà cửa.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập Cung Phúc Đức

ít được hưởng phước, phúc khí kém, bận rộn nhiều mà thànhtựu ít.

Thể chất kém, tài vận không tốt.

Vì hưởng lạc mà lãng phí tiền bạc, không có kế hoạch rõ ràng, không tiết chế. Sự nghiệp của người phối ngẫu phát triển không thuận lợi, vợ chồng duyên phận bạc, thường hay xảy ra tranh chấp hoặc gần nhau ít mà xa nhau nhiều, ít trao đổi cảm thông nhau.

Cung Thiên Di Hóa Kị nhập cung phụ mẫu

Thường có cơ hội đi nước ngoài, nhưng dễ không hợp thủythổ, dễ có tai họa bất ngờ, cơ thể cũng dễ bị thương.

Ra bên ngoài phần nhiều không được thuận lợi, làm cho cha mẹ lo lắng.

Cha mẹ thường bôn ba ở bên ngoài, không thể quan tâm chăm lo nhiều cho mệnh tạo.

Gia đình của người phối ngẫu nhiều thị phi.

Các cách cục Tốt Xấu đối với Cung Thiên Di

  • Ác tinh (hãm): ………………………….Gặp cảnh chết đường
  • Ân, Quý gặp Ấn, Tướng: …………….Cách sang, người có vị
  • Binh, Hình, Tuế:………………………..Người tranh đấu
  • Binh, Đẩu: ……………………………….Hay bị lừa
  • Binh, Mã (hãm): ………………………..Đi không về
  • Cô, Quả: …………………………………Có những hạn vô ích
  • Cơ (hãm): ……………………………….Người lẩn thẩn
  • Cơ, Lương (ở La, Võng): ……………Rất tốt
  • Cơ, Lương, Khôi, Việt: ………………Được nhiều người giúp, nể
  • Cơ, Tả, Hữu, Thanh: …………………Được nhiều may mắn
  • Cơ (hãm) gặp 2 cát tinh: …………….Lại rất tốt
  • Cơ (hãm) Linh, Hỏa (hãm): ………….Số long đong
  • Cái (Hoa Cái): ………………………….Có bạn là quý nhân
  • Cự, Hỏa, Linh (hãm): ………………..Chết đường
  • Cự, Kị (ở La, Võng): …………………Bị chết đuối
  • Cự, Kị (ở 10 cung kia): ……………..Bị chết đuối hụt
  • Cự, Kị, Không, Kiếp hãm: ………….Bị chết đuối
  • Cự, Kị, Không, Tham hãm: …………Bị chết đuối
  • Cự và lưỡng Phù (hãm): …………….Hay cãi cọ
  • Diêu, Hình ở Thiên di: …………………Có nhiều người oán
  • Diêu, Kị, Tham (hãm): …………………Chết đường
  • Diêu, Kị (hãm): ………………………….Nhiều người oán
  • Dưỡng (ở Thiên Di hay ở Quan): …..Nhiều người biếu, hoặc mời
  • Dưỡng, Lực, Phá: ……………………..Quí cách
  • Dưỡng, Lực, Tướng: ………………….Đàn bà đẻ ở đường
  • Dương, Đà: ……………………………..Ít cái hay, nhiều cái dở
  • Dương, Sát (hãm): …………………….Chết đường
  • Dương, Thái Tuế : ……………………..Khẩu thiệt
  • Dương, Phù, Tuế: ……………………..Bị khẩu thiệt nặng
  • Dương (đắc địa), Tuế: ………………..Vẫn thắng được
  • Dương, Đà, Không, Kiếp (hãm): …..Chết đường
  • Đẩu, Phục hãm, ở Di: ………………..Hay bị lừa
  • Đào, Hồng: ……………………………..Hưởng sự thân ái
  • Đào, Hồng, Thiên Không: ……………Có tài và quỷ quyệt
  • Đào ngộ Thiên Không: ……………….Có tài láu
  • Địa Kiếp tại Di (hãm): ………………..Chết đường
  • Điếu, Tang (hãm): …………………….Nhiều lo âu
  • Đồng (Thiên Đồng miếu): ……………Nhiều bạn quí
  • Đồng, Tướng: ………………………….Nhiều bạn quí
  • Đà, Mã: …………………………………Hay ngao du sơn thủy, du lịch
  • Hỏa, Linh (hãm): ……………………….Nhiều bạn tà tâm
  • Hỏa, Tham (miếu): …………………….Người hiên ngang
  • Hóa (Tam hóa miếu): ………………….Nhiều bạn quí
  • Hình, Kị, Liêm, Tham: …………………Người tù tội
  • Hổ, Tang (cũng như Điếu, Tang): …..Nhiều lo âu
  • Hư, Khốc ở Di: …………………………Tánh bi sầu
  • Hữu, Tả: ………………………………….Nhiều bạn giúp đỡ
  • Hao (Song Hao): ……………………….Tán tài
  • Kị, Tham ở Di: ………………………….Chết đường
  • Kị, Thiên Không: ……………………….Nhiều người oán
  • Kiếp sát, Phá toái: …………………….Bị kẻ thù hãm hại
  • Kiếp (Địa kiếp ở Dần, Thân): ………..Tù tội
  • Kiếp, Không (miếu): …………………..Giầu mà không bền
  • Kiếp, Không (hãm): ……………………Chết đường
  • Khôi, Việt: ……………………………….Tốt đẹp, hanh thông
  • Khôi, Việt, Quyền, Lộc: ………………Hay lý sự, nhiều bạn tốt
  • Khúc, Xương, Quyền, Lộc: ………….Hay lý sự
  • Khúc, Xương, Tấu: ……………………Có trí nhớ, sáng suốt
  • Khúc, Xương, Tấu, Kình, Đà: ……….Số phận long đong
  • Khoa, Quyền, Tử, Phủ: ………………Đại phú
  • Liêm, Phù (hãm): ……………………….Nghèo
  • Liêm, Phủ, Phù (hãm): ……………….Chết vì nghề
  • Liêm, Thất (hãm): ……………………..Bị tai vạ
  • Liêm, Phá, Thất, hai Phù: ……………Chết đường
  • Liêm, Tham, Hình, Kị (hãm): ………..Hạn tù
  • Liêm, Vũ đồng cung hãm: ……………Nghèo
  • (thêm Mã hãm: …………………………Long đong)
  • Long ngộ Mã (hãm): …………………..Sống long đong
  • Linh Tinh (hãm): ………………………..Hay gặp nạn
  • Lộc ngộ Dưỡng: ………………………..Hay sinh tài
  • Lộc, Mã, Song Lộc: …………………..Hay sinh tài
  • Long, Phượng: …………………………Nhiều bạn tốt
  • Lộc, Quyền: …………………………….Hiển vinh
  • Lương, Khoa, Quyền: ………………..Đại phú
  • Lương, Vũ, tam Hóa: …………………Đại phú
  • Linh, Hỏa, Mã: ………………………….Long đong
  • Nhật, N g uyệt đồng cung: …………….Có bạn quý
  • Nhật, Nguyệt minh: ……………………Có nhiều cái hay
  • Nhật, Nguyệt hãm: …………………….Có nhiều cái dở
  • Nhật ở Di, cư Ngọ: ……………………Có nhiều bạn sang
  • Nhật tam Hóa: ………………………….Có nhiều bạn giúp đỡ mình
  • Nhật, Nguyệt, Tả, Hữu: ……………… Có n hiều bạn giúp đỡ mình
  • Phù, Tuế (hay Phá, Tuế): ……………Hay cãi cọ, kiện cáo
  • Phá Quân ở Tí, Ngọ: …………………Võ tướng
  • Phá, Khúc, Xương: …………………..Có nhiều bạn quí
  • Phá, Thất Sát: ………………………….Chết đường
  • Phá Quân ở Di: ……………………….Số vất vả
  • Phá ngộ Triệt: ………………………….Cũng như Tướng ngộ Triệt: nguy nan
  • Phá, Tham, Dương, Đà: …………….Bị nạn
  • Phá, Hình, Kị, Không, Kiếp: ………..Bị nạn
  • Phá, Hình, Kị, Khốc, Hư: ……………Bị nạn
  • Phá Quân (ở La Võng): ………………Bị nạn
  • Phúc, Quan: ……………………………Được nhiều âm công
  • Phủ, Tử, tam Hóa: …………………….Đại phú
  • Phủ, Tử, Khôi, Việt, Tả, Hữu: ………Đại phú
  • Phủ, Tướng ở Di: ……………………..Có nhiều bạn tốt
  • Phủ, Tướng chiếu Di: …………………Tốt bạn
  • Phủ (Thiên Phủ ở Di): …………………Nhiều bạn tốt
  • Phủ (Thiên Phủ) ở La Võng: …………Nhiều bạn tốt
  • Phủ (Quan Phủ) ở Tuất: ………………Xấu, hay kiện cáo
  • Tham, Linh, Hỏa, Không, Kiếp: …….Nhiều bạn giúp đỡ
  • Thanh, Vượng: ………………………..Cản ngăn các may mắn
  • Triệt hay Tuần: …………………………Nghèo
  • Thất Sát ở Thiên Di: ………………….Đại phú
  • Tử Vi, tam Hóa, Tướng quân ngộ Triệt:…Giặc cướp giết (xin xem bài luận về Triệt trong số này)
  • Tướng ngộ Không, Kiếp: …………….Mất vị
  • Tướng ở Hợi cung: …………………..Rất tốt
  • Trinh ở Di: ………………………………Nghèo
  • Vũ, Khoa, Quyền: …………………….Nhiều tài

Thay lời kết

Tóm lại, Cung Thiên Di biểu thị không gian hoạt động bên ngoài của mỗi người. Nếu mưu cầu tha phương lập nghiệp. Nhất định phải xem xét kỹ Cung Thiên Di và Tam Phương Tứ Chính của Nó. Điển Hình là Cung Phúc Đức và Cung Phu Thê. Cung Thiên Di thích nhất là hội được tam cát Khoa Quyền Lộc. Sợ nhất là gặp ác sát tinh, đặc biệt là Hóa Kị, gặp nó thì ra ngoài thị phi, hay chuốc bực vào người…

Cung Tài Bạch – Luận giải Cung Tài Bạch Phi Hóa Vô Chính Diệu

0
Cung Tài Bạch – Luận giải Cung Tài Bạch Phi Hóa Vô Chính Diệu

Cung Tài Bạch luận giải khuynh hướng thu nhập tiền bạc do đâu mà có. Tiền bạc dồi dào súc tích hay tán gia bại sản là từ Cung Tài Bạch. Đối cung của Tài Bạch là Phúc Đức phần nào biểu hiện vấn đề tiền bạc có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư duy của con người…

(Tuvivietnam – Siêu Tầm)

Song hao hội tại Phúc, Tài

Tán nhiều tụ ít mấy ai nên giầu.

Ấy ai phúc lộc đề đa

Vũ, Lộc, Thiên Mã chiếu hoà Tài cung.

Ấy ai địch quốc tiếng đồn

Bởi vì Thiên Mã hội cùng Tràng Sinh

Phá Quân đóng ở Tài cung

Đồng tiền lên xuống tựa dòng nước xuôi.

Nghèo hèn bởi tại Kiếp Không

Dương Đà, Linh Hỏa Long đong bôn trì.

Tứ Sát đóng ở Hợi cung

Khi hết lại có khi vơi lại đầy.

Ấy ai danh lợi thong dong

Bởi vì Tả Hữu hội cùng Đế tinh.

 

Cung Tài Bạch là gì?

Cung Tài Bạch là cung vị làm chủ tài khí suốt một đời của đương số. Thông qua Cung Tài Bạch, chúng ta có thể tìm hiểu khuynh hướng chủ yếu của hình thức có tiền bạc, như thu nhập cố định (chính tài), thu nhập bất ngờ (Thiên tài), tiền của do kinh doanh làm ăn mà có. Đồng thời có thể luận đoán vận thế tài lộc của đương số thông qua một số cách cục đặc biệt khác…

Luận giải Cung Tài Bạch

Tiền bạc (tài bạch) là phương tiện giúp con người tồn tại. Nhất là trong xã hội hiện đại, địa vị xã hội của một người hầu như do tiền bạc quyết định. Vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghề nghiệp gì để kiếm tiền, đã thành vấn đề khá quan trọng.

Liên quan đến việc chọn nghề nghiệp gì cho thích hợp. Chúng ta đã thảo luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của Cung Mệnh, do đó trong lúc nghiên cứu Cung Tài Bạch, chủ yếu chỉ xem “tài khí” như thế nào, có tiền của dần dần hay có thể phát lên một cách nhanh chóng, sau khi có tiền của có giữ được hay không.

Trong Lá Số Tử Vi, tam phương tứ chính của Cung Tài Bạch là đối Cung Phúc Đức, và hai cung tam phương là Cung Mệnh và Cung Quan Lộc. Cung Phúc Đức chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyện cơm áo gạo tiền khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèo hay giàu có thể ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởng qua lại của Cung Phúc Đức và Cung Tài Bạch.

Còn Cung Mệnh, vận thế của đương số và cách cục chủ yếu được quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến “tài bạch”. Còn mối quan hệ giữa quan lộc và tài bạch, đương nhiên cũng là mối quan hệ then chốt. Cung Mệnh, Cung Quan Lộc và Cung Tài Bạch hội hợp, đứng là tượng trưng cho “vị thế của lợi lộc”.

Nếu chỉ đơn thuần dựa vào Cung Tài Bạch của nguyên cục để luận đoán tiền bạc “được mất”. Thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ hiển thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách tinh tế và chính xác, nhất định còn phải xem xét kèm với Cung Tài Bạch của các đại hạn để luận đoán. Sau đó mới có thể biết sự phát triển tài vận của một đời người. Còn Cung Tài Bạch của nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài vận.

Những điều trình bày trong bài này tuy lấy Cung Tài Bạch của nguyên cục làm chủ. Nhưng vẫn có thể dùng nó để luận đoán phối hợp với Cung Tài Bạch của đại hạn.

Điều cần chú ý là, lúc luận đoán Cung Tài Bạch của đại hạn mà gặp “Lưu Hóa Lộc”, “Lưu Hóa Quyền”, “Lưu Hóa Khoa”, “Lưu Lộc”, “Lưu Mã “, “Lưu Dương”, “Lưu Đà”. Thì chúng cũng có cùng một tác dụng như các điều thuật về Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Thiên Mã, Kình Dương, Đà La.

Tử Vi Cung Tài Bạch

Tử Vi thủ Cung Tài Bạch, trong tình hình thông thường, chủ về giàu có. Hội chiếu Phá Quân, chủ về cần phải trải qua sóng gió, trắc trở rồi mới được tiền của. Nhưng sau khi có được tiền của vẫn gặp sóng gió, trắc trở. Hội sát linh thì nên đề phòng sau khi được tiền của sẽ bị phá tán, thất bại.

Tình hình hoạnh phát, phát lên một cách nhanh chóng là do Sao Tử Vi có Thất Sát hội chiếu. Còn có các cát tinh hội hợp, rất ưa gặp Tả Phụ, Hữu Bật, chủ về nguồn tiền tài đến từ nhiều phương diện.

Một tình hình khác là, Tử Vi có Kình Dương hoặc Đà La hội chiếu. Tử Vi có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh hội chiếu. Nhất là lúc Tử Vi hoặc Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La nhập miếu, càng chủ về hoạnh phát, tuy chỉ sợ không được lâu bền. Nhưng nếu gặp thêm các sao Hình, Kị, Địa Không, Địa Kiếp thì dù có hoạnh phát cũng e rằng sẽ phá tán rồi nghèo khổ trở lại.

Tử Vi thủ Cung Tài Bạch, không ưa Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao đồng cư hoặc hội chiếu. Chủ về bị người ta hiếp đáp, chèn ép, bóc lột khiến hao tổn, phá tán. Dù có các cát tinh đồng thời hội chiếu, cũng chủ về tiền đến rồi tiền đi, không tích lũy được.

Tử Vi ưa đồng độ hoặc hội chiếu với Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, chủ về có thể tích lũy tiền của, cũng chủ về có sở trường quản lý tài chính.

  • “Tử Vi Thiên Phủ”, chủ về tiền bạc dồi dào, một đời giàu có. Nhưng giỏi tích lũy tiền bạc chưa chắc đã giỏi vận dụng tiền bạc.
  • “Tử Vi Tham Lang”, nên dùng tài nghệ của bản thân để cầu tài. Không gặp các sát tinh, kị thì chủ về trải qua gian nan nhưng có thể giàu có. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, vì có Tử Vi khắc chế sức mạnh của Hỏa Tinh, Linh Tinh, nên không bằng “Hỏa Tham cách”, “Linh Tham cách”, có thể phát lên nhanh chóng.
  • “Tử Vi Thiên Tướng”, nếu Cung Mệnh là Thất Sát của cách cục “Hùng tú càn nguyên”, không gặp các sao ác, sát tinh, thì tiền của dồi dào. Nếu gặp sao ác, sát tinh, thì tiền của có thành tựu cũng bị phá. Cần phải xem kĩ Cung Tài Bạch của từng đại hạn mà định. Nhưng trong đời ắt sẽ có nguồn tiền tài bất ngờ, nhờ vậy mà phát lên nhanh chóng.
  • “Tử Vi Phá Quân” gặp sát tinh thì có thể hoạnh phát, nhưng sợ không được lâu bền. Không gặp sát tinh, có thể có tiền của, nhưng vẫn thành rồi bại. Gặp cát tinh thì dễ có tiền của bất ngờ. Hoặc có nguồn tiền rất đặc biệt, nhưng trường hợp ở Cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu.
  • “Tử Vi Thất Sát”, có các cát tinh phù trợ thì có thể hoạnh phát. Nhưng đến vãn niên vẫn phải đề phòng phá tán, thất bại.

Thiên Cơ Cung Tài Bạch

Thiên Cơ thủ Cung Tài Bạch, chủ về có tiền của nhưng khó giữ. Dù nhập miếu, cũng tiền đến rồi tiền đi, nhưng không lo thiếu thốn.

Khi Sao Thiên Cơ nhập miếu, hội hợp với Lộc Tồn, Thiên Mã, Hóa Lộc. Nhất định sẽ giàu có, tiền của dồi dào. Nếu Thiên Cơ Hóa Lộc, thì từ sự nghiệp cũ mà phát sinh sự nghiệp mới. Nhờ đó có tiền của. Chỉ gặp Lộc Tồn, chủ về bị tiểu nhân dòm ngó.

Nếu Thiên Cơ ở cung lạc hãm, thì nguồn tiền tài có nhiều biến hóa rắc rối, gặp khó khăn. Còn chủ về lao tâm lao lực. Nếu lại hội sát tinh, chủ về có tiền bạc sau khi đã trải qua gian khổ.

  • Thiên Cơ, Thái Âm, chủ về tay trắng làm nên. Hoặc không được hưởng phúc ấm của cha mẹ. Nhưng bản thân có thể tự sáng lập sự nghiệp mà có tiền bạc.
  • “Thiên Cơ, Cự Môn”,Thiên Cơ rất ngại hội chiếu với Cự Môn. Chủ về lao thần phí sức, cạnh tranh đa đoan. Phàm chuyện gì lúc chưa vào tay thì chẳng ai chú ý. Nhưng khi tiến hành thì có người khác giành giật, tranh đoạt. Hơn nữa, muốn có tiền bạc cần phải tốn nhiều nước bọt.
  • “Thiên Cơ, Thiên Lương” Thiên Cơ có Thiên Lương hội chiếu. Chủ về dùng xảo kế để mưu cầu tiền bạc, lúc lâm sự nhiều mưu trí. Nếu hội các sát tinh, kị, thì dù có dùng mọi mưu kế cũng chủ về bần cùng.

Thiên Cơ rất kị có tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội chiếu, chủ về không có nhiều cơ duyên phát tài, còn tụ rồi tán.

Sao Thái Dương Cung Tài Bạch

Thái Dương nhập miếu, thông thường đều chủ về tiền của dồi dào. Nhưng bản thân Thái Dương có một đặc tính, đó là “cho ra mà không nhận về”. Bởi vì ánh sáng của mặt trời chiếu rọi khắp nơi, bất cứ vật thể nào cũng được tiếp nhận ánh sáng và nhiệt của nó.

Do có bản chất này nên Thái Dương ở Cung Tài Bạch dù nhập miếu, cũng chủ về cuộc đời gánh vác trọng trách rất nặng, vì gia đình, vì giúp đỡ anh em, bạn bè, thậm chí người dưới quyền, mà chi tiêu rất lớn.

Nếu Thái Dương lạc hãm, do bản thân Thái Dương không phát sáng, nên không giống như Thái Dương nhập miếu, phải gánh vác nặng như vậy, phẩm cách vui vẻ cho tha nhân cũng không bằng. Tuy không còn chủ về cuộc đời lao tâm lao lực, nhưng cũng chủ về tiền đến rồi tiền đi, trước sau đều khó tích lũy.

Thái Dương rất ưa hội chiếu Lộc Tồn, Thiên Mã. Tuy lao tâm, lo toan nghĩ ngợi, nhưng cũng có thể trở thành đại phú. Nếu hội các sát tinh, hình, kị, hao, thì vất vả mà không được gì. Là người bận rộn vì người khác, thậm chí bản thân đào giếng mà người khác uống nước.

  • Thái Dương có Cự Môn hội hợp, tiền bạc ắt sẽ do cạnh tranh mà có, chủ về lao tâm, vất vả. Nhưng có thể nhờ vậy mà sáng lập sự nghiệp, có được tiền của.
  • “Thái Dương Thái Âm” chủ về tiền của trước tán sau tụ. Ưa có Tả Phụ, Hữu Bật hội chiếu, và Thái Âm, Thái Dương kết thành “sao đôi”, có lực phù trợ, chủ về được người ta đề bạt, ủng hộ mà phát tài. Nếu gặp thêm Hóa Lộc, Lộc Tồn và các cát tinh, thì chủ về phát tài vạn kim.
  • “Thái Dương, Cự Môn” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung Dần là đất vượng, đương nhiên tốt hơn cung Thân. Vì vậy ở cung Dần có thể tay trắng sáng lập sự nghiệp. Tuy vất vả cạnh tranh, nhưng sau trung niên có thành tựu. Cũng chủ về được người tín nhiệm, khi đã thành cơ nghiệp còn phát triển mở rộng. Hoặc được người ngoại quốc đề bạt, xem trọng.
  • Thái Dương, Thiên Lương ở cung Mão. Thái Dương là mặt trời mới mọc, có thể giải trừ tính chất cô độc, kị khắc của Thiên Lương. Vì vậy, tuy về phương diện tiền bạc thường có tranh đoạt, nhưng vẫn có thể sung túc. Có điều, phải thêm các cát tinh mới đúng.

Thái Dương ở cung Dậu là mặt trời lặn về tây, sự tranh đoạt càng nặng. Gặp Kình Dương, Thiên Hình, chủ về vì tiền bạc mà sinh kiện tụng.

Sao Vũ Khúc Cung Tài Bạch

Vũ Khúc là sao cai quản tài bạch, nhập miếu thì chủ về tiền của dồi dào, có tiền một cách thuận lợi. Cũng chủ về có năng lực quản lý tiền bạc.

Nếu nhập miếu còn gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Thiên Mã, là cách cục cự phú. Nhưng nếu không có cát tinh khác hội hợp, mà chỉ được Hóa Lộc, Lộc Tồn, thì lao tâm lao lực mới kiếm được tiền. Hoặc đắc lợi trong cạnh tranh.

Vũ Khúc không ưa hội chiếu Phá Quân. Dù có gặp cát tinh, cũng chủ về tiền đến rồi tiền đi, trồi sụt thất thường, nhưng cuối cùng cũng có thể tích lũy. Nếu có sao hung sao ác cùng tụ hội, chủ về không có hi vọng tích lũy được tiền của.

Vũ Khúc ưa Tử Vi, Thiên Tướng đồng thời hội chiếu, chủ về nguồn tiền tài dồi dào.

Gặp cách cục “Hỏa Tham” hay “Linh Tham” hội chiếu, chủ về có tiền của bất ngờ. Nếu đồng cung thì không bằng vây chiếu.

Vũ Khúc rất ghét Kình Dương và Đà La đồng độ, chủ về vì tiền bạc mà sinh tai họa.

Vũ Khúc gặp Hóa Kị, chủ về tiền bạc xoay chuyển khó khăn. Nếu bản thân Vũ Khúc Hóa Kị thì tiền bạc xoay chuyển càng khó khăn hơn.

Vũ Khúc gặp Địa Không, Địa Kiếp, chủ về bận rộn, vất vả kiếm tiền, thành tựu ít mà phá hao nhiều.

  • Vũ Khúc đồng độ với Thiên Phủ. Vũ Khúc là sao tiền tài, gặp Thiên Phủ là kho tiền. Nếu có Tả Phụ, Hữu Bật, Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu là cách cục đại phú. Nếu gặp các sát tinh, kị, cũng chủ về ấm no. Cách cục bình thường thì chủ về giàu có sung túc.
  • Vũ Khúc đồng độ với Tham lang, có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh hội chiếu, gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc. Chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Nếu không gặp Hỏa Tinh mà gặp các sao đào hoa, thì vì sắc mà phá tài. Nếu gặp Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao thì vì cờ bạc hoặc đầu cơ mạo hiểm mà phá sản. Chỉ thấy “Vũ Khúc Tham lang” thì đến trung niên mới có thể phát đạt.
  • Vũ Khúc và Thiên Tướng mà đồng cung, ắt sẽ hội chiếu với Tử Vi. Trường hợp ở cung Dần tốt hơn ở cung Thân. Vì Vũ Khúc và Thiên Tướng ở cung Dần sẽ hội hợp với Tử Vi ở cung Ngọ, nhập miếu. Hơn là ở cung Thân hội hợp với Tử Vi ở cung Tí. Ba sao Vũ Khúc, Thiên Tướng, Tử Vi tương hội, chủ về nguồn tiền tài thịnh vượng. Nếu gặp thêm sát tinh, thì lại chủ về dựa vào tay nghề khéo hoặc kiến thức chuyên môn để kiếm tiền.
  • Vũ Khúc, Thất Sát, nếu không gặp sát tinh, chủ về kiếm tiền bằng hai bàn tay trắng nhưng làm nên. Gặp Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, chủ về dư giả, đến vãn niên cũng có tích lũy được chút ít. Nếu có sát tinh, thì hoạnh phát hoạnh phá, phát lên một cách đột ngột rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nếu sát tinh có Thiên Hình hội chiếu, chủ về vì tiền bạc mà sinh nạn tai. Có Kình Dương đồng độ, hoặc Hỏa Tinh đồng độ, thì có tranh giành, cướp đoạt, trộm cắp. Càng không nên gặp Âm Sát hoặc Kiếp Sát.
  • Vũ Khúc, Phá Quân, chủ về tiền đến tiền đi. Dù có thêm Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã, cũng khó tích lũy được tiền của. Nhưng nếu có Thiên Phủ ở cung phu thê, vì cung phu thê hội hợp các cát tinh, nên có thể nhờ sức của người phối ngẫu mà giữ được tiền của.

Sao Thiên Đồng Cung Tài Bạch

Phàm Thiên Đồng ở Cung Tài Bạch, tất sẽ chủ về tay trắng làm nên. Hoặc chỉ dùng vốn nhỏ mà phát đạt. Vì vậy phần nhiều chủ về sau trung niên mới ổn định, đến vãn niên mới có tiền của tích lũy.

Thiên Đồng có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã hội chiếu, Nhất định dư giả. Nếu gặp các sát tinh Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Kiếp, Địa Không hội chiếu, còn gặp thêm Long Trì, Phượng Các. Thì nhờ kĩ xảo, nghệ thuật mà nên sự nghiệp, còn là người có phơng thái danh sĩ, nhưng không thể giàu có.

  • Hai sao “Thiên Đồng Thái Âm” đồng cung, gặp cát tinh. Tuy tay trắng làm nên, nhưng cũng chủ về có thu hoạch bất ngờ. Loại thu hoạch bất ngờ này khác với “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, ít có tính cạnh tranh hay phát lên một cách nhanh chóng, mà chỉ chủ về gặp cơ hội bất ngờ. Nếu gặp thêm sát tinh thì khó tích tụ.
  • “Thiên Đồng, Thái Âm” trong tình hình thông thường, chủ về nguồn tiền tài được mất bất định, khó tích tụ. Nhưng nếu gặp các cát tinh thì vẫn dư giả, chủ về dựa vào tri thức và kĩ năng chuyên môn mà trở nên giàu có, nhất là theo ngành y dược, pháp luật.
  • Hai sao Thiên Đồng, Thiên Lương hội Thái Âm, Thiên Cơ, nếu lại gặp các cát tinh, vẫn chủ về một đời y lộc sung túc. Gặp Kình Dương, Thiên Hình, thì có tranh chấp, nhưng theo ngành y dược, pháp luật hoặc công tác xã hội thì có thể miễn. Gặp sát tinh, cũng chủ về mưu sinh bằng nghề chuyên môn. Không có sát tinh, có thể làm công chức.

Liêm Trinh Cung Tài Bạch

Liêm Trinh nhập miếu ở Cung Tài Bạch, chủ về kiếm tiền trong cạnh tranh. Nếu nhập hãm địa, thì chủ về có tiền bạc trong gian nan, tiền đến rồi tiền đi, tụ tán bất thường.

Liêm Trinh Hóa Kị, chủ về vì tiền bạc mà gây ra phiền phức. Hoặc vì gặp rắc rối, khó xử về tình cảm mà phá tài. Liêm Trinh Hóa Kị gặp đủ các sát tinh, hình, kị. Chủ về vì tiền bạc mà gây nên nạn tai. Liêm Trinh Hóa Kị gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, thì nên đề phòng trộm cướp.

Kết cấu xấu nhất là Liêm Trinh gặp đủ các sao như Hóa Kị, Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về vi phạm pháp luật mà phá tài.

  • “Liêm Trinh Thiên Tướng” được Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc hội chiếu, rất thích hợp kinh doanh buôn bán. Gặp thêm cát tinh thì chủ về dư giả. Gặp Kình Dương hoặc Hỏa Tinh đồng cung, thì có thể thành cự phú. Nhưng nếu gặp thêm sát tinh, thì có phá tài.
  • Hai sao “Liêm Trinh Thất Sát” đồng cung ở Sửu hoặc Mùi. Trường hợp ở cung Mùi thì có thể thành đại phú, ở cung Sửu là kế đó. Nhưng đều chủ về kiếm tiền trong cạnh tranh. Nếu gặp thêm các sát tinh, kị thì chủ về bần hàn.
  • “Liêm Trinh Phá Quân” ưa thấy Vũ Khúc, Tham Lang ở Cung Mệnh hội hợp với Hỏa Tinh và Linh Tinh của bản cung. Chủ về có thể hoạnh phát, nhưng e là sau khi phát sẽ hoạnh phá. Nếu gặp các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Lộc, cũng chủ về kiếm tiền trong vất vả, cũng có phá tán, thất bại. Nhưng nếu “Liêm Trinh Phá Quân” thấy các sát tinh, kị hội hợp, thì phá tán, thất bại nhiều lần, một đời cùng khốn. Nếu lại gặp thêm Đại Hao, thì nghèo đến độ không có đất để cắm dùi.
  • “Liêm Trinh Thiên Phủ” gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, lại gặp thêm Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt. Chủ về một đời giàu có sung túc. Nếu không có cát tinh, thì gia sản vào bậc trung. Gặp các sát tinh, kị thì chủ về thất bại.
  • “Liêm Trinh Tham Lang” rất ưa có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đồng độ, hội chiếu cũng cát. Chủ về có nguồn tiền tài bất ngờ. Nếu không, cũng chủ về hoạnh phát hoạnh phá. Nếu lại gặp thêm sát tinh thì chủ về phá tán, thất bại càng nặng. Nếu gặp Hóa Kị, thích hợp gia nhập quân đội hay ngành cảnh sát, hoặc làm nghề phẫu thuật ngoại khoa, nha khoa. Hạ cách thì làm đồ tể, như vậy có thể tránh hung hiểm. Có cát tinh hội chiếu còn chủ về dư giả, nhưng không nên đầu cơ, cũng nên đề phòng vì sắc mà phá tán, thất bại.

Sao Thiên Phủ ở Cung Tài Bạch

Thiên Phủ là kho tiền, thủ Cung Tài Bạch, chủ về có thể tích tụ, vì vậy phần nhiều đều giàu có, sung túc. Nếu hội Tả Phụ, Hữu Bật, Lộc Tồn, Hóa Lộc, gặp thêm Tử Vi, Vũ Khúc là cách cục cự phú.

Thiên Phủ ở cung bình nhàn, trước thì gian nan sau mới có tiền của.

Thiên Phủ gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, cũng không chủ về phá tán thất bại. Mà chỉ chủ về mỗi khi tiền vào ắt đồng thời sẽ có hao tổn.

Nếu Thiên Phủ có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình hội chiếu, chủ về vì tiền bạc mà dẫn đến tranh chấp, hoặc dính đến kiện tụng.

Sao Thái Âm Cung Tài Bạch

Thái Âm chủ về phú, vì vậy khi thủ Cung Tài Bạch thì chủ về dư giả. Sao Thái Âm nhập miếu địa, tương hội với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, là mệnh giàu có. Thái Âm nhập hãm địa, có cát tinh, chủ về giàu có sung túc. không có cát tinh, thì phải căn cứ vào vận hạn để định tiền bạc tụ tán thế nào.
Nếu có tứ sát hội chiếu thì phải lao tâm lao lực để kiếm tiền. Nếu không, sẽ vì tiền bạc mà sinh bất hòa, tranh chấp.

Tham Lang Cung Tài Bạch

Tham Lang thủ Cung Tài Bạch, rất ưa có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đồng độ. Chủ về hoạnh phát, hoặc được tiền của bất ngờ.

Tham Lang thủ Cung Tài Bạch cũng ưa Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào. Nếu gặp sát tinh và có Hàm Trì, Đại Hao, Thiên Hình, Thiên Diêu, Hồng Loan, Thiên Hỉ, Âm Sát hội hợp. Thì vì tranh giành mỹ nhân mà thất bại.

Tham Lang có Liêm Trinh hội chiếu, thì không nên gặp sát tinh, nếu không, cũng chủ về vì sắc mà hao tốn tiền của.

Tham Lang có tứ sát hội chiếu, lại gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp. Thì vì cờ bạc, đầu cơ mạo hiểm mà phá gia. Hoặc chủ về nhiễm sở thích không lành mạnh mà phá tán, thất bại.

Cự Môn Cung Tài Bạch

Cự Môn thủ Cung Tài Bạch, chủ về lao tâm, phí sức, kiếm tiền trong cạnh tranh. Nhờ động não, tính toán, hoặc nhờ tài ăn nói, hao tốn nước bọt mà có được tiền bạc. Khi Sao Cự Môn ở Cung Tài Bạch, cũng chủ về tay trắng làm nên.

Cự Môn có cát tinh hội chiếu, hoặc có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Lộc Tồn đồng độ, đều chủ về dư giả. Có điều nên đề phòng sau khi phát tài thì kiêu ngạo, ép người. Hoặc lý tưởng quá cao, không lượng sức mình mà làm, nên bị người ta bài xích, gạt bỏ.

Phàm Cự Môn thủ Cung Tài Bạch, đều có ngầm phục nguy cơ phá tán, thất bại. Nếu bản thân biết khiêm cung, không gây ra phá tán, thất bại, còn phải giáo dục con cái, đề phòng con cái phá gia bại sản.

  • Nếu có Kình Dương, Đà La đồng độ, chủ về vì tiền bạc mà bất hòa, tranh chấp, kiện tụng.
  • Nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao đồng độ hoặc hội chiếu, thì đề phòng trộm cướp hoặc hỏa tai.

“Thiên Đồng, Cự Môn” đồng độ, chủ về tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng không thích hợp mưu sinh bằng nghề chuyên môn.

“Cự Môn, Thái Dương” lợi về giao du với người ngoại quốc, có thể được xem trọng, vì vậy mà trở nên giàu có.

Sao Thiên Tướng Cung Tài Bạch

Thiên Tướng ở Cung Tài Bạch ắt có Thiên Phủ hội chiếu. “Ấn tinh” và “kho tiền” tương hội, nếu được các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu, đương nhiên sẽ chủ về tiền của dồi dào. Dù ở hãm địa, cũng chủ về tay trắng làm nên.

Nếu Thiên Tướng đồng độ với Liêm Trinh, có thể kinh doanh buôn bán, chủ về dễ gặp thời cơ. Nếu đồng độ với Vũ Khúc, thì nên sự nghiệp nhờ nghề chuyên môn.

Thiên Tướng có Tử Vi hội chiếu, cuộc đời ắt gặp cơ hội phát đạt một cách đột ngột.

Thiên Tướng có Vũ Khúc, Phá Quân vây chiếu, chủ về được mất bất thường. Hoặc chủ về phá hết tổ nghiệp rồi mới tự kiếm tiền.

Vũ Khúc có Phá Quân vây chiếu, lại gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao. Thì không có tiền của bền vững, hoặc thậm chí chi tiêu quá mức. Nếu có thêm sát tinh, Thiên Hình hội hợp, thì vì tiền mà xảy ra tranh chấp. Sát tinh nặng mà còn gặp Hóa Kị thì có thể dẫn đến thất bại, hoặc tai họa lao ngục. Nếu không có cát tinh giải cứu, thậm chí có thể nguy đến tính mạng.

Vũ Khúc có Phá Quân vây chiếu mà gặp các sát tinh, hình, kị, mới chủ về lúc được lúc mất, khó tích tụ.

Thiên Lương Cung Tài Bạch

Thiên Lương rất ưa hội hợp với Thái Âm. Nếu nhập miếu mà hội chiếu Thái Âm, Hóa Lộc, Lộc Tồn, thì có thể phát đạt. Nếu gặp thêm Thiên Vu thì có thể được thừa hưởng di sản, hoặc không làm gì mà có tiền.

Khi Sao Thiên Lương hội hợp với Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về giàu có mà không có công danh.

Thiên Lương không ưa ở Cung Tài Bạch là cung Tí, chủ về tuy có nguồn tiền tài, nhưng hao tán cũng nhiều.
Nếu Thiên Lương hội chiếu với Hóa Kị, thì vì tiền mà sinh điều tiếng thị phi, tranh chấp. Hoặc vì tiền mà tinh thần đau khổ.

Nếu Thiên Lương có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, Thiên Hình hội chiếu. Thì có nguy cơ phá sản, hoặc vì tiền mà xảy ra sự cố lớn. Hoặc dính đến kiện tụng mà hao tốn rất nhiều tiền bạc. Được các cát tinh như Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật hóa giải, chủ về trải qua hết mọi gian khổ mới có được tiền bạc, nhưng vẫn không tránh được nỗi khổ thiếu thốn.

Thiên Lương ở Cung Tài Bạch, nếu gặp các sát tinh, kị, hình, hao, cũng chủ về có được tiền bạc rồi xảy ra phiền phức đợi giải quyết.

Thất Sát Cung Tài Bạch

Thất Sát nhập miếu, có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn hội chiếu. Chủ về nguồn tiền tài dồi dào và có thể được của bất ngờ.

Thất Sát ưa ở cung Thìn hoặc Tuất, là nhập “Thiên La, Địa Võng”. Có thể phát đạt, trở nên giàu có. Còn “Vũ Khúc, Thất Sát” ở hai cung Mão hoặc Dậu thì khác. “Vũ Khúc, Thất Sát” khó phát lên một cách nhanh chóng, nhưng có thể thất bại rất nhanh.

Thất Sát ở Cung Tài Bạch, nếu có sát tinh, Thiên Hình hội chiếu. Chủ về vì tiền bạc mà sinh nạn tai, hoặc bị trộm cắp, cướp bóc.

Thất Sát có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội chiếu, chủ về thường cảm thấy túng thiếu, phải lao lực để kiếm tiền mà không đủ. Hơn nữa, cơ hội phá tán, hư hao cực nhiều.

Thất Sát ở Cung Tài Bạch, bất kể ở cung độ nào, đều chủ về cuộc đời phải trải qua một lần nguy cơ, nhẹ thì tiền bạc xoay chuyển khó khăn, nặng thì thất bại. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn và các cát tinh thì có thể trở mình trong một thời gian ngắn. Nếu Thất Sát lạc hãm, lại có sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội chiếu, mà không có cát tinh nào, thì thường cảm thấy vất vả, khó khăn. Nếu gặp thêm các sao hình, kị, thì một đời nghèo khổ.

Phá Quân Cung Tài Bạch

Phá Quân độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về phú quý. Phá Quân độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Thiên La, Địa Võng) là kế đó.

“Phá Quân Tử Vi” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về có được tiền của bất ngờ, hoặc cách kiếm tiền vô cùng kì lạ. Trường hợp ở cung Mùi ưu hơn ở cung Sửu. Nhưng nếu lưu niên mà đến hai cung Sửu và Mùi thì mua bán sẽ bị phá tán hao tài.

Phá Quân không ưa độc tọa ỏ hai cung Dần hoặc Thân, chủ về tổ nghiệp sụp đổ.

  • Phá Quân đồng độ với Địa Không, Địa Kiếp, chủ về thu không bằng chi.
  • Phá Quân đồng độ với Kình Dương, Hỏa Tinh, chủ về được nhanh mất nhanh.
  • Phá Quân đồng độ với Đà La, Đại Hao, chủ về xảy ra bất hòa, tranh chấp, quấy rối phiền phức, phá tán hao tài cực nặng.

Hóa Lộc Cung Tài Bạch

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Lộc [năm sinh] ở Cung Tài Bạch như sau:

  1. Hóa Lộc có hàm ý là “nhiều”, “cầu được nhiều”. Lúc Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch, ảnh hưởng đầu tiên chính là bản thân rất có hứng thú kiếm tiền. Trạng thái tâm lý kì vọng vào việc kiếm tiền thể hiện rõ rệt hơn người bình thường. Họ sẽ suy nghĩ tính toán nhiều phương thức kiếm tiền và con đường kiếm tiền khác nhau, và cũng sẽ biến nó thành hành động thực tiễn, nhưng hành động thực tiễn có mạnh mẽ hay không thì phải xem tình hình của sao Hóa Kị.
  2. Lúc Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch là chủ về đương số có nhiều cơ hội kiếm tiền, nhất là trường hợp các sao hóa miếu vượng. Lượng tiền chảy vào theo đó mà tăng mạnh lên, tốc độ kiếm tiền cũng theo đó mà tăng nhanh hơn. Cho nên có quan điểm cho rằng có Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch là giàu có.
  3. Thực ra Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch là chủ về trong cuộc đời từng có nhiều thời cơ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng không nhất định sẽ giàu có. Vì đây chỉ là điều kiện có, mà chưa phải là điều kiện đủ. Muốn biết có giàu có hay không, trước tiên phải xem cung nào có sao Hóa Kị [năm sinh] tọa thủ, tính chất “thu vào” của Hóa Kị có được thích đáng hay không. Nếu nó ở vị trí không thích đáng, thì tiền bạc tích lũy được sẽ bị phá tán hoặc tiêu xài hết. Có điều, Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch là chủ về nguồn tiền tài bất tận, chỉ cần có động tác kiếm tiền, luôn luôn có cơ hội tiền vào.
  4. Kế đến phải xem sao nào Hóa Lộc. Vì Hóa Lộc tuy chủ về “phong phú”, “nhiều”, nhưng còn chủ về “tình”. Trường hợp bản thân sao Hóa Lộc có thành phần “tình” quá lớn. Hoặc toàn bộ mệnh cục chủ về tình cảm quá phong phú, thì Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch là chủ về “tình” chứ không chủ về “lợi”. Tuy vẫn có cách suy nghĩ của người giỏi kiếm tiền và có cơ hội kiếm tiền, nhưng lượng tiền vào sẽ giảm bớt.
  5. Nếu Thiên Đồng hay Thiên Lương là sao Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch, thì Hóa Lộc này chỉ hướng luận về tiền bạc không lớn. Nhưng do chịu tác động của Hóa Lộc, nên bất luận đương số tự kinh doanh, hay đi làm hưởng lương, thì kiếm tiền vẫn dễ hơn người bình thường.
  6. Cung Tài Bạch còn là cửa ngõ giao dịch. Do đó không chỉ có nhiều con đường tiền vào, nhiều con đường kiếm tiền, mà con đường tiêu xài tiền cũng rất nhiều, mà còn tiêu xài tiền với tốc độ rất nhanh.
  7. Như đã thuật ở trước, vì Hóa Lộc chủ về “nhiều”, nên có nhiều phương thức kiếm tiền. Ứng nghiệm trong thực tế, là chủ về dễ có thêm nghề khác, có tố chất chuyên nghiệp, và có nhiều cách kiếm tiền. Nếu có tự hóa, là chủ về làm thêm bán thời gian, kiêm nhiều nghề.
  8. Vì Cung Tài Bạch còn là cung vị biểu hiện, cho nên Hóa Lộc tượng trưng cho “có tình nghĩa”, “đa tình”. Biểu hiện ở hành vi, ngôn từ và thái độ đều làm cho người ta cảm thấy đương số có tình người, mà cách xử sự cũng dùng tình cảm rất tế nhị.
  9. Vì Hóa Lộc ở Cung Tài Bạch, nên cũng có nghĩa là biểu hiện tính chất Hóa Lộc (vì Cung Tài Bạch là cung vị chủ về biểu hiện), biểu hiện “Hóa Lộc” tức là biểu hiện có tiền của, nên dù đương số không có tiền cũng sẽ biểu hiện là người có tiền. Nếu vị trí của Hóa Lộc và Hóa Kị không thích đáng, có lúc phải gượng chống đỡ, khiến người ta hiểu lầm đương số là người rất có tiền, thực ra chỉ là người rất biết tiêu xài tiền mà thôi!
  10. Tổng hợp các điều (6), (8), (9) là chủ về đương số đối đãi bạn bè rất khẳng khái và rộng rãi
  11. Vì có thái độ đầy tình cảm, lúc dùng lời nói cũng tràn đầy tình cảm, khiến người ta cảm nhận được lòng chân thành của họ, kèm với cách dùng tiền thoải mái và rộng rãi, nên rất thu hút sự chú ý của người khác giới.
  12. Cung Tài Bạch còn là cung vị phu thê của cung phu thê. Nên hình ảnh của đương số trong cách nhìn của người phối ngẫu, trường hợp có Hóa Lộc, nếu so sánh thì người phối ngẫu sẽ cho rằng đương số đa tình hơn họ, do đó dễ bị người phối ngẫu hiểu lầm là đa tình hào hoa.
  13. Một khi bước ra xã hội đi làm kiếm tiền, trong một khoảng thời gian, quan niệm về tình cảm của đương số sẽ thay đổi. Vì tâm tính dễ xúc động cũng là tượng trưng cho sự tụ tán ly hợp rất nhanh, rất gấp. Người ngoài sẽ cho rằng họ là người không chuyên nhất trong tình cảm.

Hóa Quyền Cung Tài Bạch

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp khi Sao Hóa Quyền [năm sinh] ở Cung Tài Bạch như sau.

  1. Trước đã nói về trường hợp Hóa Quyền ở Cung Mệnh, là bản thân đương số có hình tượng uy nghiêm, không cần nói ra mà vân có uy lực. Còn Cung Tài Bạch là cung vị biểu hiện lời nói và hành vi, trường hợp có Hóa Quyền là chủ về biểu hiện của đương số khiến cho người ta cảm thấy có quyền uy và có tính tích cực, lời nói chậm rãi, sắc bén, chính xác, mà còn có sức thuyết phục.
  2. Để hoàn thành ước vọng của Hóa Lộc, Hóa Quyền sẽ chọn phương cách thực hiện. Vì vậy, Hóa Quyền ở Cung Tài Bạch thì đương số khá nghiêm túc trong công việc, và cũng tốn khá nhiều thời gian cho công việc, bản thân còn có tính thực hiện rất cao đối với các kế hoạch đã đề ra.
  3. Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Tài Bạch thì người này luôn nghiêm túc. Vì Cung Tài Bạch là cung vị khí số của cung quan lộc, Cung Tài Bạch có Hóa Quyền thì tinh thần của đương số sẽ bị ảnh hưởng liên tục. Do tinh thần bị ảnh hưởng, nên khi làm việc đương số luôn đặt nặng vấn đề hiệu suất, cũng dễ có tâm trạng nóng lòng, dễ bị kích động.
  4. Hóa Quyền thuộc hỏa, ý tượng là hành động mau lẹ, trường hợp Hóa Quyền ở cung vị biểu hiện, tiếp theo điều (2) và (3), đương số là người nỗ lực thực hiện mộng tưởng, hành động mau lẹ, nghĩ là làm, thuộc loại người thực tế.
  5. Trên đã nói, Hóa Quyền chủ về kĩ năng chuyên môn, thực lực. Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Tài Bạch, là đương số có tính chuyên nghiệp, có quyền uy trong môi trường làm việc, và biểu hiện rất tốt năng lực của mình. Nhờ vậy người này được cấp trên xem trọng, có nhiều cơ hội thăng tiến hơn người bình thường.
  6. Xem xét Cung Tài Bạch ở góc độ tiền bạc, người có Hóa Quyền ở Cung Tài Bạch sẽ vì kiếm tiền mà rất tích cực, rất muốn kiếm tiền và cũng kiếm được tiền. Nhưng vì tác dụng của Hóa Quyền nên công việc kiếm tiền không được nhẹ nhàng, thường thường là hai phần sức thì được một phần tiền, và phải luôn nỗ lực.
  7. Quan sát Cung Tài Bạch ở góc độ là cung vị Thiên di của Cung Phúc Đức, tuy đương số làm việc cực khổ, kiếm tiền không được nhẹ nhàng, nhưng bản thân họ lại có cảm thấy mạnh mẽ và thỏa mãn, đó là một kiểu sống trong công việc.
  8. Xem xét Cung Tài Bạch ở góc độ tiêu xài tiền, trường hợp có Hóa Quyền, thái độ dùng tiền của người này là hay suy đi tính lại, tiêu xài tiền dè xẻn, thường có kế hoạch sử dụng tiền rất rõ ràng, tuyệt đối không lãng phí một xu.
  9. Người có Hóa Quyền [năm sinh] ở Cung Tài Bạch, tuy thái độ xử sự của họ rất thân thìện, nhưng duyên với người chung quanh lại không được tốt, vì họ lấy uy tín để kiến lập quan hệ, phàm chuyện gì cũng làm cho người ta có cảm giác họ quá tính toán, còn thái độ làm việc thì quá nguyên tắc.
  10. Xem xét về thuộc tính nghề nghiệp, trường hợp Hóa Quyền ở Cung Tài Bạch, là có tính khai sáng, chuyên nghiệp, luôn tự đốc thúc bản thân. Đương số rất thích hợp công tác nghiệp vụ, mở rộng phạm vi hoạt động.
  11. Tuy Hóa Quyền có tính không ổn định, nhưng ở Cung Tài Bạch thì lại không hay thay đổi công việc. Liên quan đến vấn đề này cần phải xem xét cung vị khí số của Cung Tài Bạch (tức Cung Mệnh), và cần phải xem xét tính ổn định của các sao trong Cung Tài Bạch.
  12. Cung Tài Bạch là cung vị phu thê của người phối ngẫu, còn là cung vị Thiên di của Cung Phúc Đức, trường hợp có Hóa Quyền là chủ về lúc bình thường người phối ngẫu sẽ cho rằng đương số làm việc vất vả, luôn cố gắng kiếm tiền. Nhưng nếu các sao trong Cung Tài Bạch phức tạp, thêm vào đó là hành hạn có tứ hóa phi nhập, thì người phối ngẫu sẽ dễ cho rằng đương số lắm đào hoa, mà trong lòng sinh bất mãn.

Hóa Khoa Cung Tài Bạch

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Sao Hóa Khoa [năm sinh] ở Cung Tài Bạch như sau

  • Hóa Khoa có tác dụng “hợp lý hóa”, “trật tự hóa”. Vì vậy trường hợp Cung Tài Bạch có Hóa Khoa là chủ về đương số rất chú ý lời nói cử chỉ của mình, và mong muốn hành vi biểu hiện của mình ở các phương diện đều tuân thủ quy củ. Vì Hóa Khoa còn tượng trưng cho văn minh, nên lúc bình thường đương số sẽ kiềm chế tâm trạng của mình, muốn biểu hiện phơng độ của một người có tu dưỡng, có danh dự.
  • Hóa Khoa còn tượng trưng cho học thức, tri thức. Trường hợp Hóa Khoa ở Cung Tài Bạch, là biểu hiện năng lực học tập, giỏi vận dụng tố chất chuyên nghiệp của mình để mưu sinh, tức có sở học tinh chuyên, và học để vận dụng, đương số có trình độ cao hơn người khác trong môi trường làm việc.
  • Ngoại trừ có sở học tinh chuyên, Hóa Khoa còn chủ về có danh tiếng, danh vọng. Cho nên trường hợp Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch, có lúc dựa vào tố chất chuyên nghiệp mà tạo nên danh tiếng để kiếm tiền. Hơn nữa, vì lực tác động của Hóa Khoa có tính liên tục, từ từ. Cho nên sau khi trải qua một thời gian dài nỗ lực thường thường họ gây dựng được danh tiếng.
  • Hóa Khoa có lực tác động “bảo vệ”, vì vậy hàm nghĩa mở rộng của trường hợp Hóa Khoa ở Cung Tài Bạch là bảo đảm “quyền làm việc” và “con đường kiếm tiền”. Nói một cách khác, người có Hóa Khoa ở Cung Tài Bạch ít khi bị thất nghiệp, hoặc ít khi rơi vào tình huống không tìm được việc làm. Tức lúc mất việc họ sẽ mau chóng tìm được công việc mới.
  • Nhưng xét ở góc độ khác, lực tác động của Hóa Khoa là tuân thủ quy củ, thậm chí hơi bảo thủ những gì của mình. Vì vậy trong môi trường làm việc, đương số có tính ổn định cao độ, thiếu chủ động, nên cũng rất ít khi chủ động thay đổi công việc.
  • Một ý nghĩa khác của Hóa Khoa là trợ lực của quý nhân. Trường hợp Hóa Khoa xuất hiện ở Cung Tài Bạch, là chủ về có quý nhân giúp đỡ trong lúc tìm việc làm, duy trì mối ràng buộc trong công việc. Một ý nghĩa khác thâm sâu hơn, quý nhân chính là bản thân đương số. Vì đương số quá tuân thủ chế độ trong môi trường làm việc, khiến người ta có cảm giác họ hơi câu nệ nguyên tắc. Nhưng lúc làm việc họ luôn có thái độ nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm, rất tận tâm với chức trách của mình, thường thường chính thái độ này mới là “quý nhân bảo đảm có việc làm”.
  • Vì sức ảnh hưởng của Hóa Khoa, người này thấu hiểu nhân tình thế thái, tiến thoái ứng đối hợp cách, cũng không kết bè kết phái để mưu lợi riêng tư, nên trông họ giống như đơn độc. Phần lớn họ là người không bao giờ bẻ cong phép tắc, không tiêu xài tiền loạn xạ, cũng không đầu cơ, không mạo hiếm, càg không tham ô.
  • Trường hợp Hóa Khoa ở Cung Tài Bạch, nếu các sao ở cung quan lộc không mạnh, Hóa Khoa lúc này có thể là chú trọng bề ngoài. Nhất là trường hợp có các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc đồng cung với sao Hóa Khoa, phần nhiều sẽ có thái độ “minh triết bào thân”.
  • Đổi góc độ khác để xem xét, có thể nói kiến lập Hóa Khoa ở Cung Tài Bạch, do đó người này có được cảm giác vinh dự và cảm giác thành tựu là đều nhờ cung cách làm việc của mình.
  • Hóa Khoa là “che chở”, thêm vào các tình huống đã thuật ở trên, phần nhiều đương số thích hợp với nghề văn, nghề dạy học, hoặc làm việc trong cơ cấu thuộc loại lớn, tức là công việc có tính ổn định cao.
  • Cung Tài Bạch là đại biểu cho hình ảnh đương số trong lòng của người phối ngẫu. Cho nên, người Cung Tài Bạch thấy Hóa Khoa thường thường được người phối ngẫu tín nhiệm, kính trọng.

Hóa Kị Cung Tài Bạch

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Kị [năm sinh] ở Cung Tài Bạch như sau

  • Cung Tài Bạch là cửa ngõ tiền bạc ra vào, trường hợp Sao Hóa Kị ở Cung Tài Bạch, là chủ về tiền bạc ra vào nơi giống như cái hố sâu không đáy, không bao giờ lấp đầy được. Xem xét ở góc độ đương sự, là chủ về đương số chỉ muốn tiền vào chớ không ra. Đối với tài phú họ có dục vọng theo đuổi cực cao.
  • Cung Tài Bạch là chủ về năng lực, thủ đoạn và phương thức kiếm tiền. Trường hợp Hóa Kị ở Cung Tài Bạch, là chủ về đương số kiếm được tiền, hay có được tài phú trong hoàn cảnh thị phi. Vì vậy, đương sự có năng lực kiếm tiền khá cao, có bản lãnh nhìn ra cơ hội kiếm tiền mà người khác không nhìn ra.
  • Tiếp theo trên, vì tính chất của công việc có liên quan đến pháp luật, thông thường đương số thích hợp làm luật sư hay những nghề nghiệp liên quan đến pháp luật cũng có khá nhiều cơ hội kiếm tiền không theo lệ thường hoặc đầu cơ có lợi. Vì thường hay luận bàn chuyện người khác thị phi, đúng sai, nên cũng thích hợp làm nhà mệnh lý.
  • Vì Hóa Kị đóng ở cửa ngõ ra vào của tiền bạc, do đó đương số cũng hay gặp tình huống không được thuận lợi toại ý về tài vận, hoặc bị thất nghiệp trong một thời gian ngắn. Nhất là lúc Hóa Lộc và Hóa Kị [năm sinh] ở vị trí không thích đáng, thì các tình huống kể trên càng rõ rệt.
  • Cũng vì Hóa Kị tượng trưng cho cái “hố sâu”, nên đương số muốn tìm đủ mọi cách để kiếm tiền, bản thân luôn có cảm giác thiếu an toàn về tiền bạc, thường mong muốn có thật nhiều tiền để ổn định cuộc sống, vì vậy có tiền hay không có tiền họ cũng đều than nghèo.
  • Tiếp theo trên, Hóa Kị ở Cung Tài Bạch cũng giống như cái hố sâu không đáy chuyên hút tiền. Cho nên thường thường họ đều là người thực dụng, cuộc đời cũng tiêu tốn rất nhiều thời gian trong việc kiếm tiền, họ hay lấy việc có tiền hay không có tiền đế làm tiêu chuẩn đánh giá địa vị hay thành tựu cao thấp.
  • Cung Tài Bạch là đối cung của Cung Phúc Đức, trường hợp Cung Tài Bạch có Hóa Kị, tuy không trực tiếp xung kích Cung Phúc Đức, nhưng vẫn khó tránh tạo áp lực đổi với Cung Phúc Đức. Vì vậy, tuy không tạo thành vấn đề về thực chất, cũng không có ảnh hưởng đối với hôn nhân, nhưng ý thức lo xa và tằm lý nặng được mất của người này sẽ khá nặng, thường thấy vì vấn đề tiền bạc mà tâm thần không yên.
  • Cung Tài Bạch là cung vị phu thê của người phối ngẫu, là nhận định về đương số trong lòng người phối ngẫu. Trường hợp Hóa Kị ở Cung Tài Bạch, người phối ngẫu sẽ cho rằng đương số là người đa sầu đa cảm, còn nhận định đương số không quan tâm chăm sóc, chủ nghĩa cá nhân quá nặng, trong cảm giác của người phối ngẫu, đương số là người chỉ tốt với bản thân.
  • Cung Tài Bạch là đại biểu cho cửa ngõ ra vào của tiền bạc, Hóa Kị ở Cung Tài Bạch, là rất biết kiếm tiền, còn rất biết tiêu xài tiền, thích mua đồ xa xỉ hay là hưởng thụ, nhưng đương số thường thường chi tiêu xài tiền cho bản thân và người thân mà thôi. Hơn nữa, vì Hóa Kị ở đối cung của Cung Phúc Đức, thường thường sau khi tiêu xài tiền đương sự sẽ cảm thấy xót ruột.
  • Cung Tài Bạch còn đại biểu cho hành vi biểu hiện của đương số, trường hợp Hóa Kị ở Cung Tài Bạch, đương số sẽ có lối suy nghĩ lấy tiền, lấy lợi ích làm tiêu chuẩn cho hành vi biểu hiện của mình. Vì vậy hành vi của đương số ít nhiều cũng sẽ tạo cho người ta cảm giác họ có “mục đích trục lợi” dài lâu hay ngắn hạn.

Cung Tài Bạch Phi Hóa

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập Cung Mệnh

Đương số dựa vào bản thân để kiếm tiền, kiếm được tiền, sẽ phát tài. Kiếm được thì cũng dùng được, sẽ rất “có thể diện”! Tình hình vốn liếng khá tốt, sẽ đầu tư nhiều vốn vào sự nghiệp làm ăn, khả năng thu hồi vốn có tần suất rất cao.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung huynh đệ

Đương số mang tiền kiếm được dùng trong sinh hoạt gia đình, có tiền cũng sẽ trợ giúp anh chị em, khá rộng rãi với bản thân, đối với bạn bè tuy trọng tình nghĩa, nhưng về tiền bạc thì hơi keo kiệt, lúc ra bên ngoài phần nhiều đều để bạn bè chi trả.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung phu thê

Đa tình với người phối ngẫu, rất quan tâm chăm sóc, cho người phối ngẫu tiền tiêu xài. Có thể người phối ngẫu cũng trợ giúp đương số kiếm tiền. Sự nghiệp thuận lợi, tài phú không đến nỗi tệ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung tử tức

Sẽ ra ngoài kiếm tiền, lo lắng cho gia đình, có thể nhờ hợp tác làm ăn mà kiếm được tiền, có điều kiện thành người giàu có, có thể cho con cái (đã lớn) tiền để tiêu xài. Đương số rất có duyên với người khác giới, dễ xảy ra chuyện ngoại tình.

Cung Tài Bạch tự Hóa Lộc

Đương số là người không quá xem trọng tiền bạc, rất biết tiêu xài tiền, chú trọng hưởng thụ, có thể vì tình người mà tiêu tốn một số tiền lớn. Về tiền bạc, đương số sẽ không tiết giảm, nhưng cũng rất biết kiếm tiền, tiền đi liền có tiền đến, trong người không bao giờ thiếu tiền tiêu xài, tự kiếm tiền tự tiêu xài. Mẫu người này không biết cái gì gọi là “tiết kiệm”, cho nên tốt nhất là đừng để họ giữ tiền. Đương số là người rất đa tình, có nhiều bạn bè, bạn bè khác giới cũng nhiều, giao du với người khá nhiệt tình, vui vẻ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung tật ách

Đương số thích kiếm tiền, dùng trí tuệ kiếm tiền rất nhẹ nhàng, sẽ đầu tư vào cửa tiệm, công xưởng hoặc mậu dịch, cũng có thể làm công chức hưởng lương nhà nước. thường tiêu xài cho bàn thân số tiền lớn, ăn mặc đều dùng loại cao cấp. hay dùng đồ bổ, thực phẩm bổ dưỡng, nếu không, cũng tốn tiền cho thuốc men.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung Thiên di

Kiếm tiền phải đi xa, nên đi nơi khác để tìm hướng phát triển, có thể ra nước ngoài để khai phá thị trường mới. dựa vào bản thân để kiếm tiền, là cách cục tự lập, ở bên ngoài rất có duyên với người chung quanh, bụng dạ rộng rãi, có thể cho người phối ngẫu tiền tiêu xài.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc

Sẽ đầu tư hoặc trợ vốn cho bạn bè, có thể dựa vào bạn bè để kiếm tiền, có thể hợp tác với bạn bè, tiêu xài tiền nhiều trong chuyện giao tế thù tạc, cũng dễ bị người ta giật tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung quan lộc

Thích đầu tư, đầu tư có thể kiếm được tiên, tiền kiếm được sẽ mang ra tái đầu tư để kiếm thêm tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch

Có thể kiếm được tiền, quan tâm gia đình, cách xử trí số tiền kiếm được rất hợp lý, biết dành dụm. sẽ mua tậu bất động sản, nhà cửa sang trọng. có thể đầu tư bất động sản, hoặc làm nghề có liên quan đến bất động sản, cũng có thể mở tiệm làm ăn mua bán. Lúc hành hạn không thuận lợi, có thể bị giật tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập Cung Phúc Đức

Thích hưởng thụ, sẽ tiêu tiền để bồi dưỡng kịến thức cho thị hiếu hoặc học nghề, tiền tiêu xài có thể thu hồi được. sẽ giúp vốn cho công việc làm ăn của người phối ngẫu. thường có thù tạc ở bên ngoài, làm ăn kiếm được tiền, ra ngoàithuận lợi, có nhiều bạn bè tương trợ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Lộc nhập cung phụ mẫu

“Tài khí” vượng, có bạn bè trợ lực, có thể dựa vào sự trợ giúp của cha mẹ hoặc trường bối mà kiếm tiền, có thể đầu cơ để kiếm tiên. kiếm được tiền nhưng cũng dễ bị người khác giật, vì vậy cũng thường phải tiêu xài ít hơn, nhưng không cam tâm nên hay oán trời trách người, có tâm lý giúp người thì người giúp lại. hiếu thảo với cha mẹ, có tiền sẽ cho cha mẹ tiêu xài.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập Cung Mệnh

Đối với tiền bạc, đương số có dục vọng vô cùng tận, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. tiền là lá gan của anh hùng, có tiền mới cảm thấy tự tin. đầu tư sáng lập cơ nghiệp là dựa vào bản thân, nhờ tài năng và nghề chuyên môn của mình để mưu cầu lợi ích. nếu hợp tác làm ăn cũng có thể chỉ lấy nghề chuyên môn ra hùn hạp.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung huynh đệ

Biết kiếm tiền, khá lao tâm lao lực, phải cho ra trước, phấn đấu và cạnh tranh, mới kiếm được tiền. tiền kiếm được đem ra lo cho sinh hoạt gia đình, còn có thể giúp vốn cho anh chị em. thái độ đối xử với bạn bè hơi cao ngạo, còn xem thường cấp trên hay ông chủ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung phu thê

Thường không thòa mãn mức thu nhập hiện có, sẽ tìm cách khai mở “tài lộ”, cho nên sẽ có nhiều sự nghiệp, có nhiều công việc. Có thể giao tiền cho người phối ngẫu quản lý, giữa đương số với người phối ngẫu thường có ý kiến nghịch nhau, nhưng vẫn có thể giao lưu cảm thôngcho nhau. Đương số sẽ quản thúc phối ngẫu, nhưng cũng sẽ quan tâm chăm lo và nghe theo kịến nghị của người phối ngẫu.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung tử tức

Có thể hợp tác làm ăn với người khác, cũng có thể đầu tư bất động sản. Sau khi kiếm được tiền sẽ tái đầu tư, sẽ mua tậu nhà cửa, mua nhiều bất động sản. Tiêu xài nhiều tiền trong chuyện giao tế thù tạc, hưởng thụ. Cho con cái (đã lớn) tiền tiêu xài, có thể dùng danh nghĩa con cái để giữ tiền.

Cung Tài Bạch tự Hóa Quyền

Có dục vọng tiền bạc rất mạnh, thích nắm quyền tài chính, năng lực kiếm tiền không tệ, nhưng rất có tham vọng, hơi bị tình trạng “mắt nhìn cao mà tay với không tới”, tóm lại phải trải qua sóng gió trắc trờ, nỗ lực phấn đấu, cạnh tranh với người khác mới có thành quả.

Có cơ hội kiếm được một số tiền lớn, nhưng tiêu xài tiền không biết tiết chế, vì hưởng thụ, phô trương mà tiêu xài rất nhiều tiền. Trong xã giao, ưa tranh hơn thua, khoa trương. sống với người phối ngẫu cũng có tình trạng phô trương, hơi thiếu tự tin.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung tật ách

Rất thích kiếm tiền, vì kiếm tiền mà luôn bận rộn, không từ vất vả cũng sẽ tiêu xài tiền cho việc hưởng thụ, rất rộng rãi với bản thân, sẽ phô trương nguồn lực tài chính của mình, toàn thân dùng toàn đồ cao cấp, sẽ đến nhưng nơi vui chơi giải trí, tửu sắc, để kiếm tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung Thiên di

Ở bên ngoài được người ta hỗ trợ, khẳng định có thể dựa vào tài năng, nghề chuyên môn để giành cơ hội kiếm tiền. Có thể tự lập cơ nghiệp, có biểu hiện rất ưu tú, có nhiều cơ hội, ra ngoài kiếm được nhiều tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung nô bộc

Muốn kiếm tiền phải cạnh tranh với bạn bè. Có thể hợp tác với bạn bè, nhưng bạn bè nắm quyền về tài vụ, có thể phát triển. cẩn thận chọn bạn bè, dựa vào bạn bè mà kiếm tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung quan lộc

Thích đầu tư, sau khi kiếm được tiền sẽ tái tăng vốn, sự nghiệp lớn, thành quả tốt đẹp, có thể phát triển nhiều hướng hoặc phát triển theo kiểu dây chuyền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung điền trạch

Rất ham muốn đầu tư, có thể đầu tư bất động sản, kiếm được tiền sẽ tái đầu tư, vận dụng tiền bạc hợp lý, biết tích lũy, sẽ mua tậu nhà cửa, có nhiều bất động sản, nhưng cũng dễ bị người ta giật nợ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyên nhập Cung Phúc Đức

Thích hưởng thụ, ưa phô trương. Vì tranh cường hiếu thắng mà tiêu xài một số tiền lớn. cũng sẽ vất vả kiếm tiền, đầu tư vào sự nghiệp của người phối ngẫu.

Cung Tài Bạch phi Hóa Quyền nhập cung phụ mẫu

Biết kiếm tiền, có thể kinh doanh hoặc làm việc trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, sẽ có phát triển. Lúc cấp bách cần dùng tiền, sẽ được bạn bè hoặc trưởng bối trợ lực.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập Cung Mệnh

Tiền bạc bình ổn, thuận lợi, không có sóng gió, có kế hoạch rõ ràng, ít nhưng đều đặn, không lo thiếu. Nếu cần dùng tiền cấp bách, luôn luôn có người trợ giúp để vượt qua khó khăn. Không mấy chú ý tiền bạc lại có cái hay, có thể dùng tài năng và danh tiếng để kiếm tiền. Nên đi làm hưởng lương, nếu hợp tác với người khác sẽ xuất vốn ít hơn. Đối xử hiền hòa với mọi người, vợ chồng hòa hợp.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung huynh đệ

Tài vận bình ổn, có kế hoạch hợp lý đối với số tiền kiếm được, có thể lo cho sinh kế gia đình, cũng có thể trợ giúp anh chị em, anh chị em cũng có thể trợ lực cho đương số, đối đãi hòa mục với bạn bè.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung phu thê

Thích hợp đi làm hưởng lương, tiền bạc bình thuận. Sự nghiệp hoặc công việc đều thuận lợi, làm ăn tính toán tỉ mỉ, khó xuất hiện nguy cơ. Người phối ngẫu là quý nhân của đương số, có thể xoay sở tiền bạc cho đương số. Vợ chồng hạnh phúc.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung tử tức

Sinh hoạt gia đình bình ổn, hưởng thụ nhưng không lãng mạn. Hợp tác với người khác bình thuận, không có sóng gió, tiền không nhiều nhưng đều đặn. Quan hệ giao tế rất tốt, có thể làm các nghề liên quan đến ngành giải trí, resort, hoặc có tính phục vụ.

Cung Tài Bạch tự Hóa Khoa

Có kế hoạch rõ ràng về tiền bạc, không tiêu xài loạn xạ thiếu tiết chế, không cố truy cầu thứ gì, mà luôn có thái độ xử sự đầy lý tính. Người khác có cảm giác đương số là người rất có tiền. Đối xử với mọi người hiền hòa, sáng suốt, có lý lẽ. Sống với người phối ngẫu cũng lấy lễ đãi nhau, quan hệ vui vẻ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung tật ách

Thích hợp đi làm, cũng có thể mở tiệm nhỏ buôn bán, làm mậu dịch. Có thể được trường bối trợ lực, kiếm tiền nhẹ nhàng, bình ổn thuận lợi, nhưng không nhiều, chỉ vừa đủ mà thôi. Đối xử với bạn bè bình hòa, vui vé.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung Thiên đi

Ra ngoài kiếm tiền sẽ thuận lợi, có thể được quý nhân giúp đỡ. Xã giao bạn bè, hiền hòa lịch sự. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, bầu không khí lãng mạn.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung nô bộc

Về phương diện tiền bạc, đương số và bạn bè có thể giúp đỡ lẫn nhau, xoay chuyển thuận lợi, không có sóng gió. Có thể hợp tác làm ăn với bạn bè, tuy không kiếm được nhiều tiền, nhưng cũng ít gặp nguy cơ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung quan lộc

Về công việc hay sự nghiệp, thích hợp đi làm hưởng lương, có biểu hiện bình ổn, dễ được đề bạt, nâng đỡ thăng tiến. Đối với việc đầu tư trong sự nghiệp, sẽ đi từng bước vững chắc, có kế hoạch tỉ mỉ, công việc vận hành bình ổn. Vợ chồng tôn trọng nhau.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung điền trạch

Tài vận bình ổn, có kế hoạch hợp lý, cân đối thu chi, không lãng phí, sẽ dành dụm một phần nhỏ để phòng khi cần thìết. Có thể hợp tác làm ăn với người khác, có thể làm các nghề nghiệp liên quan đến bất động sản. Lúc mua tậu nhà cửa, sẽ chia ra nhiều kì để thanh toán. lúc thiếu tiền, có thể thế chấp nhà.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập Cung Phúc Đức

Biết tính toán tỉ mỉ, làm ăn hiếm khi bị lỗ nhiều, có thể thu lợi bình ổn. Biết hưởng thụ, nhưng có tiết chế, cân đối thu chi, sẽ tiêu tiên bồi dưỡng kiến thức cho thị hiếu lành mạnh. Có thể điều chuyển vốn liếng cho sự nghiệp của người phối ngẫu, đời sống hôn nhân ít sóng gió.

Cung Tài Bạch phi Hóa Khoa nhập cung phụ mẫu

Thu nhập bình ổn, ổn định, thích hợp đi làm hưởng lương, có thể làm việc trong cơ cấu lớn, làm công chức hoặc trong lãnh vực văn hóa giáo dục. Hiếu thảo với cha mẹ, dễ được trưởng bối, cấp trên xem trọng. cũng quan tâm chăm lo cho gia đình của người phối ngẫu.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập Cung Mệnh

Tiết kiệm, keo kiệt, thái độ bảo thủ, không giỏi quản lý tài chính, vì tiền mà vất vả khổ sở, là mẫu người nô lệ tiền bạc điển hình. Cơ hội kiếm tiền đến liên tục, cuộc sống sung túc, sẽ tiết kiệm tiền để mua tậu nhà cửa. công việc làm ăn ổn định.

Thông thường đầu tư lần đầu sẽ thất bại, sau đó làm ăn từng bước, dần dần hanh thông. Sẽ chiếm lợi ích của người khác, không chịu thua thìệt, tài vận không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, dễ vì tiền bạc mà xảy ra sóng gió. Cuộc sống giữa vợ chồng không được hòa hợp, người phối ngẫu hay ghen.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ

Anh chị em không rõ ràng về vấn đề tiền bạc, dễ vì anh chị em mà phá tài. Bạn bè vay mượn sẽ không trả. Sinh kế gia đình dễ bị thiếu hụt. làm ăn đầu tư khó thu lợi. Công việc hay sự nghiệp phát triển không thuận lợi. Khó được cấp trên trọng dụng, đề bạt, nâng đỡ. Nên dựa vào nghề nghiệp chuyên môn mà mưu sinh hay kinh doanh, không nên hợp tác với người khác.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung phu thê

Thích hợp đi làm hưởng lương, làm ăn đầu tư khó thành, phải vay tiền mới đủ, sự nghiệp phát triển không thuận lợi, chỉ có thể gắng gượng chống đỡ, làm mà chẳng được gì. Dễ vì người phối ngẫu mà phá tài, làm được bao nhiêu phải nộp cho người phối ngẫu, quan hệ hôn nhân không được hạnh phúc, giữa vợ chồng hay oán trách nhau.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung tử tức

Dễ có tổn thất tiền bạc, không nên hợp tác với người khác, không nên làm ăn đầu tư bất động sản, khó mua được nhà cửa, muốn mua cũng không đủ tiền, sinh hoạt gia đình có nhiều áp lực. Con cái thường tiêu xài nhiều tiền, đương số cũng thường hay giao tế thù tạc, tiêu phí hưởng lạc không đúng. Khiến gia đình không yên ổn, giữa vợ chồng gặp nhiều phiền phức, rắc rối. Có tiền sẽ muốn đầu tư hoặc hợp tác với người khác, nhưng dễ bị lỗ vốn, tổn thất lớn.

Cung Tài Bạch tự Hóa Kị

Kiếm tiền không dễ, thường vì tiền mà phải bôn ba. Tuy xem trọng tiền bạc, nhưng rất biết tiêu xài, thường lãng phí tiền bạc trong chuyện hưởng lạc. Đương số có quan niệm tiền bạc khác người, tự kiếm tiền tự tiêu xài, kiếm được nhiều thì xài nhiều, kiếm được ít thì xài ít, không để dành tiền. còn có hiện tượng bị người ta giật tiền hoặc lừa tiền.

Cho nên tốt nhất là đừng tự mình quản lý tài chính, hoặc phải học hỏi thêm về quản lý tài chính. Giao du với người khác, thường hay nghi ngờ. Giữa vợ chồng cũng thường nghi kị, dễ vì tiền bạc mà xảy ra tranh chấp, làm cho cuộc sống hôn nhân không được vui vẻ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung tật ách

Dễ vì tiền mà chuốc thị phi kiện tụng, không nên làm người bảo lãnh cho người khác, hoặc không nên cho vay kiếm lời. Thích kiếm tiền, có nhiều cơ hội kiếm tiền, nhưng rất vất vả, phải lao lực. không nên làm ăn kinh doanh, tốt nhất nên dựa vào nghề nghiệp chuyên môn để mưa sinh.

Không nên cho bạn bè mượn tiền, họ sẽ trả tiền rất dây dưa, kéo dài. Đương số cũng sẽ không trả tiền, giật nợ người khác. dễ có nguy cơ về tài chính, quản lý tài chính cần phải cẩn thận. Giữa vợ chồng dễ có phiền phức, rắc rối, quan hệ đổ vỡ. Nữ mệnh có thể làm những nghề có liên quan đến giải trí, nghỉ mát, quán rượu để kiếm tiền.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung Thiên di

Thích hợp đi xa để kiếm tiền. Khi đương số ở một nơi lâu mà kiếm tiền khó, chịu áp lực lớn, mọi sự đều không thuận lợi, đó chínhlà lúc nên đi xa. Tiền bạc của đương số không được thuận lợi, áp lực lớn, đầu tư dễ bị tổn thất, đi xa sẽ thuận lợi hơn. Thù tạc ờ bên ngoài thường tiêu xài nhiều tiền, nhưng hiệu quả không rõ ràng. Vợ chồng sống với nhau không được hòa hợp, tốt nhất là nên kết hôn muộn.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung nô bộc

Qua lại tiền bạc với bạn bè, thường thường là bạn bè được lợi, bản thân chịu thìệt, làm cho gia đình túng thiếu. bình thường hay cho bạn bè tiêu xài tiền chung, nhưng lúc muốn mượn tiền bạn bè thì không được.
Để bị người ta giật tiền, làm ăn khó kiếm được tiền, cũng không nên hợp tác với người khác, tốt nhất là nên đi làm hưởng lương, hoặc dựa vào nghề nghiệp chuyên môn để mưu sinh.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung nô bộc đối cung huynh đệ là ý tượng không mượn được tiền, rất khó mượn tiền của bạn bè.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung quan lộc

Thích đầu tư, lúc đầu tư không đủ tiền, sẽ đi mượn tiền để đầu tư. Nhưng đầu tư làm ăn nhất định sẽ kiếm được tiền, lúc gặp vận không tốt dễ bị phá sản. Sự nghiệp làm ăn không kiếm được tiền, không thích hợp kinh doanh mua bán, nhưng có thể làm cổ đông. Vì kiếm tiền mà bận rộn, đối xử không tốt với người phối ngẫu, thường vì công việc, vì tiền bạc mà cãi vã, hôn nhân khó hạnh phúc.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung điền trạch

Tiền kiếm được sẽ dùng trong sinh hoạt gia đình hoặc mua bất động sản.

Tuy tiết kiệm nhưng không để dành được. Nếu tích lũy được, nhưng cũng phải tích lũy từ từ, sẽ mang tiền tích lũy được ra đầu tư bất động sản, mua nhà trả góp hoặc vay tiền để mua, tiền sẽ khó bị giật

Đương số có quan niệm bảo thủ, sẽ không đầu cơ, tiền bạc sẽ tiêu hao dần cho đến lúc hết sạch.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập Cung Phúc Đức

  • Thích hưởng thụ, tiền kiếm được thường tiêu xài trong chuyện hưởng thụ, thị hiếu, không để dành được, có hành vi tiêu xài tiền sai lệch.
  • Làm ăn mua bán bằng tiền mặt, không nên làm sản xuất.
  • Kiếm tiền không nhiều. Vợ chồng thường vì chuyện tiền bạc mà xảy ra tranh chấp.
  • Sẽ đầu tư vào sự nghiệp của người phối ngẫu, thu hồi vốn chậm.
  • Khó có điều kiện để hưởng thụ, không có tiền vẫn muốn hưởng thụ.

Cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu

  • Tài vận không tốt, xoay sở vốn liếng không được thuận lợi, dễ bị người ta giật tiền.
  • Dễ vì tiền bạc mà chuốc thị phi kiện tụng. Không nên làm ăn buôn bán, không nên làm người bảo lãnh.
  • Tốt nhất là nên đi làm hưởng lương, hoặc dựa vào nghề nghiệp chuyên môn để mưu sinh. Đầu tư sự nghiệp, mở tiệm hay mở công xưởng đều dễ bị phá sản.
  • Sức khỏe của cha mẹ không tốt. Đương số cho cha mẹ tiền tiêu xài.

Ảnh hưởng của các sao phụ, tá, sát tinh

Thêm các cát tinh, chủ về nguồn tiền tài dồi dào.

Thêm sát tinh, chủ về kiếm tiền một cách vất vả, rốt cuộc cũng tích lũy được.

Lộc Tồn có Địa Không và Địa Kiếp đồng độ, hội hợp với các sát tinh tinh, kị, chủ về có cũng như không, hoặc gặp nhiều tình huông tranh chấp, kiện tụng liên quan đến tiền bạc.

Thiên Mã Cung Tài Bạch

Thiên Mã hội hợp với Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, có thể làm tăng thu nhập tiền bạc.

Văn Xương Cung Tài Bạch

Văn Xương rất ưa có Cự Môn đồng độ, chủ về phú.

Văn Xương nhập miếu gặp các cát tinh, có thể được tiền bạc từ quý nhân.

Văn Xương nếu gặp đủ các sát tinh, kị, hình, hao thì chủ về cuộc đời hàn sĩ.

Văn Khúc Cung Tài Bạch

Văn Khúc cũng ưa có Cự Môn đồng độ, chủ về sử dụng miệng lưỡi thì có thể kiếm được tiền. Còn lại luận giống như Văn Xương.

Thiên Khôi, Thiên Việt Cung Tài Bạch

Chủ về có được tiền bạc nhờ gần gũi bậc quyền quý. Cũng chủ về nhờ hoàn cảnh khách quan thay đổi hoặc công ty thay đổi nguyên tắc, điều kiện… mà có được tiền bạc.

Tả Phụ, Hữu Bật Cung Tài Bạch

Chủ về được người ta giúp sức, hoặc được đề bạt, trọng dụng mà kiếm được tiền.

Kình Dương, Đà La Cung Tài Bạch

Thông thường đều chủ về cạnh tranh. Thêm Thiên Hình, Hóa Kị, Đại Hao, chủ về vì tranh giành quyền lợi mà hao tán tiền bạc, nên rất nghèo. Nhưng nếu Kình Dương gặp Hỏa Tinh, trái lại sẽ chủ về có được có mất.

Hỏa Tinh, Linh Tinh Cung Tài Bạch

Thông thường chủ về thị phi. Hỏa Tinh, Linh Tinh nhập miếu, còn chủ về hoạnh phát hoạnh phá. Nếu lạc hãm, thì kiếm tiền một cách vất vả, cực khổ.

Nếu có sát tinh hội hợp, lại gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, các sao hình, kị, thì chủ về nghèo đến độ không có mảnh đất cắm dùi.

Thiên Không (Địa Không), Địa Kiếp Cung Tài Bạch

Chủ người bẩm sinh lãng phí, không giỏi quản lý tiền bạc, trong đời hay phải bỏ tiền nhiều, kiếm được tiền rồi lại hết, không tụ tiền. Đồng cung với hung tinh lạc hãm thủ thì tài vận cực kém, dù có chi tiêu tiết kiệm mấy vẫn không thể giàu được, có cát tinh nhập miếu cát hóa trấn thủ thì họa nhẹ nhưng khó tránh hư hao.

Phụ luận Cung Tài Bạch

Xem mức độ giàu có, khá phức tạp, phải xem cùng lúc các Cung Mệnh thân, Phúc Đức, Tài Bạch, Điền Trạch, Quan Lộc. Có trường hợp Cung Tài Bạch xấu nhưng người này lại giàu, đó là vì các Cung Mệnh, Thiên Di, Quan Lộc có nhiều cát tinh tụ tập, tọa cát hóa cát. Có làm quan là có tiền, có một số quan lại phát tài còn hơn người kinh doanh làm ăn (hiển nhiên đây không phải là quan tốt).

Cho nên hai Cung Mệnh quan cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với tài vận. Ngược lại, Cung Tài Bạch cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp. Có một người, Cung Mệnh Liêm Trinh Hóa Kị, cung Quan Lộc không ra làm sao, tổ hợp ở Cung Tài Bạch thành cách cục Hỏa Tham, không có sát tinh còn có Tả Phụ và Hóa Quyền, lúc đầu sự nghiệp im hơi lặng tiếng, về sau đột nhiên vận đỏ ùn ùn kéo tói, thăng chức, phát tài, có tiếng tăm, đứng là lúc vận may đến sắt cũng thành vàng!

Hai cung Tài Phúc đối nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, phải xem phối hợp, xem ảnh hưởng của Cung Phúc Đức đối với Cung Tài Bạch, để biết kiếm tiền khó hay dễ, nguồn để kiếm tiền dồi dào hay ít ỏi, thuộc loại không vất vả mà được hay phải lao tâm tốn sức.

Xem ảnh hưởng của Cung Tài Bạch đối với Cung Phúc Đức để biết có tiền để hưởng thụ không hay là muốn hưởng thụ mà không có tiền, hay là không có nhiều tiền nhưng biết tri túc.

Cung Phúc Đức biểu thị nhân quả báo ứng của Kiếp trước, Cung Phúc Đức tốt là có phúc báo, có nhiều đường kiếm tiền, tiền đến mà không cần cưỡng cầu, tự nhiên mà được, không vất vả mà có, tốt nhất là nên đầu tư để người khác thay mình kinh doanh.

Cung Phúc Đức không tốt, là phúc mỏng, thiếu nguồn để kiếm tiền. Dù Cung Tài Bạch tốt, cũng chỉ chủ về giỏi vận dụng tiền, có kế hoạch kiếm tiền tốt, nhưng kiếm được tiền phần nhiều phải gian khổ vất vả, không tụ tài, hoặc chỉ đắc lợi ngắn hạn.

Cung Quan Lộc là phương thức và nghề nghiệp kiếm tiền. Cung Tài Bạch mạnh hơn cung Quan Lộc, sự nghiệp không khởi sắc, chức vị không cao, không nên cố xuất đầu lộ diện, không nên hợp tác và làm quan, cũng không nên tham gia chính sự, nhưng lợi về làm ăn kiếm tiền, nên kinh doanh buôn bán, làm nghề bán lẻ. Cung Quan Lộc mạnh hơn Cung Tài Bạch, nên làm công chức hoặc hợp tác làm ăn.

Cung Tài Bạch biểu thị tài vận tốt hay xấu, mức độ giàu có. Cung Mệnh hay thân thì hiển thị cách cục “quý khí thành tựu” cao hay thấp, là nền tảng của phú quý. Cung Mệnh còn xem thái độ tiêu xài tiền.

Ví dụ, Tham Lang là vua tiêu xài tiền, muốn tiêu xài là tiêu xài, muốn vui chơi là vui chơi, không chút tiết chế. Kế đến là Phá Quân, là nhóm người theo đuổi cái mới, không biết tiếc tiền, cũng thường xuyên làm hỏng đồ mà hao tài. Rồi đến Tử Vi, ưa so sánh hơn thua, thích phô trương, ưa xài đồ cao cấp sang trọng, đương nhiên cách tiêu xài tiền cũng rộng rãi. Thái Dương thì tiêu xài tiền rộng rãi, không mặc cả trả giá, cũng dễ bị lừa mà hao tài.

Hai Cung Mệnh thân tốt, biểu thị có tiền mà không tốn sức, tự nhiên mà được, như trúng số…. nhưng được tiền nhiều hay ít, còn phải xem Cung Tài Bạch, lấy số cục ngũ hành của cung để định. Cung Mệnh hay thân không tốt, nhưng hai cung Tài Phúc tốt, thì có nhiều đường kiếm tiền, giỏi vận dụng tiền bạc, nhưng thường hay gặp sóng gió, trắc trở, phải trải qua phấn đấu gian khổ tiền mới vào tay, nếu có thể nỗ lực cũng có khả năng thành giàu có.

Cung Điền Trạch là kho tiền, đại biểu cho bất động sản. Cho nên lúc xem tài vận cũng phải xem phối hợp cung Điền Trạch. Muốn biết có tích lũy được tiền hay không, phải xem cung Điền Trạch, nếu chính tinh thất hãm còn gặp các sát tinh kị thủ hoặc chiếu, Cung Tài Bạch dù tốt cũng khó giữ được tiền, thường ngầm hao nhiều tiền.

Hai cung Tài Quan không tốt nhưng cung Điền Trạch tốt, có thể lấy việc giao dịch bất động sản để tích tụ tiền và giữ tiền, hoặc mở tiệm kinh doanh để mưu sinh, vì cung Điền Trạch cũng đại biểu cho cửa tiệm kinh doanh.

Cung Tài Bạch cát hung lẫn lộn, có khuynh hướng hoạnh phát hoạnh phá, bạo phát bạo tàn. Nếu cung Điền Trạch tốt, có thể lấy việc giao dịch bất động sản làm cách hóa giải. Cung Điền Trạch có Lộc Tồn, sao Hóa Lộc hay sao Hóa Quyền đồng cung, sẽ có rất nhiều bất động sản, nhà sang trọng, biệt thự. Nhưng trong số bất động sản này có thể là tài sản của cha ông. Cung Điền Trạch có sao Hóa Kị, là người rất biết giấu tiền riêng, nhưng khó tụ số tiền lớn.

Xem Tài vận mạnh hay yếu, là phải xem Cung Tài Bạch mạnh hay yếu, và xem có sao tiền tài (Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ, Lộc Tồn là các sao tiền tài chính, mạnh nhất là Vũ Khúc, Hóa Lộc) nhập bản cung và tam phương tứ chính hay không.

Cung Tài Bạch mạnh, còn có sao tài, lại không có các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, nguồn để kiếm tiền trong đời rất suôn sẻ, tiền bạc dồi dào. Cung Tài Bạch có sao Hóa Lộc, sao Hóa Quyền, rất có năng lực kiếm tiền, cuộc đời gặp khá nhiều thời cơ kiếm tiền, dễ phát tài và trở nên giàu có. Cung Tài Bạch mạnh và không có sát tinh kị, cuộc đời sẽ không mắc nợ, dễ thu nợ. Cung Tài Bạch yếu hoặc có các sát tinh kị, tài vận một đời nhiều biến động, không ổn định, tụ tán bất thường, tiền đến tiền đi, còn chủ về kiếm tiền khá gian khổ hoặc dễ gặp bất hòa, tranh chấp, thu nợ thường gặp trở ngại.

Cung Tài Bạch của nguyên cục và đại vận có Hỏa Tinh và Tham Lang, hay Hỏa Tinh và Thái Âm, không có sao hung sát, thường gặp cơ hội bạo phát, gặp Hóa Lộc càng giàu đột ngột. Liêm Trinh Hóa Lộc, có cát tinh và không có sao hung sát, cũng dễ bạo phát, nhưng nếu có sao hung sát thì sẽ bạo tàn, thất bại đột ngột. Cung Tài Bạch có sao Hóa Kị, là liều mạng theo đuổi tiền tài, có thể kiếm tiền trong loạn lạc hoặc trong thị phi. Nếu tổ hợp sao tốt cũng gặp cơ hội hoạnh phát.

Chính tinh (sao tiền tài) ở Cung Tài Bạch nếu có một sao tọa thủ, lại có thêm cát tinh phụ trợ, tam phương có cát tinh hội chiếu là tốt. Nếu có hai chính tinh cùng tọa thủ, là tiền phải cạnh tranh mới có. Cung Tài Bạch và sao tiền tài kị gặp Tuần Không, Triệt Không, Địa Không.

Cung Tài Bạch của nguyên cục biểu thị kiếm được tiên ở phương diện nào đó, còn Cung Tài Bạch, của đại vận hoặc lưu niên thì biểu thị tài vận trong đại vận hoặc lưu niên này, hay thời gian phá tán thất bại.

Thiên Lương tọa Cung Mệnh của nguyên cục hoặc của vận hạn có song lộc giao trì, đều dễ trúng thưởng, trúng số và gặp cơ hội có tiền bất ngờ.

Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang nhập miếu địa, Vũ Khúc nhập miếu địa và Thiên Phủ tọa Cung Mệnh, đều có thể phát tài rất lớn.

Thái Dương có Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung, Thiên Mã hội Lộc Tồn, lợi về phát tài ở nơi khác.

Lộc Tồn ở Cung Tài Bạch, chính tinh nhập miếu, là có thể tụ tài. Nếu hội hợp thêm Tả Phụ, Hữu Bật, sẽ không vất vả mà có được. Nếu hội hợp thêm tứ sát tinh, Không Kiếp, là vất vả mà có được, cần phải từ từ tích lũy mới có được một số tiền. Gặp Địa Không, Địa Kiếp thì trước giàu sau nghèo. Lộc Tồn, Thiên Mã giao hội mới chủ về kiếm được tiền và hanh thông.

Cung Tài Bạch bị Tuần Triệt

Cung Tài Bạch Vô Chính Diệu

Cung Tài Bạch vô chính diệu là một trong những yếu tố xấu về mặt tài khí. Khi này, phương pháp luận Cung Tài Bạch càng phải quan tâm đến tam phương tứ chính. Nếu tam phương tứ chính mà xấu, thì phải luận cung tài là xấu. Nếu tam phương tứ chính mà tốt, thì Cung Tài Bạch cũng thêm phần cát lợi…

Thân Cư Tài Bạch – Mẫu người thân cư Tài Bạch

Thay lời kết

Tóm lại, trên 12 cung địa bàn. Cung Tài Bạch là cung chủ quản tài khí của đương số. Luận giải Cung Tài Bạch sẽ cho ra các thông số cơ bản như đương số có khả năng có tiền tài? Thời điểm nào thì có được tiền bạc?  Giữ được tài khí hay phá tán lúc về già. Tất cả các vấn đề trên đều có thể giải đáp chính xác. Tuy nhiên, cần lưu ý khi luận giải, phải chú ý đến các cung tam phương tứ chính của Cung Tài Bạch như Phúc Đức Cung, Quan Lộc Cung và đặc biệt là Mệnh Cung…

Cung Quan Lộc – Luận giải Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu

0
Cung Quan Lộc – Luận giải Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu

Cung Quan Lộc biểu thị khí số sự nghiệp của đời người. Hội được Cát tinh thì sự nghiệp hanh thông. Gặp đa Sát diệu thì công việc thăng giáng vô thường

Mộ phùng Tả Hữu đồng lai.

Thăng quan tiến chức miếu đài hiển vinh.

Đồng, Lương hội chiếu Dần Thân

Khi xưa tay trắng mà nay sang giàu.

Lộc phùng Tử, Mã nhất ban

Phong vân tế hội Mã Long Hỉ Đồng.

 

Cung Quan Lộc là gì?

Cổ nhân gọi là “Cung Quan Lộc“. Đó là vì ở thời cổ đại địa vị xã hội của những người trong giới công, thương, nông đều rất thấp. Chỉ có học hành để ra làm quan mới là con đường tốt nhất.

Cho nên trong tinh bàn của Tử Vi Đẩu Số. “Cung Quan Lộc” và “Cung Phu Thê” xung chiếu nhau. Đó là vì quan lộc sự nghiệp của một người có thể ảnh hưởng đến địa vị của vợ con.

Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác. Địa vị của giới doanh nhân rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, học hành để ra làm quan không còn là con đường lý tưởng duy nhất.

Luận giải Cung Quan Lộc

Luận giải Cung Quan Lộc - Cohoc.vn

Bởi lý do đời sống hiện đại không còn quá quan trọng quan chức. Thành đạt trong kinh doanh cũng là mục tiêu mà rất nhiều người hướng tới. Hơn nữa, “tài vượng” còn có thể “sinh quan”. Nên “Cung Quan Lộc” được một số nhà đẩu số hiện đại đổi lại gọi là “Cung Sự Nghiệp”. Mà “Cung Quan Lộc” và “Cung Phu Thê” xung chiếu nhau, cũng có nghĩa là xem sự nghiệp và gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai cung này xem có điều hòa hay không.

Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã định ra một số nguyên tắc luận đoán “Cung Quan Lộc”. Có thể nói là không còn hợp thời, như

  • “Thái Dương nhập miếu được cát tinh vây chiếu là quan nhất phẩm đương triều”
  • “Thiên Đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm”
  • “Phá Quân ở cung nhàn nên làm nghề thủ công, gặp cát tinh thì có thể mua chức quan”

Những luận đoán này ít nhiều đã lỗi thời ở thời hiện đại.

Vương Đình Chi từng thử căn cứ các sao của Cung Quan Lộc để luận đoán về nghề nghiệp. Kết quả do tư liệu chưa được đầy đủ nên trong bài viết này chỉ thuật những nguyên tắc phổ quát.

Ví dụ như gặp Thiên Lương hội sao tài thì có thể đoán là kiểm toán viên, cũng có thể là chuyên viên kiểm định trong ngành kiến trúc. Nhưng cũng có khả năng là chủ quản bộ môn tổng vụ, hoặc bộ môn nhân sự của công ty.

Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp các sao phù hợp với nghề gì. Nhưng lại không thể dựa vào các sao mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngày nay đúng là có rất nhiều nghề nghiệp khác nhau, mong rằng bạn đọc có thể hiểu cho.

Ngoài ra, phán đoán nghề nghiệp của một con người còn phải tham khảo các sao của Cung Mệnh và Cung Phúc Đức, điểm này cũng cần hết sức chú ý.

Liên quan đến vận thế sự nghiệp của cuộc đời mỗi người. Cũng không nên chỉ căn cứ Cung Quan Lộc của nguyên cục để luận đoán. Mà còn cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn cứ Cung Quan Lộc của hành hạn để nghiên cứu một cách tỉ mỉ. Thêm vào đó là phối hợp “Lưu diệu”, xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch thế nào, tự nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác hơn.

Sao Tử Vi ở Cung Quan Lộc

Sao Tử Vi thủ Cung Quan Lộc, nhập miếu, nếu không gặp các sao sát, hình, kị hội hợp, mà có Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý đồng độ hoặc hội chiếu. Thì có thể làm việc trong chính giới, được quan cao lộc hậu. Dù theo ngành kinh doanh buôn bán cũng sẽ từ thương giới mà gia nhập chính giới.

Nếu có thêm Sao Hóa Lộc, Lộc Tồn, Thiên Mã hội hợp, thì có thể nắm quyền về tài chính. Hoặc giỏi quản lý tài chính, thích hợp làm lãnh đạo về tài chính, kinh tế, tiền tệ, ngân hàng, hoặc thuế vụ.

Trong xã hội hiện đại, không phải ai cũng thích làm việc trong chính giới. Nếu hội các sao cát như đã thuật ở trên, cũng có thể theo ngành công thương nghiệp hoặc mậu dịch. Ắt cũng sẽ là người có tiếng tăm trong xã hội, là nhân vật lớn trong giới thương nghiệp. Hội Lộc Tồn, Thiên Mã thì nên theo ngành tiền tệ, ngân hàng, cũng có thể kinh doanh xuất nhập khẩu, dễ phát lớn.

Phàm Tử Vi thủ Cung Quan Lộc, dù không có cát tinh hội chiếu, mà có sát tinh hội hợp hoặc đồng độ, cũng chủ về người này có tài năng lãnh đạo, giỏi tổ chức và vạch kế sách. Nhưng nếu có Phá Quân hội chiếu, bất kể là hoạt động trong chính giới hay kinh doanh buôn bán. Thì sự nghiệp cũng đều thành tựu, nhưng nhiều sóng gió trở ngại. Nếu Phá Quân Hóa Lộc, thì chủ về đa tài đa năng, có thể kinh doanh nhiều lĩnh vực. Hoặc bản thân kiêm nhiều nghề nghiệp, nhưng cũng cần phải trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, mới có thành tựu.

Nếu Vũ Khúc ở cung miếu vượng, cùng Kình Dương và Thiên Hình hội hợp với Tử Vi thủ Cung Quan Lộc. Thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát để lập nên sự nghiệp, cũng có thể kinh doanh những thiết bị phòng trộm cướp, nghề bảo an.

Phàm Tử Vi Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc, rất thích hợp phát triển trong chính giới. Nếu không cũng nên làm những nghề nghiệp có tính phục vụ công cộng.

Tử Vi thủ Cung Quan Lộc không sợ tứ sát tinh. Nhưng nếu có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao đồng độ hoặc hội chiếu, thì phần nhiều sẽ xảy ra những trở ngại mới trong lúc phát triển. Chỉ nên theo đuổi sự nghiệp mang tính tưởng tượng sáng tạo như ngành công nghiệp. Không thích hợp làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán. Làm một nhà công nghiệp mang óc tưởng tượng ra thực hành, biến thành sản phẩm mới là lý tưởng nhất

  • “Tử Vi Phá Quân” đồng độ, chỉ nên theo ngành công nghiệp, thương nghiệp. Không thích hợp làm việc trong chính giới. Cuộc đời sự nghiệp trong thành công có thất bại, không được toàn mĩ cho lắm. Nếu Phá Quân Hóa Lộc, sự nghiệp tuy có thể thành tựu nhưng vẫn không như lý tưởng. Nếu có Lộc Tồn đồng độ, thì thường chuốc đố kị, gây ra cạnh tranh. Nếu Tử Vi Hóa Khoa thì danh lớn hơn lợi. Nếu có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp thì nên theo đuổi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật.
  • “Tử Vi Thiên Phủ” cùng ở Cung Quan Lộc, cần phải gặp các sao phụ tá và cát hóa. Được “bách quan triều củng” mới có thể thành tưu sự nghiệp lớn lao. Nếu không có sao cát “triều củng”, thì chỉ là một người làm công việc chủ quản thông thường. Nếu có Lộc Tồn, Hóa Lộc đồng độ hoặc hội chiếu, thì thích hợp làm chủ quản bộ môn về tài chính kinh tế. Nếu có “Lộc Mã giao trì” ở đối cung, nữ mệnh nên giúp chồng phát triển thương vụ, nam mệnh thì chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc kinh doanh cho sự nghiệp của nhạc gia. Nếu không phải vậy thì nên kinh doanh xuất nhập khẩu.
  • “Tử Vi Tham Lang” đồng độ, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, được “bách quan triều củng”. Ắt là nhân vật lớn trong chính giới, giỏi giao tiếp và sở trường về nghệ thuật. Nếu có sát tinh đồng thời hội hợp, thì nên theo ngành kinh doanh buôn bán, ngành công nghiệp, cũng sẽ dễ phát triển. Nhưng gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao đồng độ, thì chỉ thích hợp với ngành công nghiệp, nếu đầu cơ ắt sẽ thất bại. Có điều sự nghiệp phát triển vẫn sẽ xảy ra sóng gió, trắc trở.
  • “Tử Vi Thiên Tướng” cùng ở Cung Quan Lộc, gặp cát tinh và được “bách quan triều củng”, cũng thích hợp tiến thân trong chính giới. Nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, thì nên theo ngành công nghiệp. Gặp sát tinh thì làm nhân viên ngành khoa học ứng dụng, chủ về có kỹ năng chuyên môn. Nếu làm việc trong chính giới ắt sẽ có điên đảo, càng không nên đầu cơ.
  • Tử Vi và Thất Sát cùng ở Cung Quan Lộc. Nếu gặp sát tinh, hoặc Liêm Trinh Hóa Kị thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát, theo võ nghiệp thì hơn. Hoặc có thể theo ngành công nghiệp, nghề nghiệp đặc biệt. Gặp Long Trì, Phượng Các thì càng đúng. Không nên làm việc trong chính giới và theo ngành kinh doanh buôn bán, e rằng sẽ có phong ba.

Thiên Cơ Cung Quan Lộc

Sao Thiên Cơ thủ Cung Quan Lộc, cuộc đời sẽ làm nhiều nghề nghiệp khác nhau, không giữ chuyên một nghề.
Nếu có cát tinh như Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tam Thai, Bát Tọa hội chiếu, càng chủ về sự nghiệp phát triển ở nhiều phương diện. Hoặc làm kiêm nhiều nghề nhiều chức. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa hội chiếu, nên theo sự nghiệp văn hóa. Hoặc theo sự nghiệp có liên quan đến công chúng, sẽ thành danh.

Nếu Sao Thiên Cơ nhập miếu, có Sao Hóa Lộc, Sao Hóa QuyềnSao Hóa Khoa hội chiếu, lại gặp thêm Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, thì nên làm việc trong chính giới. Nhưng nếu Thiên Cơ lạc hãm, hoặc đồng thời gặp sát tinh thì chỉ nên làm việc trong công ty lớn. Làm những công việc có tính phục vụ công cộng.

Thiên Cơ Hóa Lộc hay Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc, gặp Thiên Vu, Thiên Lương, Cự Môn thì có thể khởi nghiệp bằng khoa tinh tướng (Bói toán). Nếu lại gặp Hoa Cái thì có thể hành nghề tôn giáo.

Có tứ sát tinh hội chiếu sẽ làm tăng tính biến động, tính không ổn định của Thiên Cơ. Chủ về thường thạy đổi công việc hoặc nghề nghiệp, hoặc làm những nghề nghiệp có tính lưu động. Cương vị công tác luôn bị điều động.

Thiên Cơ ở Cung Quan Lộc có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội hợp, thích hợp theo ngành công nghiệp, đầu cơ ắt sẽ thất bại.

“Thiên Cơ Thái Âm” ở Cung Quan Lộc, làm tăng tính lưu động của Thiên Cơ, khiến sự nghiệp của mệnh tạo có nhiều biến động. Nếu là “Cơ Nguyệt Đồng Lương” hội hợp, thì nên làm công chức, hoặc làm việc trong các công ty, tập đoàn lớn, có tính phục vụ.

  • Nếu có cát tinh hội hợp, lại gặp thêm Hóa Lộc, Lộc Tồn, thì có thể làm việc trong các tập đoàn tài chính, kinh doanh nhiều nghiệp vụ khác nhau.
  • Gặp Văn Xương, Văn Khúc, Long Trì, Phượng Các, thì nên theo đuổi sự nghiệp văn hóa. Có điều, “Cơ Nguyệt Đồng Lương” mà gặp đủ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, không có sát tinh, thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát, làm công tác bảo an.
  • Nếu đồng thời gặp sát tinh, thì cũng thích hợp theo ngành công nghiệp.

Thiên Cơ và Cự Môn ở Cung Quan Lộc, dù có cát tinh hoặc có các sao Thiên Tài, Long Trì, Phượng Các, vẫn chủ về có kỹ năng chuyên môn nhưng không giữ một nghề, văn hoặc võ đều thay đổi đa đoan.

  • Tuy nhiều ảo tưởng, nhưng nếu có thể thêm vào sự nỗ lực hậu thiên, thì vẫn có thể biến ảo tưởng thành hiện thực.
  • Nếu các sao sát, kị đều gặp, thì lông bông, lang bạt giang hồ.
  • Nếu gặp thêm Địa Kiếp, Địa Không, Thiên Hình, Đại Hao, thì chủ về phạm pháp, nhiều điều tiếng thị phi, phá tán hao tài.

Phàm “Thiên Cơ, Thiên Lương” cùng thủ Cung Quan Lộc, chủ về thường kiêm mấy chức vụ nhưng hay thay đổi. Bất kể có phải là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” hay không, đều không nên tự mình kinh doanh làm ăn, mà nên làm việc trong một công ty, tập đoàn lớn có tính phục vụ công chúng. Hoặc làm công tác xã hội, cũng có thể theo ngành y dược.

Gặp các sao sát, ki hình, hao, thì dễ vì sự nghiệp mà dính vào tranh chấp, kiện tụng, phạm pháp. Nên suy tính đến việc theo ngành pháp luật, công tác tư pháp. nếu sát tinh quá nặng, mà cung mệnh không cát tường, thì chủ về giang hồ phiêu bạt, nghèo nàn, văn nhân thất chí.

Sao Thái Dương Cung Quan Lộc

Thái Dương nhập miếu ở Cung Quan Lộc. Trường hợp ở cung Ngọ sự nghiệp rất lớn, nhưng cần phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, hoặc được Văn Xương, Văn Khúc, mà không gặp sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp mới là thượng cách. Nếu không gặp cát tinh, mà gặp Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Đại Hao, thì sự nghiệp tuy lớn, nhưng vẫn chủ về trống rỗng, dễ bị sụp đổ.

Thái Dương nhập miếu, được các cát tinh vây chiếu, không gặp các sao ác sát, có thể làm việc trong chính giới, cũng có thể kinh doanh buôn bán. Đều chủ về sự nghiệp hưng thịnh, có địa vị cao trong xã hội, hoặc chủ về có rất nhiều học trò.

Thái Dương nhập miếu, có cát tinh vây chiếu, lại có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp, có Văn Xương đồng độ, là kết cấu tốt nhất. Chủ về mệnh tạo làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán, đều là nhân tài lãnh đạo, có thể phú quý. Ở cung Ngọ, không có sát tinh, được “bách quan triều củng”, là lương đống của quốc gia, nhân vật quan trọng trong chính giới. Có sát tinh, thì trong thành công có thất bại. Thái Dương rất ưa có Cự Môn hội chiếu, gặp cát tinh là nhân tài ngoại giao, nhân tài trong ngành tư pháp.

Nếu Thái Dương lạc hãm, dù gặp “tam hóa cát”, hoặc được “bách quan triều củng”. Thì sự nghiệp trước sau vẫn trống rỗng. nếu Thái Dương Hóa Kị, thì một khi sự nghiệp tiến triển, thị phi oán ghét sẽ theo đó mà đến. Không thích hợp làm việc trong chính giới, mà thích hợp với ngành tư pháp, pháp luật, cũng nên làm giáo chức. Nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc, có thể làm công việc mang tính quảng bá. Nếu gặp Long Trì, Phượng Các, thì thích hợp nghiên cứu khoa học. Nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, lại nên khởi nghiệp bằng óc tưởng tượng, là nhân tài phát minh.

Thái Dương lạc hãm, mà sát tinh nặng, thì bôn ba vất vả, ít có thành tựu.

“Thái Dương Thái Âm” ở Cung Quan Lộc, nếu được cát tinh vây chiếu hay hội hợp, thì có thể phú quý. Thích hợp làm việc trong chính giới, thương nghiệp. Gặp sát tinh thì sự nghiệp, nghề nghiệp hay thay đổi. Thích hợp làm tham mựu, cố vấn. Hoặc làm việc trong lãnh vực quan hệ công cộng, quảng bá, công tác phục vụ xã hội.

Hai sao “Thái Dương Cự Môn” đồng cung, ở cung Dần thì tốt hơn. Không có sát tinh thì đại phú đại quý, là nhân vật quan trọng trong giới ngoại giao. Có các sao sát, kị, thì thích hợp ngành pháp luật, tư pháp, giáo dục.

  • Gặp Lộc Tồn, Thiên Mã cũng có thể theo ngành ngoại thương. Chủ về được người ngoại quốc xem trọng.
  • Gặp Lộc Tồn, Thiên Mã đồng thời còn gặp sát tinh, thì nên theo ngành thương nghiệp, làm người bán hàng, chào hàng.
  • Nếu có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, là nhân tài trong ngành quảng bá, công tác văn hóa.

Thái Dương và Cự Môn đồng cung không ưa có sát tinh mà gặp đủ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, là nhân vật cao cấp trong chính giới. Nếu đồng thời gặp sát tinh, làm kinh doanh buôn bán cũng là lãnh đạo một phương. Hoặc là nhân sĩ mà xã hội biết tên. Trường hợp ở cung Thân thì hơi kém hơn.

“Thái Dương Thiên Lương” cùng ở Cung Quan Lộc, gặp cát tinh, thích hợp làm công việc giám sát, kiểm toán.

  • Nếu có sát tinh, thì nên khởi nghiệp bằng nghề nghiệp hưởng lương, nghiên cứu khoa học.
  • Gặp Kình Dương, Thiên Hình, có thể là nhân tài trong lãnh vực y dược, trị liệu.
  • Nếu Thái Dương và Thiên Lương gặp Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc. Có Văn Xương hoặc Văn Khúc hội hợp, thì nên tham gia các cuộc thi tuyển, trở thành nhân tài chuyên nghiệp.
  • Nếu gặp văn tinh, hoặc Thiên Lương Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì thích hợp theo ngành xã hội làm công việc liên quan đến công chúng.

Nhưng bất kể thế nào, đều không nên tự mình bỏ vốn ra làm ăn kinh doanh.

Vũ Khúc Cung Quan Lộc

Vũ Khúc nhập Cung Quan Lộc, cổ nhân cho rằng thích hợp “võ nghiệp vinh thân”. Thực ra ở xã hội hiện đại, lấy Vũ Khúc làm chủ tinh của cung tài bạch. Nên cũng có thể theo ngành tài chính tiền tệ, ngân hàng, kinh doanh làm ăn cũng có lợi. Những công việc thuộc tính chất của “hành kim” đều hợp.

Vũ Khúc nhập miếu, lại có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp, hoặc gặp Lộc Tồn, Thiên Mã. Nếu làm việc trong chính giới có thể là nhân vật trọng yếu về tài chính kinh tế. Làm ăn trong giới kinh doanh thì sự nghiệp cũng phát triển. Nếu gặp thêm Văn Xương, Văn Khúc, Long Trì, Phượng Các, thì có thể trở thành nhân tài phân tích kinh tế.

Trường hợp Vũ Khúc có Phá Quân hội chiếu, lại gặp thêm Thiên Hình. Thì thích hợp gia nhập quân đội, cảnh sát hay công tác bảo an, mới tránh được sóng gió, trắc trở, thị phi. Nếu có thêm Thất Sát hội chiếu, có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp. Ắt sẽ là nhân vật trọng yếu tài kiêm văn võ. Cổ nhân cho rằng đây là cách cục “Thống lĩnh trăm vạn hùng binh trấn thủ biên cương “.

“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ, thích hợp kinh doanh buôn bán. Nếu làm việc trong chính giới thì nhiều tham vọng, không bằng làm ăn kinh doanh. Dù bản tính hay mưu tính kiêm lợi, cũng không rơi vào hung hiểm. Có Hỏa Tinh và Linh Tinh đồng độ, không bằng cách cục thuần “Hỏa Tham” hay “Linh Tham”, làm ăn kinh doanh thì chủ về hoạnh phát, nhưng cũng hoạnh phá.

Nếu Vũ Khúc Hóa Kị, thì làm ăn kinh doanh ắt chủ về nhiều lên xuống, trồi sụt, khốn khó trùng trùng. Vì vậy nên làm thuê hưởng lương thì hơn. nhưng sự nghiệp trong quá trình phát triển vẫn gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Hoặc thường hay có phản ứng sai lầm, hành động không mang lại hiệu quả tốt cho bản thân.

Vũ Khúc nến gặp tứ sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Đại Hao. Thì cuộc đời gặp nhiều tình huống bối rối khó xử, trở ngại, thị phi. Mưu tính nhiều mà thành tựu ít, vất vả nhiều mà thu hoạch không có bao nhiêu.

“Vũ Khúc Thiên Phủ” ở cung Tí tốt hơn ở cung Ngọ. Có thể theo ngành tài chính kinh tế, kế toán, là nhân tài quản lý tài chính chuyên nghiệp. Nếu có cát tinh hội chiếu, lại gặp tam hóa cát, là lãnh đạo về tài chính kinh tế, nắm quyền tài chính một phương.

  • Gặp Lộc Tồn, Thiên Mã thì thích hợp làm ăn kinh doanh.
  • Gặp sát tinh hội chiếu, thì có thể là chuyên gia về thiết kế, khoa học kĩ thuật, nghệ thuật.
  • Có Văn Xương, Văn Khúc và Long Trì, Phượng Các đồng độ hoặc hội chiếu thì lại chủ về phát đạt.

“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ, gặp cát tinh thì nên theo ngành kinh doanh buôn bán. Nghề nghiệp nên có tính tiêu dùng, tính trang điểm, trang trí. Nếu hội hợp với Liêm Trinh Hóa Kị, thì sự nghiệp tiền tài vẫn có lúc gặp trở ngại, không nên đầu cơ. Dù bản tính hay mưu tính kiếm lợi, cũng nên xem xét kĩ tình hình, nếu không sẽ chủ về phá tán, thất bại.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” đồng độ, chủ về tính kiêm văn võ. Thích hợp làm việc trong chính giới, hoặc gia nhập quân đội hay cảnh sát, làm công tác bảo an. Nếu làm ăn kinh doanh, thì không giỏi quản lý tài chính, lúc sự nghiệp phát triển sẽ dễ có phản ứng sai lầm, hành động không mang lại hiệu quả tốt cho bản thân. Nhưng nếu có các cát tinh hội hợp, thì có thể theo ngành tiền tệ, ngân hàng.

“Vũ Khúc, Thất Sát” cùng thủ Cung Quan Lộc. Nếu gặp các sao Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Tam Thai, Bát Tọa, Thai Phụ, Phong Cáo. Thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát, hoặc làm nhân viên bảo an, có thể lập được công danh. Nếu gặp sát tinh, thì nên theo ngành công nghiệp, hoặc những nghề nghiệp thuộc tính chất của “hành kim”. Gặp Thiên Phủ đồng độ hoặc hội chiếu, có thể theo ngành ẩm thực, thực phẩm.

“Vũ Khúc Phá Quân” đồng độ, cổ nhân cho rằng tinh hệ này cũng thích hợp với võ nghiệp. Trong xã hội ngày nay thì thích hợp ngành công thương nghiệp, làm việc ở công xưởng, nhưng phải hao tổn nhiều sức lực. Gặp Thiên Phủ hội chiếu, cũng có thể kinh doanh về ẩm thực, thực phẩm. Nhưng bất kể là theo võ nghiệp hay kinh doanh buôn bán, cuộc đời vẫn gặp nhiều phong ba hiểm trở. Vì vậy nên có suy nghĩ thiết thực, nếu các sao sát, kị, hình mà nặng thì càng không nên mạo hiểm mở rộng sự nghiệp hoặc đầu cơ.

Sao Thiên Đồng ở Cung Quan Lộc

Thiên Đồng thủ Cung Quan Lộc, chủ về tay trắng làm nên. Trong các tình hình thông thường, thích hợp với những nghề nghiệp có tính mĩ quan và hưởng thụ. Như hướng dẫn du lịch, làm tóc, trang trí, trang điểm và làm đẹp, nấu ăn,

  • Thiên Đồng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu. Hoặc Lộc Mã giao trì thì chủ về sự nghiệp phát triển từ nhỏ thành lớn, dần dần hanh thông, trở thành nhân tài lãnh đạo trong nghề nghiệp.
  • Thiên Đồng lạc hãm, không thích hợp kinh doanh buôn bán, chỉ thích hợp làm thuê hưởng lương. Hoặc làm công chức, làm việc trong công ty lớn.
  • Thiên Đồng nếu có Đà La, Thiên Mã hội chiếu, thì cuộc đời sự nghiệp sẽ xảy ra nhiều thay đổi. Hoặc hay thay đổi nghề nghiệp.
  • Thiên Đồng nếu có Kình Dương, Thiên Hình hội chiếu, phần lớn chủ về vì sự nghiệp mà gây ra bất hòa, tranh chấp, hoặc bị kẻ xấu cạnh tranh.
  • Thiên Đồng nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ, thì chủ về sự nghiệp gặp nhiều nghịch cảnh. Nên làm thuê thì hơn, không nên tự đứng ra kinh doanh.
  • Thiên Đồng nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, thì nhờ tài nghệ mà tay trắng làm nên.

“Thiên Đồng Thái Âm” cùng ở Cung Quan Lộc. Chỉ nên phát triển trong cục diện đã hình thành. Vì vậy rất nên được người đề bạt, hoặc kế thừa công việc hay sự nghiệp của người khác. Cũng có thể suy tính việc tiếp tục công cuộc làm ăn kinh doanh của người nào đó. Nhưng cần phải có Lộc Tồn, Thiên Mã hội chiếu mới có thể làm ăn kinh doanh. Nếu có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, thì nên theo đuổi sự nghiệp văn nghệ. Không có Văn Xương, Văn Khúc cũng có thể làm công chức.

“Thiên Đồng Cự Môn” cùng thủ Cung Quan Lộc, dù gặp cát tinh, cũng phải trải qua gian khổ, phấn đấu mới thành công. Nếu không có cát tinh, ở tam phương tứ chính gặp sát tinh, thì chủ về làm việc thiếu nghị lực, không kiên nhẫn, dẫn đến sự nghiệp giữa đường bị phế.

“Thiên Đồng Thiên Lương” cùng thủ Cung Quan Lộc. Bất kể kinh doanh buôn bán hay làm việc trong chính giới, đều chủ về nên làm người vạch kế sách.

  • Gặp cát tinh, có thể đảm nhiệm chức vụ thư kí cơ yếu, hoặc nhân viên phụ trách tài vụ.
  • Nếu gặp sát tinh, thì nên làm những nghề nghiệp có tính phục vụ xã hội, hoặc công tác ở bệnh viện.
  • Nếu gặp Thiên Mã và các sao đào hoa, thì thích hợp với những nghề nghiệp có tính lưu động, như tiếp viên hàng không, thuyền viên, phi công, v.v…

Nhưng gặp cát tính, lại có Kình Dương, Thiên Hình hội hợp, thì có thể đảm nhiệm công tác vệ sinh phòng dịch, trị liệu hoặc nhân viên hải quan, nhân viên bưu cục.

Sao Liêm Trinh ở Cung Quan Lộc

Liêm Trinh thủ Cung Quan Lộc, nhập miếu, thông thường đều nên theo võ nghiệp, Liêm Trinh Hóa Kị thì càng đúng. Nếu làm những nghề nghiệp khác, thì sẽ gặp nhiều trở ngại hoặc biến động thay đổi rất lớn. Có Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật vây chiếu hoặc đồng độ, gia thêm Tử Vi hội chiếu, thì từ văn chức mà nắm quyền của võ chức.

Liêm Trinh nếu có Vũ Khúc, Văn Xương, Văn Khúc hội hợp. Đều thích hợp làm việc trong chính giới, gia nhập quân đội. Hoặc các công việc giám sát về kỉ luật, chủ về chức văn mà làm việc võ. Hoặc chức võ mà làm việc văn, là nhân tài kiêm văn võ.

  • Nếu kinh doanh buôn bán, thì nên xem kĩ các sao hội chiếu để định nghề nghiệp hoặc hướng kinh doanh.
  • Nếu có Tham Lang hội chiếu, có thể theo ngành thiết kế, quan hệ công cộng, quảng cáo.
  • Có Thất Sát hội chiếu, gặp Thiên Trù, có thể theo ngành ẩm thực, thực phẩm.
  • Có Thiên Phủ hội chiếu, có thể theo ngành tiền tệ, ngân hàng.
  • Có Thiên Tướng hội chiếu, là nhân tài thương nghiệp chuyên vạch kế sách, hoặc nhân tài kế hoạch kinh tế.
  • Có Văn Xương, Văn Khúc đồng độ, thì thích hợp theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật.

“Liêm Trinh Thiên Tướng” thủ Cung Quan Lộc. Gặp cát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát, công tác hải quan. Làm việc trong chính giới cũng sẽ chức văn mà làm việc võ. Gặp các sao ác, sát, hình, kị, hao hội hợp, thì có nguy cơ bị bãi chức hoặc thất nghiệp, vỡ nợ, sập tiệm. Gặp sát tinh nhẹ thì thích hợp kinh doanh buôn bán, theo ngành công nghiệp, có thể dựa vào kĩ thuật mà khởi nghiệp.

“Liêm Trinh Phá Quân” cùng thủ Cung Quan Lộc, kết cấu này khá xấu. Nếu theo ngành kinh doanh buôn bán, hoặc công nghiệp, đều chủ về cuộc đời ít nhất cũng có một lần thất bại hay gặp trắc trở. Vì vậy cần xem xét kĩ đại hạn và lưu niên để ứng phó một cách thiết thực. Nếu làm việc trong chính giới, thì đảm nhiệm về văn thư. gặp cát tinh, cũng có thể nhờ sự kinh lịch mà lên chức, thăng tiến. Gặp sát tinh thì ở mãi một chỗ. Nếu kinh doanh buôn bán, cũng nên lấy ẩm thực làm nghề nghiệp. Hoặc làm những nghề có tính nguy hiểm, cũng có thể gia nhập quân đội hay cảnh sát, làm công tác bảo an, hải quan.

“Liêm Trinh Thiên Phủ” cùng thủ Cung Quan Lộc, gặp cát tinh hội hợp, chủ về sự nghiệp hình thành được cục diện. Do ảnh hưởng tính cách bảo thủ, cẩn thận của Thiên Phủ. Vì vậy không thích hợp với võ nghiệp, có thể làm việc trong ngành tiền tệ, ngân hàng, tài chính kinh tế. Nếu gặp sát tinh, thì sự nghiệp có nhiều biến động, sóng gió, trắc trở. Gặp Sao Hóa Kị, thì kinh doanh không thuận lợi, không nên đầu cơ.

“Liêm Trinh Tham Lang” cùng thủ Cung Quan Lộc, rất nên làm những nghề nghiệp nhiều giao tế thù tạc. Hoặc có tính tiêu dùng, có tính vui chơi giải trí, nghệ thuật. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Tài hội hợp, thì thích hợp làm công tác văn nghệ. Nếu gặp Hàm Trì, Thiên Diêu, Hồng Loan, Thiên Hỉ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn. Gặp Thiên Mã thì thích hợp làm nghề hướng dẫn du lịch.

“Liêm Trinh Thất Sát” đồng độ ở Cung Quan Lộc, rất thích hợp gia nhập quân đội, cảnh sát, hải quan, các công việc giám sát về kỉ luật, công tác bảo an. Nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc, hoặc Long Trì, Phượng Các, thì nên có nghề chuyên môn để mưu sinh. Nếu lại gặp Thiên Nguyệt, và có hai sao văn vây chiếu hoặc đồng độ, thì làm bác sĩ ngoại khoa, thầy thuốc, y sư về trật đả. Nếu có Thiên Trù đồng độ, thì có thể theo ngành ẩm thực. Nếu Liêm Trinh Hóa Kị, thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát, cũng có thể làm những công việc có liên quan đến máu huyết.

Sao Thiên Phủ Cung Quan Lộc

Thiên Phủ thủ Cung Quan Lộc, nhập miếu, được cát tinh vây chiếu, chủ về sự nghiệp phát triển, có thành tựu. Nếu ở hãm địa, hội Văn Xương, Văn Khúc, cổ nhân cho rằng bất quá chỉ là viên thư lại. Tức người trông coi về văn thư của huyện phủ.

Nếu Thiên Phủ ở Cung Quan Lộc, gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, chủ về có thể làm ăn kinh doanh mà trở nên giàu có. Nhưng không nên sáng lập sự nghiệp mới, chỉ nên tiệm tiến từ cục diện đã có.

Thiên Phủ Hóa Khoa, thích hợp làm việc trong ngành tiền tệ, tài chính, ngân hàng, hoặc tự kinh doanh. Ít nhất cũng một mình đảm trách công việc, nhưng không nên đầu cơ.

Thiên Phủ gặp sát tinh, thích hợp theo ngành công nghiệp. Có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, trái lại sẽ chủ về có nghị lực kinh người trong việc phát triển sự nghiệp trong giới công nghiệp.

Thiên Phủ có hai thượng cách giàu có trong sự nghiệp như sau:

  • Một là “Thiên Phủ, Vũ Khúc” ở cung Ngọ, tương hội với “Tử Vi Thiên Tướng” ở cung Tuất hay ở cung Dần được Lộc Tồn. Không có các sao sát, kị, gặp cát tinh phù trợ, chủ về đại quý. Thích hợp làm việc trong chính giới.
  • Hai là Thiên Phủ ở cung Sửu, có Lộc Tồn ở cung Dậu đến hội hợp, không có sát tinh, gặp cát tinh, cũng chủ về đại quý.

Thái Âm Cung Quan Lộc

Thái Âm thủ Cung Quan Lộc, tính chất biến hóa đa đoan, cần phải xem xét kĩ các sao hội hợp để định đoán. Nếu nhập cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” thì không thích hợp kinh doanh, mà thích hợp làm việc trong chính giới hoặc công ty lớn. Rất nên làm việc ở những cơ cấu có tính phục vụ công cộng. Gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Thiên Mã, tuy có thể làm ăn kinh doanh, nhưng phải tổ chức thành công ty trách nhiệm hữu hạn, không nên một mình bỏ vốn ra kinh doanh.

Cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” gặp tam cát hóa cùng chiếu, không có sát tinh. Thì thích hợp đảm nhiệm chức vụ nắm giữ quân quyền. Nếu có thêm các sao phụ tá hội chiếu, thì chủ về là người của chính giới lẫn quân đội.

Sao Thái Âm được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thích hợp làm công tác văn hóa, hoặc làm việc trong giới quảng bá.

Thái Âm được Tả Phụ, Hữu Bật hội chiếu, thích hợp làm việc trong chính giới. Gặp thêm Lộc Tồn, chủ về làm những nghề nghiệp liên quan đến tài chính kinh tế, cũng thích hợp kinh doanh buôn bán.

Nếu Thái Âm có Thiên Lương tương hội, gặp Đại Hao, Thiên Vu, Kiếp Sát, thích hợp làm trong ngành thuế vụ.

Thái Âm có Thiên Đồng hoặc Thiên Cơ đồng độ, đều thích hợp làm những nghề không có cơ sở căn bản cố định, nếu không sự nghiệp sẽ nhiều biến động.

Thái Âm có hai cách cục thích hợp với ngành công nghiệp:

  • Một là, có Thiên Cơ đồng độ, được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu.
  • Hai là, có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ.

Trường hợp trước phát triển thuận lợi, trường hợp sau thì gặp nhiều biến động. Nhưng đều thích hợp theo ngành phát minh khoa học kĩ thuật. Hoặc dựa vào nghề chuyên môn để khởi nghiệp.

Thái Âm có Văn Xương, Văn Khúc, Long Trì, Phượng Các, Thiên Tài đồng độ hoặc hội chiếu, là thiên tài nghệ thuật. Có thể phát triển nghề nghiệp ở lãnh vực nghệ thuật. Nếu gặp thêm Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hàm Trì, Thiên Diêu, thì thích hợp theo ngành nghề có tính giải trí, vui chơi hoặc chủ về thành danh trong giới nghệ thuật biểu diễn.

Tham Lang Cung Quan Lộc

Tham Lang thủ Cung Quan Lộc, thích hợp công tác ngoại vụ. Như nếu là doanh nghiệp thì làm ở khâu bán hàng, chào hàng, quan hệ công cộng. Cần phải lấy thù tạc giao tế làm công tác trọng điểm. Cũng có thể theo ngành giải trí, vui chơi, nghệ thuật biểu diễn, nhất là gặp các sao văn tinh hoặc các sao đào hoa.

Nếu ở tam phương tứ chính được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, không có các sao sát, kị, hình, hao, mà có các sao phụ tá, lại được Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Tam Thai, Bát Tọa, Thai Phụ, Phong Cáo, Thiên Vu hội chiếu. Có thể là nhân vật lớn trong chính giới, giao tế giỏi, xử sự khéo léo.

Tham Lang nếu có Vũ Khúc đồng độ hoặc hội chiếu, lại có Hỏa Tinh, Linh Tinh hội hợp, thì thích hợp theo võ nghiệp mà vinh thân.

Tham Lang có Tử Vi hội hợp, có phụ diệu, cũng có thể làm việc trong chính giới. Nhưng nếu đồng thời hội sát tinh, thì nên kinh doanh buôn bán. Nếu có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, thì thích hợp thẹo ngành công nghiệp. Nhưng có Địa Kiếp, Đại Hao đồng độ, thì vẫn có sóng gió, trở ngại.

Nếu Tham Lang có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đồng độ, lại không gặp sát tinh khác và các sao Thiên Hình, Hóa Kị, Kiếp Sát, Đại Hao thì có thể đầu cơ. Hoặc chủ về cuộc đời ắt sẽ gặp vận may đặc biệt.

Nếu Tham Lang Hóa Kị, thì sự nghiệp phát triển không như lý tưởng. Nếu gặp cát tinh, chủ về lý tưởng thì thất bại, nhưng lại có thể phát lên một cách bất ngờ, ngoài dự liệu.

Tham Lang Hóa Kị mà gặp nhiều sát linh, thì hoạnh phát hoạnh phá, phát lên một cách đột ngột rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng. Phải chú ý duy trì thành tựu đã đạt được, mới có thể tránh phá sản. Hai cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, có thể thành tựu bất ngờ. Dù không có Hóa Kị hoặc không gặp sát tinh khác, nhưng cũng phải khắc ki, cố gắng, nỗ lực.

Tham Lang nếu gặp các sao sát, kị, còn gặp thêm Thiên Hình, Đại Hao, Địa Không, Địa Kiếp, thì dễ xảy ra đột biến mà thất bại.

Cự Môn Cung Quan Lộc

Cự Môn thủ Cung Quan Lộc, nhập miếu, chủ về tay trắng sáng lập sự nghiệp. Rất thích hợp dùng kĩ năng chuyên môn hoặc tri thức chuyên môn làm cho gia vận hưng thịnh. Như làm việc trong các ngành nghề y khoa, pháp luật, nghệ thuật

biểu diễn, ngoại giao, quan hệ công cộng, quảng bá. Gặp Thiên Cơ, thì chủ về chuyên viên máy tính, kế toán. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, có thể theo ngành nghệ thuật, hoặc khoa thuật số.

Khi Sao Cự Môn gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, và được các sao phụ tá hội chiếu. Chủ về nhờ dùng tài ăn nói hoặc tri thức chuyên môn mà thành danh. Nếu đồng thời gặp sát tinh, Thiên Hình, thì làm lãnh đạo bang hội. Nếu gặp Hoa Cái, là nhân tài truyền bá tôn giáo. Không có các sao sát, kị, hình, là nhân vật trọng yếu trong chính giới hay trong quân đội, hoặc là người có tiếng tăm toong giới thương nghiệp.

  • Cự Môn nêu có Thái Dương đồng độ, chủ về danh hơn lợi.
  • Cự Môn nếu có Thiên Cơ đồng độ, thì sự nghiệp thường có biến động, không giữ một nghề hay một chức vụ. Là người nặng về ham muôn vật chất, nhiều không tưởng.
  • Cự Môn nếu có Thiên Đồng đồng độ, chủ về làm việc có đầu mà không đuôi.

Cự Môn thủ Cung Quan Lộc, nếu các sao sát, kị mà nặng, lại gặp Thiên Mã, là khách giang hồ phiêu bạt. Nếu gặp văn tinh, thì cũng nghèo nàn, là văn nhân thất chí.

Cung Quan Lộc có Thiên Tướng

Thiên Tướng thủ Cung Quan Lộc, ưa hội chiếu với Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn, và các sao phụ tá. Chủ về là nhân vật trọng yếu trong chính giới, hay nhân vật lớn trong giới công thương nghiệp.

Thiên Tướng có Tử Vi hội chiếu, nên lập thân trong chính giới.

Thiên Tướng có các sao cát hội chiếu, mà không có sát tinh. Chủ về lập thân trong chính giới cũng tốt, nhưng không nên mưu tính giành vị trí tối cao. Nếu không sẽ thành bia cho người ta nhắm, lúc đến niên hạn có vận trình không tốt sẽ dễ ngã ngựa.

Thiên Tướng có Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh đồng độ, thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát, hải quan, cũng có thể theo ngành công nghiệp.

Thiên Tướng nếu có “Vũ Khúc, Phá Ouân” vây chiếu. Chủ về sự nghiệp lên xuống vô thường, không thích hợp làm việc trong chính giới, có thể dựa vào nghề chuyên môn để phát triển. Gặp Long Trì, Phượng Các, Thiên Tài thì càng có lợi.

Thiên Tướng có tứ sát tinh hội chiếu, chủ về sự nghiệp gặp nhiều tình huống rối bời, dù đang ở trong thuận cảnh cũng có lúc lúc bị trở ngại. Nếu gặp thêm các sao hình, kị, hao, chủ về làm việc trong chính giới sẽ có nguy cơ bị bãi chức. Trong thương trường thì bị phá tán, thất bại, hoặc thậm chí ngừng kinh doanh, vỡ nợ, sập tiệm.

Thiên Lương Cung Quan Lộc

Thiên Lương thủ Cung Quan Lộc, trường hợp độc tọa ở cung Ngọ là cách cục lớn nhất. Không gặp các sao sát, kị, được Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn vây chiếu hoặc đồng độ. Chủ về theo ngành kinh doanh buôn bán hay làm việc trong chính giới đều là nhân vật lãnh đạo.

Thiên Lương hội Lộc Tồn, Thiên Mã, đại lợi làm ăn kinh doanh, chủ về được người ngoại quốc (hoặc người ở nơi khác) tín nhiệm.

Khi Sao Thiên Lương có Thái Dương đồng độ, chủ về nhờ tài nghệ mà nổi tiếng. Gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, thì tên tuổi truyền ra nước ngoài. Gặp sát tinh thì thích hợp làm công việc có tính phục vụ xã hội.

Thiên Lương thủ Cung Quan Lộc, thông thường nên đảm nhiệm các chức vị giám sát. Cũng có thể làm chuyên viên về máy tính, kiểm toán, thiết kế, v.v… Nếu có Thiên Đồng hội chiếu, là nhân tài tham mưu, cố vấn hoặc làm công tác kế hoạch.

Thiên Lương thủ Cung Quan Lộc, gặp các sao sát, hình, có thể theo ngành y. Nếu gặp nhiều sát tinh, lại gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Đại Hao, thì nên làm những công việc có tính nguy hiểm. Nếu không dễ sinh tai họa, hoặc phạm pháp mà dẫn đến phá tán hao tài.

Thiên Lương ở cung Tỵ, phần nhiều làm những nghề nghiệp đặc biệt.

Thất Sát ở Cung Quan Lộc

Thất Sát thủ Cung Quan Lộc, thích hợp theo ngành công nghiệp. Nên lấy sức người làm nguồn vốn là chính, tuyệt đối không nên đầu cơ. Bởi vì Thất Sát ở Cung Quan Lộc, cuộc đời ắt sẽ có một lần bị trắc trở nghiêm trọng, nếu đầu cơ thì khó dựng lại cục diện mới.

Thất Sát có Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh đồng độ, có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiêrt Khôi, Thiên Việt, Tam Thai, Bát Toạ, Thiên Vu, Thiên Phúc hội hợp. Chủ về quyền uy xuất chúng, theo võ nghiệp có thể vinh thân. Nếu theo ngành công nghiệp cũng chủ về danh tiếng có thể truyền ra nước ngoài.

Thất Sát không sợ tứ sát tinh. Nếu có tứ sát tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về lập nghiệp trong gian khổ, nhưng cuộc đời gặp nhiều thị phi, sóng gió.

Thất Sát có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, thích hợp lập thân bằng kĩ thuật, công nghệ. Nếu không sẽ bị phá tán, thất bại.

Phàm Thất Sát thủ Cung Quan Lộc, bất kể gặp cát tinh hay gặp sát tinh, đều không nên theo ngành văn hóa giáo dục. Vì mệnh tạo giỏi quản lý người dưới quyền, chỉ thích hợp hoạt động trong quân đội hay cảnh sát, hoặc lãnh đạo công xưởng.

Phá Quân Cung Quan Lộc

Phá Quân nhập miếu thủ Cung Quan Lộc, thích hợp làm công việc quản lý hoặc kinh doanh công xưởng, hoặc theo võ nghiệp.

Phá Quân nếu có Lộc, Quyền, Khoa hội hợp, là người có quyền uy trong võ nghiệp. Cổ nhân gọi là “Uy trấn Hoa Di”.

Phá Quân thủ Cung Quan Lộc, không thích hợp kinh doanh, nếu không ắt sẽ gặp sóng gió, trắc trở. Dù có cát tinh hội hợp, cũng lúc thành lúc bại, lên xuống vô thường. Có điều, nếu Phá Quân Hóa Lộc, hoặc có Lộc Tồn đồng độ, thì chủ về có tính cương nghị hơn người, một lần thất bại là một lần đứng lên. Có cát tinh hội chiếu thì cuối cùng cũng thành tựu. Nếu không có cát tinh, thì áp lực rất nặng, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, thì trong cuộc đời ắt sẽ có một lần vỡ nợ, sập tiệm hoặc phá sản. Nếu theo ngành công nghiệp, có thể dựa vào sản phẩm mới hoán chuyển nguy cơ.

Phá Quân thủ Cung Quan Lộc, tuyệt đối không được đầu cơ, nếu không ắt sẽ thất bại.

Phá Ouân cũng thích hợp ngành giao thông vận tải, gặp Lộc Tồn, Thiên Mã thì càng tốt.

Cung Quan Lộc dưới sự ảnh hưởng của Phụ Tá Tinh Diệu

Văn Xương, Văn Khúc ở Cung Quan Lộc

Hai sao nhập Miếu, có danh tiếng địa vị, gặp Thái Dương, Thái Âm đồng cung hội chiếu thì chủ quyền quý, chức vị cấp tỉnh bộ. Gặp nhiều sao tốt như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Hóa Khoa, Tả Phù Hữu Bật thì là người tài năng văn võ, phú quý bất phàm. Hai sao này cùng với cát tinh đồng thủ thì tăng may mắn tốt đẹp, kị gặp Phá Quân. Nếu Hãm địa thì không đẹp, thích hợp phát triển ở các phương diện văn hóa, học thuật, nghệ thuật, tôn giáo, chiêm bốc.

Tả Phù, Hữu Bật Cung Quan Lộc

Có tài năng quản lý ưu việt, làm việc ổn định chắc chắn, công việc thuận lợi, có thể được đại chúng cổ vũ. Kinh Doanh hoặc làm công chức đều tốt, nếu được cát tinh đồng cung càng tốt, có các sao tốt Tử Vi Thiên Phủ củng chiếu thì văn võ đều giỏi, Tài Quan đều đẹp. Đồng cung với Thiên Đồng, Văn Xương thì là kỳ cách văn chương, nổi danh thiên hạ. Gia Tứ Sát thì thành bại bất nhất, nếu gặp Không Kiếp thì chủ bị giáng chức.

Sao Thiên Khôi, Thiên Việt ở Cung Quan Lộc

Trong công việc luôn gặp quý nhân, đặc biệt nhận được sự giúp đỡ của cấp trên, bậc tôn trưởng. Gặp khó khăn gì cũng từ hung thành cát. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quý. Gia Tứ Sát thì thành bại thăng trầm, gia Không Kiếp Hình Kị là người bình thường.

Lộc Tồn ở Cung Quan Lộc

Là điềm đại cát, trong công việc có thể nhận được sự trợ giúp về vật chất, là người giỏi quản lý, sử dụng tiền bạc, không thích hoang phí, dễ tích lũy tiền bạc, công việc phát triển thuận lợi. Có thể đảm nhận chức vị cao, hoặc kinh doanh xí nghiệp quy mô lớn. Lộc Tồn độc thủ, thường làm trong bộ Tài chính, Ngân hàng, hoặc làm các công việc quản lý tài chính, là quan chức về tài phú. Lộc Tồn nếu được nhiều cát tinh miếu vượng thủ chiếu thì tất là bậc tài năng văn võ, lương đống quốc gia, Tài Quan đều đẹp. Gia Hỏa Linh Không Kiếp thì thăng trầm, tốt xấu bất nhất, đặc biệt kị gặp Không Kiếp.

Sao Kình Dương, Đà La ở Cung Quan Lộc

Điềm hung, một đời sự nghiệp nhiều trắc trở, hay thay đổi, không thuận lợi. Thường gặp phiền phức, dễ đối lập với cấp trên, gây phản cảm với đồng nghiệp, người dưới mà bị ép từ chức hoặc mất việc, hoặc thu nhập thấp. Nhập Miếu thì lợi cho Võ chức hoặc kinh doanh, cũng có thể làm những ngành có tính thay đổi, nguy hiểm hoặc tiêu hao thể lực, không lợi cho các công việc Văn chức. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ có quyền quý.

Hai sao trên hãm địa thì bôn ba vất vả qua ngày. Trong sự nghiệp thường gặp tổn hại, sự cố, làm công việc bình thường, địa vị không cao, chuyển chức, không ổn định, thu nhập ít, môi trường làm việc khắc nghiệt, một đời làm nhiều mà thành ít, hãm địa gia cát tinh thì chỉ có hư danh, khó có thể phát triển mạnh. Gia Hỏa Linh Không Kiếp chủ người bình thường, nghèo khó.

Hỏa tinh, Linh tinh ở Cung Quan Lộc

Điềm không tốt, công việc làm nhiều thành ít, bị đối xử bạc bẽo, môi trường khắc nghiệt, tuy rằng có công việc nhưng khó dài lâu.

Hai sao này nhập miếu thì tuổi trẻ thành bại thất thường, tuổi già công việc toại ý. Hội Tử Vi, Tham lang miếu vượng thì chủ cát lợi. Nhập miếu hội nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quyền quý hiển hách.

Hai sao này Hãm địa thì cả đời địa vị thấp kém, sự nghiệp không ổn định, hay bị chuyển chức, khó được dùng đúng chỗ, thường không hài lòng với công việc hiện tại. Gặp Dương Đà Không Kiếp thì một đời khốn đốn, khó khăn, nhiều phong ba.

Sao Địa Kiếp, Địa Không ở Cung Quan Lộc

Điềm hung về sự nghiệp hư không, một đời công việc không ổn định. Thường thay đổi công việc, việc làm chẳng có ít nhiều lợi ích gì đáng nói, thường gặp trở ngại hoặc thất bại, khó có thể thành đại sự đại nghiệp. Mệnh có cát tinh mà gặp Không Kiếp dù có phú quý nhất thời cũng nhất định có thất bại tương đối lớn. Hoặc là tiền tài bị phá tán, hoặc là đắc tội với cấp trên mà bị trách phạt, hoặc học nhằm cái không dùng được nên khó phát huy. Xấu nhất là 2 sao này đồng cung tại Cung Quan Lộc hoặc cùng tại tam phương của cung mệnh. Nếu chỉ gặp 1 trong 2 sao mà trong cung có chính tinh Miếu Vượng thì độ hung tương đối nhỏ.

Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc

Như đã biết, Cung Quan Lộc là tư duy ở tầng thâm sâu với tầm nhìn xa, đồng thời cùng đại biểu cho cơ sở đi lên của đời người. Trường hợp Sao Hóa Khoa xuất hiện ở Cung Quan Lộc, bất luận là việc học hành hay tiếp thu kiến thức, mệnh tạo đều tuần tự tiến từng bước, hấp thu và tiêu hóa kiến thức với trạng thái tâm lý vững vàng, không hấp tấp. Họ mong muốn sau khi hiểu biết thông suốt sẽ mang ra vận dụng, cho nên thường thường họ là người có thực học, có thực lực.

  • Cung Quan Lộc còn chủ về năng lực học tập, trường hợp có Hóa Khoa, là chủ về mệnh tạo rất có hứng thú đối với học vấn và kiến thức, có tinh thần tự tìm hiểu, nghiên cứu một cách bền bỉ. Mà mục đích tìm hiểu, nghiên cứu không phải là vì muốn nâng cao địa vị, phần nhiều xuất phát từ niềm hứng thú của bản thân. Hóa Khoa còn có tác dụng “bền bỉ”, “lâu dài”, làm cho việc học không phải lúc nóng lúc nguội.
  • Vì liên quan đến tư duy, EQ, nên trường hợp Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc là chủ về mệnh tạo có EQ khá cao, lúc làm việc đều có kế hoạch trước, tính logic và tính suy luận của họ cũng nhất trí. Nói một cách tổng thể, công việc giao cho mệnh tạo đều được xử lý thỏa đáng và chu đáo.
  • Bổ túc ý (1) và (3), do mệnh tạo là người có thực lực, lúc làm việc có nhòm trước ngó sau. Nên trong tình huống Hóa Lộc và Hóa Kị ở vị trí thích đáng, thường thường với cách làm việc bằng thái độ nghiêm túc, mệnh tạo có thể nhờ học vấn và năng lực hơn người của mình mà có thanh danh hiển hách.
  • Cung Quan Lộc còn là nơi dùng để xem khí tiết của mỗi người. Trường hợp Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc, thông thường là mẫu người quang minh lỗi lạc, không phải tầm thường. Bất luận trong môi trường làm việc hay lúc còn đi học. Thậm chí trong cuộc sống thường ngày, mệnh tạo cũng đều sinh hoạt rất có quy luật, có quy củ, cho nên thường được mọi người xem là mẫu mực.
  • Cung Quan Lộc còn là cung vị chủ về tâm lý ở tầng thâm sâu, trường hợp có Hóa Khoa, là chủ về nội tâm của mệnh tạo có sức mạnh ổn định, bên ngoài dù sóng to gió lớn cũng rất khó dao động. Lại vì Hóa Khoa chủ về ngăn nắp, có lớp lang, ổn định, cho nên phần nhiều là người có tâm tính bình hòa, biết tiến thoái, không thích gây sự với ai, là người rất biết “minh triết bảo thân”.
  • Cũng do các tính chất đã thuật ở trên. Người có Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc, nếu không có các tình huống tự hóa hay tứ hóa khác. Về bản chất, họ thiếu tính thích ra oai, phách lối và không có tâm lý “kẻ cả”, cũng ít khi có thái độ ra lệnh (trừ phi cung mệnh thấy Hóa Quyền). Thông thường cũng thiếu tinh thần toan tính cho tương lai, sáng lập cơ nghiệp, chỉ trong tình huống cung tài bạch và Cung Quan Lộc phi hóa lẫn nhau, mới làm thay đổi các tính chất này.
  • Lực tác động của Hóa Khoa còn bao gồm “làm giảm nhẹ”, “làm hòa hoãn”, “làm bớt căng thẳng”, “cải thiện”. Còn chủ về quý nhân và hóa giải tai ách. Nên trong môi trường làm việc họ tạo được sự đồng tình của cấp trên, chưa nói đến hành vi ổn định, vững vàng của họ thường thường đã có ý “minh triết bảo thân”, có tác dụng “phù hộ” trong môi trường làm việc. Thêm vào đó, mệnh tạo có lúc thiếu tinh thần toan tính cho tương lai, nên nếu làm việc trong một cơ cấu dạng lớn là rất thích hợp (trời sập xuống cũng khó làm tổn thương mệnh tạo).
  • Cung Quan Lộc là cung vị khí số của sinh mệnh, thấy Hóa Khoa ở đó, là tác dụng bảo vệ của mệnh bàn trên cung vị khí số của sinh mệnh. Vì vậy mệnh tạo thường thường có sức sống và sức mạnh tinh thần rất ngoan cường. Hơn nữa, vì Hóa Khoa là lực tác động phù hộ sinh mệnh, nên cuộc đời mệnh tạo ít khi gặp nguy cơ tức thời, dù gặp nguy hiểm, thường thường cũng có thể chuyển nguy thành an.
  • Vì Hóa Khoa ở Cung Quan Lộc, là cung tam hợp của cung mệnh, là chủ về có năng lực, còn rất được sự đồng tình của hoàn cảnh bên ngoài. Nhất là trong đánh giá về năng lực chuyên nghiệp của mệnh tạo. Xét ở góc độ này, mệnh tạo cũng rất thích được người ta khen ngợi và khẳng định. Vì tác dụng của Hóa Khoa có thiên hướng lâu dài, nên khi được “gãi đúng chỗ ngứa”, đối với họ, có thể nói sẽ khiến họ vui rất lâu.

Lúc xem Cung Quan Lộc là cung vị thiên di của Cung Phu Thê, là cái nhìn về tương lai của người phối ngẫu, trường hợp Cung Quan Lộc có Hóa Khoa là người phối ngẫu có tính toán quy hoạch tiền đồ bằng lý tính.

Cung Quan Lộc có Hóa Quyền

Hóa Quyền là hành vi, lực hành động, lúc lực hành động nằm trong tay mệnh tạo, hơn nữa còn lấy Cung Quan Lộc làm trọng tâm. Nên mệnh tạo sẽ rất nỗ lực vì muốn nâng cao bản thân, mệnh tạo cũng tin vào năng lực của mình, rất kì vọng vào bản thân. Nếu sống lâu với người này bạn sẽ phát hiện họ là người có thực lực.

Tuy Sao Hóa Quyền có hàm ý biến động thay đổi, nhưng do tính hỏa là bốc lên, điểm chung của họ là luôn luôn tiến tới. Sự biến động thay đổi này chỉ là thay đổi phương thức, nhưng mục tiêu tiến tới vẫn như ban đầu. Vì vậy trong quá trình học tập mệnh tạo có thể học nhiều thứ, nhưng mục đích chỉ có một.

  • Cung Quan Lộc cũng có liên quan đến năng lực học tập cao hay thấp. Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Quan Lộc, thường thường mệnh tạo là người chuyên tâm học tập, không giống như Hóa Lộc thường là khó chuyên tâm. Dưới tác dụng của Hóa Quyền, đối với những sự việc mà họ cảm thấy hứng thú, họ sẽ nghiên cứu tìm hiểu rất sâu.
  • Cung Quan Lộc dùng để xem về năng lực cao hay thấp. Còn có thể dùng để xem người này tốt hay xấu. Vì Hóa Quyền có tính định hướng, nên có tác dụng tiết chế. Hóa Quyền ở Cung Quan Lộc. Tuy nội tâm có tính vội vàng, trong lòng hay lo lắng, không yên, nhưng người dạng này phần nhiều đều sống theo nguyên tắc, tuân thủ quy củ.
  • Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Quan Lộc, người này còn có tính ép buộc, tính cầu toàn. Hơn nữa, Hóa Quyền có năng lực tiết chế, nên người này có thể làm đến chức vụ cao trong công ty lớn. Phần nhiều sẽ vì tính cầu toàn mà làm việc vất vả, là đại biểu cho mẫu bạo gan, làm việc quá sức. Cũng nhờ vậy mà phần nhiều họ là người ở cấp chủ quản trung hoặc cao.
  • Tiếp theo trên, nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung với sao Hóa Quyền, sẽ khiến cho tính định hướng của Hóa Quyền bị ảnh hưởng, mất đi năng lực tiết chế, sẽ khiến cho người ta cảm thấy họ thích ra oai, phách lối và đầy toan tính, nhưng đồng thời cũng nhờ đó mà họ có thể tự sáng lập cơ nghiệp .
  • Tiếp theo trên, Cung Quan Lộc còn tượng trưng cho trạng thái tâm lý lúc giải quyết sự việc, đối mặt với vấn đề. Trường hợp Cung Quan Lộc có sao Hóa Quyền đồng cung với Hỏa Tinh, Linh Tinh thì mệnh tạo có tính hấp tấp, dễ bị kích động, dùng thủ đoạn để xử lý sự việc. Nhất là trường hợp tổ hợp sao ở cung điền trạch không tốt, tâm tình đột nhiên thay đổi kiểu này sẽ làm cho người ta khó mà chịu nổi.
  • Trường hợp Hóa Quyền ở Cung Quan Lộc. Nếu Hóa Lộc và Hóa Kị [năm sinh] ở vị trí không thích đáng, tính định hướng của Hóa Quyền sẽ theo đó mà phạm sai lầm, nỗ lực học tập mà không vận dụng được. Hoặc làm mà không được hưởng công, người này tuy bụng đầy kinh luân nhưng khó thi triển tài năng, sẽ cảm khái than thở, mười năm đèn sách mà chẳng ai biết.
  • Tiếp theo trên, nếu Hóa Quyền và Hóa Kị đồng cung, là hình thành tình trạng “thủy hỏa giao chiến” giữa Hóa Quyền và Hóa Kị. Khiến sự nỗ lực mâu thuẫn với kì vọng. Còn dễ xảy ra tình trạng mất phương hướng, con đường học vấn sẽ dễ thấy tình trạng lúc nóng lúc lạnh, tâm tình cũng sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
  • Cung Quan Lộc là cung vị khí số của cung mệnh. Trường hợp có sao Hóa Quyền tọa thủ là chủ về sức sống và ý chí phấn đấu của mệnh tạo rất vượng thịnh, khó bị hoàn cảnh đánh bại. Lúc đối mặt với nghịch cảnh nghiêm trọng, phần nhiều họ có thể dựa vào ý chí phấn đấu ngoan cường để hóa hung hiểm thành yên ổn.
  • Cung Quan Lộc là cung vị biểu hiện của cung tài bạch. Trường hợp có Hóa Quyền, là chủ về vạch ra kế hoạch rồi mới hành động. không lãng phí tiền bạc. Phần nhiều lúc dùng tiền đều có cân nhắc tính toán. Chỗ khác nhau với trường hợp cung tài bạch có Hóa Quyền là, người này chi xuất tiền bạc không mau lẹ cho lắm.

Cung Quan Lộc còn là cung vị thiên di của Cung Phu Thê. Trường hợp Cung Quan Lộc thấy Hóa Quyền [năm sinh], chủ về sau khi kết hôn mệnh tạo và đối tượng hôn phối dễ xảy ra hiện tượng “dịch động”. Cung Quan Lộc là cung vị thiên di của người phối ngẫu, tượng trưng cho viễn cảnh mà người phối ngẫu có thể thấy được. Trường hợp có Hóa Quyền, thì người phối ngẫu sẽ vì cuộc sống hôn nhân mà tìm ra hướng đế nỗ lực, đối mặt với mục tiêu của đời người.

Hóa Lộc Cung Quan Lộc

Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc, vì Hóa Lộc có hàm ý là “nhiều” đương nhiên trong lòng cũng muốn nâng cao và đa dạng hóa năng lực của mình, mà mục tiêu họ muốn nỗ lực theo đuổi cũng nhiều.

  • Cung Quan Lộc đã là đại biểu cho lãnh vực tinh thần. Lúc Sao Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc tượng trưng về tình cảm, là chủ về nội tâm của người này không thích cô đơn tịch mịch. Về cách suy nghĩ cũng không phải là quá ư cứng ngắc, không biết tùy cơ ứng biến, cách đối nhân xử thế đương nhiên là có tình người.
  • Cung Quan Lộc cũng tượng trưng cho phương thức giải quyết sự tình, cách đối mặt với vấn đề của một người. Trường hợp Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc, thì bản tính không tệ, sẽ không dùng thủ đoạn quá khích để đối phó người khác, mà ít nhiều đều xét đến mặt tình cảm.
  • Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc là chủ về rất hứng thú học tập, hiểu biết rộng. Họ xem học tập hay biết một thứ gì đó mới cũng là một kiếu hưởng thụ.
  • Nhưng nếu Hóa Kị [năm sinh] ở “tha cung”. Vì Hóa Lộc và Hóa Kị ở vị trí không thích đáng, nên lúc bắt đầu học tập họ rất nhiệt tình, nhưng mau nguội. hơn nữa, ưa học nhiều thứ, phạm vi quá rộng, nên phần nhiều là học nhiều mà ít tinh.
    Vì Cung Quan Lộc còn chủ về năng lực học tập tốt hay xấu. Nên trường hợp Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc, thường thường vì tình cảm mà thiếu chuyên tâm học hành. Tuy không nhất định là có tình yêu, nhưng tóm lại, vì hay tư lự, suy nghĩ vu vơ khiến thành tích không được tốt.
  • Trong chừng mực nào đó, do cách suy nghĩ của mệnh tạo, sẽ khiến họ chọn được nghề nghiệp khá phù hợp với sở thích. Cũng khiến cho họ dễ có hứng thú trong công việc, làm việc thoải mái nhẹ nhàng.
  • Vì Cung Quan Lộc còn là cung vị biểu hiện của cung tài bạch, mà Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc. Nên trong công việc họ thường không chủ động tranh thủ sự đãi ngộ đặc biệt, mà chỉ mong hoàn cảnh làm việc có sự hòa hợp, biểu hiện của họ cũng hòa hợp với mọi người.
  • Trường hợp Hóa Lộc ở Cung Quan Lộc, không nhất định liên quan đến của cải, đầu tư. Trừ phi Cung Quan Lộc và cung Tài Bạch có tứ hóa liền với nhau, hoặc có tứ hóa liền với tuyến “tử điền”. Nếu không khó nói có chuyện đầu tư, hợp tác.

Cung Quan Lộc còn là cung vị thiên di của Cung Phu Thê, là tượng trưng cho viễn cảnh thấy được của người phối ngẫu. Trong trường hợp Cung Quan Lộc có Hóa Lộc, thì người phối ngẫu sẽ cho rằng mệnh tạo có chăm lo cho mình, và chủ quan nhận định hai người sẽ cùng có một tương lai tốt đẹp.

Sao Hóa Kị ở Cung Quan Lộc

Cung Quan Lộc là sở tại của lĩnh vực tinh thần. Trường hợp Cung Quan Lộc có Hóa Kị, mệnh tạo thường tự vạch cho mình một giới hạn, hoặc là quá đặt tinh thần vào lĩnh vực mà mình chuyên chú. Vì Sao Hóa Kị còn có ý tượng “không bao giờ thỏa mãn”. Thêm vào đó, tác dụng chủ yếu của Cung Quan Lộc là phát huy sự phong phú của bản thân, nâng cao bản thân. Vì vậy bất kể thế nào, mệnh tạo cũng đều muốn học, muốn bồi đắp bản thân. Thường thường nhờ trạng thái tâm lý này mà thành một nhân tài có chuyên môn đặc thù, còn mức độ tinh thông và địa vị xã hội như thế nào, thì cần phải xem vị trí Hóa Lộc [năm sinh] để định.

  • Trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở “ngã cung”. Là chủ về mệnh tạo có lý tưởng, còn có tinh thần trách nhiệm và biết được hướng nỗ lực. Trong tình hình như vậy, Hóa Kị ở Cung Quan Lộc, là sẽ vì lý tưởng mà chuyên tâm trì chí, làm việc khắc khổ. Bất kể trong học vấn hay công việc, thường thấy họ bỏ ra rất nhiều thời gian, tinh thần vào việc bồi đắp bản thân, nâng địa vị lên. Có khuynh hướng làm việc điên cuồng.
  • Trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở “tha cung”. Còn Hóa Kị ở Cung Quan Lộc, là chủ về mệnh tạo dễ tự mâu thuẫn với chính mình, thường muốn nỗ lực nhưng lại thiếu lòng tự tin, muốn đông muốn tây, mục tiêu không rõ ràng, khiến làm việc thiếu hiệu quả. Trong tình trạng như vậy, mệnh tạo lại phải bỏ ra nhiều thời gian và tinh thần hơn vào việc học hay việc làm. Do đó bị ảnh hưởng ngược lại, làm cho mệnh tạo có cảm giác thiếu an toàn.

Hóa Kị ở Cung Quan Lộc tuy là ở “ngã cung”, đối với mệnh tạo là một loại “gánh vác”. Nhưng đối với Cung Phu Thê, thì sẽ vọng nhìn Hóa Kị ở xa xa (đối cung). Thêm vào đó, mệnh tạo mang toàn bộ thời gian và tinh thần tập trung vào công việc, làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của hai người. Thường thấy mệnh tạo thiếu lòng tự tin để kết hôn hay thành thân. Hoặc vì tâm lý có vấn đề nên thái độ đối với hôn nhân thiếu chín chắn, khiến mệnh tạo thường kết hôn muộn.

Tình huống (4) là trước khi kết hôn. Vì Hóa Kị ở đối cung của Cung Phu Thê, do đó sau khi kết hôn mệnh tạo có thể vì quá bận rộn, và chuyên chú vào hướng mà bản thân muốn nỗ lực, thành ra giống như người vô tâm. Thậm chí là vô lực trong việc quan tâm đến người phối ngẫu và gia đình. Khiến người phối ngẫu cảm thấy lo lắng đối với viễn cảnh tương lai của hôn nhân. Còn ngầm phê bình hoặc bất mãn tình trạng mệnh tạo lao tâm lao lực như vậy.

Cung Quan Lộc tượng trưng cho năng lực tinh thần và sức sống của mệnh tạo. Trường hợp Cung Quan Lộc có Hóa Kị, có thể thấy tinh thần và sức sống của mệnh tạo không được tốt. Ngay cả người có Hóa Lộc [năm sinh] ở “ngã cung”, về phương diện năng lực tinh thần vẫn bị tình trạng thái quá hay bất cập, dễ có tính cưỡng ép, bắt buộc. Trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở “tha cung”, đến đại vận làm cho Cung Quan Lộc của đại vận có Hóa Kị [đại vận], hoặc Cung Quan Lộc của đại vận tự Hóa Kị, là ý tượng: sức sống bị đình đốn, dễ gặp nguy hiểm về sinh mệnh.

Cung Quan Lộc chủ về lĩnh vực tinh thần mà mệnh tạo có thể ý thức được. Hóa Kị ở Cung Quan Lộc cũng giống như một cái hố không có đáy. Trong lĩnh vực tinh thần, học thuật, sẽ khiến cho mệnh tạo luôn cảm thấy không đủ. Cũng vì ảnh hưởng về tinh thần, nên bất kể Hóa Lộc [năm sinh] ở “ngã cung” hay “tha cung”, đều sẽ khiến mệnh tạo cảm thấy thiếu tự tin, sẽ bỏ ra rất nhiều thời gian để không ngừng bồi đắp bản thân. Ngoại trừ tình trạng thiếu lòng tự tin, đương sự còn dễ có cảm giác bất lợi, trở ngại. Thường thường người ngoài nhìn thì thấy đương sự đã làm rất khá, nhưng bản thân mệnh tạo vẫn cho rằng còn quá tệ.

Tiếp theo trên, vì vấn đề tâm lý đã thuật ở trên, mệnh tạo sẽ luôn lo lắng không biết sự tình có được xử lý tốt hay không. Tuy hướng chính đã được xác định, nhưng mệnh tạo vẫn cứ chú trọng những chuyện lặt vặt, cũng hay kiểm tra tới kiểm tra lui các tiểu tiết. Có lúc làm cho những người chung quanh không cách nào chịu nổi.

Tổng hợp những điều đã thuật ở trên, mệnh tạo là người không chủ động tranh thủ, bất kể đó là tiền bạc, chức vị, thậm chí là tình yêu. Luôn có tâm lý cho rằng chuyện tốt sẽ không đến với mình.

Nếu Hóa Lộc ở “tha cung”, là chủ về khả năng làm việc có hiệu quả kém, dễ bị tình trạng tìm không ra mục tiêu ở viễn cảnh tương lai. Ngoài ra, Cung Quan Lộc còn là cung vị biểu hiện của cung tài bạch, là chủ về mệnh tạo thiếu sức bật trong công việc, sự nghiệp. Vì cảm giác thiếu an toàn, nên thường thấy mệnh tạo sẽ tử thủ ở cương vị của mình. Tuy về cá tính, mẫu người này rất thích hợp làm công chức để cầu yên ổn, nhưng cũng vì Cung Quan Lộc có Hóa Kị, nên muốn vào công môn là hơi khó.

Triệt ở Cung Quan Lộc – Cung Quan Lộc bị Triệt

Thông thường, Tuần Triệt là sao phá, đóng ở cung nào thì gây trở ngại cho cung đó:

  • Ở Mệnh, thì thiếu thời lận đận
  • Ở Thân thì trắc trở, gian truân.
  • Ở Phu Thê thì hỏng một duyên nợ.
  • Ở Tử thì hao con.
  • Ở Tài thì kém tiền bạc.
  • Chỉ có Tật, Tuần Triệt phá tán bệnh tật, họa, tạo sức khỏe cho đương số.

Vì vậy, Tuần Triệt đóng ở Quan tiên quyết gây trục trặc cho quan trường, thể hiện dưới nhiều hình thái:

  • Hoặc chậm công danh.
  • Hoặc công danh phải lận đận, chật vật.
  • Hoặc công danh không mấy cao, thăng giáng thất thường.
  • Hoặc không bền vững.

Nếu gặp Triệt, công danh chậm phát lúc thiếu thời, chỉ về già mới hanh thông. Nếu gặp Tuần, sự trục trặc có tính cách triền miên, tuy không nặng như Triệt nhưng kéo dài suốt đời.

Trường hợp cung Quan có chính tinh

Nếu chính tinh sáng sủa, Tuần Triệt làm cho bớt sáng, có thể trở thành tối. Do đó, công danh có thể bị trở ngại, hoặc chậm phát hoặc trục trặc, hoặc không lâu bền, hoặc có nhiều hung sự xảy ra, có thể là mất chức, mất quyền, bị thay đổi, bằng không thì cũng bất toại, hay gặp những sự bực mình, bất mãn, tài năng không thi thố được. Nếu tại Quan mà có Thiên Tướng hay Tướng Quân thì càng bất lợi: vào công quyền ắt phải có lần mất chức, bị cách chức.

Tuy nhiên, có hai chế giảm cho cung Quan bị Triệt, Tuần (Những quan điểm dưới đây ko hẳn đã chính xác, chỉ mang yếu tố tham khảo):

Cung Quan có Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh sáng sủa gặp Tuần Triệt thì tương đối bền vững, chức vụ tương đối cao, không đến nỗi phải lụn bại, thăng trầm.

Những sao Tử Phủ, Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương đi với sao sáng sủa khác gặp Tuần Triệt thì công danh thất thường, không bền, gặp hung sự.

Cung Quan ở Sửu, Mùi có Âm Dương tọa thủ đồng cung: quan lộc được rực rỡ. Đặc biệt là về sau vì tại Sửu Mùi, Âm Dương tương đối xấu, gặp Tuần, Triệt thì sáng lại và tại Sửu Mùi vốn là âm cung nên tốt cho hậu vận.

Nếu chính tinh ở Quan mà hãm địa, Tuần Triệt phục hồi sức sáng cho chính tinh, công danh sẽ quý hiển nhưng không tránh khỏi trắc trở: quan trường chỉ phát lúc hậu vận. Đặc biệt nếu Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh hãm địa gặp Tuần Triệt đồng cung thì lại phát nhanh và mạnh hơn những bộ sao khác hãm địa. Duy đối với Thiên Tướng, dù đắc hay hãm địa, Tuần Triệt bao giờ cũng gây thảm tử, như quân nhân chết trận, viên chức bị cách, giáng.

Cung Quan Lộc vô chính diệu

Cung Quan vô chính diệu, dù được chính tinh đối diện sáng sủa chiếu vào, quan lộc cũng không toàn mỹ (công danh tầm thường, chức vị không mấy cao) huống hồ gặp chính tinh đối diện hãm địa. Duy có hai biệt lệ quan trọng làm khởi sắc cho cung Quan vô chính diệu:

Cung Quan có Tuần hoặc Triệt án ngữ: cách này nói chung không hoàn hảo nhưng cũng đỡ xấu. Quan trường tuy nhiều trở ngại nhưng vẫn có thể hiển đạt trong vãn vận. Nếu tảo đạt và phát nhanh thì lại sớm tàn và hoạnh tán.

Cung Quan được Nhật Nguyệt cùng sáng sủa hợp chiếu hay xung chiếu: cách này trở thành đắc lợi nhờ ánh sáng phối hợp của hai nguồn năng lực Nhật Nguyệt: công danh sáng lạn, chức vụ lớn, quyền hành cao, có triển vọng đắc phú, tóm lại vừa giàu vừa sang. Nếu cung Quan có Tuần hay Triệt trấn thủ tại đó thì phú quý sẽ tăng tiến nhiều hơn nữa.

Những phụ tinh có ý nghĩa quan lộc

Phụ tinh chỉ quyền uy, chức phận

Sao Hóa Quyền

Biểu tượng cho quyền hành và thế lực, đặc biệt nếu đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Nếu bình thường hoặc hãm địa (ở Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi) thì quyền không cao, không nhiều, không quan trọng, hoặc chỉ có hư quyền hoặc quyền chỉ có trong bóng tối hoặc có thế lực mà không có quyền hoặc quyền tước hàm.

Hóa Quyền có nhiều địa hạt: võ quyền, văn quyền, giáo quyền tùy theo cách làm quan nhưng cách nào có Quyền cũng đều hiển hách. Nếu đi với Hóa Kỵ trong bối cảnh cung Quan tốt đẹp thì hai sao này chỉ người có quyền và có mưu, hết sức quyền biến, không ngoan nhưng do có Kỵ nên thường bị người ta e ngại.

Nếu đi với Kiếp Không ở Tỵ Hợi, Quyền càng phát nhanh và phát lớn do sự đưa đẩy của thời thế để tạo ra anh hùng nhưng vì có Kiếp Không nên có thể không lâu bền. Thông thường, người có Hóa Quyền hay tự đắc, tự tôn, kiêu căng, lấn lướt, hiếu thắng cho nên sao này tuy có lợi cho công danh nhưng không mấy hay về tính nết. Phải có thêm các sao đức hạnh thì Quyền mới hướng thiện.

Nếu gặp hung tinh, vận xấu, Hóa Quyền tác họa cấp kỳ cho đương số. Hóa Quyền ở Quan tượng trưng cho sự tham chính, cho cách làm quan hiển đạt, đặc biệt là khi đi với Khoa và Lộc.

Quốc ấn:

Chỉ người có chính chức và có quyền vị. ý nghĩa của ấn giống như Quyền nhưng không mạnh bằng. Nếu ấn đi chung với Binh, Hình, Tướng thì võ nghiệp rất vinh hiển: đó là quân nhân có binh, có quyền, có uy. Người có ấn ở Quan là viên chức có công, được thưởng công bằng sự thăng chức, thăng trật, hoặc bằng sắc phong huy chương, tưởng lục. Nếu ấn ở vị trí các cung ban đêm, có thể là sự khen ngợi thông thường, cũng có thể là sự truy tặng (sau khi chết). Dù sao, Quốc ấn ở Quan, Mệnh, Thân là người dễ tiến đạt, được trọng vọng, được ghi công trên đường hoan lộ.

Long, Phượng, Hổ, Cái (tứ linh):

Là quý cách khá cao, do những biểu tượng đi kèm.

Thanh Long, Long Đức ở Thìn:

Tượng trưng cho quyền tước, tài năng được dùng đúng chỗ.

Phong Cáo, Thai Phụ, Đường Phù:

Chỉ bằng sắc, công trạng, huy chương, quyền hành nhưng không mạnh bằng Quyền hay ấn. Đường Phù có nghĩa kém nhất.

Tiền Cái hậu Mã:

Cung Quan trước giáp Hoa Cái sau giáp Thiên Mã là một biểu tượng của quyền uy, có lọng (Cái), có ngựa (Mã) theo chầu. Duy cách này nên đóng ở cung ban ngày mới rạng.

Quan Đới:

Biểu tượng cho chức vị, quyền hành (là cái đai). Chức quyền có thể cao.

Bạch Hổ, Tấu Thư:

Hai sao này họp thành cách hổi đội hòm sắt, cũng khá tốt cho công danh. Ngụ ý được tín nhiệm, trọng dụng, nhất là đồng cung và ở cung Dần (hổ cư hổ vị).

Bạch Hổ, Phi Liêm ở Dần:

Chỉ công danh thăng tiến dễ dàng, nhất là ngành võ.

Tướng Quân:

Chỉ cách làm quan võ có cầm quân nhưng thuộc loại thấp, chỉ huy đơn vị nhỏ. Nếu đi cùng với

Tướng Quân là võ quan cao cấp và có nắm quyền chỉ huy. Cách quan của Tướng Quân tuy có can đảm, hiên ngang nhưng táo bạo, có tinh thần sứ quân, tự tôn, tự phụ, sử dụng binh quyền đôi khi sai mục đích nên

Tướng Quân gặp sao xấu dễ bị nguy kịch. Đi với cát tinh, Tướng Quân rất đắc dụng: đó là viên chức hay quân nhân rất tháo vát, có tinh thần xung phong, tình nguyện làm việc khó, có sáng kiến, đôi khi có quá nhiều sáng kiến nên đi sai lệch đường lối ở trên. Đi với Thiên Tướng, nhất là ở thế xung chiếu thì rất hiển hách trong binh nghiệp.

Phụ tinh chỉ tài năng tổng quát

Thiên Mã: ngụ ý tháo vát, may mắn, đa năng, thao lược, xông pha. Người có Thiên Mã ở Quan hay Mệnh thường nhậm lẹ, lanh lợi, lăn lóc, từng trải nên đa hiệu, đa nhiệm.

Đây là bộ sao rất cần cho công danh, rất lợi và rất hợp với các công việc có tính lưu động. Vì đa hiệu, Mã là sao có rất nhiều phối cách rất hay với một số phụ tinh khác để làm cho năng tài đắc dụng hơn.

Ví dụ như cách Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt, Mã Lộc Tồn, Mã Hỏa hay Linh, Mã Tướng, Mã Khốc Khách. Mặt khác, cách hay trên còn tùy vị trí của Thiên Mã. Nếu ở Dần (Mộc) và Tỵ (Hỏa) thì tốt đẹp thêm, ở Thân (Kim) thì vất vả, còn ở Hợi (Thủy) thì lu mờ. Tốt khi Mã ở Dần (Mộc) mà Bản Mệnh thuộc Mộc, Mã ở Tỵ (Hỏa) với Hỏa Mệnh, Mã ở Thân (Kim) với Kim Mệnh, Mã ở Hợi với (Thủy Mệnh).

Bao giờ gặp nghịch khắc giữa hai hành thì kém hoặc xấu: tài năng sút kém, trở ngại gia tăng, công danh không rạng.

Lộc Tồn: chỉ tài năng, đặc biệt là tài tổ chức, tài thích ứng với hoàn cảnh. Lộc Tồn có nhiều sáng kiến, biết tùy theo nhu cầu mà quyền biến, xử sự tùy hoàn cảnh, lúc cương lúc nhu, một cách chừng mực. Đi với Thiên Mã,

Lộc Tồn là người khai sơn phá thạch, mở đường cho kẻ khác đi theo, rất đắc dụng trong các trách nhiệm tiền phong, khai quang an vị, tổ chức cơ sở. Đặc biệt, sao này chỉ về tiền bạc nên rất lợi cho nhà kinh doanh khai thác tài nguyên kinh tế, tổ chức nền móng sản xuất.

Đi với Hóa Lộc, Lộc Tồn chuyên đoán, có óc lãnh tụ, độc quyền và tập quyền. Gặp Tuần, Triệt hay sát tinh đồng cung, Lộc Tồn mất nhiều cơ hội hoạt động, bị khiếm dụng, bị dùng phí phạm, bị dùng không đúng chỗ, tài năng bị tiêu mòn hoặc bị dùng vào việc sái đạo đức. Trong lãnh vực tài chính, sao này chỉ sự tiết kiệm, xài kỹ, xài có quy tắc, sự chắt mót, giữ của, có lợi cho các chức vụ quản trị ngân sách.

Thiên Khôi, Thiên Việt: Miễn là đừng gặp Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ, Khôi Việt chỉ năng tài xuất chúng, uy tín và hậu thuẫn, phần lớn nhờ ở tài văn học, mô phạm, tính tình cao thượng, thanh khiết, tinh thần cạnh tranh và thi đua.

Bạch Hổ, Tang Môn đắc địa ở Dần: chỉ sự tài giỏi, quyền biến, thao lược, ứng phó được nhiều nghịch cảnh, đồng thời cũng có khả năng xét đoán, lý luận, hùng biện phù hợp với các chức vị chính trị, ngoại giao, tư pháp, sư phạm.

Ngoài ra Tang Hổ đắc địa còn có khả năng về võ, có khí phách lãnh đạo, chỉ huy nhất là khi được sao võ đi kèm. Do đó, Tang Hổ đặc biệt là Hổ có nhiều phối cách rất hay với Tấu Thư, với Phi Liêm, với

Long Phượng Cái, với Kình Hình. Với Tấu Thư, Bạch Hổ chỉ năng tài hùng biện rất khích động, xuất sắc về tâm lý chiến, vận động quần chúng. Với Phi Liêm, Bạch Hổ rất tháo vát, lanh lợi như Thiên Mã lại được thời cơ thuận lợi.

Với Kình hay Hình, Bạch Hổ có chí khí, mưu lược cả văn lẫn võ. Với Long Phượng Cái, Bạch Hổ chỉ sự hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, khoa giáp.

Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa ở Tý, Ngọ: chỉ người có chí lớn, có văn tài hùng biện cùng năng khiếu hoạt động chính trị, đặc biệt là về hậu vận. Khốc Hình Mã thì hiển đạt võ nghiệp, nhất là ở Dần và Tỵ. Khốc Hư Sát hay Phá đắc địa thì có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục.

Phụ tinh chỉ thời thế, hoàn cảnh

Ân Quang, Thiên Quý: Đóng ở Mệnh, Quan, Thân, Di viên chức được tín nhiệm, trong dụng nâng đỡ, che chở của người trên. Ngoài ra, Quang Quý có nghĩa là viên chức đó trung tín, hết lòng, có lương tâm chức nghiệp, xứng đáng với sự tín nhiệm của thượng cấp dành cho.

Quang Quý có nghĩa gặp nhiều dịp may trong hoạn lộ, cụ thể như được thời thế thích hợp, được sử dụng đúng năng khiếu, làm việc vừa ý, được hạnh phúc trong nghề nghiệp.

Thanh Long, Lưu Hà hay Hóa Kỵ đồng cung: có vận may tốt, cơ may lớn để ra làm quan, không cần cầu cạnh và lúc ra làm quan thì đắc dụng, đắc thời theo ba ý nghĩa nêu trên của Quang Quý. Ngoài ra, Thanh Long gặp Long Đức ở Thìn cũng rất tốt đẹp vì rồng đóng ở cung Thìn chỉ đắc danh, đắc lộc mà không cần cầu cạnh, được nhiều may mắn trên hoạn lộ.

Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự phong phú. áp dụng vào quan trường, công danh sẽ dồi dào, năng tài đa diện trong nhiều lĩnh vực, chức quyền tương đối cao. Người có Sinh, Vượng ở Quan có nhiều sáng kiến trong công vụ, được giao phó nhiều trách nhiệm, dễ thăng tiến.

Thiên Mã, Tràng Sinh: gặp vận hội tốt, có ý nghĩa giống như hai bộ sao Thanh Long Hóa Kỵ và Thanh Long Lưu Hà. Cách này có ý nghĩa tiền bạc, cụ thể là đắc lợi trong quan trường. Nếu ở cung Hợi thì kém hay.
Phi Liêm, Bạch Hổ: gọi là hổ mọc cánh, rất tốt ở cung Dần, tượng trưng cho thời vận đang lên, sự may mắn đặc biệt, sự thăng chức, thăng cấp dễ dàng.

Đào Hoa, Hồng Loan: ở Quan, Đào Hoa và Hồng Loan rất hợp cách: chỉ làm quan lúc tuổi trẻ, tuổi trẻ tài cao, công danh tảo đạt, nhẹ bước thang mây, không phải bôn ba cầu cạnh.

Phụ tinh chỉ nhân sự trợ giúp

Tả Phù, Hữu Bật: chủ sự giúp đỡ của người đời, đặc biệt là đồng sự, đồng song. Người có Tả Hữu ở Quan có tài giao tế nhân sự, có đức tính khéo léo thu được thiện cảm của người trên, có sự mềm mỏng cần thiết để được người ngang hàng cộng lực.

Ngoài ra, cũng có nghĩa là quyền tước hiển vinh, nhờ có nhiều người phục tùng. Tả thuộc văn tinh nên hợp với Tử Phủ, Hữu chiếu vào Tử Phủ thì tốt hơn đồng cung. Trong cả hai trường hợp, Tả Hữu không nên đi chung với sát tinh. Tả Hữu còn có nghĩa là đa nghệ, là hệ số của tài năng, của quyền hành.

Thiên Quan, Thiên Phúc: chỉ sự giúp đỡ của ân nhân, bạn bè, cảm tình viên, cổ động viên …
Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh: nếu cung Quan có Thiên Tướng mà được thêm ba sao này hội tụ thì sẽ tăng thêm uy quyền cho Thiên Tướng có có nghĩa như tướng có quân, cầm quân.

Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng: là bộ sao phụ tùy cho quan cách.

Binh, Hình, Tướng, ấn: chỉ cộng sự đắc lực và có quyền, trợ uy cho võ cách.

Ân Quang, Thiên Quý: chỉ ân sủng của thượng cấp và sự hậu thuẫn trung kiên và lâu bền của thuộc hạ.
Sát, hung tinh trong quan cách

Hung sát tinh đắc địa gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa hay Vũ Tướng đắc địa: báo hiệu sự hiển đạt của võ nghiệp trong thời loạn, nhờ đức tính táo bạo, mạo hiểm, bất khuất trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Bộ sao này có cả phú lẫn quý, tức là vừa có danh vừa có lợi. Nhưng công danh không được lâu bền, phát nhanh nhưng cũng tàn lẹ. Gặp bộ Vũ Tướng đắc địa thì toàn mỹ về cả công danh lẫn tiền bạc trong suốt thời gian sinh tiền, không bị ảnh hưởng của sự thăng trầm, hoạch phá. Nếu hai bộ này hãm địa, sát tinh dù có đắc địa cũng không quân bình được bất lợi: công danh nhỏ, chức vụ thấp, thăng giáng thất thường.

Hung sát tinh hãm gặp Sát Phá Liêm Tham hãm hoặc Vũ Tướng hãm: giảm chế công danh khiến quân nhân khó thăng tiến, trở thành bất đắc chí, càng tung hoành càng gặp hung họa lớn lao. Nếu bốn sao chính mà sáng sủa thì quan cách tương đối cao hơn, nhưng thiếu thuộc hạ đắc lực vì hung sát tinh hãm địa, thậm chí còn gây họa cho chính mình. Gặp Vũ Tướng hãm địa thì cũng dưới mức trung bình và gặp nhiều hung họa. Trái lại nếu Vũ Tướng đắc địa thì rất hay: chẳng những có uy danh mà còn khắc phục được trở ngại và những âm mưu bất chính của đối thủ.

Hung sát tinh với Tử Phủ Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương (văn cách): văn cách trong mỗi bộ sao này phải né tránh sát tinh thì mới hiển đạt. Gặp sát tinh, quan trường phải cạnh tranh, đối chọi, đấu trí, gian nan, chưa kể những hung họa hiểm nghèo khả hữu. Để thắng những sát tinh đó thì mỗi sao trong bộ phải đắc địa trở lên. Nếu chính tinh trong mỗi bộ sao mà hãm địa nốt thì quan cách chẳng những không ra gì mà còn gặp nhiều hiểm nguy đến bổn mạng.

Phú Tử Vi về Cung Quan Lộc

Qua Quan Lộc cung khả dĩ tìm thấy sự cát hung về chức nghiệp, địa vị và công danh. Như câu phú:

Quyền cao trọng chấn biên cương

Ngọ cung Thất Sát, Tử, Lương, Vũ, Đồng (đóng Quan Lộc)

Rồi những câu sau đây:

Cung Quan Thất Sát uy hùng

Miếu thời chức trưởng vẫy vùng quân công

Cung Quan Tham Vũ đồng tông

Công danh hẹn bước ruổi dong lên đường

Nhật Nguyệt cư Quan rất hay

Chức quyền số đã sẵn tay trời dành

Cung Quan Dần Mão Thiên Hình

Trị dân trọng chức, chưởng binh cao quyền

Thiên Quan Thiên Tướng miếu viên

Hiển vinh đức trọng tài hiền ấy ai

Hỏa Linh Mùi Sửu an bài

Chiến công đã hẹn đức tài binh nhung

Cung Quan mà gặp Đào Hồng

Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai

Kình tứ Mộ Mã triều lai Biên cương ắt hẳn ra tài võ công

Cung Quan giáp Phượng giáp Long

Giáp Xương Giáp Khúc một dòng hanh thông

(Phượng Long chức vị, Xương Khúc đỗ cao)

Tuế Hổ Phù hợp Văn Xương

Có tài hùng biện văn chương hơn người

Phá Quân Phá Toái một nơi

Tính ưa mạo hiểm việc thời chiến chinh

Giáp Liêm giáp Sát  tung hoành

Tuổi già mới rạng công danh đó mà

Hỏa Linh hợp Mã một nhà

Hoặc nghề cơ khí hoặc là chở chuyên

Quan Lộc Tử Mã nhất ban

Khốc Hư Tí Ngọ đồng sàng hoạnh thương

Mã Long Thiên Hỉ thuận đường

Hoặc là Lộc Mã hợp phường tốt thay

Tấu Thư Bác Sĩ xem qua

Rộng đường văn học con nhà trâm anh

Phong Cáo Thiên Tướng chính tinh

Ơn nhờ lộc nước hiển vinh muôn phần

Không Kiếp Thiên Tướng gian truân

Khoa tinh niên thiếu giữ phần đăng khoa

Cung Quan hội hợp cát tường

Một rằng Tử Phủ ba phương Hóa chầu

Hai rằng Khôi Việt đáng yêu

Ba rằng Tả Hữu hợp chiều Âm Dương

Miếu thì văn võ vẹn toàn

Hãm cung cũng giữ được phần công danh

Hình Riêu  Cơ Tấu Vũ cùng

Khéo nghề thuyền thợ vững đường sinh nhai

Khúc Xương Long Phượng phát văn

Vũ Tham Sát Phá lại rằng võ công

Nhật Nguyệt Quan Lộc bất thông

Chỉ hiềm một nỗi đồng cung Sửu Mùi

Những ai đai ấn triệt hồi

Thiên Tướng Không Kiếp đứng ngồi một bên

Thay lời kết

Tóm lại, Cung Quan Lộc biểu thị vận mệnh về mặt sự nghiệp, công danh tài lộc của mỗi cá nhân. Nếu hội được nhóm văn quý tinh, gia thêm tam cát Khoa Quyền Lộc thì công thành danh toại, nhất định là người chấp chưởng 1 phương. Tuy nhiên, khi luận đoán Cung Quan Lộc, cần tham khảo kỹ tam phương tứ chính của nó, đặc biệt là Cung Phu Thê để luận đoán…

Sao Thiên Cơ – Tác Sự Hữu Thao Lược – Bẩm Tính Tối Cao Minh

0
Sao Thiên Cơ – Tác Sự Hữu Thao Lược – Bẩm Tính Tối Cao Minh

Sao Thiên Cơ chủ sự khéo léo tinh xảo trong nghề nghiệp, đặc biệt khi đi cùng những bộ sao như Thiên Lương, Tả Hữu thì càng trở nên thao lược, quyền biến.

Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương.

Thường nhân phú túc trí điền trang.

Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc.

Chức vị cao thiên diện Đế Vương.

Ý Nghĩa Sao Thiên Cơ

Sao Thiên Cơ là 1 trong 14 Chính Tinh & là sao thứ 2 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Sao Tử Vi, Sao Thiên Cơ, Sao Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Đây là một bài viết rất dài về Sao Thiên Cơ. Trong trường hợp bận rộn. Các bạn chỉ cần đọc phần ghi chú dưới đây là hiểu bản chất của Thiên Cơ Tinh. Trường hợp cần nghiên cứu chuyên sâu, thì nên đọc kỹ cả bài viết để hiểu rõ hơn về Thiên Cơ trong các trường hợp phối chiếu…

Sao Thiên Cơ là sao chuyên về học thuật, cơ mưu và tính toán. Nên trường hợp Thiên Cơ miếu vượng thì đương số có bản tính rất thông minh.

  • Cơ Lương hội hợp, thiện đàm binh
  • Cư Tuất diệc vi mỹ luận

Một trong những cách nổi trội của Thiên Cơ là khi đi cùng với Sao Thiên Lương. Trường hợp này, cổ nhân có phê là thiện đàm binh. Tức là người giỏi về bàn định chiến lược chiến thuật. Trường hợp hội hợp ở cung Tuất vẫn gọi là Cát (Tốt).

Tuy nhiên, để thành đạt. Thiên Cơ còn cần gặp được Xương Khúc, Khôi Việt và nhóm văn quý tinh trợ thủ

Xét riêng về quan hệ bạn hữu, nếu hội được Tả Hữu thì là người cực kỳ quảng bác, giao lưu rộng rãi.

Thiên Cơ đóng vai trò mưu sĩ, tính tình thanh cao sáng suốt, minh mẫn nhưng sức mạnh không có. Vì vậy kị gặp các sao hung sát tinh. Ví dụ bộ lục sát: Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, dễ gây họa cho Thiên Cơ

Ngoài ra Thiên Cơ còn kiêng gặp bộ Binh Hình Tướng Ấn chủ về hình cụ. Thiên Cơ là kẻ mưu sỹ trói gà không chặt mà nay lại sa vào tù đày…

Gặp riêng hình kị thì thiên nghi tăng đạo – dễ say mùi đạo mà quên đi chốn quan trường. Người Thiên Cơ vốn dĩ giỏi tính toán. Nên khi môi trường hoàn cảnh không thuận lợi. Sự tính toán đó dễ trở nên huyễn hoặc. Chính vì vậy dễ say mùi đạo

Nữ nhân gặp Thiên Cơ miếu vượng là người khéo léo, vượng phu ích tử. Tuy nhiên nếu không hội hợp được các cách tốt, dễ rơi vào trường hợp khéo quá hóa xảo.

Thiên Cơ ưa sống nội tâm, không thích cảnh bon chen, đắc cách thì nhiều râu nhiều tóc, dáng thanh cao

Thiên Cơ là ích thọ chi tinh, thủ thân mệnh cung là người dị thường. Gia hội thêm Thiên Lương, Tả Hữu Xương Khúc làm quan văn thì thanh hiển, làm vũ chức thì trung lương

Hãm địa gặp tứ sát xung phá là hạ cách nên rất sợ Kình Đà Không Kiếp

Thiên Cơ ngộ Thiên Lương gia thêm Thất Sát thì nên tìm đến cảnh thanh nhàn của tăng đạo

Đại tiểu hạn gặp Thiên Cơ thì sẽ thay đổi công việc, lập cơ sáng nghiệp khi miếu vượng và hội cùng Thiên Lương

Thiên Cơ Huynh Đệ Chủ

Nam Đẩu Chính Diệu Tinh

Tác Sự Hữu Thao Lược

Bẩm Tính Tối Cao Minh

Sở Vi Tối Hảo Thượng

Diệc Khả Tác Quần Anh

Thiên Cơ hóa khí là Thiện tinh (Thiện ở đây là thiện nghệ – giỏi nghề). Chủ về sự khéo léo giỏi giang. Là thần cai quản cung Huynh Đệ

  • Nhóm: Nam Đẩu Tinh
  • Tính: Âm
  • Hành: Mộc
  • Hóa Khí: Thiện Tinh
  • Đặc Tính: Huynh đệ, phúc thọ, chủ sự khéo léo, giỏi tính toán
  • Tên gọi tắt thường gặp: Cơ

Vị Trí Miếu Hãm Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Mão, Dậu.
  • Vượng địa ở các cung Tỵ, Thân.
  • Đắc địa ở các cung Tí, Ngọ, Sửu, Mùi.
  • Hãm địa ở các cung Dần, Hợi.

Mệnh Thiên Cơ – Sao Thiên Cơ Thủ Mệnh

Ca quyết:

Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh

Tác sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh

Sở vi tối hảo thượng, diệc khả tác quần anh

Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm

Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình

Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh

Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng

Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn

Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh

Thìn Tuất Tí Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh

Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân

Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh

Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh

Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh

Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh.

Thiên Cơ Nam mệnh ca

Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương.

Thường nhân phú túc trí điền trang.

Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc.

Chức vị cao thiên diện Đế Vương.

Thiên Cơ Nữ mệnh ca

Thiên Cơ nữ mệnh cát tinh phù

Tác sự thao trì quá trượng phu

Quyền lộc cung trung phùng thủ chiếu

Vinh ưng cáo mệnh quý như hà.

Nữ mệnh có Sao Thiên Cơ thủ Mệnh và cát tinh phụ chiếu là người hành động tài giỏi, vững chắc hơn cả đấng mày râu. Nếu lại được Quyền, Lộc đồng cung hoặc chính chiếu tất được phong tặng, vinh hiển và quý giá biết bao?

Tướng Mạo

Cung Mệnh có Thiên Cơ đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn. Nếu hập miếu thì béo mập, ánh mắt linh hoạt, dáng vẻ đoan chính, diện mạo dễ gần lương thiện, có lễ nghĩa, lời nói nho nhã, cử chỉ lịch sự. Thiên Cơ hãm địa thì thân hình hơi gầy, hơi thấp.

Nếu là mệnh nữ thường có dung mạo xinh đẹp, biết cách trang phục dễ coi, được lòng người, tính cởi mở. Nếu sao Thiên Cơ miếu, vượng thì tính cách khôn khéo, có quyền bính, vượng chồng lợi con. Nếu lại được Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc có Lộc tồn) thì là quý phụ. Thiên Cơ rơi vào thế hãm địa, gặp tứ Sát, sao Hóa Kị xung phá, thì chủ về cô độc, tàn tật, không cát lợi.

Tính Tình

Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí. Làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi. Thiên Cơ đắc địa là vì sao phúc hậu, chỉ người vừa có tài vừa có đức. Một đặc điểm hiếm có của con người. Có óc kinh doanh, biết quyền biến, tháo vát, có hoa tay, khéo léo về chân tay như họa, may, giải phẫu. Nếu đi liền với các bộ sao của những nghề này thì đó là những họa sĩ giỏi, nhà may khéo, giải phẫu có tiếng

Thiên Cơ khi lạc hãm thì tuy thông minh, cơ trí nhưng mọi toan tính đều không thành. Dễ trở nên yếm thế, không thích bon chen, tranh giành, mất đi ý chí phấn đấu. Thiên Cơ lại là sao có tính trí tuệ, thanh cao, ưa việc thiện. Nên khi lạc hãm mất đi uy lực thì dễ nghiêng sang hướng tu hành, thành tăng đạo để hưởng thanh nhàn.

Thiên Cơ khi hội sát tinh thì dễ trở thành kẻ bất lương, gian trá.

Nếu Thiên Cơ đắc địa:

  • Nhân hậu, từ thiện
  • Rất thông minh, khôn ngoan
  • Có nhiều mưu trí, hay bàn về chính lược, chiến lược.

Nếu Thiên Cơ hãm địa:

  • Kém thông minh
  • Có óc kinh doanh
  • Đa mưu, gian xảo
  • Đa dâm (đối với phái nữ), bất chính
  • Ghen tuông

Riêng Thiên Cơ bảo đảm năng khiếu về thủ công, dù có hãm địa hay bị sát hung tinh xâm phạm, năng khiếu đó cũng không giảm.

Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ

Thiên Cơ đắc địa thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh. Đặc biệt ở Thìn, Tuất thì khả năng nghiên cứu rất cao, nhất là trong ngành chính trị, chiến lược, tham mưu giỏi. Ở Mão Dậu, đồng cung với Cự Môn, người đó có tài tham mưu, kiêm nhiệm cả văn lẫn võ. Tài năng và phú quý rất hiển hách. Riêng với người nữ thì đảm đang, khéo léo, lợi chồng ích con, được hưởng phú quý và phúc thọ song toàn.

Nếu Thiên Cơ hãm địa thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công. Riêng với người nữ thì vất vả, muộn gia đạo, hoặc gặp nghịch cảnh chồng con, đau đớn vì tình. Nếu gặp sát tinh như Hóa Kị, Thiên Hình, thì tai họa, bệnh tật rất nặng và chắc chắn không thọ.

Do Thiên Cơ có tính chất của mưu thần, nên nó thích dựa dẫm quyền quý. Ở cung hai cung Thân hoặc Dần, được Tử Vi, Tham Lang và Thiên Phủ giáp cung, trong các tình hình thông thường thì có lợi đối với Thiên Cơ. Nó cũng ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt đồng cung hoặc đối chiếu, trường hợp này gọi là “cuộc đời gần gũi bậc quyền quý”.

Nếu Thiên Cơ gặp Cự Môn được Thái Dương miếu vượng chiếu xạ, thì gọi là “Thiên Khuyết” (cổng trời). Nếu Thiên Cơ tương xung với “Thiên Khuyết”, thì giống như mưu thần được trọng dụng, có thể lên triều diện kiến thiên tử, cũng chủ về người đắc chí, có thể thi thố ở đời.

Cho nên luận đoán đại cương về sao Thiên Cơ, trước tiên cần phải xem mức độ thông minh, cơ trí, mẫn tiệp của nó, sau đó xem nó có được gần gũi bậc quyền quý không, có cơ hội thi thố ở đời không.

Trong “Tứ Hóa”, Thiên Cơ rất ưa Hóa Quyền, biểu thị có thể thi thố ở đời. Nó cũng ưa Hóa Khoa, biểu thị tính thông minh mẫn tiệp, hơn nữa còn theo chính đạo. Hóa Lộc thì hơi yếu, chỉ là người thông minh mưu trí và quyền biến trong lãnh vực kinh doanh làm ăn bình thường. Nếu Hóa Kị mà gặp “động tinh”, sao sát và sao không thì có thể thành tính tình gian tà, kì quái.

Trong lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên Cơ, khác với bản mệnh gặp Thiên Cơ. Vì bản mệnh là chủ về bản chất của một người, còn vận hạn chỉ biểu thị những điều có thể gặp phải của một người, cho nên chẳng có tính chất mưu thần quân sư, mà chỉ biểu thị một thứ biến hóa thay đổi. Vì vậy không cần các sao khoa văn hội hợp, khi có những các sao này hội hợp, cũng không thể trong thời gian một năm hay hoặc một vận mà đột nhiên khiến người ta biến thành thông minh được.

Nhưng tính chất dựa vào quyền thế để phát huy tài năng bản thân vẫn còn. Vì vậy Lưu Khôi, Lưu Việt có giá trị rất quan trọng đối với Thiên Cơ ở cung mệnh của vận hạn. Nếu Lưu Khôi, Lưu Việt ở tam phương tứ chính xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, trong vận hạn này sẽ chủ về tài trí của mệnh tạo được phát huy, và nhờ được phát huy mà xảy ra biến đổi.

Thiên Cơ của vận hạn cũng ưa Hóa Quyền, là cũng vì lí do này. Hóa Lộc cũng quan trọng, chủ về trong vận hạn sẽ nhờ thay đổi mà được tài lộc. Hóa Khoa thì không quan trọng gì, bởi vì chỉ đại biếu cho danh dự nhất thời, chẳng dính dáng đến bản chât Thiên Cơ.

Trong Đẩu Số, có một số các sao gây ảnh hưởng xấu đối với Thiên Cơ như Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp, Phá Toái, Thiên không, Hàm Trì, Đại hao…

Kình Dương thì dễ sinh tranh chấp. Đà La dễ khiến kế hoạch bị trì hoãn, kéo dài, thậm chí vì vậy mà xảy ra sai lầm. Hỏa Tinh, Linh Tinh thì dễ khiến lo nghĩ nhiều vì vậy mà mất cơ hội. Thiên Hình thì khiến lúc mưu cầu thay đổi sẽ xảy ra trở ngại. Thiên không thì dễ khiến sự biên động thay đổi của mệnh tạo thành không tưởng. Các tạp diệu Thiên Hư, Âm Sát thì dễ khiến người ta có lối suy nghĩ bất chính, trong vận hạn sẽ chủ về không tưởng hoặc âm mưu luồn lách.

Thiên Cơ tại cung mệnh – là người linh động

Theo cổ thư, Thiên Cơ được xếp là sao thứ nhất của Nam Đẩu, thuộc âm mộc, hóa khí là “Thiện tinh” (Thiện nghệ – khéo léo). Tính chất của Thiên Cơ về cơ bản là chủ động. Tính “động” của nó chẳng chủ về biến động thay đổi trong cuộc đời, mà có liên quan đến phương diện hoạt động tinh thần, hoặc chủ về sự linh động trong phương cách làm việc bằng trí óc.

Cổ nhân đánh giá Thiên Cơ không cao. Chỉ khi nào hội hợp với Thiên Lương, mà còn phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì mới thành cách cục “quan văn thì thanh cao hiển đạt, quan võ thì trung lương”. Nhưng đánh giá này chủ yếu là vì Thiên Lương. Bởi vì Thiên Lương là sao “thanh cao hiển đạt mà trung lương”.

Ngoại trừ cách cục kể trên, Thiên Cơ chủ về tổ nghiệp lụn bại, phải tự lập thân, sống ở tha hương. Nữ mệnh thì ” Tuy phú quý nhưng khó tránh dâm dật”. Gặp sát tinh thì lại là “mệnh dâm tiện xướng kĩ, nô tì, hay làm nhị phòng, nếu không sẽ hình phu khắc tử.” Các thuyết kế trên của cổ nhân không có chỗ nào đúng.

Ngày nay đánh giá Thiên Cơ không tệ như cổ nhân. Nguyên nhân là vì hoàn cảnh xã hội xưa và nay khác nhau. Thời cổ đại xem trọng tính tình đôn hậu, không xem trọng người giỏi ứng biến. Xem trọng bảo thủ, không xem trọng cải cách. Do đó cổ nhân không đề cao tính chất cơ trí, khéo léo, linh hoạt, có thể đổi mới, chịu động não trong công việc của Thiên Cơ.

Trong Tử vi, có cách cục “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, hội hợp với Sao Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương. Cổ quyết nói: “Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân”. Cũng chính là nói, người có mệnh cục loại này giỏi việc cầm bút, hay dùng kế đắc nhân tâm. Cho nên thích hợp với công việc của một lại nhân ở phủ huyện thời xưa. Nhưng “lại” thì không bằng “quan”, bởi vì “lại” chỉ là người dưới quyền của quan đương sai. Do đó có thể biết, cổ nhân đánh giá Thiên Cơ là người không được quang minh chính đại như người làm quan.

Trong xã hội ngày nay, đầu óc càng linh động càng dễ có chỗ đứng trong xã hội. Vì vậy người có Thiên Cơ thủ mệnh có thể được đánh giá khá cao. Điều cần chú ý nhất là, nhờ động não nhanh nên người có Thiên Cơ thủ mệnh dễ thích ứng với thời đại kĩ thuật, không thể xem thường.

  • Thiên cơ tọa Mệnh (hoặc Thiên cơ và tổ hợp của nó), hoặc đại hạn đến Thiên cơ, xử sự có lý.
  • Thiên cơ tọa Mệnh trong Lá số Tử vi không nên đơn độc hành động, nên giúp ngưòi khác lập kế hoạch (như Trương Lương là mưu sĩ cũng là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán sở).
  • Thiên cơ kị nhất có sát tinh đồng cung, gặp đại, tiểu hạn dễ phát sinh hiện tượng không tốt.
  • Mệnh có Thiên cơ thêm sát tinh đồng cung không nên kinh doanh, chỉ nên làm công chức văn phòng hoặc nhân viên hành chính.
  • Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, Tham lang tọa thủ cung Thân, chủ về không có việc cũng bận rộn.
  • Thiên cơ tọa Mệnh là người mơ ước cao xa. Thiên cơ và tổ hợp tinh hệ của nó nếu tọa cung Điền trạch phải chú ý nhà cửa hoặc phong thủy văn phòng, lại chủ về không được kế thừa gia nghiệp tổ tiên. Nếu được kế thừa thì gia nghiệp cũng nhiều biến động.
  • Khi xem Tử Vi, nếu đại, tiểu hạn gặp Thiên cơ chủ về có sự thay đổi, như: môi trường biến động, điều chức, chuyển nhà, vị trí giường thay đổi… Thêm cát tinh chủ về thêm phúc thêm tài.
  • Thiên cơ hóa kị chủ về dễ bị ngã dẫn đến bị thương, thêm sát tinh chủ về mọi chuyện không thuận, phải cai rượu, dễ vì rượu mà hỏng chuyện. Lại chủ về trong nhà không yên, phiền não, chán nản, không được yên ổn.
  • Thiên cơ ưa nhất đồng cung với Thiên lương, sách có nói “giỏi bàn luận chuyện binh”. Nên làm tham mưu quân sự hoặc làm về máy tính, y học, xem mệnh…
  • Theo Tử Vi Cổ Học, Thiên cơ và Thái âm đồng cung chủ về mệnh coi trọng tình cảm, nên sớm rời xa quê ra ngoài lập nghiệp. Người có Thiên cơ tọa Mệnh có ưu điểm là linh hoạt, khuyết điểm là hay thay đổi mà không ổn định.
  • Thiên cơ không ưa đồng cung với Cự môn, sách có nói “gia đạo suy vong”. Bản thân có sự nghiệp và tình yêu đều gặp nhiều trắc trở, lận đận. Dù là nam hay nữ đều dễ phạm đào hoa.
  • Thiên cơ tại Tí, Ngọ chủ về mệnh nữ cát lợi, biết quản lý việc gia đình.
  • Người xưa không ưa mệnh nữ có Thiên cơ tọa cung Mệnh trong lá số tử vi vì tình cảm có trắc trở hoặc nói tình cảm dễ có sự thay đổi, đa sầu đa cảm hoặc có bệnh thần kinh.
  • Thiên cơ tọa cung Tử nữ chủ về con cái không nhiều, chỉ có 1 đến 2 con hoặc sinh con muộn. Thiên cơ tọa cung Phúc đức chủ về mệnh coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất.

Thiên Cơ độc tọa cung mệnh

Phàm Thiên Cơ độc tọa cung mệnh, nhất định phải nghiên cứu cẩn thận cung độ của nó.

Tổng cộng có sáu tình huống xuất hiện “Thiên Cơ độc tọa”, đó là các cung Tí, Ngọ, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi. Đại khái có thể chia làm ba nhóm.

Thiên Cơ cư Tỵ

Tình hình này, người có Thiên Cơ tọa mệnh có tính linh động và năng lực phân tích rất mạnh. Theo kinh nghiệm của Vương Đinh Chi, mệnh cách này phần nhiều là kĩ sư, bác sĩ, luật sư, có thể thấy mệnh cục loại này không phải tệ.

Đáng tiếc là đối cung có Thái Âm, sẽ hấp dẫn Thiên Cơ khiến cho người có mệnh cục loại này hao phí tính linh động trong chuyện theo đuổi người khác giới, năng lực phân tích của họ cũng dùng để phân tích tâm lí của đối tượng, thường tỏ ra cực kì dịu dàng quan tâm chăm sóc, nếu không được thì sẽ thực hiện mưu mẹo. Cho nên cổ thư nói: “Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, chủ về tham lam, xa rời quê hương, gian giảo nặng.”

Nếu muốn phân biệt tỉ mỉ, cần phải xem các sao khác, có khuynh hướng làm mạnh thêm một phương diện nào đó của Thiên Cơ. Ví dụ như, Thiên Cơ mạnh tính linh động thì có thể là luật sư mà không phải là kĩ sư. Vì vậy về đại thể, dựa vào mệnh cục có thể nhìn ra khuynh hướng nghề nghiệp của một người. Có điều, nếu các sao hội hợp quá xấu, thì người này có thể chỉ là một nhân viên bán hàng, hay chào hàng.

Thiên Cơ cư Hợi

Bởi lạc hãm, nên tính linh động của Thiên Cơ sẽ giảm nhiều, chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, rất nên gặp hai sao chủ về thông minh là Văn Xương, Văn Khúc. Như vậy sẽ làm mạnh thêm năng lực phân tích, nhờ vậy có biểu hiện tốt về sự nghiệp. Nếu gặp các sao có tính chất làm yếu đi năng lực phân tích như Hóa Kị v.v… thế là linh động thì thiếu, mà phân tích thì lại không rõ nên không thể định là thượng cách được.

Sao Thiên Cơ cư Tí – Ngọ

Tí – Ngọ là 2 cung vị có thể phát huy đặc tính của Sao Thiên Cơ một cách cao nhất. Do xung chiếu với Cự môn ở đối cung, chỉ cần Cự môn không hóa Kị, thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi điều tiếng thị phi gây nên, mà Thiên Cơ còn phát huy được tài ăn nói, mưu trí và quyền biến.

Thông thường, Thiên cơ và Cự môn đối nhau. Nếu được Tả Hữu Xương Khúc, Hóa lộc, Hóa quyền, Khôi Việt hội chiếu. Mệnh tạo có thể nắm giữ uy quyền, trở thành người lãnh đạo công ty lớn, hoặc thủ trưởng một bộ môn của chính phủ. Nếu có thêm Lộc tồn Thiên mã vây chiếu, thì nguồn tiền tài càng dồi dào.

Nếu Xương Khúc giáp Mệnh, thì chủ về thông minh ưu tú, có thể theo đuổi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, cũng thích làm công việc quảng bá, môi giới. Nếu có sao Cát đến hội, mà gặp thêm Sát tinh, làm việc trong lĩnh vực chính trị hoặc thương nghiệp tuy có thể phú quý, nhưng không được lâu dài. Không bằng lợi dụng tính chất của Sát tinh để “tìm cát tránh hung”.

Thông thường gặp hóa Kị thì thích hợp công việc quảng bá. Gặp Kình dương thì có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật, gặp thêm Thiên hình thì có thể làm bác sỹ ngoại khoa. Gặp Hỏa Linh hoặc Kình Đà thì nên có nghề chuyên môn để mưu sinh.

Nữ mệnh Thiên cơ thủ Mệnh độc tọa ở Tí hoặc Ngọ, chủ về khéo léo, thông minh cơ trí, nhưng tính rất ham quyền bính, cũng chủ về biết chăm lo gia đình. Rất ngại Thiên cơ hóa Kị, có thể vì bị kích thích mà đùa giỡn với tình cảm. Nếu Cự môn của đối cung hóa Kị, gặp Sát tinh thì nên kết hôn muộn, nếu không sẽ “hình phu khắc tử”.

Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thì sự nghiệp có xu thế biến thiên, cần xem các sao mà nó hội hợp để định cát – hung.

  • Thiên Cơ rất ưa Hoá Quyền. Thiên Cơ Hoá Quyền lại ưu hơn Cự Môn Hoá Quyền. Hoá Quyền thì vững vàng, cho nên tốt hơn Hoá Lộc, Hoá Lộc phần nhiều nóng nảy, trôi nổi bất định.
  • Nếu đối cung là Cự Môn Hoá Quyền, ở thời hiện đại có thể chỉ là người phân phối, nhà phát hành trong giới làm ăn kinh doanh, không chủ về là người vạch kế sách hay quản lý. Thiên Cơ Hoá Quyền, thì có thể là người vạch kế sách phía sau. Một trong một ngoài, tính chất khác nhau.
  • Người sinh năm Đinh phần nhiều vất vả khổ lụy. Nếu cung tật ách là Thiên Tướng lại thuộc loại bị “Hình kị giáp ấn”, thì dễ mắc bệnh sỏi mật, sỏi thận.
  • Thiên Cơ rất kị đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh. Chủ về lúc bé đã rời xa cha mẹ, hoặc cảnh ngộ của cha mẹ bị biến động thay đổi, ảnh hưởng đến phúc ấm của mệnh tạo lúc còn bé.
  • Đến cung hạn “Vũ Khúc, Thất Sát” đồng độ, gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa thì cát. Gặp Hoá Kị thì hung. Vấn đề này có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
  • Đến cung hạn Thiên Phủ tọa thủ. Gặp “kho phủ đầy ắp” thì cát, gặp “kho lộ”, “kho trống” ắt sẽ hung nguy.
  • Thái Âm thủ cung thân, chủ về mệnh tạo ngày đêm bôn ba bận rộn. Thường làm việc ban đêm, hoặc đến tối vẫn cần phải suy nghĩ kế hoạch. Nếu không gặp sát tinh, thì kinh doanh làm ăn có thể trở thành giàu có.
  • Chủ về giỏi nói năng. Nếu có Kình Dương, Đà La đồng độ, lại gặp Cự Môn Hoá Kị gia hội. Thì tài ăn nói hoá thành miệng lưỡi, thích hợp làm những nghề nghiệp dùng lời nói để kiếm tiền.

Thiên Cơ cư Sửu – Mùi

Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi có đặc điểm là đối chiếu với Thiên lương ở đối cung. Cổ nhân nói: “Cơ Lương hội hợp thì giỏi bàn việc binh” (Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh). Thực ra câu nói này chẳng biểu thị người này có tài năng quân sự, mà chỉ biểu thị người này thích bàn luận đề tài mà người bình thường không rành, hơn nữa còn biểu hiện phong thái hùng tài vĩ lược, tất nhiên là giỏi biện luận, nhạy bén mưu trí và quyền biến. Thông thường không nên làm công việc kinh doanh buôn bán, có thể trở thành nhân tài tham mưu cố vấn.

  • Thiên Cơ Hóa Lộc không những chủ về tiền đến tiền lại đi, mà còn rất khó tích lũy căn cơ, nhưng lại dễ có vận may kiếm tiền một cách đột ngột bất ngờ.
  • Thiên cơ hóa Quyền có thể làm tăng quyền thế, hoặc có cơ hội quen biết được với những người có quyền thế, quyền lực, tạo nguồn trợ giúp cho sự nghiệp phát triển và nâng cao địa vị của bản thân.
  • Thiên cơ hóa Khoa (can Đinh) ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt phải được Văn tinh giáp cung, hoặc vây chiếu mới có biểu hiện tốt, chủ về thông minh xuất chúng, ăn nói biện giải trong giao tế có tính thuyết phục một cách chắc chắn, phản ứng nhạy bén.

Thiên cơ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ngại gặp Sát tinh, Kị tinh, cổ nhân nói : “Thiên cơ mà thêm ác sát đồng cung, thì như chó trộm chuột cắp” (Thiên cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết). Tức là nói trường hợp ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Tất nhiên phải có Sát – Hình – Kị hội chiếu, mà không có Cát tinh hội hợp, mà còn gặp Âm sát, Thiên hư thì mới đúng. Nhưng cũng chỉ chủ về nhân phẩm con người thấp, vẫn có thể dùng nỗ lực tu dưỡng hậu thiên để bổ cứu.

Nữ mệnh Thiên Cơ Hóa Kị thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì đặc biệt rất nhiều lo nghĩ và gặp trở ngại về tình cảm, yêu ghét hay do dự thay đổi bất định, nội tâm đau khổ chưa hẳn là do người khác gây ra. Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp trường hợp này, nếu đứng núi này trông núi nọ, thì sẽ rất bất lợi. Nếu gặp Thiên Cơ hóa Kị và có Sát tinh đồng độ thì buộc phải thay đổi, nhưng sự thay đổi này sẽ bất lợi.

  • Thiên Cơ ở cung Mùi, cung phu thê là Thái Dương ở cung Tỵ, nếu hoá làm Quyền Lộc, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Thái Dương ở cung Sửu thì không phải.
  • Trường hợp này Thiên Cơ  rất ưa Hoá Lộc, Thiên Lương đối cung cũng sẽ Hoá Quyền, là nhân tài về kế hoạch, nghiên cứu, là mệnh cách không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Cung phúc đức là Thái Âm cũng đồng thời Hoá Kị, đây là ứng nghiệm lao tâm tổn thần, chẳng phải là điềm hung.
  • Trường hợp có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, chủ về mệnh tạo có tư tưởng đặc biệt. Có Thiên Tài đồng độ là trí tuệ cực cao. Nhưng hai tình hình này đều chủ về người ta khó mà hiểu được mệnh tạo. Cho nên cung huynh đệ và cung phụ mẫu cần phải gặp cát tinh, mới có thể đứng vững, nếu không cuộc đời dễ chìm nổi.
  • Cung hạn “Thái Dương, Thái Âm” đồng độ là đại hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời, và cung hạn “Thiên Đồng, Cự Môn” đồng độ là lưu niên có tính then chốt.

Cùng một sao nhưng ở cung vị khác nhau có thể phát sinh biến hóa đa đoan, vì vậy khi phân tích bản chất của Thiên Cơ, bạn đọc cần lưu ý nhiều.

Thiên Cơ phối (đi cùng) với các tinh diệu khác

Trong 12 tinh hệ, Thiên Cơ luôn đồng cung hoặc đối nhau với Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lưong. Có thể thấy ba sao này có ảnh hưởng quan trọng đối với Thiên Cơ:

  • Ở hai cung Tí hoặc Ngọ, Thiên Cơ và Cự Môn đối nhau; ở hai cung Mão hoặc Dậu, “Thiên Cơ, Cự Môn đồng độ. Cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ hợp của “Thiên Cơ, Cự Môn”.
  • Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Thiên Cơ và Thiên Lương đối nhau; ở hai cung Thìn hoặc Tuất, “Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ. Cho nên bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tổ hợp của “Thiên Cơ, Thiên Lương”.
  • Ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, Thiên Cơ và Thái Âm đối nhau; ở hai cung Dần hoặc Thân, “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ. Cho nên bôn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi là tổ hợp của “Thiên Cơ, Thái Âm”.
  • Trong các tình hình thông thường, Thiên Cơ rất ưa trường hợp “Thiên Cơ, Cự Môn” ở cung Mão. Còn trong tình hình Thiên Cơ độc tọa, nó rất ghét ở hai cung Tỵ và Hợi.

Sao Thiên Cơ – Thái Âm đồng độ

Tinh hệ “Thiên cơ Thái âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung Tài có Thiên đồng, cung Quan có Thiên lương. Đây là một tinh hệ điển hình của cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, cổ nhân nói: “Cơ Nguyệt Đồng Lương là làm thư lại” (Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân), trong trường hợp này rất là đúng tiêu chuẩn.

Đặc tính các sao của bản cung là xử sự có mạch lạc, lớp lang, ngăn nắp, thứ tự, có thể dựa vào đó để định phương kế và kế hoạch làm việc, cho nên thích hợp làm công chức, hoặc đảm nhiệm chức vụ trong công ty. Xã hội hiện đại xem trọng việc quản lý công ty, rất thích hợp với người có mệnh cách này.

Ở phương diện khác, cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” còn chủ về mệnh tạo thiên về mặt âm nhu, phái nam nhờ vậy mà dễ tiếp cận phái nữ, biết rõ tâm lý nữ giới, phái nữ cũng chủ về dung mạo xinh đẹp, giầu tình cảm, dễ được phái nam theo đuổi.

Nhưng tính cách âm nhu này cũng có thể phát triển thành thủ đoạn xấu bên trong, như kiểu mua chuộc lòng người. Đây cũng là nhân tố cơ bản của “lại nhân” (nhân viên trông coi văn thư trong huyện phủ thời xưa)

  • “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, là chính cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Ở cung Thân, Thiên Lương ở cung Tí ưu hơn Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên oán trách, thị phi ít hơn.
  • “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân rất ngại Hoá Kị, chủ về quyền biến, nhiều thủ đoạn. Ở cung Dần, đặc biệt còn chủ về hí lộng quyền bính.
  • “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Thiên Lương Hoá Lộc, đến đại hạn Cự Môn hoặc Thiên Đồng, thường dễ chuốc họa tai, thị phi, cần phải khiêm tốn, ôn hoà, mới có thể bình an vượt qua.
  • “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung phúc đức là Cự Môn cần phải gặp cát tinh mới tốt. Nếu Cự Môn có các sao sát, kị đồng độ, đến lưu niên “Liêm Trinh, Thất Sát” đồng độ, thường dễ gây ra phá tán, thất bại.
  • “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc mới cát. Rất kị có Hoả Tinh, Linh Tinh cùng bay đến, chủ về khinh bạc, phóng đãng, thiếu trang trọng, phá phách.
  • Đối với “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn “Thái Dương, Thái Âm” đồng độ là lưu niên có tính then chốt. Rất kị Thái Dương Hoá Kị, nếu có các sao cát, hình trùng trùng, sao kị của lưu niên lại xung khởi Thái Dương Hoá Kị, chủ về vì gây oán thù mà gặp sóng gió nghiêm trọng.
  • “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu đến đại hạn Thái Âm Hoá Kị, thường thường dễ sinh phá tán, thất bại, mà thường vì tự cho thông minh mà gây ra.

Sao Thiên Cơ – Cự Môn đồng độ 

Sao Thiên Cơ Cự Môn đồng độ, hình thành nên cách cục Cự Cơ Mão Dậu. Người có Thiên Cơ thủ mệnh rất sợ gặp Cự Môn, bởi vì Cự Môn là “ám tính” chủ về điều tiếng thị phi. Thiên Cơ bị Cự Môn che lấp, năng lực phân tích sẽ giảm rất nhiều.

Người có mệnh cục loại này nhất định là cung mệnh rơi vào hai cung Mão hoặc Dậu. Mão và Dậu là cung vượng của Thiên Cơ sức mạnh không phải yếu, vì vậy sau khi năng lực phân tích của nó bị Cự Môn làm yếu đi, chỉ còn lại tính linh động để phát huy.

Có tính linh động mà không có năng lực phân tích, nam mệnh sẽ dễ biến thành học nhiều mà không có thực chất, đứng núi này trông núi nọ. Nữ mệnh thì dễ bị dụ dỗ, không giữ gia đạo. Nếu các sức mạnh xấu này làm mạnh thêm khuynh hướng hiếu động của Thiên Cơ, theo quan điểm của xã hội cổ đại, thì không phải là người có phúc. Cho nên cổ thư nói: “Cự Môn hãm Thiên Cơ là phá cách chủ về nam thì sở khanh, nữ thì dâm dật.”

Nhưng xét từ quan điểm xã hội hiện đại, người có “Thiên Cơ, Cự Môn” tọa mệnh không đến nỗi xấu như cổ nhân nói. Bởi vì xã hội trước kia việc dựng vợ gả thường đều thông qua người mai mối, cho nên người phối ngẫu chưa chắc hợp ý. Ngày nay tự do yêu đương, người có mệnh cục loại này chỉ cần kết hôn muộn một chút, chờ gặp người tâm đầu ý hợp mới kết hôn, thì không đến nỗi có sóng gió, trắc trở xuất hiện trong hôn nhân.

Đồng thời, trong xã hội hiện đại việc mưu sinh rất chú trọng đầu óc linh hoạt, cho nên dù năng lực phân tích có yếu đi một chút về căn bản vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sự thành tựu về sự nghiệp và địa vị xã hội.

Còn nói về nữ mệnh, ngày nay phụ nữ không lo việc nhà cũng đã thành chuyện bình thường. Chỉ cần ra ngoài làm việc, kiếm tiền phụ giúp gia đình, chồng cũng sẽ không nói gì, do đó khuyết điểm của mệnh cục này đã giảm bớt rất nhiều.

Nhưng mệnh cục loại này lại không ưa gặp đào hoa, chỉ cần có hai ba sao đào hoa hội hợp, tất sẽ xem trọng dục tình. Nếu là nữ mệnh sẽ dễ có khuynh hướng trụy lạc chốn phong trần.

  • “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu. Nam mệnh Cự Môn Hoá Lộc, chủ về chồng già lấy vợ trẻ. Thiên Cơ Hoá Lộc, thì phần nhiều là tái hôn. Nữ mệnh Cự Môn Hoá Lộc, cũng nên lấy người lớn tuổi; Thiên Cơ Hoá Lộc, phần nhiều đều có khiếm khuyết trong hôn nhân.
  • “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu. Nữ mệnh gặp Thiên Đồng đồng độ với Lộc Tồn, đến vận Tham Lang, thường chủ về bị người ta bỏ rơi, hôn nhân gặp sóng gió, trắc trở, vì vậy không nên kết hôn sớm. Ở cung Dậu tuy tốt hơn, nhưng cũng ngại đào hoa quá nặng. Thiên Đồng chủ về tình cảm, nên có ứng nghiệm như trên.
  • Đối với “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn “Thái Âm, Thái Dương” đồng độ, và cung hạn Thất Sát toạ thủ là hai đại hạn có tính then chốt. Cát hung của hai đại hạn này gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời. Cung hạn “Sát Phá Tham” là lưu niên có tính then chốt.

Sao Thiên Cơ – Thiên Lương đồng độ

Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh, có ba biến cục, đó là Thiên Cơ và Thiên Lương đồng cung. Trong cổ thư có ba câu bình giải về cách cục này, như sau:

  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung ở Thìn hoặc Tuất, chủ về có nghề cao tùy thân. (Tiếng Hán là Cao Nghệ, dịch nghề cao là chưa chuẩn. Nên dịch là Giỏi nghề – Tức có nghề giỏi tùy thân – giỏi về một nghề nào đó, bên cạnh những nghề khác)
  • Thiên Cơ, Thiên Lương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thêm sao cát, chủ về phú quý tốt lành.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh thêm các sao hình, kị, thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ.

Từ ba câu bình giải trên có thể thấy, cách cục Thiên Cơ và Thiên Lương thủ mệnh có biến hóa rất lớn. Muốn phân tích, phải xem trong hai sao, sao nào mạnh hơn.

Nếu Thiên Cơ mạnh hơn, là mệnh có cao nghệ tùy thân. Ngược lại, nếu Thiên Lương mạnh hơn, gặp sao cát, thì phú quý cát tường. Gặp các sao hình, kị, thì sức mạnh của Thiên Cơ sẽ phát huy triệt để, cho nên có khuynh hướng nương thân ở “cửa không”.

Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gọi là “Thiên La, Địa Võng”, tính linh động của Thiên Cơ sẽ bị ảnh hưởng. Do đó chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, chủ về là người giỏi suy nghĩ, khảo cứu, rất nhiều kĩ sư và giáo sư có mệnh cục loại này. Có thể thấy mệnh cục loại này tuyệt đối không tệ. Cổ nhân nói “có Cao Nghệ tùy thân”, hiện đại có thể nói là “có học vấn chuyên môn”.

Nhưng tính chất của Thiên Lương lại có thể gây ảnh hưởng khiến Thiên Cơ biến thành tâm địa hiền từ, trầm mặc, ít nói, phẩm chất thanh cao. Cho nên dù mệnh cục hơi kém, là thợ thuyền, mệnh tạo ắt cũng thích tìm tòi về kĩ thuật, có lúc cũng có tâm đắc.

Còn một đặc điểm nữa là, không chịu mang điều tâm đắc ra truyền cho người khác. Ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, cho nên tuy tâm địa thiện lương nhưng vẫn thường dễ chuốc oán.

Nếu gặp các sao hình, kị, Thiên Cơ hoàn toàn bị kềm chế, sức mạnh của Thiên Lương sẽ phát huy cực độ, mệnh tạo sẽ thiên về “huyền học”, thích nghiền ngẫm các vấn đề triết lí, nên cổ nhân nói “thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ”.

Thực ra ở thời hiện đại, cũng không hằn là mệnh của triết gia, và không nhất định sẽ xuất gia. Thiên Cơ và Thiên Lương phối hợp, hai sao đã yếu, rất kị gặp sát tình, nếu không sẽ dễ xử sự hồ đồ, tâm hồn trống rỗng.

“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về có tay nghề, ở thời hiện đại cũng có thể định là nhân tài chuyên nghiệp. Không thích hợp làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán, nếu không, phúc không được lâu dài, vận tốt thường chỉ trong chớp mắt.

“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, là thiên cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, cần phải dùng miệng lưỡi để dùng lời nói để kiếm tiền, mới có thể phát triển. Ở thời hiện đại, thường thường là chuyên viên bán hàng, chào hàng, tiếp thị.

“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, có sao không và sát tinh cùng bay đến, cổ nhân định là mệnh tăng nhân, đạo sĩ. Ở thời hiện đại cũng là người truyền giáo. Nữ mệnh phần nhiều lênh đênh.

“Thiên Cơ, Thiên Lương” ở cung Thìn, mà Thiên Cơ Hoá Kị, cần phải dùng lời nói để kiếm tiền. Không có Hoá Kị, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa).

Đối với “Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang” đồng độ là đại hạn có tính then chốt. Ba cung hạn “Tử Vi, Thất Sát”, “Liêm Trinh, Phá Quân”, và “Vũ Khúc, Tham Lang” là các lưu niên có tính then chốt.

Thiên Cơ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, cuộc đời gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm. Nếu cung phu thê là Thái Dương Hoá Lộc, hoặc cung thiên di là Thái Âm Hoá Lộc, thì dục tình rất nặng, gặp thêm sát tinh và các sao đào hoa, thì dễ lạm dâm. Thiên Cơ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, là mệnh rời xa quê hương hoặc chủ về làm con nuôi người khác, tuổi trẻ bất lợi về cha. Đến đại hạn Thất sát tọa thủ, nếu có các sao sát, kị, hình cùng chiếu, chủ về có bệnh tật nghiêm trọng ở mắt.

Thiên Cơ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, nữ mệnh không nên Hoá Kị hoặc có sao kị hội chiếu. Gặp thêm sát tinh, chủ về hình khắc, sinh ly, hoặc làm nhị phòng, tì thiếp.

Thiên Cơ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, gặp các sao phụ, tá cát, thì có thể phú quý, thích hợp làm những công việc mang tính phục vụ công chúng, đặc biệt về truyền thông hay thông tấn, báo chí.

Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, hai cung hạn “Thiên Đồng, Cự Môn” và “Liêm Trinh, Thiên Phủ” là hai lưu niên có tính then chốt. “Sát, Phá, Tham” là đại hạn có tính then chốt.

Thiên Cơ hóa Lộc – Can Ất

Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén (can Bính hóa Quyền – nếu không có Quyền thì khó có thể linh động quyền biến). Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ “chủ động” (đây là lợi thế) tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà thu được lợi ích.

Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Lộc 

Thiên Cơ hóa Quyền – Can Bính

Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên Cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả lối xử sự.

Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Quyền

Thiên Cơ hóa Khoa – Can Đinh

Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng, ví dụ như thắng một giải đua xe. Đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ chuyên nghiệp và chuyên sâu, cho nên bản chất của Thiên cơ hóa Khoa cũng được phát huy khá lớn.

Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Khoa

Thiên Cơ hóa Kị – Can Mậu

Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.

Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Kị

Những lưu ý thêm về Sao Thiên Cơ

Dưới đây là một vài lưu ý thêm về Sao Thiên Cơ. Ví dụ khi đi với sát tinh thì làm sao hoặc đi với cát tinh thì Thiên Cơ trở nên như thế nào. Dĩ nhiên, trong các lá số thực tế, đa phần là hung cát lẫn lộn. Tuy nhiên, cần hiểu rõ bản chất của sự việc thì các bạn mới có thể luận đoán đúng được…

Khi Thiên Cơ đi với Cát tinh

Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược.

Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão Dậu: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược; nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững.

Thiên Cơ, Vũ Khúc, Hồng Loan (nữ mệnh): Có tài năng về nữ công, gia chánh (thợ may giỏi, khéo tay, chân).
Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương (Cơ Nguyệt Đồng Lương): Nếu đắc địa cả thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức.

Khi Thiên Cơ đi với Hung Sát tinh

Thiên Cơ, sát tinh đồng cung: Trộm cướp, bất lương.

Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh: Gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ.

Cơ Nguyệt đồng cung ở Dần, Thân gặp phải Xương Riêu Dâm đãng, đĩ điếm, nếu có khiếu thì có thể làm thi văn dâm tình, viết dâm thư giống như kiểu Hồ Xuân Hương.

Quan điểm về Sao Thiên Cơ của Vương Đình Chi

Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo.

Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kị, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.

Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy.

Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ.

Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.

Hóa Kị làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.

Thiên Cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì ảnh hưởng cũng không quá nặng. Chủ về Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kị thì tâm phiền mà thường nông cạn.

Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.

Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ.
Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp.

Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khả năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.

Quan điểm của Danh sỹ Phan Tử Ngư về Sao Thiên Cơ

Thiên cơ thuộc âm mộc, sao thứ ba của nhóm Nam Đẩu, là sao ích thọ, chủ về anh em, hóa khí gọi là thiện nên còn gọi là Thiện Tú (sao Thiện). Thiên cơ nhập miếu, vượng thì người đậm mập, gặp hãm địa thì người gầy ốm. Tính cách phần nhiều tính toán sáng suốt, siêng năng cẩn thận, nếu đồng cung với Thiên lương thủ Thân Mệnh thì phần nhiều là người nói hay, giỏi biện luận, đủ tố chất thành tài ở ngành nghề cần tới sự khéo léo đặc biệt, tâm địa thiện lương, có lòng tín ngưỡng đối với tôn giáo. Nếu thêm Khôi Việt Khúc Xương thì chủ về đa học đa năng, nếu có Kình dương xung phá hoặc hội thêm Không Kiếp thì rất cô độc, hoặc là mệnh sư tăng đạo sĩ.

Quan điểm của Lục Bân Triệu về Sao Thiên Cơ

Sao Thiên cơ về ngũ hành thuộc âm mộc, ở trên trời thuộc chòm Nam tinh. Hóa là Thiện Tinh. Tính chất của Thiên Cơ là nhiều kế mưu kế, ứng biến đa đoan. Ở người là giỏi quyền biến, giỏi nắm bắt cơ hội, có tính hiếu học, hiếu động, siêng năng. Song cứ thấy lạ là thay đổi cách suy nghĩ. Vì vậy rộng mà không sâu, bác mà không tinh. Hơn nữa dục vọng quá cao, cho nên thực tế thường không theo kịp lý tưởng. Vì vậy mà nhọc tâm mệt sức, song xử sự phần nhiều là có lý lẽ.

Nếu Thiên cơ ở cung mệnh thì chủ về người sắc mặt trắng xanh, lúc tuổi già hơi kèm sắc vàng. Nhập miếu thì thân hình dài mập. Đồng độ với Cự môn hoặc lạc hãm chủ về người gầy dong dỏng cao, mặt dài hơi kèm tròn, tâm từ tính gấp, hiếu động, hiếu học.

Nam mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh thì nhiều cơ mưu biến hóa, đa tài đa nghệ. Hội hợp với Thiên lương thì sở trường về khẩu tài, khéo biện luận, tính tình nhạy cảm, giỏi tùy cơ ứng biến. Đồng độ hoặc hội hợp với Thái âm thì kín đáo giỏi quyền biến, trọng tình cảm.

Thiên cơ ở Thân địa thì có Tử vi và Thiên phủ giáp cung Mệnh, một đời quyền trọng lộc nhiều. Ở Tí địa hoặc Ngọ địa thì Cự môn xung cung trở thành bậc quyền quý giầu có.

Thiên cơ nhập miếu thì bàn việc quân rất giỏi. Được các sao Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Hóa quyền, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt hội hay chiếu thì một đời quyền quý. Được Lộc tồn Thiên mã vây chiếu thì nguồn tiền tài dồi dào.

  • Có Văn xương Văn khúc giáp cung thì bẩm tính thông minh, văn chương xuất chúng.
  • Có tam hóa tinh Lộc Quyền Khoa chiếu và hội, không có sát diệu, là trong thần triều đình.
  • Gặp Hóa Kị thì đi đó đi đây nhiều thay đổi, lừng khừng không quyết đoán vì tính tự hay quan trọng hóa vấn đề, quan trọng hóa sự việc một cách không cần thiết, nên hay lo hay nghĩ.
  • Đồng độ với Kình Đà Hỏa Linh tuy được phú quý song không lâu dài. Gặp Cát tinh thì nên chọn nghề kinh doanh song phải chấp nhận nhiều biến động để thích nghi với thị trường.
  • Nếu có Cát tinh phù trì thì chủ về bản thân kiêm mấy chức, hoặc là người có kỹ thuật chuyên môn, thành công vè nghệ thuật.
  • Thiên cơ Cự môn Lộc tồn đồng cung, hoặc ở cung Thiên di, chủ về đại quý (cần phải không có ác sát)

Thiên cơ Thiên lương đồng cung, có cát tinh hội và chiếu, tuy có thể phát song không được lâu dài, tuy rằng quý nhưng chỉ có hư danh.

Thiên cơ, Thiên lương, Thát sát, Phá quân xung hội là người thích đàm luận thiền cơ của cửa Không.

Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thái âm hội và chiếu thì nên tính việc phát triển ở cơ quan công sở hoặc những ngành nghề liên quan đến công chúng. Nếu gặp Văn xương Văn khúc thì thích hợp với những ngành nghề liên quan đến văn hóa đại chúng.

Thiên cơ, Thiên lương, Thái âm hội và chiếu, mà Tham lang thì ở cung Thân thì chủ về người ngày đêm bôn ba, tất bật dị thường, hoặc đam mê riệu chè cờ bạc. Cùng với Kình Đà Hỏa Linh hội và chiếu thì chủ về nhiều tài nhiều nạn. Hoặc sau khi suy sụp thì bỏ đi nơi khác, hay làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ hay lo sợ vô cớ.

Ở Dần địa, Mão địa, Thìn địa mà hội và hợp Sát tinh Thất sát và Phá quân là chủ về chuyện bất trắc chảy máu. Phàm hội và hợp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình, lại gặp thêm Hóa Kị thì yểu thọ.

Nữ mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh chủ về tính tình cương cường, thông minh khéo léo, lanh lợi, giúp chồng ích con, giỏi lo việc nhà, tháo vát hơn chồng.

  • Có tam cát Lộc Quyền Khoa tương hội là tạo mệnh phu nhân.
  • Có Thái âm đồng độ là dung mạo mỹ lệ, giầu tình cảm, khéo đối xử.
  • Có Cự môn hội và chiếu là người nhiều lời qua tiếng lại.
  • Thiên cơ hóa Kị thì hay lo nhiều nghĩ nhiều, bị tính ưa kích thích, dễ bị ngoại giới ảnh hưởng mà gây nên cảm xúc, làm cho đối tượng nam giới vừa hận vừa yêu, là bông hoa hồng có gai.

Nếu Thiên cơ, Cự môn, Thiên lương, Thái âm hội và hợp, lại gặp thêm ác sát Hóa Kị Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình Không Kiếp là chủ về hình khắc, thường làm kế thất, làm vợ lẽ, hoặc hậm kết hôn, nếu không thì tổn thương chồng khắc hại con.

Lưu niên đại hạn vào triền độ của Thiên cơ, nhiều cơ hội mới, chủ về có cơ hội chuyển động biến đổi, hoặc nhà ở, giường ngủ có chuyện phải di dời.

  • Hội và chiếu Thiên mã là có thuyên chuyển thăng chức, đi xa.
  • Hội với tam hóa Khoa Quyền Lộc và các cát tinh như Lộc Mã Xương Khúc Khôi Việt thì chủ về phát triển sự nghiệp, thêm tài thêm phúc.
  • Nếu các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kị Cự môn hội và chiếu thì chủ về lời qua tiếng lại liên miên, gia sự rối bời, tâm phiền ý nản, mọi việc đều biến động không được yên ổn.

Sao chủ thân Thiên Cơ

Sao chủ mệnh Thiên Cơ

Thiên Cơ nhập Hạn ca

Nam nữ nhị hạn trị Thiên cơ

Lộc chủ Khoa Quyền đại hữu vi

Xuất nhập kinh định đa ngộ quý

Phát tài phát phúc thiểu nhân tri.

Lưu hành nhị hạn mà gặp sao Thiên cơ hội cùng với Hóa  khoa, Hóa quyền thi tài lộc hoạnh phát. Công việc kinh doanh gặp quý nhân giúp đỡ, được vượng phát phúc tài, một cách kín đáo ít người lường được.

Hựu viết

Thiên cơ chiếu hạn bất an ninh

Gia sự phân phân ngoại sự đa

Cánh ngộ Dương Đà tinh cự ám

Tu tri thủ tuế nhập nam kha.

Hạn hành gặp sao Thiên cơ cùng với Dương Đà, Cự môn , Thiên lương hãm địa hội chiếu, thi gia nọi rối bời, mà ngoại lại còn rủi ro đa sự, tâm hồn tam canh lo lắng, nếu thử chiếu thêm hung sát tinh, năm ấy chắc sẽ được về hưởng phúc quy tiên.

Thiên Cơ Khi Vào Các Hạn

  • Thiên Cơ, Thương Sứ: Đau ốm, tai nạn, đánh nhau.
  • Thiên Cơ, Tang Khốc: Tang thương đau ốm.
  • Thiên Cơ Lương Tang Tuế: té cao ngã đau.
  • Thiên Cơ, Khốc Hỏa Hình: Trong nhà thiếu hòa khí.
  • Thiên Cơ, Kị Hỏa Hình Thương Sứ: Tang thương đau ốm, khẩu thiệt quan tụng.

Sao Thiên Cơ ở cung Thiên Di

Tại Tỵ, Ngọ, Mùi hay Cơ Lương đồng cung hay Cơ Nguyệt đồng cung ở Thân: nhiều may mắn về buôn bán ở xa, được quý nhân phù trợ, trong số đó có người quyền quý (Lương) hay chính vợ (Nguyệt) giúp đỡ mình rất nhiều.
Thiên Cơ, Cự Môn: Cũng giàu nhưng bị tai tiếng, khẩu thiệt vì tiền bạc.

Tại Hợi, Tí, Sửu: Bất lợi khi xa nhà.

Thiên Cơ, Tả Phù, Hữu Bật: Được người giúp đỡ.

Tham khảo thêm khi Sao Thiên Cơ ở Cung Thiên Di

Sao Thiên Cơ ở cung Tài Bạch

Thiên Cơ, Cự Môn hay Thiên Cơ, Lương hay Thiên Cơ ở Ngọ Mùi: Phát tài, dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền. Riêng với Cự Môn thì phải cạnh tranh chật vật hơn.

Ở các cung khác: Làm ăn chật vật, thất thường. Duy chỉ có đồng cung với Thái Âm ở Thân thì tự lực lập nên cơ nghiệp khá giả. Nếu có Lộc Mã thì đại phú.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Tài Bạch

Sao Thiên Cơ ở cung Quan Lộc

Vì Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Quan Lộc

Sao Thiên Cơ ở cung Điền Trạch

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung, Cự Môn, Nguyệt ở Thân hay Cự Môn.

Thiên Cơ ở Mão: Có nhiều nhà đất.

Tại Hợi Tí Sửu Dần: Nhà đất bình thường.

Tại Tỵ Ngọ Mùi: Tự tay tạo dựng nhà đất.

Thiên Cơ, Cự Môn tại Dậu: Phá sản hay lìa bỏ tổ nghiệp, nhà đất ít.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Điền Trạch

Sao Thiên Cơ ở cung Phụ Mẫu

  • Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Cha mẹ khá giả.
  • Đơn thủ tại Hợi, Tí, Sửu: Cha mẹ bình thường. Cha mẹ và con không hợp tính nhau. Có cha mẹ nuôi, hoặc cha mẹ chắp nối.
  • Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Thân: Cha mẹ khá giả.
  • Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Dần: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm có sự xa cách cha mẹ.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Cha mẹ giàu sang và sống lâu.
  • Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Cha mẹ xa cách, thiếu hòa khí.

Tham khảo thêm về vấn đề Thiên Cơ Cung Phụ Mẫu

Sao Thiên Cơ ở cung Phúc Đức

Cung Phúc Đức - Cohoc.vn

  • Tại Hợi, Tí, Sửu: Bạc phúc, họ hàng ly tán.
  • Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Có phúc, họ hàng khá giả.
  • Cự Môn, Thiên Lương đồng cung hay Thiên Cơ, Nguyệt tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng khá giả.
  • Tại Dần: không được hưởng phúc đồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, người nữ hay trắc trở về chồng con.

Tham khảo thêm khi Cung Phúc Đức có Thiên Cơ

Sao Thiên Cơ ở cung Tử Tức

  • Thiên Cơ, Lương hay Nguyệt Đức là người có từ 3 đến 5 con. Nếu Thiên Cơ đơn thủ thì ít con.
  • Cự Môn, Thiên Cơ (hay Cơ Nguyệt ở Dần Thân): Có con dị bào.

Thông thường bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Tử là chỉ dấu về con dị bào, dù không đủ bộ.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Tử Tức

Sao Thiên Cơ ở cung Phu Thê

Cung Phu Thê - Cohoc.vn

  • Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Sớm lập gia đình, vợ chồng lấy nhau lúc còn ít tuổi, hoặc người hôn phối nhỏ tuổi hơn mình khá nhiều.
  • Tại Hợi, Tí, Sửu: Vợ chồng khắc tinh, thường chậm gia đạo.

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Lấy con nhà lương thiện, vợ chồng hòa hợp, thường quen biết trước hoặc có họ hàng với nhau. Gia đạo thịnh.

Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Cơ Cung Phu Thê

Sao Thiên Cơ ở cung Huynh Đệ

Cung Huynh Đệ - Cohoc.vn

Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Có anh chị em dị bào, thường là cùng mẹ khác cha.

Thiên Cơ đơn thủ: Ít anh chị em.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Cơ ở Cung Huynh Đệ

Sao Thiên Cơ ở cung Nô Bộc

Cung Nô Bộc - Cohoc.vn

Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Có tôi tớ, bạn bè tốt, hay giúp đỡ mình, có công lao với mình.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Cơ ở Cung Nô Bộc

Sao Thiên Cơ ở cung Tật Ách

Cung Tật Ách - Cohoc.vn

Thiên Cơ thuộc mộc, chủ về tạng can (gan), còn chủ về tứ chi, nhất là các ngón tay, ngón chân (đây là lấy nhánh, cành cây ví với tay chân). Cho nên Thiên Cơ lạc hãm, lại gặp sát tinh, thì chủ về tay chân bị thương. Nếu nhập miếu mà gặp sát tinh, thì phần nhiều chủ về bệnh gan.

Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Cơ Cung Tật Ách

Khương Tử Nha – Hình tượng Thiên Cơ Tinh

Khương Tử Nha vốn là đệ tử tài giỏi của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn trên núi Côn Lôn, nhận mệnh thầy xuống núi giúp đỡ Tây Bá hầu Cơ Xương tiêu diệt Trụ sáng lập triều Tây Chu. Nhưng do thấy thời cơ chưa chín muồi, nên ông tạm thời đến ẩn cư bên khe Phàn Khê thuộc Tây Kỳ, chờ đợi cơ hội. Ông ngày ngày đọc kinh “Hoàng Đình”, ngộ đạo tu chân.

Lúc nhàn rỗi thường ra ngồi buông câu bên bờ sông Vị Thuỷ. Một hôm, ông thầm nghĩ: “Thầy mệnh cho ta xuống núi, tính đến nay đã gần tám năm rồi, thực đúng với lời của thầy: Hai bốn năm đầu vận bĩ cực; Tám năm sau mới gặp thời cơ”, trong lòng cảm thấy buồn rầu.

Lúc đó, chợt có một người tiều phu tên là Vũ Cát đi đến, thấy Khương Tử Nha nhấc cần câu lên, đầu dây câu chỉ có một chiếc kim thẳng, lại không mắc mồi câu, thì cười mà nói với ông rằng: “Người có chí không kể tuổi tác, làm người mà không biết mưu tính, sống đến trăm tuổi cũng uổng phí. Ông câu cá mà không dùng lưỡi câu, cũng không mắc mồi có câu đến cả trăm năm cũng chẳng được nổi con cá nhép”.

Khương Tử Nha bèn nói: “Già này tuy buông câu, nhưng chí không ở cá, chẳng qua là ngồi đây chờ lúc đường mây rộng mở, thoả chí bình sinh mà thôi!”. Rồi ngâm rằng:

Ninh hướng trực trung thủ

Bất vi cẩm lân thiết

Bất hướng khúc trung cầu

Chỉ điếu vương dữ hầu

Nghĩa là

Thà rằng tìm bằng thẳng

Không phải là vì cá

Không muốn lấy bằng cong

Chỉ câu bậc hầu vương

Tây Bá hầu Cơ Xương sau khi từ Dữu Lý trở về Tây Kỳ, dốc lòng vào việc triều chính, khiến cho quốc thái dân an, nhân dân an cư lạc nghiệp. Ngay cả dân từ thành Triều Ca tỵ nạn đến Tây Kỳ cũng được đối đãi tử tế, chăm lo chu đáo. Một hôm, Cơ Xương đang nghỉ ngơi dưới Linh Đài, qua canh ba, chợt mơ thấy một con hổ trắng có cánh, chồm lên người mình, bèn giật mình tỉnh dậy, sợ đến toát mồ hôi lạnh. Hôm sau, ông kể lại giấc mơ cho đại thần Tán Nghi Sinh (sao Tả Phụ) nghe, Tán Nghi Sinh bèn nói: “Chúc mừng hầu gia, đó chính là điềm tốt, mách bảo rằng hầu gia sắp gặp được nhân tài làm rường cột, để kiến lập triều Chu”.

Cùng ngày hôm đó, Tán Nghi Sinh qua chợ, gặp được tiều phu Vũ Cát. Vũ Cát bèn thuật lại câu chuyện về ông già kỳ lạ bên sông Vị Thuỷ cho ông nghe. Tán Nghi Sinh suy ngẫm hồi lâu, ngờ rằng đây chính là nhân tài mà Tây Bá hầu đang muốn tìm. Ngày hôm sau, Cơ Xương dẫn theo các quan tả hữu xuất du, nhân thể tìm kiếm người hiền, đi về hướng Phàn Khê. Dọc đường, họ gặp một người tiều phu đang quảy gánh củi, vừa đi vừa hát rằng:

Xuân thuỷ du du xuân thảo kỳ

Thế nhân bất thức cao hiền chí

Kim lân vị ngộ ẩn Phàn Khê

Chỉ tác khê biên lão điếu ky

Nghĩa là:

Nước xuân dìu dặt cỏ xuân lạ

Người đời không biết chí cả cao

Lân vàng chưa gặp ẩn Phàn Khê

Làm người câu cá ở bên khe

Cơ Xương nghe lời ca, đột nhiên tỉnh ngộ mà thốt rằng: “Cao nhân nhất định ở quanh đây”. Thế nhưng tìm kiếm suốt ba ngày vẫn không thấy bóng dáng hiền sĩ. Đến ngày thứ tư Cơ Xương đem theo lễ vật, dẫn đầu bá quan, điều động đội binh mã mở đường, vua tôi rầm rộ tiến về Phàn Khê. Đến nơi, Cơ Xương một mình lặn lội vào trong rừng và bắt gặp Khương Tử Nha đang ngồi buông câu bên suối. Vốn dĩ Khương Tử Nha đã tiên đoán được rằng hôm nay Cơ Xương sẽ đến, nên làm như vô tình mà ca rằng:

Tây phong khởi hề bạch vân phi

Ngũ phượng minh hề chân chủ hiện

Tuế dĩ mộ hề tương yên vi

Thuỳ điếu ty hề ngã vi

Nghĩa là:

Gió tây nổi chừ mây trắng bay

Năm phượng hót chừ vua sáng hiện

Tuổi đã cao chừ làm chi đây?

Buông câu chừ hiểu ta ít thay!

Và vua sáng tôi hiền đã gặp nhau trong tình cảnh đó. Khương Tử Nha lúc này đã tám mươi tuổi, được phong làm Thừa tướng. Nhưng Chu Văn Vương qua đời khi sự nghiệp còn dang dở, trước lúc lâm chung, đã truyền ngôi lại cho Cơ Phát, và uỷ nhiệm Khương Tử Nha làm tướng phụ phò tá Chu Vũ Vương.

Tương truyền đài Phong Thần tại Tây Kỳ là do Khương Tử Nha vâng mệnh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn kiến lập nên. Mục đích chủ yếu là để phong thần cho những người xả thân vì nước hoặc tử chiến trong giai đoạn An Trụ sắp diệt vong và trong quá trình Vũ Vương phạt Trụ, nhằm an ủi người đã khuất, khiến vong hồn của họ có nơi nương tựa. Khi sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương đã thành công, chính quyền mới đã được kiến lập, mọi người đều đã được thụ phong tại đài Phong Thần, chỉ còn Khương Tử Nha vẫn sống thọ, chưa đến lúc về trời. Để hoàn thành nhiệm vụ phong thần, ông đã tự phong mình là chủ nhân của sao Thiên Cơ.

Có thể coi Khương Tử Nha là một khai quốc công thần hàng đầu của triều Chu. Ông một đời coi việc hưng vong của quốc gia là trách nhiệm của mình, mà không màng đến chuyện sống chết của bản thân. Dùng trí tuệ trác việt và mưu lược cao thâm của mình để hết lòng phò tá Vũ Vương hoàn thành đại nghiệp diệt Trụ. Ông còn sở hữu nhiều pháp thuật cao thâm (do là học trò của Nguyên Thuỷ thiên tôn) và sách lược cai trị, nên đã giúp ích rất nhiều cho chính quyền nhà Chu còn non trẻ.

Tài văn thao vũ lược cùng sự nghiêp huy hoàng của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng rộng rãi. Bởi vậy không hề thái quá khi ông tự phong cho mình làm chủ quản sao Thien Cơ, chủ về “thiện lệnh” (gồm cả văn đức, vũ đức), trở thành nhân vật đại diện cho trí tuệ và “thiện thần” của Cung Huynh Đệ trong Tử Vi.

Khương Tử Nha qua sử sách

Khương Tử Nha là một nhân vật truyền kỳ rất đỗi quen thuộc, là người thông minh xuất chúng, rất phù hợp với tính cách của sao Thiên Cơ cai quản “thiện lệnh” trong Tử Vi Đẩu số. Ông là người trù bị những mưu lược quan trọng, là thống soái quân sự tối cao trong sự nghiệp diệt Trụ của Chu Vũ Vương, là khai quốc công thần của triều Chu, đồng thời là ông tổ của nước Tề, người khai sáng nên văn hoá Tề. Khương Tử Nha còn là một nhà thao lược, nhà quân sự và chính trị gia kiệt xuất dể lại nhiều ảnh huởng sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc cổ đại.

Khương Tử Nha vốn họ Lã, tên Vọng, tự Tử Nha, hiệu Phi Hùng, còn được gọi là Lã Thượng. Thư tịch các đời đều xác nhận địa vị quan trọng của ông trong lịch sử. Các học phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Binh gia, Tung hoành gia đều truy nhận ông là nhân vật trong học phái của mình, nên ông được tôn là “Bách gia tông sư”.

Thay lời kết

Đặc trưng lớn nhất của Sao Thiên Cơ là Tính Thiện. Bản thân Sao Thiên cơ thích nhất là gặp gỡ các sao mang tính chất thông minh, chủ sự học vấn như Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa. Khi hội hợp được các cát diệu kể trên, Thiên Cơ càng trở nên mẫn tiệp, đa học, đa năng.

Ngược lại, nếu Sao Thiên Cơ lại hội hợp nhiều Hung, Sát tinh như Kình Dương, Đà La, Không Kiếp, sẽ phá đi những đức tính tốt đẹp của Thiên Cơ. Khiến Thiên Cơ tâm tư bất định, nhiều vất vả, lo lắng, mà thiếu đi hiệu quả thực tế…

Sao Thiên Đồng – Hoán Cải Vô Thường – Đa Phúc Đức

0
Sao Thiên Đồng – Hoán Cải Vô Thường – Đa Phúc Đức

Sao Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, đóng ở vị trí thứ 4 của chòm Nam đẩu tinh. Thiên Đồng hóa khí là phúc tinh, chủ về phúc thọ. Là thần chưởng quản Cung Phúc Đức trên lá số Tử Vi. Chính vì thế nên khi Sao Thiên Đồng đóng vào Cung Phúc Đức, các cụ gọi là Phúc Cư Phúc Vị, rất là tốt đẹp…

Thiên Đồng mắt lớn lưng dầy

Vóc người mập mạp, diện đầy phương viên

Tâm cao chí đại nhưng hiền

Không cao ngạo, dẫu bút nghiên thực tài

Đàn hiềm đà kị làm lai

Mắt lươn ti hí lại hay ngồi đồng

Cùng Kình Dương toạ Ngọ cung

Với sao Phương, Giải anh hùng một phương

Dần Thân cung, đồng Lương đắc cách

Giáp Tân Canh, thủ bạch thành gia

Thiên Lương, Nguyệt Đức chiếu kề

Một là đạo sĩ hai là tăng nhân.

 

Ý nghĩa Sao Thiên Đồng, Luận giải Sao Thiên Đồng

Có quan điểm cho rằng Sao Thiên đồng là phúc tinh, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung sát của lục sát tinh như Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên. Hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác “có phúc không biết hưởng” hay “số vất vả”.

Đối với Cổ nhân nhìn nhận về sao Thiên Đồng cho rằng : Thiên Đồng – Thập nhị cung trung giai viết phúc. Tức là trong cả 12 cung, Thiên Đồng cư cung nào cũng giáng Phúc cho cung đó. Thiên Đồng nhập mệnh là người Thông minh, có tính thiện, bẩm tính ôn lương khoan hòa nhân hậu. Nếu nhập miếu thì Phú Quý Phúc thọ toàn vẹn, nhược bằng hãm địa thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông.

Vì Thiên Đồng là Phúc Thần, chủ quản việc tế tự, nên người Thiên Đồng thường ưa các việc tâm linh, chùa chiền lễ bái. Vì là Phúc Thần nên Thiên Đồng rất có lợi trong việc sinh sản, hôn nhân. Hạn đến Thiên Đồng khả dĩ có thể thêm nhân khẩu trong nhà.

Sao Thiên Đồng miếu địa tại Dần Thân.

Vượng địa tại .

Đắc địa tại Mão Tỵ Hợi.

Hãm địa tại Ngọ Dậu Thìn Tuất Sửu Mùi.

Tại Dần Thân thì đồng cung với Thiên Lương

Tại Tí Ngọ thì đồng cung với Thái Âm

Tại Sửu Mùi thì đồng cung với Cự Môn.

Các cung khác là đơn thủ.

Sao Thiên Đồng thủ mệnh

Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.

Về hình dáng người Thiên Đồng

Người Thiên Đồng thường đầy đặn, nét mặt sáng sủa, da trắng. Hình tính phú viết về Thiên Đồng:

Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì“. (Người thiên đồng thì béo đầy, vẻ mặt thanh kỳ, mắt đẹp).

Nhưng đấy là Thiên Đồng nhập Miếu. Còn nếu Hãm, hoặc gia ngộ sát tinh hình kị thì thường có vết trên cơ thể, tuy da trắng nhưng không phì mãn, đặc biệt, mắt thường có điểm dị biệt.

Phú nói “Thiên Đồng Như Đà Kị phì mãn nhi mục miểu” (Thiên đồng giống như Đà Kị, béo đầy nhưng mắt thường có vẻ man mác buồn, hoặc có điểm khác lạ).

Trong Đẩu Số Tân Biên, Thái Thứ Lang viết “thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn đầy đặn”.

Với Nữ nhân, Thiên Đồng đắc địa nếu được hội cũng Quý Tinh, Xương Khúc, Khôi Việt thì Dung nhan mỹ ái.

Phú nói “Phúc diệu phùng Việt Diệu, định thị hải hà dục tú” (Thiên Đồng mà gặp Thiên Việt, hẳn là người đẹp đẽ khoáng đạt như sống dài biển rộng)

Tính cách người Thiên Đồng

Người Thiên Đồng thì Nhân hậu, từ thiện, thích làm việc thiện, ưa điều thiện. Thích các việc tâm linh, chùa chiền, lễ bái. Câu phú nối tiếng nói về tính tình của Thiên Đồng là:

“Thiên Đồng hoán cải vô thường” (thiên đồng nhập mệnh, là người thay đổi không ổn định).

Do vậy mà Thái Thứ Lang mới viết “Canh cải thất thường” “không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc”.

Thiên Đồng là Phúc tinh, đương nhiên là mang tính thiện. Người Thiên Đồng sống hòa đồng, có phần dễ dãi, không ưa tranh đấu cừu thù. Ghét thị phi miệng tiếng (trừ một vài trường hợp đặc biệt).

  • Nếu Đồng miếu nhập mệnh thì bẩm tính ôn hòa lương thiện, đẹp lòng mọi người. Nếu hội được Văn Tinh, Quý tinh thì Văn mặc tinh thông, hiền lành mà ngay thẳng.
  • Nếu hãm địa mà lại ngộ sát tinh hội hợp thì là người ba phải, không có chính kiến. Thích phiêu lưu thay đổi. Điểm đặc tính chung của Thiên Đồng là khả năng dục tính mạnh, cả Nam lẫn nữ. Nếu hãm địa, gia sát, Nam Nữ thường dâm bôn.

Như trên đã nói về các điều khái quát của Thiên Đồng. Cổ nhân cho rằng, Thiên Đồng là một Phúc Tinh, không sợ Hung Tinh Thất Sát, chẳng sợ các hung tinh khác vây bọc. Lại cho rằng trên cả 12 cung, cung nào cũng ban phúc.

Số mệnh người Thiên Đồng như thế nào?

Thiên Đồng nhập mệnh, vốn dĩ là Phúc Thiện Tinh, hợp với nhóm văn tinh, quý tinh, cho nên nếu đắc cách hội được Tả Hữu, Xương Khúc thì văn mặc tinh thông, kiến văn quảng bác. Cổ nhân nói rằng

“Thiên Đồng dữ Xương Khúc tụ củng – Chủ hoa vinh” – Một đời quý hiển nhàn nhã.

Nếu hội được thêm Khoa Quyền Lộc Quý, thì Phú Quý toàn vẹn ít ai bằng.

Phú viết rằng “Thiên Đồng hội cát thọ nguyên thời”.

Nếu Thiên Đồng tránh xa được sát tinh, dâm tinh. Hội cát tinh thì tuổi thọ, phúc ấm cao dày. Nhược bằng hãm địa, thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông.

  • Nếu hãm mà gặp sát tinh, ắt tàn tật, cô khắc hoặc mang bệnh nan y trong người.
  • Nếu hãm mà gặp Dâm tinh thì hoang dâm vô độ, tuổi thọ chiết giảm. Phúc ấm suy đồi.

Sao Thiên Đồng, với cổ nhân có 2 tính xấu :

  • Thứ nhất là cái sự hay thay đổi, không ổn định. Luận về Thiên Đồng, cổ nhân phê rằng : “Thiên Đồng nhập mệnh, hoán cải vô thường”. Tức là thay đổi không ổn định, không biết đâu mà lần.
  • Thứ hai là công danh, tài lộc thường chậm muộn. Cổ nhân phê rằng “Thiên Đồng bạch thủ thành gia” (Thiên đồng – tay trắng làm nên cơ nghiệp). hay cụ thể hơn “Thiên đồng bạch thủ sinh tài vãn phát”. (thiên đồng tay trắng làm ra tiền bạc, nhưng cuối đời mới phát).

Về đặc tính thứ nhất, cổ thư đều nói rằng “Thiên Đồng canh cải thất thường”. Cái sự biến đổi của Thiên Đồng không thể lường trước được. Nhưng không nên hiểu theo nghĩa hẹp là TÍNH NGƯỜI. Đúng là về TÍNH thì người Thiên Đồng cũng rất hay thay đổi, mục tiêu, chí hướng thường không rõ ràng. Dễ quên, dễ tha thứ, dễ bị người khác làm cho lung lạc. Còn trên phương diện tổng quát, cái sự “hoán cải vô thường” nó thể hiện cả trên số mệnh.

Người Thiên Đồng thủ mệnh thì công danh, việc làm, gia đình, chỗ ở đều có xu hướng không ổn định. Trong các thế đứng của Thiên Đồng, thì tại Tỵ Hợi, Thiên Đồng đối cung với Thiên Lương, tạo ra cách “Đồng Lương Tỵ Hợi”. Theo cách này thì “Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm“, Nam thì phiêu dạt giang hồ nơi chân trời góc bể, nữ thì dâm bôn. Cái câu “nam đa lãng đãng” chỉ rằng con người phiêu du, phiêu lãng không có gì ổn định. Đây cũng là một đặc tính xấu của Thiên đồng.

Mặt khác, do bản thân sao Thiên đồng hiểu được cách theo đuổi hưởng thụ cuộc sống về mặt vật chất và tinh thần, nên không chỉ dốc hết tâm sức, mà hơn nữa, lại còn suy nghĩ hộ người khác, luôn muốn hưởng thụ tốt hơn nữa mặc dù bản thân điều kiện chưa cho phép, chưa thể tự mình tạo ra môi trường tốt. Do vậy, ăn, mặc, ở, đi, lại, là những nhu cầu giản yếu, khi một loại nhu cầu nào đó khiến con người ta thoải mái, đều có thể khiến cho sao Thiên đồng phát triển được tài năng.

Sao Thiên đồng không thích nỗ lực phấn đấu, nên thường sau khi bận rộn, tự biết tìm ngay đến phương thức hưởng thụ, đây chính là một chút khích lệ cho bản thân mình.

Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chủ về an phân thủ thường, sống bình dị dễ gần, bị động bảo thủ, biết hài lòng với những gì đã có, an nhàn, yên ổn, tự tại là tâm tính ổn định hơn người thường, khó tránh khỏi việc được nhiều mất nhiều, trốn tránh hiện thực. Cũng vì vậy mà thiếu đi quyết tâm và khí phách phấn đấu sự nghiệp, hay sáng tạo cục diện mới, vì vậy sao Thiên đồng hợp với nữ giới hơn là nam giới.

Sao Thiên đồng trong mệnh bàn có chức năng đặc thù, đó là vì thời gian bôn ba vất vả trên trần thế càng nhiều, thì cơ hội an nhàn thoải mái càng ít, thường sao Thiên đồng kịp thời xuất hiện để điều chỉnh. Vì vậy, bất luận cách cục của mệnh bàn như thế nào, chỉ cần gặp sao Thiên đồng đều có thời gian nghỉ ngơi để nuôi dưỡng tinh thần, nạp thêm năng lượng, chuẩn bị cho cuộc sống tiếp sau.

Sao Thiên đồng cũng có tính chất đào hoa, đào hoa của sao này thiên về hoạt động xã giao với người khác giới, dễ lạc đề, tình cảm trọng về lý trí, tự suy tưởng hưởng thụ một chiều. Vì vậy người có sao Thiên đồng thủ mệnh về mặt tinh thần và tình cảm thường có cảm giác hư không, nên thích hướng ngoại tìm kiếm sự kích thích để duy trì hạnh phúc đang có, nhưng cần kiềm chế nhiệt tình thái quá mà không đúng nơi đúng chỗ, để tránh sinh ra những vướng mắc tình cảm lệch lạc, mệnh nữ thì càng phải thận trọng.

Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chỉ cần thay đổi quan niệm và thói quen, tạm thời không đi hưởng phúc, mà tích cực đối diện với cuộc sống thì vẫn có thể đạt được những thành công như mong muốn.

Sao Thiên Đồng Thái Âm Đồng Cung

“Thiên Đồng Thái Âm” đồng độ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Tí thì tốt hơn, vì ở cung Ngọ thì Sao Thái Âm lạc hãm, còn gây ảnh hưởng khiến Thiên Đồng có tâm trạng không ổn định. Nếu lại gặp sát tinh, sẽ chủ về bệnh mang tính thần kinh, âm dương không điều hoà, nội tiết mất quân bình, âm hư, v.v… Không gặp sát tinh cũng chủ về thần kinh quá mẫn cảm.

“Thiên Đồng, Thái Âm” ở cung Ngọ, gặp cát tinh, nhưng có Kình Dương đồng độ, gọi là “Mã đầu đới tiễn”. Người sinh năm Bính, Thiên Đồng Hoá Lộc, tốt hơn người sinh năm Mậu, Thái Âm Hoá Quyền (ắt cũng gặp Thiên Cơ Hoá Kị). Người sinh năm Mậu phải trải qua gian nguy để lập nghiệp, lại thường vì nghi kị mà sinh phá tán, thất bại. Người sinh năm Bính, sau khi lập nghiệp thì nhiều phúc trạch.

Cách Đồng – Kình cư Ngọ, có thể “Trấn ngự biên cương” trong phú đoán đã nêu là do phụ thuộc vào KÌNH DƯƠNG làm nên cách này, và THIÊN ĐỒNG là TRỢ CÁCH, vì sao?

Để ý, về Kình dương có 2 câu phú :

  • Kình dương cư ngọ, mã đầu đới kiếm, phi yểu chiết tắc hình thương
  • Kình dương cư Ngọ, trấn ngự biên cương

Hai câu phú này trái ngược nhau, vì bản chất Kình cư Ngọ là đất Hãm, chủ về sát phạt. Tượng của Kình là Kiếm, cư cung Ngọ thì như kiếm treo cổ Ngựa, là kẻ bôn ba, xông xáo nơi hòn tên mũi đạn, nước sôi lửa bỏng. Nếu được trợ tinh tốt, tá tinh tốt thì có thể tạo lên sự nghiệp, mà trước hết là An toàn cho bản thân, sau nữa là có uy danh.

Thiên Đồng vốn dĩ là Phúc tinh, cách Mã đầu đới kiếm mà gặp được Phúc tinh thì sẽ tránh được cái “hình-sát” do Kình Hãm mang lại, nhưng cái tượng Mã đầu đới kiếm thì không đổi, cho nên dù an toàn, có uy danh, nhưng cũng là “lưu danh nơi biên ải” (hình tượng thế!), làm nên sự nghiệp trong những hoàn cảnh khó khăn, nước sôi lửa bỏng. Do vậy, nếu nói Đồng chế được Kình cư Ngọ cũng không sai.

Còn trường hợp 2, nếu Kình hãm, mà hội một bầy sát tinh, bại tinh, đặc biệt là dâm tinh thì khỏi bàn, nhẹ thì cũng mang thương tích, nặng thì cố tật, mà nặng nữa thì táng mạng khó toàn.

“Thiên Đồng Thái Âm” ở cung Tí tuy không tốt bằng ở cung Ngọ thuộc cách cục “Mã đầu đới tiễn”; nhưng lại hơn xa “Thiên Đồng, Thái Âm” ở cung Ngọ mà không thành cách. Vì có thể mượn “Thái Dương, Cự Môn” của cung Dần, nếu được cát hoá, chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) đề bạt. Nữ mệnh thường kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Nhất là cung Tí vô chính diệu, mượn “Thiên Đồng, Thái Âm” của cung Ngọ để an sao thì càng đúng; hoặc cung Ngọ vô chính diệu, mượn “Thiên Đồng, Thái Âm” của cung Tí cũng vậy.

“Thiên Đồng Thái Âm” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất kị Thiên Đồng hay Thái Âm Hoá Kị. Khi đến cung hạn Thiên Tướng toạ thủ, bất kể lưu niên hay đại hạn đều có khuyết điểm, thông thường là niên hạn chủ về trắc trở. Nếu người sinh năm Đinh, Thiên Đồng Hoá Quyền, Thái Âm Hoá Lộc, thì cung phúc đức Cự Môn ắt sẽ Hoá Kị, thích hợp với các nghề nghiệp cần đến tài ăn nói. Nữ mệnh đến vận Thiên Tướng, chỉ cần đề phòng trắc trở trong hôn nhân.

Đối với “Thiên Đồng Thái Âm” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp sát tinh, thì các cung hạn Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang là những niên vận có tính then chốt; không gặp sát tinh mà gặp cát tinh, thì các cung hạn “Tử Vi, Thất Sát”, Thiên Tướng, “Thiên Cơ, Thiên Lương” là các niên vận có tính then chốt.

Thái âm và Thiên đồng nếu trấn tại mệnh, hoặc trấn Điền trạch tại Tí, là cách “Nguyệt sinh thương hải” (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh – Tài – Quan là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách “Nguyệt Đồng ngộ sát”, chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.

Sao Thiên Đồng Cự Môn

“Thiên Đồng Cự Môn” ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Sao Cự Môn là ám tinh, ảnh hưởng đến sắc thái tâm trạng của Thiên Đồng. Cho nên bản thân các tổ hợp sao đã có khuyết điểm. Như Thiên Đồng Hoá Kị, thì tâm chí bạc nhược, hoặc có nỗi đau khổ thầm kín. Cự Môn Hoá Kị sẽ chủ về nỗi đau khổ thầm kín trong đời người thường là do bản thân mệnh tạo chủ động gây ra.

“Thiên Đồng Cự Môn” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Hoá Lộc thì tài lộc dồi dào, nhưng vẫn không tránh được, có nỗi đau khổ thầm kín. Cần phải Cự Môn Hoá Quyền, hoặc hội các sao Hoá Khoa, Hoá Quyền mới chủ về tâm trạng ổn định, có thể tránh bị người ngoài gây ra nỗi đau khổ thầm kín.

Tổ hợp “Thiên Đồng Cự Môn”, nếu Cự Môn Hoá Kị, thì Thiên Đồng ắt sẽ hoá thành sao quyền. Thiên Đồng Hoá Quyền có thể ổn định tâm trạng, Cự Môn Hoá Kị thì sinh lực kích phát; nhưng lúc này, nếu ở cung Sửu, thì bị Kình Dương, Đà La chiếu xạ. Nếu ở cung Mùi, ắt sẽ có Kình Dương đồng cung, lực kích phát thái quá sẽ thành rối rắm khó xử. Vì vậy không tốt bằng Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất đối nhau với Cự Môn.

Đối với “Thiên Đồng, Cự Môn”, ngoài trừ cung hạn Thất Sát là vận hạn có tính then chốt ra, còn có các cung hạn khác là “Thái Dương, Thiên Lương”, Thái Âm, Phá Quân, Thiên Cơ là những hạn có tính then chốt.

Hễ “Thiên Đồng, Cự Môn” đồng độ với Đà La, là chủ về buồn phiền, đời người ắt phải trải qua sóng gió lớn mới phát mạnh. Về vận phát mạnh, nam mệnh nên đến cung hạn Thất Sát, nữ mệnh đến cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Phủ”.

Sao Thiên Đồng Thiên Lương

“Thiên Đồng Thiên Lương” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, thành cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Kết cấu này ổn định hơn “Thiên Cơ, Thái Âm” thủ mệnh thành cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Có điều, Sao Thiên Đồng chủ về tâm trạng, Sao Thiên Lương chủ về nguyên tắc, hai sao đồng cung, khó tránh mâu thuẩn, xung đột. Nhưng vẫn lấy trường hợp gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền làm cách cục cát lợi; gặp Hoá Khoa thì chỉ sang quý thanh cao, có địa vị xã hội, nhưng không giàu có, thu nhập sẽ tuỳ theo địa vị mà định.

“Thiên Đồng Thiên Lương” ở hai cung Dần hoặc Thân, chủ về bất lợi trong hôn nhân, cung phu thê là Cự Môn Hoá Kị thì càng đúng.

Đối với “Thiên Đồng Thiên Lương” ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn “Vũ Khúc, Thất Sát”, Cự Môn, Thái Âm, Thái Dương là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt.

Sao Thiên Đồng độc thủ – độc tọa

Cơ hội mà sao Thiên đồng độc tọa không nhiều, vì bất kỳ sao nào cũng đều có phúc không bằng sao Thiên đồng. Do đó mà sao đồng cung với sao Thiên đồng, hoặc ít hoặc nhiều cũng đều có ảnh hưởng tới “phúc khí” của Thiên đồng, sự ảnh hưởng “phúc khí” đó là:

  • Thứ nhất: khiến cho mức độ hưởng phúc của sao Thiên đồng giảm, hoặc giảm thời gian hưởng phúc.
  • Thứ hai: khiến cho con đường hưởng phúc của sao Thiên đồng tương đối trắc trở.
  • Thứ ba: do có phúc khó được hưởng, mà khiến cho đời sống tình cảm hôn nhân dễ gặp nhiều khó khăn.

Thiên Đồng độc toạ ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thái Âm. Trường hợp Thái Âm ở cung Dậu thì tốt hơn. Nếu người sinh năm Đinh, có tứ hoá diệu tụ hội, do Cự Môn Hoá Kị ở cung tài bạch, nên không chủ về lực kích phát, mà chỉ chủ về dùng lời nói để kiếm tiền, nếu không sẽ thành điều tiếng thị phi.

Thiên Đồng ở cung Dậu, nếu đối cung là Thái Âm Hoá Kị, thì dễ thất chí, hoặc nhiều mặc cảm tự ti. Thiên Đồng ở cung Mão, đối cung là Thái Âm Hoá Kị, sẽ chủ về thủ đoạn.

Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, nếu hội Cự Môn Hoá Lộc hoặc Cự Môn Hoá Kị, thì cũng dể sinh nỗi đau khổ thầm kín, nhất là đau khổ vì mối tình không bình thường, giống như “Thiên Đồng, Cự Môn” ở hai cung Sửu hoặc Mùi.

Đối với Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, các cung hạn Thiên Cơ, Thất Sát, Thiên Lương, Cự Môn là những niên hạn có tính then chốt.

Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Cự Môn, cũng có đặc tính của “Thiên Đồng, Cự Môn”. Có điều, Thiên Đồng ở cung Tuất ưa đối cung là Cự Môn Hoá Kị kích phát, gọi là cục “phản bối”, chủ về gian khổ sáng lập sự nghiệp, cần phải chú ý điều hoà quan hệ nhân tế, vì có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp.

  • Thiên Đồng ở cung Thìn, đối cung là Cự Môn Hoá Kị, cho nên không thành cục “phản bối”, vì hội Thiên Lương có tính “cô kị” ở cung Tí không bằng hội Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng lại ít tính chất “qua cơn mưa trời lại sáng” để thành sự nghiệp lớn.
  • Thiên Đồng ở cung Thìn, thông thường đều độc đoán, có thành kiến. Vì vậy không nên hợp tác làm ăn với người khác.
  • Đối với Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn “Liêm Trinh, Thất Sát”, Thiên Lương, Cự Môn, “Thiên Cơ, Thái Âm” là những niên vận có tính then chốt.
  • Thiên Đồng ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ở cung Tỵ tốt hơn. Ở cung Hợi thì Thiên Lương của đối cung ở cung Tỵ, dễ mang lại thị phi, kiện tụng, khắc hại.
  • Thiên Đồng đối nhau với Thiên Lương, có tính lười biếng. Vì vậy nên thận trọng trong việc kết bạn, dễ giao du với bạn xấu, khiến ảnh hưởng xấu đến cuộc đời.
  • Thiên Đồng ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, rất ngại Hoá Kị, nhất là ở cung Hợi, chủ về cuộc đời vất vả, rời xa người thân, lưu lạc, không nơi nương tựa; ở cung Tỵ thì có thể tự lập, chỉ cần giữ ổn định, không được thấy mới nới cũ, mới có thể lập nghiệp.
  • Thiên Đồng ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, lúc hơi thành tựu, nhất thiết không được hợp tác với người khác, nếu không sẽ có kết cục rất xấu.
  • Đối với Thiên Đồng ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, các cung hạn “Thiên Cơ, Cự Môn”, Thất Sát, Liêm Trinh là những niên hạn có tính then chốt.

Bàn thêm về Sao Thiên Đồng

Thiên Đồng vốn thường đi cùng với Cự môn và Thiên Cơ, là Cơ Cự Đồng cho nên Thiên Đồng bị ảnh hưởng mạnh của Sao Cự môn, Thiên Đồng cũng có thể đồng độ cùng Thiên lương hay Thái Âm, cho nên bản chất Thiên Đồng cũng có nhiều sự tương đồng với, Thái Âm, Thiên Lương.

Hơn nữa tiền nhân còn nói “Thiên đồng hoán cải vô thường”. Cho nên tuy Thiên Đồng là thọ tinh nhưng về mặt sự nghiệp lại yếu thế, nhất là trong xã hội trong kim tiên hay danh vị như hiện nay. Bởi lẽ để đạt được sự nghiệp đòi hỏi con người cần phải kiên định, kiên trì, chịu khó. Đây là phần thiếu sót thường thấy của Thiên đồng, bởi Thiên đồng là sao bất định, hay thay đổi, thiếu chính kiến, cho nên giống trẻ con, dễ vui, dễ giận, tính khí thất thường. trong sự nghiệp thật khó mà sáng lập được.

Là người khiêm tốn dịu dàng, hết lòng tuân thủ, ứng đối có lễ nghĩa, nhân từ thẳng thắn, mềm mỏng hòa nhã tinh thông. Phàm là làm việc lớn hóa nhỏ, có mới nới cũ, có ý tưởng kế hoạch nhưng lại thường không có giới hạn, vì vậy mà nói thì nhiều mà làm thì ít, có tính hài hước và tính trẻ con. Bình thường không hay tranh chấp với người khác, nhẫn nại mà chẳng bận tâm phiền não, không hay tính toán với người nên cũng không hay phải tức giận vô cớ, xong thì thôi vì vậy duy trì quan hệ với mọi người ở mức độ giao tiếp.

Tư duy nhạy bén, khả năng lý giải tốt, tính thích ứng cao, thích làm việc thiện, yêu văn nghệ, chú trọng đến hưởng thụ cuộc sống, thích đầu tư vào hình thức ăn mặc sang trọng. Thích cuộc sống nhàn hạ, việc gấp cũng từ từ, lạc quan nhưng không tích cực, được chăng hay chớ, cổ nhân thường gọi là người “trí túc thường lạc”

Thiên Đồng các sách ít khi đề cập đến cái xấu, nhưng kỳ thực sao nào hãm địa hay đi cùng cách cục xấu, đều có những cái xấu. Thiên đồng thọ tinh nhưng hãm địa không cát hóa lại thêm Kình Đà Hỏa Linh thì tuổi thọ chắc chắn phải giảm đi nhiều, mà cuộc sống cũng rất vất vả để mưu sinh, nhất là khi Thiên đồng hóa kị thường mang trạng thái tiêu cực, bất định, dễ cảm xúc, khó mà ổn định được tâm trí và có thể yên tâm làm ăn được, cho nên Thiên đông hóa kị gia tứ sát là hạ cách, trong sự nghiệp thì khó làm lên được gì, cuộc sống cũng vất vả, theo đó tuổi thọ cũng chiết giảm.

Thiên Đồng gặp Kình Dương Đà La

Thiên đồng gặp Đà la ở cung mệnh, thường chìm đắm trong hiện tại. Thiên đồng gặp Kình dương thân thể dễ bị tổn thương. Thiên đồng thủ mệnh, gặp Kình Đà Hỏa Linh, và hóa Kị thì chủ về khai đao, phá tướng, nếu không thì thường xuyên bị đau ốm.

Sao Thiên Đồng hóa Lộc – Can Bính

Sao Thiên đồng Hóa Lộc thiên về thực lộc, chủ về hưởng thụ, có “khẩu phúc” (được ăn ngon), ngược lại khiến người ta càng thêm lười nhác uể oải.

Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Đồng hóa Lộc

Sao Thiên Đồng hóa Quyền – Can Đinh

Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp Sao Hóa Quyền và  Hóa Khoa, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ

Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Đồng hóa Quyền

Sao Thiên Đồng hóa Kị – Can Canh

Sao Thiên đồng hóa Kị chủ về lao động vất vả. Khi Sao Hóa Kị nhập mệnh cũng là người có chủ nghĩa lạc quan, nhưng thường điều hòa cuộc sống công việc hằng ngày không hợp lý, nhiều sự việc trái với mong muốn, hoặc cơ năng thân thể thiếu hài hòa.

Kị nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.

Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Đồng hóa K

Sao Thiên Đồng Cung Phúc Đức


Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Phúc Đức,trường hợp này cổ nhân gọi là Phúc Cư Phúc Vị, rất cát lợi. Nếu cần thiết, các bạn có thể tham khảo thêm Thiên Đồng Cung Phúc Đức

Sao Thiên Đồng ở Cung Quan Lộc

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Quan Lộc chủ về tay trắng mà thành, tự mình dựng cơ kiến nghiệp. Nếu cần thiết các bạn có thể tham khảo thêm ở Sao Thiên Đồng ở Cung Quan Lộc

Sao Thiên Đồng Cung Tài Bạch

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Tài Bạch định chủ cuộc đời sẽ có lần tay trắng làm lại, chắc chắn trong đời sẽ có lần làm ăn thua to lỗ lớn không còn gì. Nếu cần thiết, các bạn có thể tham khảo thêm tại Sao Thiên Đồng Cung Tài Bạch

Sao Thiên Đồng Cung Thiên Di

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Thiên Di chủ về việc đi xa lập nghiệp sẽ phát phúc phát tài, tha hương sẽ làm cho bạn trở nên giàu có. Nếu cần tham khảo thêm tại Thiên Đồng Cung Thiên Di

Sao Thiên Đồng Cung Điền Trạch

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Điền Trạch chủ về sự phá tán tổ nghiệp vì bản chất của Thiên Đồng là bạch thủ thành gia. Nếu cần, các bạn tham khảo thêm tại Thiên Đồng Cung Điền Trạch

Sao Thiên Đồng ở Cung Phu Thê

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Phu Thê nếu ngộ lục cát thì chủ người phối ngẫu của bạn xinh đẹp thông minh. Nếu có thể thì nên kết hôn muộn. Nếu cần chi tiết hơn, mời bạn tham khảo Thiên Đồng ở Cung Phu Thê

Sao Thiên Đồng Cung Tử Tức

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Tử Tức, bởi Thiên Đồng là phúc tinh nên sẽ giải được các trường hợp bị hiếm con muộn cái. Chi tiết mời bạn tham khảo Thiên Đồng Cung Tử Tức

Sao Thiên Đồng Cung Phụ Mẫu

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Phụ Mẫu nếu miếu địa thì chủ về lúc nhỏ được cha mẹ che chở nuôi nấng yêu chiều. Nếu cần chi tiết hơn, mời bạn tham khảo tại Thiên Đồng Cung Phụ Mẫu

Sao Thiên Đồng Cung Huynh Đệ

Khi Sao Thiên Đồng nhập vào Cung Huynh Đệ, nếu nhập miếu thì chủ về đông anh em, anh em sống hòa thuận nhưng lại ít giúp đỡ nhau…Nếu cần thêm chi tiết, mời bạn tham khảo tại Thiên Đồng Cung Huynh Đệ

Sao Thiên Đồng Cung Tật Ách

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Tật Ách thì chủ về ít bệnh tật tai nạn, gặp hạn xấu thì cũng dễ tai qua nạn khỏi. Nếu cần tham khảo thêm chi tiết, mời các bạn đọc Sao Thiên Đồng Cung Tật Ách

Sao Thiên Đồng Cung Nô Bộc

Khi Sao Thiên Đồng đóng Cung Nô Bộc chủ đương số là người giao du rộng rãi, nếu gia thêm Tả Hữu Xương Khúc.. thì càng phiêu bạt giang hồ tứ hải…Nếu cần tham khảo thêm, mời các bạn đọc Sao Thiên Đồng Cung Nô Bộc

Sao chủ Mệnh Văn Khúc – Sao Chủ Thân Thiên Đồng

La Hồng Tiên luận về Sao Thiên Đồng

“Thiên Đồng tinh chúc thủy, nãi nam phương đệ tứ tinh dã, vi phúc đức cung chi chủ tể. Phục vân: hóa phúc tối hỉ ngộ cát diệu, trợ phúc thiêm tường, vi nhân liêm khiết, mạo bẩm thanh kì. Hữu ki xu vô kháng kích, bất phạ thất sát tương xâm, bất phạ chư sát đồng triền. Hạn nhược phùng chi, nhất sanh đắc địa, thập nhị cung trung giai viết phúc, vô phá định vi tường”

Tạm dịch là : Thiên Đồng thuộc thủy, là ngôi thứ 4 trong chòm Nam Đẩu, là chủ tể cung Phúc Đức. Lại nói rằng : Hóa Phúc (Thiên Đồng) tối hỉ nếu gặp được cát diệu, trợ phúc thêm điều lành. Là người liêm khiết, dung mạo vốn dĩ đẹp đẽ. Gặp cơ hội cũng không tranh giành vội vã. Chẳng sợ Thất Sát xâm hại, chẳng sợ các sát tinh khác vây bọc. Hạn nếu gặp được (thiên đồng), là được đắc địa, mười hai cung đều nói rằng được ban phúc. Nếu không bị phá, nhất định là điềm tốt

Hi Di Tổ Sư luận về Sao Thiên Đồng

“Thiên Đồng nam đẩu ích toán bảo sanh chi tinh, hóa lộc vi thiện, phùng cát vi tường, thân mệnh trị chi, chủ vi nhân khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tất từ ngạnh trực, văn mặc tinh thông, hữu kì chí vô hung kích. Bất kị thất sát tương xâm, bất úy chư hung đồng độ, thập nhị cung trung giai vi phúc luận.

Ngộ tả hữu xương lương quý hiển, hỉ nhâm ất bính sanh nhân, Tỵ hợi hãm địa. Bất nghi lục canh sanh nhân cư dậu địa, chung thân bất thủ. Hội tứ sát cư Tỵ hợi vi hãm, tàn tật cô khắc. Nữ nhân phùng sát trùng phá, hình phu khắc tử. Lương nguyệt trùng phá, hợp tác thiên phòng, tăng đạo nghi chi, chủ hưởng phúc”

Tạm dịch là :

Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu tinh, lợi ích cho việc sinh lời, bảo trợ cho sinh sản. Hóa khí là Thiện Tinh, gặ được cát tinh thì tốt, nếu nhập vào thân mệnh, chủ về người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa, hiền mà ngay thẳng, văn mặc (học vấn, văn chương) tinh thông, gặp cơ hội cung không vội vã.

Không sợ Thất sát xâm hại, chẳng sợ hung tinh vây khốn. Mười hai cung đều luận là tốt. Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, rất tốt đối với người tuổi Nhâm, Tuổi Bính. Đắc địa tại Tỵ Hợi.

Không nên gặp ở người tuổi Canh mà lại cư Dậu, nếu gặp như thế thì Chung thân bất thủ (không giữ được tiết nghĩa). Nếu hội cung Tứ Sát mà đóng ở Tỵ Hợi là xấu, ắt tàn tật cô khắc.

Nếu Nữ nhân có Thiên Đồng mà gặp Sát tinh, trùng phùng với Phá, ắt hình phu khắc tử. Nếu Lương Nguyệt trùng Phá, dễ làm lẽ mọn, nên làm tăng đạo, thì được hưởng phúc.

Vân Đằng Thái Thứ Lang luận về Sao Thiên Đồng

Sao Thiên Đồng khi Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa là người thông minh, có tính khoan hòa, nhân hậu, từ thiện, nhưng không quả quyết, không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc. Tuy vậy, vẫn được hưởng giàu sang và phúc thọ song toàn.

Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, lại là người thích phiêu lưu, nay đây mai đó, và hay thay đổi chỗ ở.

Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, khắc tuổi Đinh, Canh, vậy cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi, có

Đồng tọa thủ, tất suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực và có uy danh lừng lẫy.

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Hình tuy suốt đời vẫn được no cơm ấm áo, nhưng lao tâm khổ tứ, sức khỏe lại suy kém, thường có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa.

Đồng Hãm địa là người kém thông minh và nông nổi, cũng có tính nhân hậu, nhưng thay đổi thất thường, không quả quyết, không có định kiến, làm việc gì rồi cũng chóng chán, lại thích chơi bời ăn uống, tuy sống lâu nhưng rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, luôn luôn lo lắng vì sinh kế, lại hay mắc tiếng thị phi. Cung Mệnh có Đồng Hãm địa tọa thủ, nên đi buôn.

Đồng Hãm địa, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lại là người hay nói khoác lác và không cẩn ngôn.

Đồng Hãm địa Ngọ, là người có óc kinh doanh.

Đồng Hãm địa Tuất, Ngọ ứng hợp với tuổi Đinh. Vậy cho nên tuổi Đinh mà cung Mệnh an tại Tuất, Ngọ có Đồng tọa thủ, tất nhiên là khá giả.

Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Xương Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc phải đoán là cũng có công danh và tiền tài.

Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kị, Hình. Thật là suốt đời lao khổ phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NAM MỆNH

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, có uy danh lừng lẫy. Phúc thọ song toàn.

Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời lao khổ, phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NỮ MỆNH

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, Mão thủ Mệnh, là người đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử.
Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, là người đảm đang, nhưng đa dâm, thường phải sớm ly tổ.

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, tất được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực, và phúc thọ song toàn.

Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, hay Hãm địa, phải muộn lập gia đình hay lấy kế lấy lẽ, mới tránh buồn thương.

Đồng Hãm địa là người hoang đãng dâm dật, tuy được no cơm ấm áo và sống lâu, nhưng suốt đời vất vả, thường phải sớm ly tổ, bôn ba, nay đây mai đó. Đây, nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, lại có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung và hay mắc tai nạn: tuổi thọ cũng bị chiết giảm…”

Lục Bân Triệu luận Thiên Đồng

Sao Thiên đồng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy. Ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm Phúc tinh, là chủ tinh của cung phúc đức trong mệnh bàn. Bẩm tính ôn hòa không sợ tính hung của sao Kình dương, không lo sao Hóa Kị làm loạn.

Cho nên, sao Thiên đồng đồng độ với sao Kình dương ở Ngọ địa thì gọi là cách “Mã đầu đới tiễn” (Đeo tên ở đầu ngựa), chủ về vì quốc gia đem sức lực ra phục vụ, nắm giữ binh phù đại quyền, là vị đại tướng lập công ở chiến trường.

Sao Thiên đồng trấn thủ ở Tuất địa thì gọi là “Phản bối”. Nếu ở Thìn địa thấy Hóa Kị, đồng thời còn gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu, thì lại là thượng cách, chủ về vừa phú vừa quý, đó là tượng “bĩ cực thái lai”.

Quan điểm về Sao Thiên đồng – Vương Đình Chi

Thiên đồng miếu ở ba cung Mão, Tỵ, Hợi, hãm địa ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi.

Thiên đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, hóa khí là “phúc”.

Trong Đẩu Số, sao Thiên đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy thiên đồng có đặc tính là hưởng thụ, theo đó khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.

Tồn tại một khái niệm khá phổ biến, cho rằng “Thiên đồng ở trong 12 cung, đều là phúc trạch”, thực ra không phải vậy. Vương Đình Chi cho rằng “Thiên đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm”.

Nói về cung mệnh, người có Thiên đồng thủ mệnh, Cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng phong nhã; Hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.

Thiên đồng úy kị tính cứng rắn và hình khắc của Hỏa tinh và Linh tinh, nhưng lại không sợ Kình dương. Khi Thiên đồng nằm cùng cung với Kình dương ở Ngọ, gọi là “Mã đầu đới tiễn” trái lại, sẽ chủ về người nắm thực quyền trong quân đội hoặc cảnh sát.

Thiên đồng ở Hợi không ưa Hóa Kị (năm Canh). Nếu can của cung Hợi hóa Kị, gọi là hóa xuất, lại gặp thêm Lục sát và Thiên hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.

Thiên đồng rất ưa trấn thủ tại Tuất, gặp Cự môn hóa Kị ở xung cung lai chiếu, được gọi là “phản bối”, nếu được Lộc tồn và Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, biến thành mệnh đại quý.

Nữ mệnh Thiên đồng cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cổ nhân cho rằng “Nữ mệnh Thiên đồng cư Tỵ Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm”. Luận đoán này được suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thần trở nên phong phú, thì vẫn tránh được cái gọi là “đẹp mà dâm”, đời sống hôn nhân tự nhiên sẽ được vui vẻ. Thiên đồng rất cần sinh hoạt tinh thần phong phú và đa dạng, để lấp đầy cảm giác nhàm chán.

Phàm Thiên đồng nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để ký thác về phương diện tinh thần.

Bất kể là nam hay nữ, nếu Thiên đồng thủ mệnh, gặp sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng lại có thể có năng lực khai sáng, mà không bị sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao Cát, mà không gặp các sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng dễ chìm đắm trong lạc thú mà trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, hoàng đế không có trung thần can gián, ở vào thời chưa gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.

Quan điểm về Sao Thiên đồng của Phan Tử Ngư

Thiên đồng thuộc dương thủy, sao thứ tư của Nam Đẩu, chủ về kéo dài tuổi thọ, làm chủ cung Phúc đức, hóa khí gọi là Phúc.

Cổ nhân gọi sao Thiên đồng là “Ích thọ chi tinh, bảo sinh chi tú” (Sao ích thọ, sao bảo vệ sinh mệnh). Thiên đồng nhập mệnh chủ về thời trẻ nước da mặt trắng, trung niên về già biến sắc ngả trắng vàng, mặt hình chữ nhật. Khi Thiên đồng nhập miếu thì người béo mập, gặp hãm địa thì thấp bé, tính ôn hòa từ thiện có cơ trí, không cao ngạo, tinh thông văn chương bút mực. Nếu gặp Sát tinh đồng cung hay xung chiếu, thì chủ về cô đơn, phá tướng. Nếu đồng cung với Đà la phần lớn là mắt híp, mắt lé và thường phát phì. Nếu nam mệnh Thiên đồng nhập cung Quan, mà bản mệnh không hình thành được cách cục, thì không thể luận là cát. Vì đặc tính lớn của Phúc tinh chỉ biết an hưởng, không có năng lực sáng tạo.

Thay lời kết

Sao Thiên đồng là một phúc tinh, không sợ sát tinh đồng cung hoặc hội chiếu. Có thể không cần đề kháng, cũng có thể tự hóa giải được sự hung hãn của lục Sát tinh. Sát tinh không chỉ không có tổn hại đối với sao Thiên đồng, mà ngược lại, còn thích Sát tinh đến kích phát lực khai sáng của sao Thiên đồng, khiến cho Thiên đồng không bị đình trệ trong sự “hưởng phúc”. Nhưng, cũng có thể trong sự bận rộn và khai sáng, mà có lúc phải than rằng “có phúc mà không được hưởng”. Cần phát triển thêm về mặt ngoại ngữ, hoặc văn nghệ, hoặc học để tăng thêm kỹ năng trong cuộc sống mà tự khai mở nguồn vui mới.

Người có sao Thiên đồng nhập mệnh, nếu không gặp Sát tinh, ngược lại, khiến cho Thiên đồng vốn thích hưởng phúc sẽ chìm đắm trong sự an lạc mà không có sự vươn lên. Thiên đồng thích gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên cơ, Thái âm, Thiên lương, càng chủ thọ cao. Gặp Xương Khúc chủ về tài thiên phú văn học nghệ thuật. Nữ mệnh Thiên đồng gặp Hữu bật, Thái âm, Văn xương, Vũ khúc, thì tình cảm thường nhiều phong ba.

Xem Thêm:

LẬP LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẤY LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẬP LÁ SỐ TỬ VI

LẤY LÁ SỐ TỬ VI

LẬP QUẺ DỊCH

LẤY QUẺ DỊCH

Sao Thiên Lương, Dương Lương Xương Lộc Hội, Lô Truyền Đệ Nhất Danh

0

Sao Thiên Lương hóa khí là Ấm tinh – Ấm tức tập ấm, là cái bóng của cha mẹ. Nên Thiên Lương còn được gọi là Thọ Tinh. Chủ về phúc thọ và phúc đức. Trong Tử Vi Đẩu Số coi Thiên Lương là thần cai quản Cung Phụ Mẫu. Trong tổ chức, Thiên Lương thường đóng vai trò quân sư, mưu sỹ…
Thiên Lương nguyên thuộc thổ

Nam đẩu tới cát tinh

Hoá ấm danh điện thọ
Phụ mẫu cung chủ tinh

Điền trạch huynh đệ nội

Đắc chí phúc tự sinh

Hình thần tự trì trọng

Tâm tính cánh hoà bình

Sinh lai vô tai hoạn

Văn chương hữu thanh danh

Lục thân cánh hoà lục

Sĩ hoạn cư vương đình

Cự môn nhược tương hội

Lao bác lịch lịnh tân

Nhược phùng thiên cơ chiếu

Tăng đạo hưởng sơn lâm

Nhị tịnh tại Thìn Tuất

Phúc thọ bất tu luân.

Nghĩa là: Sao Thiên Lương thuộc thổ, nam đẩu tính háo khí là ấm (Bóng che trở) hỗn danh diên thọ làm chủ cung Phụ Mẫu. Vào điền trạch, huynh đệ đem lại tốt lành. Tính tình trì trọng hào bình, ít gặp tai hoạ, theo nghiệp văn chương dễ nổi tiếng. Ra làm quan dễ hiển đạt. Hội cùng Cự Môn thì cuộc đời vất vả, gian truân, thấy Thiên Cơ chiếu ưa điều đạo, thích tu ẩn sơn lâm.

 

Thiên Lương là gì? – Ý nghĩa Sao Thiên Lương

Sao Thiên Lương trong môn Tử Vi thuộc về Âm mộc, là sao thứ 6 của chòm Sao Thiên Phủ theo thứ tự như sau:

Thiên Phủ Thái Âm Tham Lang Cự Môn Thiên Tướng Thiên Lương Thất Sát Phá Quân

Sao Thiên Lương có hóa khí là Ấm tinh và Thọ tinh. Chủ về phụ mẫu và phúc thọ

  • Sao Thiên Lương miếu địa ở các cung Thìn Ngọ Tuất
  • Vượng địa ở các cung Dần Thân Mão Tí
  • Đắc địa ở 2 cung Sửu Mùi
  • Hãm địa ở các cung Dậu Tỵ Hợi

Trong môn Tử Vi Đẩu Số, Thiên Lương được coi là thần cai quản cung Phụ Mẫu. Bản chất Thiên Lương là phúc tinh, nên ngoài hóa khí là ấm, nó còn chủ về thọ. Người Thiên Lương thường tuổi thọ sẽ khá hơn người khác. Cũng do bản chất của Thiên Lương là sao Phúc tinh, Thiện tinh. Nên tính của người Thiên Lương rất ôn lương cẩn trọng hiền lành, thông minh. Đặc biệt khéo léo, có tài lẻ. Đứng trong vai nhà chiến lược, Thiên Lương thường là mưu sỹ, quân sư.

Cách cục nổi tiếng nhất của Sao Thiên Lương là khi Thiên Lương đi cùng Sao Thiên Cơ, hình thành nên cách cục Cơ Lương

Cơ Lương xảo biến đa tài – Xảo là khéo, xảo biến là có tài biến hóa, đa tài

Ngoài ra, Thiên Lương cực hợp với bộ 3 Thái Dương, Văn Xương và Hóa Lộc. Hình thành nên cách cục tuyệt đẹp cho người Thiên Lương: Dương Lương Xương Lộc Hội, là cách chủ về văn học

Thiên lương xương lộc hội

Lô truyền đệ nhất danh

Dương Lương Xương Lộc hội cũng là cách hay nhất của Sao Thiên Lương. Mặt khác, cũng vì Thiên Lương là là thần cai quản Cung Phụ Mẫu & Phúc thọ. Nên khi xét hạn hỷ tín hôn nhân, Thiên Lương đóng vai trò quan trọng. Nhập hạn Thiên Lương thì cưới xin đàng hoàng, có người trên kẻ dưới.

Thiên Lương sợ nhất là nhóm Dương Đà. Kình Dương, Đà La là bộ sao gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến Thiên Lương.

Khi vận hành trên 12 cung địa bàn. Thiên Lương gặp Thái Dương ở Mão Dậu hình thành cách cục Dương Lương Xương Lộc Hội. Đây là cách đẹp cần phải chú ý. Tuy nhiên, cách này thiên về học hành khoa cử hơn là xây dựng cơ nghiệp

Thiên Lương di chuyển đến cung Tỵ Hợi – đất hãm. Chủ sự lãng tử, phiêu đãng vô nghi, phiêu dạt nơi chân trời góc biển. Trong thế đứng đấy gặp Sao Thái Âm hợp chiếu : Thiên Lương Thái Âm – khước tác phiêu bồng chi khách. Tuy nhiên, khi hạn Thiên Lương cư Tỵ Hợi, xét hạn xuất ngoại thì rất tốt.

Cũng cách Thiên Lương Thái Âm. Nhất là Thiên Lương đóng Mão, hội cùng Thái Dương, hội chiếu Thái Âm.

Lương Tú Âm Linh

Nghi tác đống lương chi khách

Đối với Nữ mệnh: Cực hợp vì bản tính ôn lương phúc thiện, có nhan sắc, cơ trí thông minh, vượng phu ích tử. Tuy nhiên khi Thiên Lương lâm hãm địa thì cổ nhân có câu “Thiên Lương Nguyệt Diệu nữ dâm bần”.

Hạn nữ gặp Thiên Lương – Hạn hỷ tín, đặc biệt hạn con cái. (Vì con gái gốc ở cung phúc đức, phúc đức truyền đến ta ở cung phụ mẫu….)

Về Sao Thiên Lương, các cụ nhà ta có câu phú nôm như sau

Tuổi hoa nở đăng cao bảng chiếu

Bởi Thiên Lương thủ mệnh Tí cung

Xương Lộc hội Nhật chiếu xung

Đè đầu sỹ tử văn hùng nhất danh

Mệnh Thiên Lương – Sao Thiên Lương thủ Mệnh, Thân

Sao Thiên Lương ở cung mệnh. Do bản chất của Thiên Lương vốn là sao Phúc tinh, Thiện tinh. Nên tính của người Thiên Lương rất ôn lương cẩn trọng hiền lành, thông minh. Thiên Lương có thể giải hung, hóa cát. Tuy nhiên rất sợ bộ Kình Dương, Đà La, cần thận trọng khi bộ Sao này hội vào thân, mệnh.

Thiên Lương nam mệnh ca

Thiên Lương chi diệu số trung cường.

Hình thần ổn trọng tính ôn lương.

Tả Hữu Khúc Xương lai hội hợp.

Quảng giao phú quý liệt triều cương

Thiên Lương nữ mệnh ca

Thiên Lương ngộ vị mệnh thân cung

Phúc hậu, đoan trang mỹ lệ dung

Tả, Hữu, Quý, Quang lai củng chiếu

Phú quý, vinh hoa, đắc thu phong
Sao Thiên Lương thủ Thân Mệnh tại cung Ngọ là đắc cách “Ngọ thượng Thiên lương vị”. Đàn bà được cách này là người có dung nhan xinh đẹp, dáng điệu đài các, tính tình phúc hậu, đoan chính và có độ lượng.

Ngoại Hình

Sách vở không nêu sự khác biệt tướng mạo giữa Thiên Lương đắc địa và sao Thiên Lương hãm địa. Thái Thứ Lang cho rằng “cung Mệnh có Thiên Lương tọa thủ nên thân hình thon và cao, da trắng, vẻ mặt thanh tú khôi ngô”.

Ngoài ra, Thiên Lương vốn là phúc tinh cho nên bao hàm sự phúc hậu, sự hiền hòa của tướng mạo.

Tính tình người Thiên Lương

Thiên Lương nhập miếu vượng thì tính tình trọng hậu, nhân từ, biết xử thế, thông minh, lý luận giỏi. Trực giác thâm sâu, có nhiều cơ mưu. Có óc sáng tạo viết văn, luận giải trong mọi lãnh vực. Có óc khảo cứu, tham mưu, cả đời phong lưu.

Trường hợp Thiên Lương hãm địa ở cung Dậu thì cũng có tính nhân hậu. Chỉ là người không bền chí, đời lãng đãng. Thiếu sự suy xét cẩn thận, tính khí xuề xòa, dễ nhầm lẫn.

Thiên Lương ở cung hãm địa là cung Tỵ, Hợi, cũng có tính nhân hậu. Nhưng nông nổi, ít chịu ngồi yên tại chỗ, hay bay nhảy nay đây mai đó. Chóng chán, hay thay đổi ý định, công việc, phong lưu khoái lạc, dễ rơi vào tứ đổ tường. Tính rộng rãi, ăn xài hoang phí, khó giữ của.

Chốt lại là cho dù đắc địa hay hãm địa thì đặc tính nổi bật nhất của Thiên Lương là sự nhân hậu, lòng từ thiện, tính khoan hòa, chiều chuộng, nhẫn nhục, sự khôn ngoan, sự mềm mỏng khi xử thế, nết khiêm cùng, hiền lành.

Do đó, Thiên Lương nói lên cốt cách từ bi, nho phong đạo cốt, tâm địa bác ái, nhân từ của nhà tu, người hiền triết, của người chất phác, của bậc chính nhân quân tử, lấy lễ đãi người, dùng sự thành thật, khiêm cung để xử thế.

Công Danh – Tài Lộc người Thiên Lương

Nếu Thiên Lương đắc miếu thì được hưởng phú quý lâu dài, là người có văn tài lỗi lạc. Người Thiên Lương thường giỏi về khoa sư phạm, có uy danh lớn. Đàn bà thì vượng phu ích tử.

Ngoài ra, vì Thiên Lương là phúc tinh, cho nên, nếu đi với bộ sao y dược thì sẽ là bác sĩ, dược sĩ có danh tiếng, trị bệnh mát tay.

Nếu Thiên Lương hãm địa

  • Lận đận trong nghề nghiệp, hay đổi nghề, khó kiếm tiền.
  • Phải tha hương lập nghiệp, xa cách gia đình.
  • Hay bị tai họa, cô đơn.
  • Yểu tướng.
  • Dễ đi vào đường tu hành.
  • Đàn bà thì muộn chồng hay lẽ mọn. Hoặc ưa việc ong bướm trăng hoa, khắc chồng hại con.
  • Càng gặp nhiều sát tinh, càng gặp nhiều bất lợi.

Bệnh Tật người Thiên Lương

Vì là thọ tinh, cho nên Thiên Lương không có ý nghĩa bệnh lý nào. Trái lại, đây là một sao giải bệnh rất hiệu lực, như Tử Vi, Thiên Phủ, Tuần hay Triệt khi đóng ở cung Tật.

Nếu gặp bệnh, thì chóng khỏi, hoặc bệnh không nặng, hoặc được danh y mát tay cứu vớt kịp thời. Sao này tượng trưng cho Phúc đức về mặt sức khỏe, cho dù có hãm địa cũng không đáng quan ngại.

Trường hợp đi cùng với các sao bệnh họa khác. Thiên Lương có tác dụng chế giải nhiều sự bất lợi của các sao đó gây nên.

Sao Thiên Lương đắc địa

  • Thông minh, sắc sảo, tinh tế trong trực giác và suy luận.
  • Có nhiều mưu cơ.
  • Thích bàn xét về chính lược, chiến lược.

Đi chung với Thiên Cơ, hai sao này rất nổi bật về năng khiếu giáo khoa, sư phạm, khả năng nghiên cứu tìm tòi, khảo sát các bộ môn văn học, nghệ thuật hay chính trị, chiến lược. Đó là bộ sao tham mưu rất xuất sắc, (giống như bộ sao Cự Môn Thiên Cơ đắc địa). Càng đi với các sao về văn học như Xương, Khúc, Khoa thì nhất định năng khiếu phán đoán càng bén nhạy hơn, có sáng tác các công trình nghiên cứu cao thâm về nhiều ngành.

Sao Thiên Lương hãm địa

  • Kém thông minh.
  • Nông nổi tức là hay thay đổi chí hướng.
  • Không bền chí.
  • Hay bị nhầm lẫn trong công việc.
  • Thích chơi bời, phóng đãng, ăn tiêu rất lớn.
  • Thích phiêu lưu, du lịch, giang hồ.
  • Đàn bà thì dâm dật và rất ghen tuông.

Các bộ sao tốt

Lương, Nhật đồng cung (Thiên Lương Thái Dương đồng cung)

Cách này được ví như mặt trời bình minh, ánh sáng ẩn tàng rực rỡ mà ôn hòa. Người có cách này được hưởng phú quý tột bực, suốt đời hanh thông.

Thiên Lương ở Tí

Lúc này Nhật(Thái Dương) ở Ngọ hội Xương Lộc (hay Lương ở Tí chiếu Mệnh ở Ngọ có Nhật gặp Xương Lộc):

  • Rất thông minh, hiển đạt, có danh tiếng lớn lao.
  • Cách này tốt đối với ba tuổi Đinh, Kỷ, Quí.

Lương Đồng ở Dần Thân (Thiên Lương Thiên Đồng đồng cung ở 2 cung Dần Thân)

Sự hội tụ của hai phúc tinh ở hai vị trí này rất đắc cách càng biểu lộ tính nhân hậu, từ thiện, bác ái, quân tử. Người có cách này sẽ được thần linh che chở, được người đời giúp đỡ. Thông thường, cách này được thêm Cơ Nguyệt hợp chiếu và là một cách phú và quý.

Thiên Lương ở Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ

Lúc này Thiên Lương gặp Nguyệt Linh hội chiếu: người có nhiều tài năng, hiển đạt.

Lương đắc địa gặp Văn Xương đồng cung

Là người lịch duyệt khoan hòa, danh giá. Gặp Văn Khúc, ý nghĩa cũng tương tự như vậy.

Lương Lộc (Thiên Lương Hóa Lộc)

Là người bác ái hay đem của bố thí cho thiên hạ, hoặc dùng vào việc thiện.

Các bộ sao xấu

Lương Nguyệt hãm hội chiếu

Con người giang hồ, phiêu bạt, không có định sở, tha phương lập nghiệp.

Lương Đồng Tỵ Hợi

Đàn ông thì phóng đãng, giang hồ. đàn bà thì dâm dật. Cả hai cùng hay đổi chí hướng, làm việc gì cũng hay bỏ dở nữa chừng. Không bền chí, không cả quyết.

Lương ở Tỵ gặp Nhị Hao, sát tinh

Khó tránh nạn binh đao súng đạn, chết thê thảm.

Lương ở Tỵ Hợi gặp Thiên mã đồng cung

Ý nghĩa như Lương Đồng ở Tỵ Hợi. Riêng phụ nữ, lại hết sức dâm đãng và đê tiện.

Trường hợp Độc Tọa Mệnh Cung – Thiên Lương có những thế đứng sau

Thiên Lương Cư Tỵ

Người có Thiên lương lập mệnh ở Tỵ. Thường hay phụ trách sứ mệnh hoặc chức vụ đặc biệt. Hoặc một mình kiêm luôn mấy chức vụ, có công khai, có bí mật. Nếu gặp các sao Kình dương, Thiên hình, Đà la, thì vào năm Dậu hoặc năm Sửu sẽ gặp sát tinh, tất nhiên xảy ra tai họa đột ngột,

Trường hợp gặp Sát nặng thì vô cùng nguy hiểm, chín phần chết chỉ một phần sống. Nhưng rốt cuộc vẫn hóa hung thành cát. Nếu sát tinh ở cung độ khác. Thì lúc đại hạn, gặp thái tuế, lưu nguyệt đến, sẽ xảy ra tai họa, nhưng thế của tai họa khá nhẹ.

Hơn nữa, còn có chức vụ trong chính giới và giới kinh doanh. Hoặc phần nhiều hay phát sinh quan hệ với người trong chính giới và giới quân đội.

Trường hợp được Văn Xương, Văn Khúc, Phượng Các hội chiếu. Cũng chủ về văn sỹ trong giới văn hóa, hoặc làm công việc kinh doanh về văn hóa, báo chí.

Sao Thiên Lương đến cung mệnh của nữ giới, thừa vượng nhập miếu, gặp tài tinh cát. Chủ về phú quý song toàn, đa tài đa nghệ. Có Thái Dương đồng độ ở Mão, gặp thêm Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng các là chủ về có sở trường đặc biệt, thông minh, giỏi ăn nói. Có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, thì giúp chồng dạy con, tâm từ ái, thích bố thí, mà thẳng thắn.

Nếu Thiên Lương rơi vào thế lạc hãm, có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh hội chiếu, chủ về người nữ cô độc. Còn gặp thêm Hàm trì (Đào Hoa còn gọi là Hàm Trì), Thiên Diêu, Hồng Loan, Thiên Hỷ, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, chủ về cuộc đời trôi nổi đó đây, không ở yên trong nhà, hoặc phiêu bạt không nơi nương tựa.

Nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc. Chủ về dùng tài nghệ mưu sinh. Nếu cung Thiên Di ở Mão có Kình Dương, chủ về Phu tinh không rõ ràng.

Đại hạn, lưu niên có sao Thiên Lương đến, gặp Lục cát lục tú,.Chủ về phúc dày lộc trọng, gia quan tiến tước, sự nghiệp phát triển, hỷ khí đầy nhà, chủ về trường thọ.

Nếu có Lộc Tồn đồng độ, thì phải đề phòng tiểu nhân bất mãn chủ ý hãm hại, sự nghiệp vì thế mà bị khuynh đảo. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên Hình hội chiếu, chủ về hình khắc, tai nạn, tật bệnh, tù ngục, thương tổn. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, hoặc có sao Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, chủ về tử vong, khuynh gia bại sản, hoặc xảy ra các tình huống âm mưu hãm hại.

Phàm, sao Thiên lương đến cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Thiên di, hoặc đến đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, thì nên lui nhường ba bước, không nên kiêu ngạo, và phải đề phòng tiểu nhân hãm hại, thì mới có thể thành đại sự lập nên đại nghiệp.

Thiên Lương cư Tí Ngọ

Sao Thiên Lương ở hai cung Tí Ngọ, là độc tọa nhập miếu, thuộc mệnh cách Thọ tinh nhập miếu, có thể phát huy được toàn bộ đặc tính của sao Thiên lương. Trường hợp này Thiên Lương rất thích nhóm văn quý tinh hội chiếu, công việc thuận lợi, đồng thời cũng có thể thu được thành tích tốt.

Thiên Lương đơn thủ Tí Ngọ thì ở Tí tốt hơn Ngọ. Bởi lẽ Thiên Lương ở Tí thì sao Thái Dương đắc địa tại Ngọ gây ảnh hưởng tốt thêm cho Thiên Lương, còn Thiên Lương Ngọ Thái Dương Tí không đắc địa.

Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng trường hợp Thiên Lương đóng Ngọ mà đứng bên sao Văn Khúc thì lại chuyển thành tốt hẳn. Có Văn Khúc Thiên Lương không cần sự trợ lực của Thái Dương nữa. Quan điểm này chưa hẳn chính xác, cần khảo cứu thêm.

Sách Đẩu Số Tử Vi Toàn Thư viết: “Thiên Lương Văn Khúc cư miếu vượng vị chí đài cương” (Thiên Lương Văn Khúc đứng cùng ở đất miếu vượng là người có chức vị). Câu phú trên chỉ vào Thiên Lương tại Ngọ với Văn Khúc vậy.

Thiên Lương cư Tí Ngọ là người chính trực vô tư, khách quan, công chính, không bị nhiễm đục. Học thức siêu việt, phúc thọ song toàn, tính tình ổn định, giàu lòng nghĩa hiệp, thích giúp người, có tài lãnh đạo, không màng danh lợi, phú quý thanh hiển, được mọi người tôn kính.

Trong cuộc đời dù khó tránh khỏi những sóng gió. Song sao Thiên Lương nhập miếu đều có thể hóa giải được.

Sao Thiên Lương ở hai cung Tí, Ngọ nhập miếu độc tọa, Cung Thiên Di tất có sao Thái Dương (cung Ngọ là thế vượng, cung Tí là lạc hãm). Cung Tài Bạch tất có sao Thiên Cơ và sao Thái Âm (cung Dần là thế hãm, cung Thân là thế vượng), cung Quan Lộc tất có sao Thiên Đồng thế bình. Là mệnh cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, sở trường lập kế hoạch, xử lý công việc và phò tá rất tốt, có thể đảm nhiệm chức vụ về mặt công chức, giáo viên, văn chức.

Sao Thái Dương ở Cung Thiên Di thích du lịch, chi tiêu nhiều, lao tâm lao lực, khó được nhàn hạ. Sao Thái Dương ở cung Ngọ là thế vượng, quan hệ đối ngoại tốt, vận xuất ngoại tốt, ra ngoài được quý nhân phù trợ. Sao Thái Dương cư Tí, ra ngoài tâm tình phiền muộn, rất khó phát triển. Kiếm tiền bằng khả năng của mình, tay trắng gây dựng sự nghiệp, thường có từ hai nguồn thu nhập trở lên, tài vận an định, thu nhập phong phú.

Đặc biệt, Thiên Lương cư Tí, Cung Tài Bạch tất có Thái Âm miếu vượng, một đời sung túc. Quá trình học tập thuận lợi yên bình, thích cuộc sống thanh nhàn ổn định, thích hợp với nghề tự do, không chịu được công việc mang tính chất ràng buộc hoặc không có mục tiêu rõ ràng như các nghề: văn hóa, giải trí, dịch vụ, ẩm thực, trang trí, du lịch.

Sao Thiên Lương tọa mệnh ở hai cung Tí, Ngọ, sao Thái Dương chiếu tại Cung Thiên Di. Nếu Tam Phương Tứ Chính của Cung Mệnh lại có thêm sao Văn Xương và Lộc Tồn hội chiếu thì cũng là mệnh cách Dương Lương Xương Lộc Hội. Tham gia thi công chức chắc chắn sẽ đạt được thành tích, tài quan song mỹ. Sao Thiên Lương tọa mệnh ở cung Ngọ, nếu có thêm sao Văn khúc cùng tọa mệnh, hoặc củng chiếu cung Tí, là mệnh cách Văn Lương chấn kỷ, thần cơ diệu toán, phúc thọ song toàn, võ chức hiển đạt.

Thiên Lương Sửu Mùi

Người có Sao Thiên Lương tọa cung sửu,mùi. Nếu có thể làm những công việc như Công chức, công giáo, văn chức thì có thể chuyển hung thành cát. Mệnh Thiên Lương tọa tại hai cung Sửu, Mùi là người không muốn trở thành cái máy làm việc. Thường thì những công việc khí định thần nhàn, ngoài công việc ra cũng cần chú trọng tới cuộc sống thanh nhàn.

Sao Thiên Lương ở hai cung Sửu, Mùi là độc tọa thế vượng, Cung Thiên Di là sao Thiên Cơ. Hình thành nên cách cục Cơ Lương chủ sự Xảo Biến Đa Tài. Trường hợp này, nếu gặp lục sát tinh, sao Hóa Kị đồng cung hoặc tương hội, sao Thiên Lương sẽ bị suy giảm khả năng, đời nhiều sóng gió. Nếu có thể làm những công việc: Công chức, công giáo, văn chức thì có thể chuyển hung thành cát.

Sao Thiên Lương tọa mệnh cung Sửu,Mùi. Cung Tài Bạch tất có sao Thái Âm (cung Mão là lạc hãm, cung Dậu là vượng địa). Cung Quan Lộc tất có sao Thái Dương (cung Hợi là lạc hãm, cung Tỵ là vượng địa) tam hợp hội chiếu. Thu nhập ổn định, thường ở trong môi trường làm việc có tính cạnh tranh cao, thích ở vị trí lãnh đạo. Nguyện là đầu gà chứ nhất quyết không chấp nhận làm đuôi trâu.

Sao Thiên Lương tọa mệnh cung Sửu được lợi nhiều hơn là nằm ở cung Mùi. Đó chính là vì sao tài tinh Thái Âm của Cung Tài Bạch và sao quý tinh Thái Dương của Cung Quan Lộc cùng lâm miếu vượng. Là mệnh cách Nhật nguyệt Tịnh Minh (hoặc mệnh cách Đan Trì Quế Trì). Chủ quang minh lỗi lạc, tuổi trẻ tài cao, sớm có chí hướng, tiền bạc thuận lợi, bất động sản nhiều, cả đời sung túc, có uy lực, có thể tạo dựng sự nghiệp mới, có địa vị và quyền lực, là chủ quản nhân tài.

Sao Thiên Lương tọa thủ cung Mùi. Sao Thái Âm của Cung Tài Bạch và Sao Thái Dương của Cung Quan Lộc đều là lạc hãm. Chủ chi tiêu cao, khó tích lũy được tiền bạc, thường là vì con cái hoặc phụ nữ mà tán tài. Làm việc vất vả từ nhỏ, sau khi bước vào trung vận mới được an định. Vì bất động sản mà tích cóp được tiền bạc.

Sao Thiên Lương ở hai cung Sửu, Mùi. Nếu gặp lục cát tinh, đảm nhiệm những việc công chức, giáo dục, văn chức cũng có thể thể hiện được mình. Nếu gặp sao Kình Dương, Đà La, Hóa Kị hội chiếu, phần nhiều là bạc phận với cha mẹ.

Trường hợp đồng cung với các Tinh Diệu khác – Thiên Lương có những cách cục sau

Cơ Lương Thìn Tuất

Thiên Lương cùng Thiên Cơ, cổ nhân cho rằng người thiện nói chuyện binh. Điều này là do Thiên Cơ có tài ăn nói linh hoạt cơ biến, còn Thiên Lương thích tự mình thể hiện, soi xét sự việc duyên cớ. Ở thời xưa văn nhân có khả năng bàn luận binh pháp thì được cho rằng đích thị văn vũ toàn tài. Tuy nhiên ở hiện đại, kết cấu Cơ Lương tất không nhất định “thiện đàm binh pháp” mà có thể chỉ là ba hoa, khoác lác lý luận chuyện làm ăn, đầu cơ.

Cơ Lương Gia Hội – Cao Nghệ Tùy Thân

“Cơ Lương gia hội cách” – tức Thiên Cơ Thiên Lương đồng thủ cung Mệnh.

Cổ ca:

Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn

Đắc địa giáo quân phúc lộc toàn

Diệu toán thần cơ ứng cái thế

Uy uy lẫm lẫm chưởng binh quyền.

(Cơ Lương nhập miếu khó nói hết đc điều tốt, vào đắc địa là thầy giáo dạy học cho vua phúc lộc vẹn toàn, có tài thần cơ diệu toán cái thế thiên hạ, khi chấp chưởng binh quyền uy danh lẫm liệt.)

Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung, chỉ có hai trường hợp. Một là ở cung thìn, lúc này Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu. Thứ 2 là ở tuất cung, cũng là Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu. Nhưng tuất không bằng thìn, bởi khi ở thìn cung thì hội hợp Thái Âm Thiên Đồng ở Tí cung là miếu vượng. Còn khi ở tuất cung hội hợp Thái Âm Thiên Đồng thất hãm ở cung ngọ. Vì lẽ đó chiếu theo giải thích của Vương Đình Chi, bản thân cách cục Thiên Cơ Thiên Lương tọa thìn cung không chỉ vào cách cục “Cơ Lương nhập miếu”.

  • Cổ nhân đối với tinh hệ “Cơ Lương” này, khẩu quyết rất nhiều, như
  • “Cơ Lương Tả Hữu Xương Khúc hội, văn vi quý hiển vũ trung lương”
  • “Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung Thìn Tuất, tất hữu cao nghệ tùy thân”
  • “Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh”
  • “Cơ Lương đồng tại thìn tuất thủ mệnh, gia cát diệu, phú quý từ tường, nhược ngộ Dương Đà / Không diệu, thiên nghi tăng đạo.”

Nhưng thật ra tổ hợp Thiên Cơ Thiên Lương, chủ chỉ người tò mò, thích sự lạ, biện luận gian trá, thích biểu hiện. Hơn nữa đa phần không phụ họa ý kiến người khác. Ở thời xưa, có thể tư liệu sống, tài liệu thực tế nói viết, soi sáng không nhiều lắm, nhất là thường thấy văn nhân đàm luận binh pháp, cho nên mới có thuyết pháp “Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh”.

Vương Đình Chi khi so sánh trọng thuyết pháp “tất hữu cao nghệ tùy thân”. Cái gọi là “cao nghệ”, là nói có tay nghề kỹ thuật, thủ công mà thôi. Vào thời hiện đại, người có tổ hợp tinh hệ loại này tốt nhất là nên học tính toán máy móc hoặc làm nghề kế toán, thống kê.

Tuy nhiên, khi đi cùng Thiên Cơ cũng là cách cục đặc biệt nhất của Thiên Lương. Trường hợp Thiên Lương Thiên Cơ đi cùng với nhau sẽ phát sinh 3 biến cục. Vấn đề này đã trình bày trong bài

Sao Thiên Cơ – Tác Sự Hữu Thao Lược – Bẩm Tính Tối Cao Minh

Sao Thiên Đồng Thiên Lương đồng cung mệnh

Thiên Lương đi cùng Thiên Đồng là một tổ hợp dễ biểu hiện hành vi sơ cuồng (*). Vì Thiên Lương thích soi mói bắt bẻ, Thiên Đồng thì thích hưởng thụ, hai loại tính chất kết lại thường khiến người dễ nghĩ rằng xã hội luôn có rối ren, lộn xộn,… nói xin lỗi các cụ bô lão chứ chính người này tự mình ra vẻ “tọa nhi luận đạo” (**), như là quốc sĩ trong thiên hạ vô song vậy! Song, nếu có thể hướng những ưu điểm đến những điều tích cực, tất ngược lại có thể đạt được tâm tư tinh tế, không chịu “hòa quang đồng trần” (sống ẩn dật, tiêu cực không đấu tranh). Đại khái có Thiên Lương đồng cung phần nhiều chủ cô lập vậy.

Chú thích:

(*) sơ cuồng: sơ xài, hời hợt và có vẻ rồ, ngông, thiếu suy nghĩ chín chắn làm liều…

(**) ngồi nói suông, lý luận suông

Sao Thái Dương Thiên Lương Đồng Cung Mệnh

Khi Thiên Lương cùng Thái Dương cấu thành tinh hệ, đích thị là kết cấu tốt nhất. Bởi vì Thiên Lương vốn có tính chất “cô khắc” có khả năng nhờ Thái Dương hóa giải. Do vậy có thể thấy rằng Thái Dương nên vào nhập miếu hoặc vượng. Tỷ như Thái Dương vào cung ngọ hay mão, ánh quang và tỏa nhiệt đều thịnh hơn dậu cung hoặc Tí cung.

Vì lẽ đó Thiên Lương nên tọa Tí được Thái Dương cư cung ngọ chiếu soi; từ Thiên Lương Thái Dương đồng cư mão thời tốt đẹp hơn cư dậu, cho đến phần Thiên Lương tọa ngọ có Thái Dương cư Tí củng chiếu. So sánh với cách cục Thiên Lương cư Tí xem ra không bằng được.

Phàm Thiên Lương cùng Thái Dương cấu thành tinh hệ, dễ dàng hình thành cách cục “Dương Lương Xương Lộc”. Tức là gia hội Văn Xương và Lộc Tồn. Cách này lợi nhất khi tham gia thi cử, nhất là đối với các kỳ thi quốc gia trọng yếu rất có lợi.

Bởi vậy người vốn có đủ cách cục này, dễ dàng trở thành nhân tài chuyên nghiệp hoặc người nghiên cứu, học thuật. Hoặc ngay như không thấy Văn Xương cùng Lộc Tồn thì kết cấu Thái Dương Thiên Lương kỳ thật cũng lợi vào nghiên cứu học thuật. Vì lý do đó, ngược lại đương số nếu theo con đường chính trị sẽ là sự mạo hiểm rất lớn. Hoặc nếu theo nghiệp kinh thương buôn bán thuần túy, cũng có biến đổi bất ngờ.

Ngoài ra, Thái Dương là “trung thiên đế vương tinh” uy cường, Thiên Lương là phúc tinh ôn nhã. Hai sao đồng cung tất phải tương nhượng nhau mà hướng về trung đạo.

Hai vị trí đồng cung là Mão Dậu, thuộc “tứ chính đào hoa địa”. Mão là đất vượng của Thái Dương, nên Thái Dương lấn áp Thiên Lương. Dậu là phương hãm của Thái Dương, nên ảnh hưởng của Thiên Lương có phần trội vượt. Vì đặc tính đào hoa, ở cả hai nơi cá nhân sẽ có nhiều duyên may mắn. Nếu chọn ngành thương mại thì dễ đạt mục tiêu vật chất. Nhưng trong mọi trường hợp, e là khó tìm được hạnh phúc gia đình.

Cá nhân sẽ có nhiều điểm cố chấp nhưng lại có trái tim dễ bị xúc động nên khả năng quyết định không chuyên nhất, thành bại vì thế rất khó lường.

Ưu điểm: Quang minh chính đại, tích cực, hiền hòa, thích phục vụ xã hội, không sợ mệt nhọc, hiểm nguy, thất bại. Có phong thái quý phái, làm việc cẩn trọng suy tính. Biết trọng người trên, nhường kẻ dưới.

Khuyết điểm: Tâm lý do dự, khả năng phán đoán thiếu sót, không biết mình biết người, nên dễ lao tâm vô ích. Không biết lẽ tiến thủ nên hay kẹt vào những hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh tình cảm, không thể tìm đường giải quyết.

Bàn thêm về Sao Thiên Lương

Thiên Lương là “ấm tinh”. Trong Đẩu Số, chữ “ấm” có nhiều ý nghĩa. Như: “Tiêu tai giải ách”, “kéo dài tuổi thọ”, “là trợ lực của cấp trên hay cha mẹ”, “có sinh hoạt tinh thần phong phú về tôn giáo, tín ngưỡng”. Tất cả, đều có ý vị “che chở”. Cần lưu ý, những lực “che chở” này đều thuộc về “tinh thần”, mà không thuộc về “vật chất”. Từ đó có thể biết đặc tính của Thiên Lương.

Tính chất “tiêu tai giải ách” của Thiên Lương, bao hàm ý vị có nạn tai trước, sau rồi mới có hóa giải. Cho nên, ắt sẽ phải trải qua nguy khó rồi mới được bình an, bị bệnh hoạn rồi mới khỏi bệnh, không có chỗ nhờ cậy rồi mới được người ta phù trợ, cảm thấy tinh thần “trống rỗng” (ý vị cuộc đời có kích thích khá lớn) sau rồi mới ký thác, ẩn nấp nơi tôn giáo. Những thứ đại loại như vậy không thể nào liệt kê ra hết được.

Do sao Thiên Lương thiên nặng về “tinh thần” mà không thiên nặng về “vật chất”. Cho nên Thiên Lương ưa Hóa Khoa mà không ưa Hóa Lộc. Khi Thiên Lương hóa thành sao Lộc, chủ về mang lại những rắc rối thị phi, thường thường bị người oán hận. Thiên Lương cũng rất ghét Hóa Quyền, lúc hóa thành sao Quyền, chủ về người lộng quyền, gặp thêm Hỏa Tinh Linh Tinh thì càng đúng.

Do ý nghĩa “che chở”, mà có thể mở rộng thành tính chất “hình pháp, kỷ luật”. Bởi vì, “hình pháp” có thể giữ cho mọi người được thiện lương. Vì vậy, Thiên Lương có thể biểu trưng cho vị quan thanh liêm “vì dân trừ hại”, ví như Bao Chửng trong truyền thuyết dân gian. Lúc luận đoán cần phải lưu ý luận điểm này. Do hàm nghĩa mở rộng này, Thiên Lương còn mang thêm chức vị “giám sát”. Phần nhiều là người theo ngành kiểm toán viên, quan đốc, thanh tra, hay chuyên viên nghiên cứu thị trường, chuyên viên kế hoạch tài vụ… thì phần nhiều cung Mệnh hay cung Quan Lộc hay gặp sao Thiên lương. Hàm nghĩa “giám sát” của Thiên Lương cũng có thể diễn hóa thành ý vị “lui về hậu trường”.

Do “che chở” có thể mở rộng “phục vụ người khác”, cho nên tinh bàn của những người là bác sỹ, thầy thuốc, luật sư, cũng thường thường có quan hệ mật thiết với Thiên Lương. Có thể dựa vào tiêu chuẩn này để định Thiên lương là nhân tài chuyên nghiệp, hay là chuyên viên.

Thiên lương có Thái dương đồng độ hoặc vây chiếu, gặp Thiên hình, thích hợp làm nhân viên ngành tư pháp; nếu gặp Kình dương thì không phải là bác sỹ ngoại khoa (bao gồm cả khoa phụ sản), còn thêm Thiên Nguyệt, phần nhiều là người trong giới y học.

Hệ “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, chủ về vạch “kế sách quản lý”, gặp Thiên mã thì làm những nghề nghiệp có tính lưu động, như hàng hải, hàng không, điện tử… (một ví dụ đáng để tham khảo, Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một người làm thuê, chuyên sao chép băng hình. Nghề nghiệp này nếu không nói ra thì rất khó đoán, nhưng nói ra rồi, thì biết được nghề nghiệp có tính phục vụ và tính lưu động. So với tinh bàn thì không có chỗ nào là không hợp lý. Do đó có thể thấy nghề nghiệp thời hiện đại, thường rất khó luận đoán một cách chi tiết cụ thể).

Thiên Lương có Văn xương, Văn khúc, Tấu thư đồng độ, có thể xem là nhân tài trong ngành pháp luật, sở trường văn thư án lệ, cũng có lúc chỉ là thư ký văn thư của công ty lớn, hoặc là người trong giới văn hóa, xuất bản.

Thiên lương có Bạch hổ đồng độ, có thể xem là điềm tượng chủ về “hình pháp kỷ luật”, cũng có thể là bác sỹ phẫu thuật ngoại khoa.

Cổ nhân nói “Thiên lương và Thiên mã ở hãm địa, cuộc đời nhất định trôi dạt” (Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi). Đây là nói Thiên lương ở Tị và ở Hợi, chủ về rời xa quê hương, tâm chí phiêu bồng. Ở thời hiện đại người ta thường rời bỏ quê hương để phát triển, vì vậy không nên luận đoán là “trôi dạt”, chỉ ở trường hợp gặp sao Không hay sao Hao đồng cung với Hỏa tinh Linh tinh, mới có thể luận đoán là không giữ một nghề, rời bỏ quê hương mà không có nền tảng. Còn khi gặp các loại sao “khoa văn” là người cuồng ngạo phóng túng.

Cổ nhân nói “Thiên lương ở hãm địa gặp Kình dương Đà la, là trái thuần phong mỹ tục” (Thiên lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục). Đây là nói nữ mệnh có Thiên lương ở Tị hoặc ở Hợi. Thời đại này nay, có thể luận đoán cuộc đời mệnh tạo gặp nhiều đau khổ về tình cảm. Rất ngại Thiên lương đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh mà Thiên đồng ở cung đối diện Hóa Kị, hoặc hội Thiên cơ Hóa Kị mà Kình dương Đà la giáp Thiên lương, càng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử và đau khổ về tình cảm.

Thiên lương đến nhập cung Tị hoặc cung Hợi, gặp các sao Sát Hình Không Hao, chủ về cuộc đời nhiều tai họa, hoặc nhiều hung hiểm, thường xảy ra ứng nghiệm ở niên hạn vận trình đến cung có “Thiên cơ Cự môn”, hay “Thái âm Thái dương”. Gặp niên hạn Hóa Kị cũng thường ngầm chứa nguy cơ họa hoạn. Ngoài ra các cung hạn Tham lang, Thiên đồng tọa thủ là những niên hạn có tính chất then chốt.

Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, không gặp Văn xương Văn khúc là đã thông minh, nhưng thông minh quá lộ, nhìn sự việc quá rõ, nên cơ duyên với người thường không tốt, nhất là phương hại đến hôn nhân. Thiên lương ở Tý tốt hơn ở Ngọ.

Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, không cần gặp những sao đào hoa, cũng đã chủ về loại người “dễ thay đổi tình cảm”. Ở xã hội thời cổ đại, đàn ông nạp nhiều thiếp, nên cũng chủ về đau khổ mà ít người biết trong quan hệ hôn nhân.

Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, nếu gặp các sao Lộc, rất kị là người thông minh nhưng lạnh lùng nghiêm khắc. Cần phải có thái độ đối đãi với người chân thành nhân hậu, thì mới có thể xoay chuyển được vận mệnh của chính mình, nếu không, phần nhiều vào đại vận thứ ba, sẽ xảy ra trắc trở gây ảnh hưởng rất sâu xa và lâu dài. Nhưng, thường thường mệnh tạo lại không tự biết nguy cơ là do chính mình, nên lúc vận trình đến hậu vận chủ về cảnh ngộ gập gềnh, bất đắc chí, thì lại sinh ra oán trời hận người, mà không biết rằng “họa căn” đã tiềm phục từ lâu.

Thiên lương ở Ngọ thì không cát tường, là do hội với Thái âm và Thái dương đều ở cung hãm nhược. Nếu cung Tài bạch là hệ “Thiên cơ Thái âm”, gặp các sao Sát Hao và Thiên mã, chủ về mệnh cách có lối suy nghĩ kỳ lạ, đặc biệt, không hợp quần, ít qua lại giao lưu với người, và cũng thuộc loại người khó gần gũi. Những tính chất này gây ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp, khiến cho thu nhập không ổn định. Ví dụ như đột nhiên bị cách chức, hoặc bỗng nhiên khách hàng thường xuyên lại bỏ đi sang chọn lựa chỗ khác, hoặc thường phải thay đổi cương vị công tác…

Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ cần phải có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, lại không nên gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì mới có thể bàn tới phú và quý, hơn nữa, phú cũng vẫn phải nhờ quý mà có.

Đối với Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, các cung hạn “Thiên cơ Thái âm”, Cự môn, Thái dương, Thiên đồng, thảy là những niên hạn có tính then chốt.

Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, vì Thiên cơ vây chiếu, nên tinh hệ này chủ về “kế hoạch mưu lược”, còn chủ về tính cơ động, không ổn định. Khi gặp các sao Sát Không Hao, cổ nhân cho rằng đây là mệnh cách xuất gia làm tăng nhân, đạo sỹ. Thời đại ngày nay, phần nhiều chủ về loại người có nhân sinh quan kỳ lạ đặc biệt (khác với lỗi suy nghĩ đặc biệt của Thiên lương ở Ngọ, ở đây cần phải phân biệt, một bên là nhân sinh quan còn một bên là tác phong xử sự). Cho nên nếu có các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên tài bay đến, chủ về mệnh cách thuộc loại thông minh tuyệt đỉnh, nhưng lại không yên thân ở một nghề nào, khiến về già không có thành tựu.

Thiên lương ở Mùi hội Thái dương ở Hợi, động lực thúc đẩy không thể bằng Thiên lương ở Sửu, hễ Thiên lương hội Thái dương ở cung hãm nhược, đều chủ về chuốc lấy oán trách. Nhưng nếu gặp sao Hình và các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thanh long, Tấu thư, Quan phù, mà không gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, thì có thể thích hợp với công tác pháp luật, hoặc liên quan đến tính chất “hình pháp kỷ luật”.

Thiên lương ở Sửu, nếu cung Phu thê là Cự môn được Cát hóa (ưa nhất là Hóa Lộc), chủ về có thể kết hôn với người ngoại quốc.

Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, ưa Thiên Vu đồng độ với Thái dương, chủ về được bậc trưởng bối đề bạt, nâng đỡ trong sự nghiệp.

Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, rất ngại đến đại vận Tham lang Hóa Kị, theo bí truyền của phái Trung Châu, đây là hạn vì sắc mà gây họa, hoặc là một vận gặp nhiều tranh chấp. Cần xem hội các sao nào mà định cảnh ngộ.

Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, không gặp các sao “khoa văn”, cũng đã có khí chất nghệ thuật, nhưng thường có biểu hiện cuồng ngạo, phóng túng.

Đối với Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, các cung hạn Tham lang, Cự môn, Thái dương, Thiên đồng, là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt.

Thiên Lương Hóa Khoa – Can Kỷ

Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá hợp với khí chất của nó. Vì vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một mình, tuyệt đối không bị cuốn theo dòng nước. Thiên Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh ngộ có thể được tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên cũng có lợi về thi cử, nhất là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương Hóa Khoa

Thiên Lương Hóa Quyền – Can Ất

Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương Hóa Quyền

Thiên Lương Hóa Lộc – Can Nhâm

Thiên Lương là sao “giám sát”, chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Nô Bộc, đây là then chốt để luận đoán toàn Cục.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương Hóa Lộc

Quan điểm của danh gia với Thiên Lương

Tuệ Tâm Trai Chủ với Thiên Lương

Cổ thư thường dẫn giảng sai cho độc giả. Đừng chỉ dựa vào một sao Thiên Lương để suy đoán. Nguyên bản cổ thư đều nói Thiên Lương là thọ tinh, hóa khí là ấm (*). Chuyên việc khống chế hóa giải tai ách, ấm vào thân mệnh, cái phúc truyền đến đời con đời cháu.

Thậm chí còn nói rằng “Nãi vạn toàn thanh danh, hiển vu vương thất” (Ấy là thanh danh vẹn toàn, vinh hiển vào hàng họ hàng của vua). “Nhược canh phùng Tả Hữu Xương Khúc gia hội, tắc xuất tướng nhập tướng” (Nếu Thiên Lương hội hợp Tả Hữu Xương Khúc tất oai phong như vị quan tướng).

Đích thực những điều đã nói về Thiên Lương quá ư tốt lành một cách dị thường.

Chỉ có Tuệ Tâm Trai Chủ (**) là người tiên phong có thể chỉ ra đích xác chân tướng. Đặc chất của Thiên Lương. Bà nói rằng:

“Trong các sao, Thiên Lương là một sao có đầy đủ khả năng phùng hung hóa cát, gặp khó khăn nguy hiểm là xuất hiện điềm lành. Do đó nhất định phải biểu hiện khả năng giải nạn cho đến khi tỏ rõ điềm lành (hết nạn). Cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, bất kể cung vị nào, có hay không hội chiếu cát tinh đều không khỏi gặp phải khó khăn, khiến Thiên Lương thực thi hóa giải.”

Người sau viết và xuất bản sách Đẩu số. Bởi vậy mà cũng hiểu được cái nhìn có thay đổi đối với Thiên Lương. Tuy không xứng đáng khen ngợi nhưng được như vậy là rõ ràng mạch lạc rồi! (Nhận xét của người khác về Tuệ Tâm Trai Chủ).

Người dùng Đẩu số xưa chỉ có thể căn cứ ca quyết cổ: “Thiên Lương, Nguyệt diệu nữ dâm tham”. Để đưa ra khuyết điểm duy nhất của kết cấu tinh hệ Thiên Lương. Nhưng rồi lại hiểu lầm ý tứ của “Lương Đồng đối cư Tỵ hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm”. Cơ hồ tưởng rằng nữ nhân có loại kết cấu tinh hệ này hết thảy đều thành “dâm oa đãng phụ” (***) cả sao.

Kỳ thực, sao Thiên Lương không quá xấu cũng không quá tốt. Chỉ là trước tiên làm cho người ta gặp phải khó khăn hoặc hung hiểm. Sau đó lại hóa giải thành như không mà thôi. Cho nên, dù khai đao phẫu thuật ắt hẳn không chết. Hoặc sự nghiệp sắp sửa sập tiệm lại có thể đột nhiên gặp được trợ giúp. Mang đến hết thảy tai nạn bệnh thống, rồi kết quả là cuộc sống đều chống chọi được mà đi tới. Nguyên nhân chính là như thế, cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, từ tuổi trung niên trở đi, quay đầu nhìn lại chuyện cũ trong quá khứ, thường thường cảm thấy đời người như hư không. Vì thế nên tư tưởng phần nhiều tinh thần u uất, có khuynh hướng tiêu cực.

Một tính chất khác của Thiên Lương là thần bí. Người có Thiên Lương tọa mệnh, có khuynh hướng tự giác tin tưởng sự vật thần bí. Nếu phát triển một phương diện tích cực, thì người Thiên Lương ham thích nghiên cứu và thảo luận về xã hội đương thời. Thường cho rằng cái lý của nhận thức rất thâm thúy, nhưng giới hạn ở chổ nặng về lý luận mà ít thực tiễn. Nhưng nếu định hướng phát triển không tốt, thì tính cách rơi vào soi mói, kiếm chuyện bắt bẻ con chữ, khiến người khác hiểu rằng khó mà tiếp cận, gần gũi.

Bởi vậy đối với người Thiên Lương tọa mệnh, làm danh sĩ tốt hơn, điều này mới là tính chất cơ bản của Thiên Lương.

Chú thích:

(*) Ấm: bóng cây che mát. Được nhờ ơn của người khác đều gọi là ấm.

(**) Tuệ Tâm Trai Chủ: sáng lập “Tân Thuyên phái”, một trong những phái tử vi truyền thống (giống như Vương Đình Chi và Liễu Vô Cư Sỹ), một tác giả viết khá nhiều sách Tử Vi, cống hiến cho làng lý số rất nhiều. Một số tác phẩm như: “Như hà thôi toán mệnh vận”- Tử vi đẩu sổ dữ Tứ hóa tinh; Tử vi đẩu sổ xu cát Tỵ hung pháp; Tử vi đẩu sổ khai phát tiềm năng…

(***) “dâm oa đãng phụ”: là gái đẹp (oa) thì dâm loàn, là phụ nữ có chồng thì phóng đãng bất chính.

Vương Đình Chi với Thiên Lương

Bởi vì Thiên Lương tàng chứa nhiều tính chất biến hóa. Bất kể tổ hợp “Thiên Lương Thái Dương”, “Thiên Lương Thiên Cơ” hay “Thiên Lương Thiên Đồng” đều rất dễ có biến hóa hết sức cực đoan. Cho nên Vương Đình Chi ý định nói rõ kỷ càng tỉ mỉ một chút tư liệu này.

Thiên Lương không nên gặp tinh diệu có tính chất thiên về phù động. Đây chính là đặc điểm đầu tiên của nó, nên thuyết pháp cổ có “Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi” (Thiên Lương Thiên Mã hãm, phiêu đãng không nghi ngờ); “Thiên Lương Nguyệt diệu, nữ dâm bần”; “Lương dậu Nguyệt Tỵ, khước tác phiêu phùng chi khách”.

– Thiên Lương tối kị gặp Kình Dương Đà La, là đặc điểm thứ hai, nên cổ nhân có thuyết pháp “Thiên Lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục”. (Lương hãm gặp Dương Đà đồng cung làm tổn hại đến đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống).

– Thiên Lương mừng được cư cung miếu vượng và đắc các sao phụ tá triều củng trợ giúp, cho nên Thiên Lương không thích 3 cung hãm là Tỵ thân hợi, vào dậu cung cũng chê cho là bình thường, cái gọi là phụ tá chi diệu, đầu tiên phải kể đến là Thiên Khôi Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc, Lộc Tồn Thiên Mã; thứ nữa là một trong các bộ sao tạp diệu Tam Thai Bát Tọa; Long Trì Phượng Các; Ân Quang Thiên Quý; Thiên Quan Thiên Phúc. Đây là đặc điểm thứ ba, nên cổ nhân có các thuyết pháp “Thiên Lương thủ chiếu, cát tương phùng, bình sanh phúc thọ”, “Thiên Lương miếu vượng, Tả Hữu Xương Khúc gia hội, xuất tướng nhập tướng”.

Lưu niên tiểu hạn, sao lưu theo tuổi, gặp Thiên Lương cũng có ảnh hưởng tương đương. Thiên Lương hỉ gặp sao lưu Thanh Long, Tấu Thư, gặp là chủ có chuyện mừng về văn thư, giấy tờ, bằng sắc; song cái gọi là “Văn thư chi hỉ” thì Thanh Long, Tấu Thư cùng Văn Xương Văn Khúc cũng không giống nhau; “Văn thư” Văn Xương Văn Khúc có thể chỉ trái khoán, chi phiếu cùng cổ phiếu; nhưng Thiên Lương kiến “Văn thư” Thanh Long Tấu Thư, chỉ có thể nói là công văn chính phủ hoặc một đại cơ cấu. Bình thường phần nhiều chỉ chức vị thăng tiến, hoặc thu hoạch, đạt được danh hàm. Tin rằng một nhân vật nổi tiếng về chuyện gì, năm đó đương số tất có Thiên Lương gặp được Thanh Long hoặc Tấu Thư vậy.

Bởi vì Thiên Lương cát thì giơ tay làm một mình, hung thì tính tình lầm lỳ, cho nên bất kể cát hung cùng lợi vào sự học thuật nghiên cứu. Cổ nhân chỉ cho là “Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị, nhất sanh lợi nghiệp thông minh” (Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị, cả đời thông minh lợi nghiệp”, (các vị trí) còn lại là tổn hại vì dâm cùng cơ trí, và phát huy tính chất cô khắc nếu gặp thêm Hình Kị, nhưng nếu ở hậu thiên có cách cục có khả năng tương phù, tháo gỡ thì tính cách biến thành linh động (khó hợp vào học thuật nghiên cứu), vậy bản thân cũng khó thể trở thành người tài giỏi trong giới học thuật.

Lục Bân Triệu luận Thiên Lương

Sao Thiên lương ở trong ngũ hành thuộc dương thổ, ở trên trời, là sao thứ hai thuộc hệ thống sao Nam Đẩu, chủ về thọ, hóa làm ấm tinh (sao che trở). Sao Thiên lương bất luận ở Thân cung hay Mệnh cung, hoặc đến đại hạn hay lưu niên Thái tuế, đều chủ về có phong thái danh sỹ, tính tình tùy tiện, uể oải, lần nữa. Tuổi trẻ mà nó đến cung, gặp tai họa có thể giải hóa. Tuổi già được nó chiếu hay tọa, dù có nạn tai, bệnh tật nguy hiểm, cũng chủ về trường thọ.

Sao Thiên lương ở cung Mệnh hoặc cung Thân, đều chủ về “gặp hung hóa cát”, gặp nạn mà không bị sao, do đó một đời thường gặp nhiều tai nạn hiểm nguy, hoặc tao ngộ phi thường. Sao Thiên Lương mà không gặp hung, thì sẽ không thấy đủ “sức mạnh cát hóa” (làm cho tốt lên) của nó, không gặp nạn thì sẽ không thấy đủ “công đức hóa lành” của nó. Cho nên, tinh diệu này mà lâm đến, tuy có thể hóa giải tai họa, hóa giải hung hiểm, chủ về trường thọ, sống lâu, nhưng cũng sẽ gặp nhiều tai, nhiều nạn, nhiều thị phi, nhiều bệnh tật, trường hợp sao Thiên lương đến cung Tỵ là ứng hợp nhiều nhất.

Người có Thiên lương ở cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Phúc đức, đều có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo, theo Phật giáo là “có căn tu”, “có thiện căn”. Đồng độ với sao Thiên cơ phần nhiều đều là tăng đạo xuất thế, hoặc là người thấu hiểu cõi hồng trần. Đồng độ với sao Thái dương, hội chiếu các tinh diệu Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng Các ở tại Mão, chủ về có kỹ năng chuyên môn, hoặc kỹ thuật xuất chúng. Bất kể về phương diện kỹ năng hay phương diện học vấn, đều có thể hơn người, hoặc lên tới đỉnh cao. Ở Dậu, tuy học có thành tựu, nhưng thanh danh vẫn kém xa ở Mão.

Sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, đều chủ về tính tình dứt khoát, thẳng thắn, ưa thích chỉ ra sai lầm của người khác, tài năng quá lộ. Nếu tam phương tứ chính có tinh diệu cát tường hội chiếu, chủ về làm quan thanh liêm, làm ăn kinh doanh thành thực, xử sự ngay thẳng, tuy hay phê bình người khác, nhưng người khác cũng có thể chấp nhận được.

Nếu sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, mà có sát tinh hội chiếu, hoặc đồng độ với Lộc tồn ở Ngọ, thì không nên phê bình người khác, nếu không dễ bị người khác oán kị, thiếu duyên với người, tiểu nhân bất mãn. Bởi vì, Thiên lương là ngự sử chính trực ở thanh cung, cho nên có thể khuyên can hoàng đế. Nếu có Tài tinh cùng đến, thì bản thân tài đã nhiều, nên không còn thanh cao (bởi vì người thanh cao phần nhiều là bần cùng), chỉ trích người khác, tất không thể làm người ta kính phục được. Không kính phục sẽ sinh oán hận, có oán hận sẽ có tiểu nhân “thị phi” vậy.

Sao Thiên lương ở Tí, cũng là thông minh thái quá, tài năng quá lộ, từ nhỏ đã không coi ai ra gì, kết quả là làm ơn mắc oán.

Hai sao Thiên lương và Thiên đồng ở Dần hoặc thân, có Lộc tồn hay Hóa Lộc đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về người thông minh mưu chí, lanh lợi, nhiều sự nghiệp, một đời thường kiêm phụ trách nhiều chức vụ. Không có Lộc tồn hoặc Hóa lộc, thì sự nghiệp nhiều biến động, hoặc có tính lưu động, lấy trường hợp ở Dần là nhiều nhất, ở Thân là kế đến. Ở Dần hoặc Thân, gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, đều chủ về làm việc trong cơ cấu chính phủ, phát triển sự nghiệp mang tính đại chúng.

Người tự sáng lập sự nghiệp, cũng thích hợp lập công ty, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân của mình. Sao Thiên lương ở Ngọ, có sao Văn khúc và Thiên tài đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tứ chính gặp các Cát tinh Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, hoặc các phụ tinh Tả phụ, Hữu bật, chủ về người được chính chính giới thừa nhận, là nhân vật có công triển khai và thực thi pháp luật vào cuộc sống, hoặc có những đóng góp trọng yếu trong ngành lập pháp. Trong thương giới cũng chủ là người có chức năng và trách nhiệm giám sát thực thi pháp luật của các công ty, hoặc giữ chức vụ quan trong của công ty. Lấy trường hợp Văn khúc đồng độ làm thượng cách, lấy trường hợp Văn khúc vây chiếu làm thứ cách.

Sao Chủ Thân Thiên Lương

Sao chủ mệnh Thiên Lương

Thiên Lương nhập hạn ca

Hạn chi Thiên Lương tối thị lương

Do như thu cú thổ hình hưong

Gia quan tiến chức nghinh tân lộc

Thường thứ phùng chi dã túc tương

Đáo nhị hạn phùng Thiên lương miếu địa. Ví như hoa cúc mùa thu tỏa hương thơm ngào ngạt. Đắc quan quyền thời được thăng quan tiến chức, kẻ thứ dân sẽ được hưởng y thực phú túc.

Hựu viết

Thiên Lương thủ hạn thọ diên trường

Tác sự cầu mưu cánh cát xương

Nhược ngộ Hỏa Linh Dương Đà hợp

Tu phòng nhất ách dữ gia vong

Sao Thiên Lương tuy được đắc cách thọ trường. Cư nơi miếu đường, thời mưu sự được cát xương vinh vượng

Nhưng nếu lạc hãm hợp với các sao Hỏa Linh, Dương Đà, thì tất bệnh khó tránh, và phải quan phòng tài phá gia

Sao Thiên Lương Ở Cung Thiên Di

Sao Thiên lương đến cung Thiên di, thừa vượng nhập miếu, xuất ngoại chủ về được quý nhân phù trợ, là người được kính trọng. Ở tại ba nơi Tỵ, Hợi, Thân, chủ về “đông bôn tây tẩu” vất vả bận bịu. Nếu có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu, chủ về viễn du tha hương.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Thiên Di

Sao Thiên Lương Ở Cung Tài Bạch

Sao Thiên lương không chủ về tiền tài. Đến cung Tài bạch thì thường làm việc lĩnh lương ở các cơ quan công ty, có tiền mà không khó khăn mấy. Nhưng danh nhiều hơn lợi, nên thường xuất hiện tình trạng gánh tội cho người khác, thậm chí vì chuyện của người khác mà tất tả hao phí tiền của, về tiền bạc hữu danh mà vô thực, thậm chí cự tuyệt tiền bạc do người khác biếu tặng. Nếu như miếu vượng địa thì tiền bạc sung túc.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương Cung Tài Bạch

Sao Thiên Lương Ở Cung Quan Lộc

Sao Thiên lương đến cung Quan Lộc, nếu ở Ngọ có cát diệu hội chiếu và xung chiếu hiệp trợ, chủ về là người quan trọng trong chính giới, thương giới, danh tiếng vang xa ra nước ngoài, quyền cao chức trọng.

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương Cung Quan Lộc

Sao Thiên Lương Ở Cung Điền Trạch

Sao Thiên lương là tinh diệu “che chở”, đến cung Điền trạch, chủ về được di sản của tổ tiên. Có Thiên cơ đồng độ thì phải tự tạo, nhiều dời đổi biến động, hoặc có tình hình “phiên tạo trùng kiến”. Có Thái dương đồng độ, chủ về vì nhà cửa hoặc tài sản chung mà xảy ra tranh giành.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Điền Trạch

Sao Thiên Lương Ở Cung Phúc Đức

Sao Thiên lương đến cung Phúc đức, thừa vượng nhập miếu, chủ về hưởng thụ an lạc.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Phúc Đức

Sao Thiên Lương Ở Cung Phụ Mẫu

Sao Thiên lương đến cung Phụ mẫu, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu và xung chiếu, chủ về có phúc ấm hoặc thừa hưởng di sản của cha mẹ. Lạc hãm chủ về hình thương khắc hại, nên làm con thừa tự của người khác.

Tham khảo thêm khi Sao Thiên Lương ở Cung Phụ Mẫu

Sao Thiên Lương Ở Cung Tử Tức

 

Sao Thiên lương đến cung Tử Tức, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Thiên vu, Ân quang, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về con cái phát đạt, thông minh nhiều tài, vừa phú lại vừa quý, có năm con trở lên.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Tử Tức

Sao Thiên Lương Ở Cung Phu Thê

Sao Thiên lương đến cung Thê, nên lấy người lớn tuổi, lấy người lớn hơn mình 3 tuổi là thích hợp (hoặc lấy người nhỏ hơn mình 3 tuổi trở lên). Có Thái âm hội chiếu, chủ về có nhan sắc xinh đẹp, nhưng lấy trường hợp chậm kết hôn hay tái hôn là tốt, nếu không sẽ chủ về “nhuyễn khắc” (ly dị).

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Phu Thê

Sao Thiên Lương Ở Cung Huynh Đệ

Sao Thiên lương đến cung Huynh đệ, thừa vượng nhập miếu, có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về anh em có hòa khí. Có Tả phụ, Hữu bật, chủ về có anh em khác mẹ, anh em cùng mẹ có hai đến ba người, anh em thường ngấm ngầm tranh giành lẫn nhau

Tham khảo thêm vấn đề Thiên Lương ở Cung Huynh Đệ

Sao Thiên Lương Ở Cung Nô Bộc

Sao Thiên lương đến cung Nô Bộc, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, hoặc có tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, chủ về có bạn bè ngay thẳng, được bạn bè giúp đỡ.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Nô Bộc

Sao Thiên Lương Ở Cung Tật Ách

Vì là thọ tinh, cho nên Thiên Lương không có ý nghĩa bệnh lý nào. Trái lại, đây là một sao giải bệnh rất hiệu lực, như Tử Vi, Thiên Phủ, Tuần hay Triệt khi đóng ở cung Tật. Nếu gặp bệnh, thì chóng khỏi, hoặc bệnh không nặng, hoặc được danh y mát tay cứu vớt kịp thời.

Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Lương ở Cung Tật Ách

Lý Tịnh – Hình tượng Sao Thiên Lương

Trong Tử Vi Đẩu Số, sao Thiên Lương được lấy từ nhân vật quan Tổng binh ải Trần Đường Lý Tịnh. Ông được mệnh danh là Thác Tháp Lý Thiên Vương. Lý Tịnh từng bái Độ Ách chân nhân tại Tây Côn Lôn làm thầy theo học pháp thuật nhiều năm, thấy đạo thần khó thành, nên từ biệt thầy xuống núi, sau lĩnh chức Tổng binh của triều đình Ân Trụ.

Phu nhân của ông là An thị sinh được ba con trai, con trưởng là Kim Tra, con thứ là Mộc Tra, con út là Na Tra. Kim Tra bái Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn tại động Vân Tiêu núi Ngũ Long làm thầy, Mộc Tra theo học Phổ Hiền chân nhân tại động Bạch Hạc núi Cửu Cung, còn Na Tra vừa ra đời đã được Thái Ất chân nhân nhận làm học trò.

Lý Tịnh với danh xưng là “Thác tháp thiên vương” (thiên vương nâng tháp) là một võ tướng trong truyện Phong thần diễn nghĩa, với hình tượng mình mặc giáp trụ, đầu đội mũ ô vàng, tay trái dỡ một toà tháp, tay phải cầm cương xoa ba mũi hoặc bảo kiếm. Do Thương Trụ vô đạo, trăm họ lầm than khổ cực, các chư hầu lớn nhỏ tôn Tây Bá hầu Cư Phát làm thủ lĩnh, hợp quân phạt Trụ.

Cả ba con trai của Lý Tịnh cũng đều theo về dưới trướng Vũ Vương, làm bộ tướng tiên phong. Lý Tịnh vốn là tướng nhà Ân, đứng trước tình hình đó, không biết phải làm thế nào. Sau ông được Đạo nhân Nhiên Đăng chỉ điểm, tạm thời từ quan về ở ẩn, đợi đến khi Chu Vũ Vương dấy binh thì đến hợp lực cùng ba người con trai cùng tham gia nghiệp lớn. Trong thời gian Vũ Vương phạt Trụ, Lý Tịnh cùng ba con trai đã lập rất nhiều công lao lớn, đặc biệt là con trai út Na Tra, hoá thân của hoa sen trắng (sao Hoả), đánh đâu thắng đó, giúp đỡ đắc lực cho chiến thắng của Vũ Vương.

Khi sự nghiệp hoàn thành, triều Chu đã được kiến lập, Vũ vương tiến hành luận công ban thưởng, cả bốn cha con Lý Tịnh đều không màng đến danh lợi, không hẹn mà cùng lẳng lặng trở về nơi lu luyện của thầy mình, rồi từ đó đến cuối đời chỉ chuyên tâm học đạo tu tiên.

Lý Tịnh vốn là một võ tướng, nhưng công lực tu hành rất cao thâm, hơn nữa còn mang tấm lòng nhân ái, sẵn sàng dùng tài năng và pháp lực để cứu vớt nhân dân ra khỏi cơn nước lửa mà không màng chuyện sống chết của bản thân. Lý Tịnh tu đạo mà thành thần tiên, trở nên trường thọ. Khương Tử Nha sau khi tự phong mình làm chủ nhân sao Thiên Cơ, lại thấy sao Thiên Lương còn vô chủ, bèn phong thần trước cho Lý Tịnh, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương.

Bởi vậy trong hệ thống lý luận Tử Vi Đẩu Số, tính cách của Lý Tịnh được gán rất nhiều cho sao Thiên Lương. Thiên Lương là sao chủ về tuổi thọ và sang quý, có lòng trắc ẩn, bản tính trung hậu, thích bố thí, hay lo chuyện bao đồng. Hành sự quyết đoán, thích giúp đỡ ngưòi khác nhưng việc nhà lại thiếu sự quan tâm.

Danh hiệu Thác Tháp Lý Thiên Vương của Lý Tinh bắt nguồn như sau: Người con trai út của Lý Tịnh tên là Na Tra, từ nhỏ đã ương bướng và rất nghịch ngợm. Một hôm, Na Tra cùng đám bạn của mình chơi đùa nơi ven biển, làm kinh động đến tận Thủy cung của Đông Hải Long Vương. Long Vương bực tức lệnh sai Dọa Xoa đi tìm hiểu ngọn ngành. Tới nơi thì Dọa Xoa bị Na Tra giết chết. Sau đó Long Vương lại sai Tam thái tử đi thu phục Na Tra. Do nói năng thiếu khiêm nhường nên đã chọc tức bản tánh ương ngạnh khiến Na Tra xuống dưới biển và đại náo Long cung, giết chết Tam thái tử, phá hủy Long cung và bắt nhốt Long Vương.

Trước tình hình đó, không còn cách nào khác, Lý Tịnh đành bắt Na Tra tự sát. May được Thái Ất chân nhân dùng hoa sen giúp cho Na Tra được hồi sinh. Na Tra sau khi trở lại với thân xác của mình thì trong lòng không vui, muốn tìm cha mình để trả thù. Bởi tài năng cao cường của Na Tra, Lý Tịnh không thể chống đỡ được nên Phật Tổ Như Lai liền ban cho ông một tòa bảo tháp xá lị bằng vàng. Lý Tịnh nhờ đó mới nhốt được Na Tra vào trong bảo tháp. Sau này mối thù giữa cha và con được hóa giải. Cùng nhau theo về trướng Vũ Vương tiên phong phạt Trụ cứu dân độ thế. Lý Tịnh có được bảo tháp thần kỳ này mà trở thành danh xưng “Thác tháp Lý thiên vương”.

Thay lời kết

Tóm lại, về sao Thiên Lương, mọi người chỉ cần nhớ Thiên Lương hóa khí là ấm tinh, là sao chỉ sự phúc thọ. Người Thiên Lương tính tình trung hậu, hay động lòng trắc ẩn nhưng lại thường thiếu sự quan tâm sâu sắc đến người khác. Hơn nữa, Thiên Lương là vì sao tiêu tai giải họa rất tốt nên đồng nghĩa những người mệnh Thiên Lương, trong cuộc đời cũng hay gặp nhiều sóng gió. Mục đích chỉ là để con Thiên Lương thể hiện ra bản lĩnh ” Giải Họa” của mình…

Xem Thêm:

LẬP LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẤY LÁ SỐ TỨ TRỤ

LẬP LÁ SỐ TỬ VI

LẤY LÁ SỐ TỬ VI

LẬP QUẺ DỊCH

LẤY QUẺ DỊCH

Sao Cự Môn – Minh Tranh Ám Đấu – Khẩu Thiệt Thị Phi

0

Ý nghĩa Sao Cự Môn

Sao Cự Môn là sao thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh. Cự Môn thuộc thủy (có thuyết cho rằng Thủy đới Kim). Là sao thiên về Âm tính. Bởi thế, hóa khí của Cự Môn là Ám tinh (che ám). Nhập Thân Mệnh là Hung tinh, chủ về thị phi khẩu thiệt, chính vì vậy mà phú mới viết rằng “Cự Môn định chủ thị phi”.

Nhưng phàm là chính tinh, thì kiểu gì cũng phải có uy lực, tức là cũng phải có mặt tốt. Một trong những cái tốt của Sao Cự Môn là lợi tài, lợi cho việc tranh đoạt, hoạt ngôn đa ngữ. Bởi Sao Cự môn được coi là thần chuyên trông coi về Phẩm chất của vạn vật. Tức là chuyên về nhận xét cái tốt, cái xấu của vạn vật. Cho nên mới gán cho nó cái tiếng “Thị Phi”. Cũng chính vì điểm này mà phát sinh nhiều quan điểm chưa được đánh giá đúng mức về Sao Cự Môn.

  • Cự Môn Miếu ở Mão Dậu
  • Vượng ở Tí Ngọ Dần
  • Đắc Địa ở Thân Hợi
  • Hãm Địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi Tỵ

Luận về Sao Cự Môn thì có 2 tính chất đại biểu rất quan trọng đó là “Khẩu thiệt thị phi” và “Minh tranh ám đấu”.

Khẩu Thiệt Thị Phi

Khẩu thiệt thị phi, tức là nói đến việc hay dính dấp vào chuyện miệng lưỡi – đúng sai. Hay tiếp xúc, hay gặp phải những chuyện liên quan đến lời ăn tiếng nói, đến chuyện đúng sai của cuộc sống. Điều này cần phải hiểu cho đúng, vì không thể có định kiến cứ cho rằng “khẩu thiệt thị phi” là đặc tính không tốt! Nhưng nên nhớ rằng cái gì cũng có mặt lợi mặt hại. Ví thử như nếu làm những nghề về thương trường, về biện hộ, cần đến sự ăn nói linh hoạt, thì đôi khi sự biến báo ngôn ngữ của Sao Cự Môn lại là một đặc tính quý giá.

Minh Tranh Ám Đấu

Minh tranh ám đấu, tức là nói đến cái sự tranh giành quyết liệt ! Điều này cũng không có gì là lạ, khi ngôn ngữ giảo hoạt, hùng biện, thì không dễ gì chịu lùi bước. Phàm đã là chuyện tranh cãi thì đương nhiên cần phải cọ sát đề giành phần thắng. Nhưng cũng còn kèm theo 1 nghĩa nữa cần để ý, đó là cái tính không chịu nhường nhịn. Khi xảy ra tranh giành thường quyết liệt, khó lòng kiềm chế bản thân. Và cũng chính vì thế mà mắc cái tiếng “thị phi”. Hai tính chất này có quan hệ hữu cơ với nhau, cần chú ý khi luận đoán.

Cũng như nguyên tắc thông thường, khi luận về tinh diệu thì cái sự Miếu-Hãm là vô cũng quan trọng. Bởi cũng một tính chất như thế, nhưng Miếu thì khả dụng, mà Hãm thì sinh tai.

Cự môn Miếu ở Mão Dậu, Vượng ở Tí Ngọ Dần, đắc địa ở Thân Hợi. Đều là những đất tốt có thể làm cho cái tính “thị phi” “tranh đoạt” trở thành hữu dụng. Chủ về uy quyền, tài lộc. Còn những đất hãm của Cự Môn là Thìn Tuất Sửu Mùi Tỵ. Chỉ chuyên về thị phi chiêu oán, quan phi kiện tụng.

Sao Cự Môn ở Cung Mệnh

  • Sao Cự Môn miếu vượng là người có tài ăn nói, giỏi thuyết khách hùng biện, thuyết phục người khác, lời nói đanh thép…
  • Sao Cự Môn Hãm địa chủ người ưa thị phi cãi cọ

Trong Tử Vi Đẩu Số, cổ nhân viết về Sao Cự Môn như sau : “Tại thân mệnh nhất sinh chiêu khẩu thiệt chi phi.

  • Tại huynh đệ tắc cốt nhục tham thương.
  • Tại phu thê chủ vu cách giác, sinh ly tử biệt, túng phu thê hữu đối, bất miễn ô danh thất tiết.
  • Tại tử tức tổn hậu phương chiêu, tuy hữu nhi vô.
  • Tại tài bạch hữu tranh cạnh chi ý.
  • Tại tật ách ngộ hình kị, nhãn mục chi tai, sát lâm chủ tàn tật
  • Tại thiên di tắc chiêu thị phi.
  • Tại nô bộc tắc đa oán nghịch.
  • Tại quan lộc chủ chiêu hình trượng.
  • Tại điền trạch tắc phá đãng tổ nghiệp.
  • Tại phúc đức kỳ họa sảo khinh.
  • Tại phụ mẫu tắc tao khí trịch.

Nghĩa là :

  • Tại Thân Mệnh một đời chiêu khẩu thiệt thị phi.
  • Tại Huynh Đệ thì anh em chợ búa với nhau.
  • Tại Phu Thê thì chủ về chia cách, sinh ly tử biệt, không khỏi ô danh thất tiết.
  • Tại Tử Tức thì không có hậu, tuy có mà như không.
  • Tại Tài Bạch thì ắt có sự tranh giành.
  • Tại Tật Ách mà gặp Hình kị, mắt có tật, thêm sát tinh mà lâm vào thì chủ tàn tật.
  • Tại Thiên Di thì ứt chiêu thị phi.
  • Tại Nô Bộc ắt là nhiều oán nghịch.
  • Tại Quan Lộc chủ về gặp hình trượng (pháp luật).
  • Tài Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp.
  • Tại Phúc Đức họa không phải là nhỏ.
  • Tại Phụ Mẫu thì dễ bị bỏ rơi.

Xem như trên thì thấy rằng trong 12 cung địa bàn. Sao Cự Môn dù đóng chỗ nào cũng đều không có chỗ tốt. Nếu nhận xét như thế thì cũng có phần khắt khe quá. Bởi như đã nói, còn phải căn cứ vào xem Miếu Hãm thế nào. Đến như Trần Đoàn lão tổ cũng còn phải nhận xét “Chí Hợi Dần Tỵ Thân, tuy phú quý diệc bất nại cửu”. Tức là tại Dần Thân, Hợi Tỵ tuy có phú quý mà không bền.

Khi Sao Cự Môn nhập Thân mệnh, Trần Đoàn lão tổ nhận xét

Chưởng chấp thị phi, chủ vu ám muội, nghi thị đa phi, khi man thiên địa, tiến thối lưỡng nan. Kì tính tắc diện thị bối phi, lục thân quả hợp, giao nhân sơ thiện chung ác.

Tức là : “Nắm cái sự đúng sai trong tay, mà lại chủ về ám muội, đúng thì nghi ngờ, mà nhiều điều sai trái. Khinh dối cả đất trời, tiến thoái đều khó. Về Tính thì trước mặt bảo đúng mà sau lưng bảo sai, không hợp với lục thân, giao kết với người thì ban đầu thiện mà về sau ác”.

Sở dĩ trong 12 cung, Sao Cự Môn không được cung nào tốt. Bởi chính tại cái tính “khẩu thiệt thị phi” “minh tranh ám đấu” mà ra cả. Ta cũng phải nhìn nhận cho rõ, tính này có thể lợi ngoài xã hội nhưng với lục thân gia đình thì tuyệt nhiên không hợp. Bởi thế mới nói “Lục thân quả hợp – Không hợp với người thân”.

Nhưng ngoài những đặc tính trên, thì Sao Cự môn cũng chủ về Tài khí. Vì bản thân Sao Cự môn là ngôi thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh. Trong các môn thuật số khác thì Cự Môn được coi là Thiên Y, chủ về vật chất. Cho nên mới nói Cự Môn lợi tài. Nhưng cũng cần phải chú ý, cái Lợi về Tài của Cự là do hệ quả của 2 tính chất trên mang lại. Chứ tuyệt không phải là trực tiếp từ tính chất mà có giống như các Tài tinh khác. Vì thế mà chỉ dám nói là Lợi Tài, mà cổ nhân không dám phê là Tài Tinh.

Về Mệnh số con người, dù thế nào đi nữa, nhưng khi có Sao Cự môn nhập vào Mệnh Thân, ắt sẽ không thể toàn vẹn. Bởi kể cả khi nhập Miếu cũng chỉ là Hư Cát. Cuộc đời ít nhiều sẽ có nhưng điều không được mỹ mãn, đặc biệt là trong quan hệ gia đình. Hơn thế nữa, vận trình cuộc đời ắt sẽ thăng trầm, ít nhất phải qua gian khó một thời mới mong thành nghiệp. Luận về chỗ này, cổ nhân chỉ có một câu “kinh lịch gian tân”. Tùy thời xử thế, nên hay không là ở chỗ có Hợp hay không. Tinh diệu thì vốn có Miếu Hãm, mà sự đời thì cũng có Đắc Thất. Quy luật vận hành của tinh diệu cũng là quy luật vận hành của đời người. Muốn biết được thì nên xem xét cái chu kỳ vận hành của Sao Cự Môn và chòm Bắc đẩu trên 12 cung ắt sẽ sáng tỏ.

Có người hỏi, Cự môn nhập mệnh có phải là kẻ học giỏi không? Chúng ta nhìn vào cách Hóa của Cự Môn. Thấy Cự không hóa Khoa. Thường cái sự khoa bảng của Cự phần lớn đem lại ở tá tinh. Chứ tuyệt nhiên bản thân Cự không phải là sao học vấn. Nếu ai đó cho rằng Cự Môn là sao học vấn thì không đúng. Không nên nhầm danh tiếng với học vấn. Có thể nổi danh, nhưng bằng cấp thì lại là câu chuyện khác. Vậy, người Cự Môn mà muốn thành danh trong học nghiệp, nhất định không thể rời xa bọn Văn tinh Quý tinh. Nhưng khổ nỗi, khi Cự hội được bọn văn tinh, thì dễ thành nhà mô phạm, lại không có lợi cho tiền tài. Cho nên ở một phương diện nào đó, nếu lưỡng toàn cả hai, thì cần hội hợp được cả đám Quý tinh và Hình Tướng Ấn. Thì có thể làm đắc dụng cái ngôn ngữ của Cự Môn mà ra xã hội tranh giành lấy phú quý công danh.

  • Mệnh Cự Môn tại Hợi

Riêu Đà Kị – Bộ Tam Ám nổi tiếng

Sao Cự Môn nằm trong nhóm Ám tinh, nhưng khi gặp đủ bộ Tam Ám Riêu Đà Kị thì lại tối kị. Vì Sao Cự Môn thuộc Thủy mà gặp Tam Ám thì rất dễ bị tai nạn sông nước. Nếu như không đủ bộ Tam Ám mà chỉ gặp Hóa Kị – Người ta còn gọi là cách Cự Kị – là cách Ngọc điểm hà tỳ – Ngọc lành có vết. Nên gặp cách này thì cũng hay gặp họa.

Thạch Trung Ẩn Ngọc

Đây là cách cục rất hay khi Sao Cự Môn cư Tí, Ngọ, hội hợp được với cát diệu

Cự Cơ Mão Dậu

Cự Cơ Mão Dậu còn gọi là cách Cơ Cự Đồng Lâm. Cách này lợi tài nhưng gia đạo thường không được yên ổn

Thái Dương Cự Môn – Cự Nhật Dần Thân Cách

Cự Nhật Dần Thân cũng là một cách cục nổi tiếng. Cự Nhật Dần Thân có 2 thái cực (Chỉ được 1 cái, cái này đến trước thì khỏi cái kia)

  • Tiên Khu Danh Hậu Thực Lộc
  • Tiên Thực Lộc Hậu Trì Danh

Sao Cự Môn tương phối Lục Sát – Lục Cát

Như đã phân tích ở các phần trước về tính lý của Sao Cự môn. Đành rằng là có các cách cục khác nhau. Nhưng sâu hơn chút nữa, thì ta có thể thấy rằng các cách của Sao Cự Môn đều chịu ảnh hưởng rất nhiều của các tá diệu. Cho nên, xem xét việc Sao Cự môn tương phối với các tá diệu cũng là một kỹ thuật cơ bản để luận đoán các cách cục của Cự Môn.

Cũng theo nguyên tắc thông thường của Tử vi. Các cách cục của Sao Cự Môn tập trung tính chất ở hai đặc điểm chính

  • Sự Miếu Hãm của chính tinh.
  • Sự hội hợp của tá tinh – hóa diệu.

Việc miếu hãm thì chắc không phải bàn nữa. Bởi nó đã thể hiện trong cách cục của Cự Môn rồi. Còn sự hội hợp của tá tinh, hóa diệu thì cũng theo một nguyên tắc chung là “phùng cát dã cát, phùng hung dã hung”. Gặp được sao tốt thì là tốt, mà gặp được sao hung thì là hung. Có thể phân tích các trường hợp cụ thể như sau:

Hóa diệu: Hóa diệu là Lộc Quyền Khoa Kị. Sao Cự Môn rất cần Khoa Quyền Lộc hội hợp để thành cách. Nhưng lại rất ngại Hóa Kị che ám (trừ một vài trường hợp đặc biệt được gọi là Phản vi kỳ cách).

Chẳng thế mà các câu phú đều tập trung vào việc xem xét sự hội hợp của Hóa diệu với Cự Môn. Điển hình như

“Cự môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát lộc tranh vinh”

Tức là Sao Cự Môn ở Thìn Tuất vốn là đất hãm sẽ không tốt. Nhưng người tuổi Tân thì gặp được Cát Hóa, tài lộc sẽ rất khá.

Như đã dẫn, ngay như cách Thạch Trung Ẩn Ngọc. khi Sao Cự Môn phối với các tá diệu, hóa diệu thì:

  • Gặp Quyền (hoặc) Lộc là Thượng cách
  • Gặp Lộc tồn là Thứ cách.
  • Không có Lộc tồn, chẳng có Hóa cát là tầm thường.

Các sao, các hóa đặc biệt thích hợp với Cự môn là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Lộc Tồn. Cổ thư viết:

“Nhược đắc lộc tồn đồng độ, tắc phúc hậu lộc trọng, đãn tính tình kiệm phác nhi cẩn thận, chủ phú. Như hóa quyền, hóa lộc, tắc phách lực cực đại, thiện sang nghiệp, chủ quý”

Nghĩa là: Nếu Sao Cự Môn được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng. Nhưng tính tình thì cần kiệm cẩn thận, chủ về giầu sang. Còn như Hóa Quyền, Hóa Lộc, thì tính quyết đoán rất lớn, dễ gây dựng thành cơ nghiệp.

Đặc biệt là cách Cự Môn Tí Ngọ rất cần Quyền, Lộc. Chẳng thế mà Ngọc Thiềm tiên sinh đã nói:

“Cự Môn Tí Ngọ nhị cung phùng, cục trung đắc ngộ dĩ vi vinh, tam hợp hóa cát khoa quyền lộc, quan cao cực phẩm y tử bào”.

Nghĩa là gặp Sao Cự môn ở hai cung Tí Ngọ, được cục này là vinh hiển. Nếu lại được Hóa Cát trong tam hợp hội về, thì có thể làm quan rất cao, mặc áo tía trong triều đình.

Cự Môn với Lục Cát (Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt)

Với lục cát tinh, đương nhiên là nhóm của những sao phò trợ rất đắc lực để hỗ trợ thành cách. Nhưng trong đó, Sao Cự môn đặc biệt thích hợp với Tả Hữu hơn. Sao Cự Môn được tả hữu hội hợp, dễ làm nên cơ nghiệp. Tả hữu trợ giúp cho Cự Môn đắc dụng nhất là khi phối hợp được với Lộc tồn, người tuổi Quý được cách này sẽ phần nhiều là quý hiển.

Còn đối với Khôi Việt, ngoài ý nghĩa của Quý Nhân ra, thì Khôi Việt không có sự phụ giúp nào đặc biệt cho Sao Cự Môn cả. Bởi lẽ, Cự Môn dù sao cũng có tính tài khí mạnh, mà Khôi Việt thì chủ quý nhiều hơn, nên tác dụng không rõ rệt lắm. Khôi Việt trợ giúp đắc lực nhất cho Sao Cự Môn khi Cự đóng ở cung Mão Dậu. Trong trường hợp này thì vì có Thiên Cơ đi cùng với Cự, nên rất thích hợp với Khôi Việt, chủ về Quý, dễ thành đạt trong quan trường.

Đối với Văn Xương, Văn Khúc, thì gần như là không hợp với Cự, bởi lẽ Cự vốn là hung tinh, chủ về thị phi, không hợp với văn tinh. Nếu lại gia thêm Hóa Kị nữa thì càng không hợp. Duy chỉ có một trường hợp Sao Cự Môn cư Thìn, nếu gặp Xương Khúc, Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc thì lại là Kỳ cách! Phản hung vi cát.

Cách này vốn dĩ nếu xét theo cách bình thường thì không có gì tốt đẹp cả. Cổ nhân đã nói

“Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn”

Hai cung Thìn Tuất ngại nhất là gặp Sao Cự Môn hãm! Tại vị trí này Cự Môn là đất hãm, đối cung là Thiên đồng cũng Hãm. Xét Tam phương hội hợp thì có 2 trường hợp : Cự môn cư Thìn thì sẽ có Thái Dương hãm hội chiếu. Cự Môn cư Tuất thì sẽ có Thái Dương miếu hội chiếu. Mấu chốt vấn đề chính ở chỗ này.

Khi Sao Cự Môn cư Tuất, Vương Đình Chi viết:

“Cự môn tại Tuất cung, Hóa quyền hoặc Hóa lộc giả, nãi kỳ cách, nhân vi Thái dương tại Ngọ cung, thị Nhật lệ trung thiên, hội chiếu Cự môn, tắc âm ám chi khí tiêu tẫn hĩ”.

Tức là, khi Sao Cự Môn đóng ở Tuất gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc thì là Kỳ cách. Nguyên do Thái Dương đóng ở Ngọ, nhập miếu là “Nhật lệ trung thiên” sẽ làm tiêu tan cái ám khí của Cự.

Đối với Cự Môn tại Thìn cung, Vương viết:

“Tại Thìn cung, hữu nhất cá trọng yếu cách cục: cự môn dữ Văn xương đồng độ, Tân niên sinh nhân chủ phú quý vô luân. (phường bản chích ngôn cự môn tại thần tuất, “Tân sinh nhân mệnh ngộ phản vi kỳ” , thiểu liễu Văn xương đồng độ giá cá điều kiện) tại Tuất cung kiến cát Hóa diệc vi kỳ cách”.

Tại cung Thìn có một cách cục trọng yếu của Sao Cự Môn. Đó là Cự Môn Văn Xương đồng độ, người tuổi Tân chủ phú quý không kể hết (phường bản* chỉ nói Cự Môn tại Thìn Tuất “Người tuổi Tân mà mệnh gặp được thì lại lại là kỳ cách”, mà thiếu mất điều kiện Văn xương đồng độ). Tại cung Tuất mà gặp Hóa Cát cũng là kỳ cách.

* Sách ngày trước chia làm 2 loại, Kinh bản và Phường bản. Kinh bản là sách chính gốc, còn Phường bản là các sách bản sao của các địa phương khác nhau.

Như vậy, tổng kết lại sẽ có các trường hợp gọi là “kỳ cách” như sau :

  • SaoCự Môn cư Thìn, có Văn xương đồng độ, người tuổi Tân thì đắc cách
  • Sao Cự môn cư Tuất, có Quyền Lộc hội hợp, người tuổi Tân hợp cách.

Chú ý rằng, điều kiện để có được kỳ cách phải rất chặt chẽ, không được sơ hở. Ngoài những điều kiện kể trên, thì bản cung phải sáng sủa, tránh xa Tuần triệt, sát tinh, tam phương tứ chính cần phải có văn tinh, quý tinh trợ thủ thì mới thành cách xác đáng được.

Ngoài ra, như trên đã viết rõ, Sao Cự môn cũng rất cần Lộc tồn để hóa giải mà thành cách. Đẩu số toàn thư viết

“Phùng lộc tồn tắc giải kì ách”

Nghĩa là gặp Sao Lộc tồn thì có thể hóa giải tai ách cho Cự môn. Nhưng đặc biệt chú ý, trường hợp Cự môn cư Mão, người tuổi Giáp thì sẽ bị Kình Dương đồng cung, lại là hung cách.

Cự môn phối với Lục Sát (Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh)

Ngay từ đầu đã nói rằng Cự Môn là Hung tinh, chủ thị phi ám muội “minh tranh ám đấu”. Bởi vậy, khi phối với Hung Sát tinh thì đương nhiên là Khí Cách. Tức là sẽ bị phá cách nặng mà cổ nhân phê rằng “Hủ mộc nan điêu”. Như khúc gỗ đã mục nát, không thể đẽo gọt được thành cái gì cả. Kể cả khi Cự miếu vượng mà hội hung sát tinh thì cũng sẽ bị phá cách, không còn tốt đẹp nữa. Nhưng tùy theo mỗi nhóm Hung Sát tinh mà sẽ có nhưng tác dụng khác nhau đến Cự Môn. Ta hãy thử tìm xem xưa nay người ta luận như thế nào khi Sao Cự Môn gặp Hung Sát tinh.

Sao Cự Môn gặp Không Kiếp

Đối với Không Kiếp: Địa Không, Địa Kiếp là một cặp sao Sát tinh đáng ngại nhất của Tử vi. Thậm chí có người còn cho rằng “đóng đâu chết đó”. Vậy khi kết hợp với Cự Môn, thì đương nhiên sẽ làm tăng tính Hung của Cự Môn. Về cơ chế, thì lúc ấy cái “tính hung” của Cự Môn sẽ phối với “tính hung” của Không Kiếp mà tác họa. Tính Hung của Cự Môn là Thị Phi, Ám Muội.. mà tính Hung của Không Kiếp là “giáng thương nhân, hình pháp, thất tài, cô đơn chi họa”. Tức là giáng họa về thương tích, hình pháp, mất tiền, cô đơn. Cả hai “tính hung” này mà phối hợp với nhau thì khó lòng tránh được tại họa. Ít nhiều thì cũng phải gặp phiền toái.

Đẩu số toàn thư có viết : Thử tinh hóa ám bất nghi phùng, canh hội sát tinh dũ tứ hung, thần xỉ hữu thương kiêm tính mãnh, nhược nhiên nhập miếu khả hòa bình. Nghĩa là, Sao Cự môn hóa Ám tinh chẳng nên gặp làm gì. Nếu lại hội sát tinh thì càng hung, môi răng dễ bị thương tích lại thêm cái tính mạnh bạo, làm việc gì cũng “nóng giận mất khôn” mà để lại hậu quả. Nếu như Sao Cự Môn mà nhập miếu, thì may ra có thể được hòa bình

Như vậy, khi Sao Cự Môn gặp Không kiếp thì nên chú ý. Ngoài việc mang thương tích vào môi, răng, nhưng quan trọng hơn cả là cái tính Thị Phi Ám Muội của Cự bị kích động. Cho nên thường tai họa sinh ra do hành xử nóng giận, vội vã, không kiềm chế được bản thân mình

Sao Cự Môn ngộ Kình Đà

Đối với Kình Đà: Kình Đà là hai sát tinh cũng rất nặng nề của Tử vi. Tác dụng của nó tuy có khác nhau, nhưng cổ nhân nhóm với Hỏa Linh và quy nó về Tứ Hung. Đối với Cự Môn, thì tác dụng của Kình Đà có phần nặng nề hơn Không Kiếp. Trong cổ thư có viết về Sao Cự Môn khi gặp Kình Đà một câu

“Cự Môn Tứ sát – hãm nhi hung”

Tức là khi Sao Cự Môn gặp tứ sát thì không những bị vây hãm, mà còn Hung. Khi Sao Cự Môn gặp Dương Đà Hỏa Linh thì coi như bị phá cách nặng. Không những không thể phát huy được (hãm), mà còn đem tai họa đến (hung)

Trần Đoàn lão tổ có nhận xét rằng “Tham Hao đồng hành, nhân hảo đồ phối. Ngộ đế tọa tắc chế kì cường. Phùng lộc tồn tắc giải kì ách, trị dương đà nam đạo nữ xướng”.

Nghĩa là, Sao Cự Môn mà gặp Tham Hao đồng hành, thì như gặp người bạn tốt. Gặp Tử vi thì có thể chế được tính cường ngạnh. Gặp Lộc tồn có thể giải được ách. Gặp Dương Đà thì trai dễ trộm cắp, mà nữ dễ làm kỹ nữ.

(có nhiều thắc mắc trong câu này của Trần Đoàn lão tổ là Tại sao Cự Môn lại có thể gặp được Tham hoặc Tử vi. Về mặt an sao thì không thể, và cho rằng câu này là man ngôn. Nhưng về mặt phối hợp với nhau để luận đoán, thì trên lá số không hẳn chỉ có một sự phối hợp khi an sao, mà còn nhiều sự phối hợp khác nữa, vấn đề này cần suy ngẫm thêm)

(Gặp ở vận hạn chẳng hạn – Phú Hà)

Bình luận về cách cục CựMôn Dương Đà, Ngọc Thiềm tiên sinh phê rằng: “Cự Môn dương đà vu thân mệnh tật ách luy hoàng khốn nhược đạo nhi xướng”. Nghĩa là, Khi Sao Cự Môn Dương Đà mà đóng vào Thân Mệnh hoặc Tật Ách thì gày còm, vàng vọt, ốm yếu, dễ sinh trộm cắp hoặc kỹ nữ.

“Cự Môn thủ mệnh kiến Dương Đà, nam nữ tà dâm”. Người Cự môn thủ mệnh, nếu trong tam phương tứ chính mà hội Kình Đà, thì thường mang lòng tà dâm.

Với Kình Dương, phê rằng “Cự Hỏa Kình dương, chung thân ải tử”. Tức là Cự Môn mà gặp Hỏa linh, Kình dương. Thì cuối đời cái chết không được bình thường (ải tử – là thắt cổ tự tử), nhưng dịch cho thoáng nghĩa thì nói như trên.

Với Đà la, Phú nói rằng “Đà la đồng cư Thân Mệnh hoặc Tật Ách cung, chủ bần khốn, thể nhược tàn tật, tổ nghiệp phiêu đãng, bôn ba lao lục”. Có nghĩa là khi Sao Cự Môn Đà la cùng đóng ở Thân, Mệnh hoặc Tật ách cung, thì chủ về nghèo khốn, thân thể yếu đuối, tàn tật, bỏ tổ nghiệp mà trôi nổi, bôn ba vất vả.

Ngoài ra, trongTử Vi Đẩu Số Toàn thư còn thêm một câu về hình tướng “Cự Môn, Đà La tất sinh dị chí”. Tức là Mệnh thân mà có Cự Môn, Đà La thì ắt là sẽ có nhưng nốt ruồi khác lạ (câu này bản phường chỉ nói rằng : Đà la tất sinh dị chí, mà không có Cự môn – cần chiêm nghiệm).

Sao Cự Môn ngộ Hỏa Linh

Đối với Hỏa Linh: Hỏa Linh là hai Hung tinh cùng hàng với Không Kiếp Kình Đà. Phối với Sao Cự Môn, thì cũng giống như những hung sát tinh trên, làm cho hung tính của Cự Môn tăng lên mà tác họa. Tính của Hỏa Linh đặc trưng là yểu chiết, cho nên trong Tử vi còn gọi là Đoản thọ sát tinh. Chính vì vậy, mà khi gặp Hung tinh Cự Môn thì trong các cách cục đều phảng phất ý nghĩa này.

Như câu “Cự Hỏa Kình dương chung thân ải tử”, hoặc “Cự môn Hỏa Linh phùng ác hạn, tử vu ngoại đạo” – Cự môn mà gặp Hỏa Linh, nếu vào hạn ác thì có thể chết ngoài đường.

Đối với cách này, thì rất cần phải có Lộc tồn để hóa giải (như trên đã dẫn), và khi nhập hạn thì rất cần Tử vi để áp chế thì có thể hóa giải được cái sự hung hiểm của trường hợp này. Ngọc Thiềm tiên sinh phê rằng “Cự môn Hỏa Linh, vô Lộc tồn Tử vi áp chế, quyết phối thiên lý, tao hung” – Nghĩa là, Cự-Hỏa-Linh mà không có Lộc-Tử hóa giải, áp chế thì phải quyết là sẽ lấy chồng lấy vợ rất xa (thiên lý), mà sẽ gặp hung họa. Nhưng như bài trước đã viện dẫn, khi Cự môn cư Mão, người tuổi Giáp sẽ gặp Kình dương đồng cung, sẽ là hung cách chứ không hy vọng hóa giải được.

Và cuối cùng, có lẽ cũng căn cứ theo tính chất của Hỏa-Linh, thì xưa còn nhận xét rằng Cự môn thủ mệnh, tam hợp sát thấu, tất tao hỏa ách – Cự môn nhập mệnh, nếu trong tam hợp có Hỏa Linh hội về, ắt sẽ gặp hỏa ách

(câu này vẫn còn đang trong vòng nghi ngờ và tranh cãi, cho rằng nó được suy diễn ra từ tính chất của Hỏa tinh. Bởi lẽ Cự Môn thuộc Thủy, gặp Hỏa không có lẽ nào lại kích động hỏa tính của Hỏa tinh được – cần chiêm nghiệm thêm)

Cự Môn Hóa Quyền

Cổ thư để lại khi viết về Cự Môn có viết “tại mệnh bàn chủ khẩu thiệt thị phi, minh tranh ám đấu. Nhược hóa quyền tinh, tắc vi nhân sư biểu, thanh danh viễn dương. Dữ thái dương hội chiếu, tắc quang minh lỗi lạc, năng phú năng quý” – nghĩa là : Cự môn tại mệnh, chủ về khẩu thiệt thị phi, minh tranh ám đấu. Nhưng nếu hóa Quyền tinh, thì ắt sẽ là kẻ mô phạm, danh tiếng bay xa. Cùng với Thái Dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, lại vừa Phú vừa Quý”.

Cự môn Hóa thành Quyền tinh khi nào? Xem trong bảng tứ Hóa thì thấy :

  • Cự hóa Lộc ở tuổi Tân
  • Cự hóa Quyền ở tuổi Quý
  • Cự hóa Kị ở tuổi Đinh
  • Cự môn không hóa Khoa

Đây là Chính thể Hóa cách, đừng nhầm với việc phát biểu Cự Môn – Hóa Quyền. Tức là Cự môn gặp Hóa Quyền hay hội Hóa quyền. Như vậy, câu “nhược hóa quyền tinh, tắc vi nhân sư biểu, thanh danh viễn dương” – là nói đến ý rằng, với người tuổi Quý thì chính thể Cự môn sẽ hóa thành Hóa Quyền, là đắc cách. Còn với người tuổi Tân, vì cách an Tứ Hóa “Tân : Cự – Nhật – Văn Khúc – Văn Xương” – vậy, nếu mệnh người tuổi Tân mà đóng ở tại 4 cung Dần-Thân, Tỵ-Hợi thì đắc cách vì sẽ hội được Lộc-Quyền, cũng là một trường hợp xem xét.

Mà như ở phần trước đã nói : Cự Môn chủ về Thị Phi Khẩu Thiệt, tức cũng chủ về danh tiếng, nếu Cự Miếu Vượng là thành đắc dụng, lại hóa Quyền, thì danh tiếng bay xa. Nếu thêm Quế Hoa, Thiên Ất, đặc biệt là Kình dương nhập miếu hội chiếu thì ắt hẳn danh tiếng không phải là nhỏ, vì “kình dương nhập miếu – cái thế văn chương”. Vì thế Phú Trần đoàn mới luận “Cự Kình Hóa Lộc Tuất Thìn Cung – Tân Quý sinh nhân Phú Quý đồng – Đắc vận thanh danh lưu viễn xứ – Chỉ khủng tha hương lão bất hồi” – Cự Kình Hóa Lộc ở tại Tuất-Thìn 2 cung, nếu người tuổi Tân, tuổi Quý thì được phú quý, nếu đắc vận gặp thời thì tiếng tăm lừng lẫy xứ người, nhưng chỉ sợ rằng sẽ rơi vào cảnh tha hương đến già chẳng về được.

Cự Môn Hóa Lộc

Cự Môn Hóa Kị

Hạn hành Cự Kị hung thần.

Phải phòng những chốn giang tân mới lành.

Thông thường mọi người hay hiểu theo ý thứ nhất. Giang Tân nghĩa là bờ sông. Ám chỉ hay bị tai nạn sông nước.

Ngoài ra còn có ý thứ 2. Vì tượng Cự Môn Hóa kị là Ngọc có vết, cho nên đối với nữ nhân mà hạn đến Cự Kị thì dễ bị thất tiết.

Cự Môn có tượng là cái cửa, là cái mồm, nhưng xét về nữ giới, nó còn là bộ phận đặc trưng. Cho nên là khi mà gặp những cách xâm phạm đến Sao Cự Môn thì dễ bị xâm hại đến danh tiết.

Sao chủ mệnh Cự Môn

Sao Cự Môn ở Cung Phu Thê

Cự môn là sao chủ về điều tiếng thị phi, tranh giành cãi vã nên khi nó đóng vào Cung Phu Thê thì đương số nên lấy vợ muộn để hạn chế những điều này. Chi tiết bạn có thể tham khảo tại bài viết Cự Môn ở Cung Phu Thê

Cự Môn Hóa Kị Cung Phu Thê

Thiên Đồng Cự Môn hãm địa Cung Phu Thê

Sao Cự Môn ở Cung Phúc Đức

Cự Môn thủ Cung Phúc Đức thì dù miếu vượng, đương số cũng ít khi cảm thấy tinh thần được thoải mái. Chi tiết hơn mời bạn tham khảo bài viết Sao Cự Môn ở Cung Phúc Đức

Cự Môn Hóa Kị Cung Phúc Đức

Cung Quan Lộc có Sao Cự Môn

Khi Cung Quan Lộc có Sao Cự Môn, đương số thích hợp với việc sử dụng các kỹ năng chuyên môn để kiếm tiền, đồng thời cũng chủ đương số là người trắng tay dựng nghiệp. Chi tiết hơn mời bạn tham khảo bài viết Cự Môn Cung Quan Lộc

Cung Tài Bạch có Sao Cự Môn

Sao Cự Môn đóng Cung Tài Bạch chủ về đương số phải lao tâm khổ tứ để kiếm tiền. Chi tiết hơn mời bạn tham khảo trong bài viết Cự Môn Cung Tài Bạch

Sao Cự Môn Cung Thiên Di

Khi Sao Cự Môn thủ Cung Thiên Di, nếu miếu vượng thì chủ về tài hùng biện nổi tiếng gần xa, tuy nhiên nếu gia thêm Hóa Kị thì chắc chắn không tránh khỏi việc thị phi va chạm..Chi tiết hơn mời bạn tham khảo bài viết Sao Cự Môn Cung Thiên Di

Thái Dương Cự Môn Cung Thiên Di

Sao Cự Môn ở Điền Trạch

Cự Môn định chủ thị phi nên khi cư vào Cung Điền Trạch thì rất dễ xảy ra tranh chấp tài sản ông cha để lại, thậm chí có thể dẫn đến kiện cáo lẫn nhau. Chi tiết hơn mời bạn tham khảo bài viết Cự Môn ở Cung Điền Trạch

Sao Cự Môn Cung Huynh Đệ

Khi Sao Cự Môn thủ nhập Cung Huynh Đệ, chủ về có từ 2 anh em trở lên & tùy vào sự phối hợp của các bộ sao khác nhau mà có thể dẫn tới những kết quả khác nhau. Nếu cần chi tiết hơn, mời bạn tham khảo bài viết Cự Môn Cung Huynh Đệ

Sao Cự Môn Cung Tử Tức

Khi Sao Cự Môn nhập vào Cung Tử Tức, chủ về sự hiếm muộn con cái hoặc con cái sẽ khó nuôi. Chi tiết hơn, hãy tham khảo bài viết Cự Môn Cung Tử Tức

Sao Thiên Đồng Cự Môn

Cự Môn Đà La

Cự Môn Thiên Hình

Cự Môn Hóa Kị gặp Tuần

Cự Môn Hóa Kị gặp Triệt

Thay lời kết

Đây thực sự là bài viết rất công phu về Sao Cự Môn của Thầy Nguyễn Trọng Tuệ (Tuệ Tvnb). Thông qua bài viết này, chắc chắn mọi người sẽ thấy rõ nhất 2 đặc tính của Sao Cự Môn là:

  • Minh Tranh Ám Đấu
  • Khẩu Thiệt Thị Phi

Tuy cổ nhân phê Sao Cự Môn ở vào 12 cung đều xấu. Nhưng chúng ta cần phân biệt rõ tính chất của Sao Cự Môn là miếu vượng hay hãm địa để định rõ cát hung của Cự Môn.

Sao Thất Sát – Cư Quan Đắc Vị – Uy Áp Vạn Nhân

0

Ý nghĩa Sao Thất Sát

Sao Thất sát miếu ở Sửu, Mùi, Dần, Thân, Thìn, Tuất, hãm ở Mão, Dậu.

Thất sát là sao thứ sáu của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, hóa khí làm”quyền”, cũng là tướng tinh bên cạnh hoàng đế, chủ về “túc sát” (nghiêm và có sát khí), cuộc đời chủ về cô độc, phần nhiều không có tri kỷ. Có thể lợi dụng tính cách độc lập mà phát triển, sáng lập sự nghiệp mới một cách bất ngờ.

Sao Tử vi tương hội với sao Thất sát, có thể giúp cho đế tinh cầm cương ra oai, chuyển hóa thành quyền lực, nhờ có vậy mà khí”túc sát” của Thất sát trở thành hòa hoãn.

Do Thất sát là sao đại tướng, cho nên rất ưa phò tá Tử vi, Thiên phủ, chủ về được quý nhân đề bạt mà hoạn lộ thênh thang. Dù gặp Sát tinh, cũng có thể theo ngành kinh doanh buôn bán mà trở nên giầu có. Nếu theo con đường kinh doanh, chỉ thích hợp với ngành công thương nghiệp, ở môi trường này sẽ là một nhân viên giỏi, năng động và tháo vát, nhưng không nên đầu cơ, vì dễ xẩy ra phá tán mà thất bại; khi đã thất bại muốn trở lại thăng bằng và lấy đà vực dậy, sẽ gặp nhiều trở ngại và rất khó khăn.

Phàm người có Thất sát thủ cung Mệnh, trong đời ắt sẽ có một lần gẫy đổ rất lớn, cung Mệnh mà gặp Địa không, Địa kiếp, Đại hao thì càng nặng. Nếu theo ngành công thương nghiệp, tuy có trở ngại nhưng lòng tin không bị mất, vẫn được sự tín nhiệm, có thể khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn không nên đầu cơ mạo hiểm.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở Mùi, hoặc Thất sát độc tọa thủ Mệnh ở Ngọ, còn Liêm trinh thủ cung Phúc đức, đều gọi là cách”Hùng tú kiền nguyên”, chủ về phách lực hùng hậu. Đây do âm Kim của Thất sát được âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện mà thành hữu dụng. Thất sát thủ Mệnh ở Tý thì tốt kế đó.

Thất sát ở Sửu, tuy có Liêm trinh đồng độ, nhưng là mệnh cách bình thường. Nếu tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, khốn khó, tổn thương, họa hại, nặng thì cuối cùng sinh tàn tật.

Thất sát rất ngại lạc hãm, cũng như không ưa gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, Âm sát, chủ về tính cô độc càng thêm tăng nặng, phúc khí bất toàn. Phần nhiều, mệnh tạo thường tìm đến tôn giáo để giải tỏa tinh thần, tư tưởng nhiều ảo vọng nên thường cảm thấy tâm hồn hư ảo trống rỗng.

Thất sát ở Sửu hoặc ở Mùi, cung Thiên di ắt là Thiên phủ, chủ về bề ngoài cứng rắn mà bên trong giầu tình cảm, phần lớn hay buồn bã không duyên cớ, dễ mủi lòng, còn bất lợi về hôn nhân, cuối cùng dễ có tư tưởng xuất thế.

Thất sát gặp”Thái dương Cự môn” ở cung Đế vượng, gọi là”cát xứ tàng hung” (trong cát có hung), chủ về trong thuận cảnh bỗng sinh biến cố, nên giấu bớt tài năng.

Nam mệnh Thất sát, cung Phúc đức nên gặp các Cát tinh. Nữ mệnh Thất sát, cung Phu nên gặp các Cát tinh.

Thất sát là tướng tinh, các sao Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, cho tới Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đối với nó mà nói, đều rất quan trọng, làm tăng thanh thế cho Thất sát. Vì vậy không bằng trường hợp các sao Cát phân bố đều trong 12 cung, lúc này cách phối trí mệnh bàn được quân bình, đời người giảm thiểu những trắc trở gian nan.

Sao Thất Sát Cung Mệnh – Thất Sát Thủ Mệnh – Thân

Thất Sát đồng cung với Tử Vi hay đối nhau với Tử Vi, đều hoá làm sao quyền. Nếu gặp Tử Vi Hoá Quyền, thì quyền quá nặng, chưa chắc có lợi. Đến các đại hạn hay lưu niên này ắt không cát tường, cần đề phòng xảy ra thất bại. Rất ghét gặp cung hạn Vũ Khúc Hoá Kị.

Thiên Lương chủ về “phong tục, luật pháp”, Thất Sát cũng chủ về “phong tục, luật pháp”, nên cũng chủ về “hình pháp, kỉ luật”. Có điều, Thiên Lương thuộc văn, Thất Sát thuộc võ; Thiên Lương có thể lui về hậu trường, Thất Sát thì bước lên phía trước. Cho nên Thiên Lương có thể nhuyễn hoá thành “giám sát”, Thất Sát thì nhuyễn hoá thành “quản lý”.

Cổ nhân nói: “Hai cung mà gặp nó, định phải trải qua gian khổ”. (Nhị cung phùng chi, định lịch gian tân.), tức là hai cung mệnh và thân mà gặp Thất Sát, đời người ắt sẽ có một thời kỳ gian khổ. Đại khái là, Thất Sát rất kị đến hai cung hạn Thiên Cơ, Cự Môn toạ thủ; cần phải có hành động thiết thực để qua giai đoạn này, mới có thể hởi lòng hởi dạ.

Thất Sát ắt sẽ đối nhau với Thiên Phủ, Thất Sát chủ về công, Thiên Phủ chủ về thủ, hai sao kềm chế lẫn nhau, cần phải xem ảnh hưởng của hai bên như thế nào. Ví dụ như Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân có Lộc Tồn đồng độ, đối cung là “Tử Vi, Thiên Phủ”, mà Thiên Phủ được Lộc Tồn vây chiếu, cho nên lợi về thủ, mà bất lợi về công. Lúc này Thất Sát tuy chịu ảnh hưởng của Tử Vi ở đối cung, quyền lực của nó cũng nên có khuynh hướng bảo thủ, rất nên phát triển trong cục diện hiện có, mà không nên lập ra cục diện mới, cũng không nên có nhiều thay đổi.

Thất Sát kị Hoả Tinh, Linh Tinh, kị nhất là tổ hợp “Kình Dương, Hoả Tinh”, hay “Kình Dương, Linh Tinh”. Trong hai nhóm, “Kình Dương, Linh Tinh” là rất xấu; nếu có Thiên Hình đồng độ, gặp các sao Âm Sát, Đại Hao, Thiên Hư, sẽ chủ về phạm pháp hình sự.

Thất Sát ở cung miếu vượng, gặp “Kình Dương, Hoả Tinh” thì còn được, chỉ chủ về lực kích phát, đời người không ngừng trắc trở nhưng có thể nhờ đó mà tiến bộ. Nếu gặp “Kình Dương, Linh Tinh”, thì có ý vị lụn bại dần dần, ở hãm địa thì càng nặng, còn chủ về không có duyên với lục thân, cuộc đời ít được trợ lực.

Thất Sát không nên chỉ hội Văn Xương, Văn Khúc, mà không hội các sao phú, tá cát khác. Nếu không, thì càng thông minh càng độc đoán, không chịu nghe ý kiến của người khác, thường là do mệnh tạo gây ra trắc trở.

Thất Sát rất ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt; thậm chí đến các cung hạn có Lưu Khôi, Lưu Việt vây chiếu hay hội hợp, thường thường đây cũng là cơ hội chuyển biến theo hướng tốt.

Thất Sát cũng ưa gặp sao lộc, ưa nhất là gặp Phá Quân Hoá Lộc, chủ về đời người trải qua một lần chuyển biến quan trọng mà được phú quý; kế đến là Tham Lang Hoá Lộc, cũng có thể được vinh hoa, nhưng đề phòng phú quý không lâu dài; Vũ Khúc Hoá Lộc cũng tốt, nhưng cách cục kém hơn.

Thất Sát đối nhau với Thiên Phủ, là đã có hàm nghĩa gây trở ngại lẫn nhau, là mâu thuẫn về tính chất. Cho nên lúc Thất sát có các sao sát, hình, không, hao đồng độ, thường dễ vì gặp trắc trở mà cảm thấy đời người là hư ảo, phần nhiều vì vậy mà có khuynh hướng tôn giáo, bước vào cửa Phật, Đạo. Có điều, nếu Thiên Phủ gặp sao lộc, thì trước sau vẫn tham luyến duyên trần.

Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có “Vũ Khúc, Thiên Phủ” vây chiếu, gặp sao lộc thì “tài tinh” Vũ Khúc có gốc rễ, có thể điều hoà khí chất của Thất Sát. Cho nên có thể nhuyễn hoá thành người trong giới làm ăn kinh doanh. Nếu là người nắm quyền về kinh tế tài chính mà không có sao lộc, chỉ cần không có các sao sát, kị, hình, cũng chủ về được bậc trưởng thượng dùng tài lực giúp đở, đây là được dư khí che chở.

Bởi vì liên quan đến “sự che chở”, cho nên Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ đặc biệt ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật. Nếu đến đại vận hoặc lưu niên có Lưu Khôi, Lưu Việt xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì vận hạn hay niên hạn này, đại khái có thể xem là cát lợi, chủ về được người tri ngộ; nhưng nếu có các sao sát, kị, hình hội hợp thì thuộc ngoại lệ.

Nếu Thất sát ở cung Ngọ, thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, thì đại kị có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ. Cách cục này là hoả luyện âm kim, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì hoả hầu quá lớn, không những đời người gian khổ, mà e rằng còn bị tàn tật. Trường hợp thành cách, cũng ưa đến các đại vận hoặc lưu niên có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt.

Thất Sát ở cung Tí không thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, vì Tí là phương Bắc thuộc thuỷ, thuỷ có thể khắc hoả. Dù có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, cũng chỉ chủ về bôn ba vất vả, nhưng không đến nỗi phá cách.

Trường hợp thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, rất ưa Liêm Trinh Hoá Lộc, là thượng cách. Chủ về sức sống mạnh, mà còn kiên nghị trác tuyệt, trải qua phấn đấu mà thành đại nghiệp. Vận phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Phá Quân toạ thủ. Năm phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Liêm Trinh hoặc Tham Lang toạ thủ.

Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, không thành cách hoặc phá cách, lại không nên đến cung hạn Liêm Trinh, chủ về hôn nhân gặp nhiều sóng gió, trắc trở; cũng không nên đến cung hạn “Thiên Cơ, Cự Môn” toạ thủ, thường thường là giai đoạn thất bại.

Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với “Tử Vi, Thiên Phủ”, không ưa Tử Vi Hoá Quyền, mà rất ưa Tử Vi Hoá Khoa, Thiên Phủ Hoá Khoa. Tử Vi Hoá Khoa chủ về công, Thiên Phủ Hoá Khoa chủ về thủ.

Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, là người độc đoán; gặp Văn Xương, Văn Khúc thì vì thông minh mà phạm sai lầm; gặp Lộc Tồn đồng độ, khí mà hoà hoãn thì thành cách cục tốt, nhưng tính độc đoán càng nặng. Lúc luận đoán phải chú ý điểm này, cần phải xem xét kỹ cung phúc đức và cung phu thê, để xác định phẩm tính của mệnh cục. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hậu vận.

Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì nóng nảy, bộp chộp.

Đối với Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Tướng”, Cự Môn, Phá Quân, Thái Dương là những đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.

Thất sát ở cung Thân, “Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở cung Ngọ dù không thành cách “Hùng tú kiền nguyên” (vì Thất sát thuộc kim, cung Thân cũng thuộc kim; Liêm Trinh thuộc hoả, cung Ngọ cũng thuộc hoả, hai khí kim hoả về gốc, thành mỗi bên một khí, không có tác dụng hổ tương), nhưng vẫn ưa hai cung hạn Liêm Trinh Hoá Lộc và Phá Quân Hoá Lộc, đây là giai đoạn phát đạt.

Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có “Liêm Trinh, Thiên Phủ” vây chiếu, thì nặng lý trí hơn “Liêm Trinh, Thất Sát” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, nhưng phần nhiều đều có tư tưởng đặc biệt. Cho nên rất kị có Địa Không, Địa Kiếp hội hợp, nếu không, người ta sẽ khó mà hiểu được họ, vì cảm thấy đời người thiếu tri kỷ, nên thành người cô độc, thậm chí nhiều không tưởng, thiếu thực tế.

Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp Văn Xương, Văn Khúc còn được, nhưng cần phải gặp Thiên Khôi, Thiên Việt hoặc Tả Phụ, Hữu Bật, mới có thể phú quý. Nhưng nếu Tham Lang Hoá Lộc đến hội hợp (chú ý, Tham Lang cũng ảnh hưởng cung phúc đức), e rằng dục vọng khó thoả mãn, thế là, tuy phú quý nhưng cũng nhiều vất vả.

Đối với Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn “Vũ Khúc, Thiên Tướng”, “Thiên Đồng, Cự Môn”, Tham Lang, hoặc cung hạn có tinh hệ vây chiếu thuật ở trên, là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.

Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nếu cung phúc đức là Tử Vi Hoá Quyền, ắt sẽ bất lợi trong hôn nhân, nhất là nữ mệnh, thường chủ về không có sinh hoạt hôn nhân, hay thiếu lạc thú vợ chồng (vì bận rộn, hoặc vì người bạn đời bệnh tật, cần phải xem tổ hợp sao thực tế mà định).

Đại khái là, Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ thiết thực hơn Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, hay Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Phân biệt các tính chất nhiều dục vọng hay giữ nguyên tắc của các nhóm tinh hệ liên quan đến Thất Sát thủ mệnh, cũng giúp ích cho việc luận đoán. Cho nên, ảnh hưởng của tổ hợp tinh hệ Tham Lang đối với Thất Sát như thế nào, thường thường có quan hệ rất lớn, gặp “Hoả Tham”, “Linh Tham”, càng chủ về dễ phát dễ phá.

 

Thất Sát – Làm Ra Làm – Chơi Ra Chơi

Tại Đẩu số, Thất Sát thuộc về sao “cương mãnh” thẳng tắp một mạch, vì thế phối hợp “Sát Phá Tham” đặc biệt có nhiều thâm ý. Khả năng biến đổi cục diện của Tham Lang khá tròn trĩnh, có thể từ chuyện mà chuyển hóa một cách vô thanh vô sắc (không hình không tiếng), lực biến đổi cục diện của Phá Quân dứt khoát nhất thiết không để sót lại gì, nhưng Thất Sát biến đổi thường thường thuộc trường hợp lập mưu mà dẫn đến động. Nên “Sát Phá Tham” hội hợp, hết sức đầy đủ sắc thái “cương nhu tương tế” (kết hợp cứng rắn với mềm dẻo).

Cử một thí dụ, Phá Quân giống như xây một cái nhà mới, không quan tâm điều gì cứ đem nhà cũ dời đến nơi đất bằng phẳng, sau đó bắt đầu xây dựng từ đầu, có thể ví như làm việc nghĩa, việc quan trọng không cho phép chùn bước; Tham Lang không như vậy, nó không nhất định phải xây một cái nhà mới hoàn toàn, khả năng chỉ là trang hoàng, che đậy cái khuyết điểm của mình, không theo đường lối sách vở, rồi căn nhà tự nhiên rực rỡ hẳn lên như mới; còn Thất Sát thấy nứt thì đập bỏ, thấy khuyết điểm thì trang hoàng che đậy lại, không biến đổi một cách vô nghĩa cũng không tốn công hành sự vô ích, hời hợt bề ngoài.

Cho nên người có Thất Sát thủ mệnh, có đặc điểm là thực tế, bám sát thực tiễn, không siểm nịnh cũng không rụt rè cẩu thả; song chính yếu vẫn phải phối hợp cả kết cấu tinh hệ lại mà định, ví như Thất Sát hội hợp các tinh diệu quá mãnh liệt như kiến Hỏa Tinh Linh Tinh, người có loại mệnh tạo này dễ dàng chiêu oán; nếu hội hợp Địa Không Địa Kiếp, tắc tâm linh dễ giác ngộ hư không, hơn nữa việc xã giao trong cuộc sống cũng lẻ loi lập dị, ít hợp với ai.
Ở thời xưa, mỗi người vốn có một nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ ở ẩn hay bôn ba vào đời, nếu không ắt là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói: “Thiên Hình hãm địa, xảo nghệ mưu sinh” lại nói: “Kỳ tính nhược thanh lương chi trạng, kỳ sổ tắc nghi vu tăng đạo” (Số tốt thì như Trạng Nguyên, số xấu thì đi theo đường tu hành) hay như: “Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sanh”.

Thật ra người có Thất Sát thủ mệnh, cũng không phú quý “cả đời tước lộc vinh xương” theo như lời cổ thư, cũng không thê lương như lời câu phú ghi bên trên. Vương Đình Chi đặc biệt thích thú tính cách Thất Sát, hiểu được xã hội hiện đại, khắc họa được một ít người “làm ra làm chơi ra chơi”. Cổ thư nói: “Thất Sát nhập mệnh thân cung kiến cát, diệc tất lịch thụ gian tân” (Sát thủ mệnh thân dù gặp được cát tinh cũng trải qua gian khổ), câu phú này đánh giá quá phù hợp và đúng đắn, không giống Tham Lang dễ rơi vào thủ xảo, lại không giống Phá Quân là biến đổi hết thảy, hành động không chút chần chừ, hoặc sống hoặc chết. Vì vậy mới cho là Thất Sát “lịch thụ gian tân” rồi sau đó thành tựu là thế.

Người có Thất Sát thủ mệnh bộ phổi phần nhiều không đủ khả năng chống cự thiên nhiên, mà trình độ y dược thời xưa lạc hậu, bởi vậy dễ cho rằng Thất Sát gia hung tinh dễ yểu chiết, dễ chết về bệnh phổi hoặc bệnh suyễn, xã hội hiện đại văn minh, điểm này thấy không ứng nghiệm.

Thất Sát Biệt Cách

Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:

– Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”

– Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh

– Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”

– Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc

– Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”

– Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi

Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.

Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.

Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh Thiên phủ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.

Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực

Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.

Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.

Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức

Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kĩ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kĩ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn”?

Thất Sát Gặp Triệt

Hình dáng & Tính tình người Thất Sát

Công Danh – Tài Lộc người Thất Sát

Bệnh Tật người Thất Sát

 

6 Kết cấu của người Thất Sát Thủ Mệnh

Các tinh diệu có liên quan đến Thất Sát nhất là Phá Quân và Tham Lang, ba sao này vĩnh viễn ở ba phương hội chiếu, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Nếu xét Thất Sát cư mười hai cung vị, thì cơ bản kết cấu có thể chia làm sáu tổ hợp:

– Tại Tí ngọ cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Vũ Khúc Thiên Phủ.

– Tại sửu mùi cung, Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung.

– Tại dần thân cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Tử Vi Thiên Phủ.

– Tại mão dậu cung, Thất Sát và Vũ Khúc đồng cung.

– Tại thìn tuất cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Liêm Trinh Thiên Phủ.

– Tại Tỵ hợi cung, Thất Sát và Tử Vi đồng cung.

Thế nên từ sự phối hợp trên có thể thấy được tinh diệu có quan hệ với Thất Sát ngoài Phá Quân Tham Lang ra, còn là 4 sao Tử – Phủ – Liêm – Vũ.

Thất Sát hoan hỷ nhất gặp Tử Vi, cho nên thủ mệnh tại bốn cung dần thân Tỵ hợi, dễ dàng trở thành cách cục tốt đẹp, tổ hợp Tử Vi Thất Sát lúc này hóa thành quyền lực; Thất Sát xung đối Tử Vi, cũng có thể gia tăng năng lực khai sáng cho người. Nhưng tính chất của Thiên Phủ lại đồng thời có thể khiến người rơi vào không ảo, nên từ phương diện tích cực mà nói, Thất Sát hai cung cư Tỵ hợi tốt đẹp hơn so với hai cung dần thân; nhưng người có mệnh ở hai cung dần thân cuộc sống thủ đắc được triết học rất thú vị, không giống như cư hai cung Tỵ hợi không dễ dàng thỏa mãn mong muốn quyền lực.

Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung, Liêm Trinh là nhu so với Thất Sát là cương, lúc này rất cần xem xét các sao phụ tá hội hợp mà định, hung thì rơi vào nhục dục, cát thì phẩm cách ngay thẳng chính trực, lại mang vài phần hơi thở, mùi vị văn nghệ, phong lưu nho nhã mà tuyệt đối không hạ lưu. Nhưng Thất Sát xung chiếu Liêm Trinh Thiên Phủ, có thể thêm vào nhiều cảm xúc bùi ngùi, thường thường hiểu được nhân sinh chẳng qua là “kính hoa thủy nguyệt” (trang mờ đáy nước) (*), lúc này khiến Thất Sát tựa như vị chiến tướng gặp phải núi cao thình lình trước mặt, còn quân lính thì một đạo cầm đao đang mang sẹo một đạo cầm giáo thì bị thương, tất cả ghi nhận đều trong thế phải vùng vẫy đấu tranh.

Thất Sát Vũ Khúc đồng cung là tổ hợp tinh hệ hết sức tích cực, nhưng khiếm khuyết khả năng dự báo, dẫn đường; nhưng Thất Sát có Vũ Khúc Thiên Phủ hội chiếu, Thất Sát đứng độc lập ngược lại mới có thể dễ dàng phát huy khả năng nhưng lại dễ dàng biểu hiện độc tài, cho nên ở phương diện năng lực lãnh đạo có khuyết điểm. Trong các loại tổ hợp tinh hệ Thất Sát, loại tổ hợp này tốt đẹp hơn ở chổ sóng gió ít mà lại nhỏ, nếu ước mong yên ổn trong cuộc sống đương nhiên nên gặp cách cục này.

Thất Sát Độc Tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.

Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.

Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.

Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.

Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.

Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.

Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.

Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.

Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.

Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).

Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.

Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.

Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.

Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.

Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.

Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.

Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.

Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.

Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.

Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.

Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện xung chiếu là”Vũ khúc Thiên phủ”. Khi Thất sát ở Tý, cổ nhân có thuyết”Vũ khúc, Phá quân, Tham lang hội hợp Tý, nhảy sông tự vẫn” (Vũ Phá Tham hội vu Tý, đầu hà nịch thủy), tuy nhiên thuyết này còn phải nghiên cứu thêm. Theo truyền thừa của Nam phái, khi Thất sát ở Tý gặp Vũ khúc, Phá quân, Tham lang, năng lực kháng cự Hung tinh của Thất sát sẽ yếu đi, nếu có đột biến xung lực thì lại không đúng nơi đúng chỗ, cho nên Thất sát độc thủ ở Tý không bằng độc thủ ở Ngọ.

Có điều, Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, chủ về được quý nhân quan tâm, bạn bè trợ giúp. Nếu có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại được Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền ở cung đối diện xung chiếu hiệp trợ, chủ về theo võ nghiệp, hoặc theo nghiệp chuyên quản về tài chính kinh tế, cổ nhân gọi là”văn võ toàn tài”. Nhưng nếu có tứ Sát cùng chiếu, lại thêm Thiên hình, Âm sát, Thiên hư hội chiếu, chủ về chết nơi sa trường.

Nếu không gặp Cát tinh, cũng chủ về người có mưu lược, nên theo ngành công thương nghiệp, tuy cuộc đời khó tránh một lần gặp sóng to gió lớn, nhưng nhất định sẽ lại hồi phục đứng lên.

Nếu Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ mà gặp Kình dương, Thiên hình, thì có thể theo nghề bác sỹ ngoại khoa, hoặc nha sỹ. Gặp Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền ắt thành danh y.

Thất Sát Độc Tọa Dần Thân

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.

Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.

Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.

Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “cô độc cao ngạo”.

Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.

Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.

“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc cao ngạo”.

Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.

Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:

Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:

– Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.

– Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.

– Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.

– Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.

– Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.

– Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.

– “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.

– Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.

– Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.

– Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.

Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.

Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.

Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:

– Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị

– Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.

– Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.

– Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.

– Thiên cơ Hóa Kị

– Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị

– Thái âm lạc hãm Hóa Kị

– Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị

– Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu

– Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.

– “Liêm trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.

– Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.

Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.

Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện xung chiếu là”Tử vi Thiên phủ”. Lúc Thất sát ở Dần gọi là”Thất sát ngưỡng đẩu”, khi ở Thân gọi là”Thất sát triều đẩu”. So sánh hai trường hợp, thì Thất sát ở Thân tốt hơn ở Dần.

“Triều đẩu” và”ngưỡng đẩu” đều là cách cục được xem là tốt, chủ về có năng lực quản lý rất tốt, có thể đảm trách công việc một mình. Phát triển bất kể ở nghề nghiệp nào, mệnh tạo thường ở vị trí chủ chốt. Nhất là khi cung Mệnh hoặc cung Thiên di gặp Lộc tồn đồng đô, càng chủ về không phải lo thiếu thốn tiền bạc. Nếu gặp Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, chủ về đường đời nhiều trắc trở, gập gềnh. Một khi Thất sát đóng ở cung Mệnh, thì cuộc đời ắt sẽ gặp phải một lần sóng gió rất lớn. Muốn khắc phục và vượt qua vận hạn này, thì trí lực phải hành động thiết thực và tâm chí không thể nguội lạnh.

Thất sát”triều đẩu” hay”ngưỡng đẩu”, thông thường chủ về công việc theo chính giới, như quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý công xưởng; nếu có Văn xương Văn khúc hội chiếu, hoặc gặp Tử vi Hóa Khoa ở cung đối diện, có thể theo nghiệp nghiên cứu khoa học kỹ thuật; nếu gặp Thiên phủ Hóa Khoa, có thể theo nghiệp quản lý kinh tế tài chính, hoặc quản lý công thương. Nếu chỉ gặp sao Văn, chủ về là nhà giáo mẫu mực.

Nếu gặp Sát tinh nặng, lại gặp Hóa Kị, Thiên hình, Lộc tồn, Thiên mã, có thêm Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hiệp trợ, chủ về gia nhập quân đội hay cảnh sát, cũng có thể là lãnh đạo chính giới.

Thất sát ưa gặp sao Lộc, vì sao Lộc hóa giải được tính cứng rắn của Thất sát (gặp lộc, cương hóa nhu). Nếu không gặp sao Lộc, mà có tứ Sát cùng hội chiếu, có thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, chủ về cuộc đời bị hình khắc rất nặng, còn chủ về tính”khăng khăng một mực”,”ngoan cố ương ngạnh”, nên khi xử sự thường bộc lộ thái độ kịch kiệt. Vì vậy tuy phú quý nhưng vẫn bị phá tán, thất bại. Còn chủ về nhìn quá cao, tự sùng bái mình, nên khó tránh cuộc đời cô tịch. Tính chất này có thể dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.

Thất Sát Độc Tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.

Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.

Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.

Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.

Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.

Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.

Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.

Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình,, thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.

Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.

Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.

Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.

Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.

Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.

Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.

Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.

Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!

Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.

Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.

Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.

Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.

 

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất là nhập”Thiên la Địa võng”, cung đối diện là các sao nhu hòa”Thiên phủ Liêm trinh” không thể giúp Thất sát thoát khỏi”Thiên la Địa võng”, vậy nên Thất sát phải một thân một mình gắng gượng. Kết cấu tinh hệ kiểu này, khiến mệnh cách phải trải qua gian khổ, miệt mài phấn đấu chẳng hề quan ngại, vì vậy mà sóng gió trùng trùng.

Có thể sáng lập được sự nghiệp trong gian khổ, nhưng mệnh tạo vẫn không hài lòng với những kết quả đã đạt, cũng như những thành tựu mà mình đã đạt được. Không ngừng theo đuổi lý tưởng, mà lý tưởng lại càng lúc càng cao, kế hoạch mới cũng càng lúc càng nhiều, suốt đời không có được một ngày thảnh thơi, nhưng mệnh tạo lấy đó làm nguồn vui.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, đều chủ về mệnh cách là người có chỗ sở trường, có khả năng kiến giải hơn người, ưa Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Lộc Quyền Khoa tam cát hóa hội chiếu hoặc đồng độ, là người văn võ song toàn, lại còn chủ về người yếu thích văn hóa văn nghệ.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, chỉ sợ Liêm trinh Hóa Kị ở cung đối diện xung chiếu ức hiếp, nếu lại gặp Sát tinh trùng trùng, thì cần phải xem xét các cung vị khác, xem cung nào là cung chí mệnh của nó. Nếu cung Tài bạch không tốt, cuộc đời phần nhiều gặp tranh chấp, bối rối khó xử về phương diện tiền bạc. Nếu cung Sự nghiệp không cát tường, cuộc đời nhiều lần bị vỡ nợ, sập tiệm. Nếu cung Tật ách không cát tường, cả đời sức khỏe không tốt, phần nhiều phải phẫu thuật, hoặc gặp một phen hú vía. Nếu cung Phu thê không tốt, bình sinh gặp nhiều sóng gió, trắc trở về tình cảm, hoặc người phối ngẫu gặp bất hạnh. Nếu cung Tử nữ không tốt, con bị nạn tai bệnh tật, yểu mạng, hoặc phạm pháp.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, tam phương tương hội có Tham lang Hóa Kị gặp Sát tinh, chủ về mệnh tạo luôn luôn lo lắng về tiền bạc bị túng thiếu, trong khi tình trạng thu nhập lại không như ý muốn. Đó là vì lý tưởng đặt ở mức quá cao, sự nghiệp mở rộng một cách quá đáng, mà không chủ về bần cùng. Tham lang Hóa Kị ắt sẽ gặp Phá quân Hóa Lộc, càng chủ về một đời chỉ thích khai sáng, mà không chịu thủ thành. Khi Tham lang Hóa Lộc mà không gặp Sát tinh, chủ về cuộc đời mệnh tạo luôn có tiền để dùng, nhưng lại không tích lũy được; còn khi Tham lang Hóa Lộc mà gặp Sát tinh, không những chủ về tiêu xài xa hoa, mà còn thích tổ chức tiệc tùng vui chơi, giao du không biết tiết chế.

Thất Sát Triều Đẩu

Sao Thất sát trấn mệnh, nhập cung Tí, Ngọ, Dần, Thân lại gặp Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi Việt gia hội là hợp cách cục này. Sao Thất Sát nhập miếu tại cung Thân, Vượng tại cung Tí, Ngọ. Nên Thất Sát trấn mệnh tại cung Thân, Ngọ là ” Triều đẩu” (Chầu về Bắc Đẩu), Trấn mệnh tại cung Dần, Tí là ” Ngưỡng đẩu” (Ngửa trông Bắc Đẩu), cách cục này có mang sát khí, nên bản thân phát đạt ắt sẽ khiến một số người khác gặp tai họa, hoặc cũng có thể khiến nhiều người phải chết vì mình. Nếu lá số gặp cách cục này, chủ về theo nghiệp võ sẽ hiển quý, thống lĩnh đông đảo quân đội, nếu không cũng là người sáng lập công ty, là nhân tài kinh doanh, chắc chắn sẽ giàu to. Nếu gặp cát tinh gia hội, nhưng lại gặp hung tinh là phá cách, chủ về nhiều thăng trầm, lên voi xuống chó, chóng phất, chòng bại cho dù phát tài cũng không thể duy trì được lâu bền, hơn nữa phần nhiều đều gặp kết cục xấu. Nếu gặp cát tinh tai họa sẽ được tiêu giảm bớt mà trở thành cách cục bình thườn. Nếu không gặp cát tinh, lại bị hung tinh nằm cùng cung hoặc gia hội, sẽ trở thành mệnh xấu, chủ về hung ác, bạo tàn, tàn tật, bôn ba, phạm tội, tù ngục, tuổi thọ không được cao.

Ưu điểm: Cuộc đời nhiều biến động, tuổi trẻ gian nan, nhưng có mưu lược, có tài năng, kiên trì nhẫn nại, có năng lực sáng tạo, hoạch định, phân tích, tư duy, dũng cảm, quyết đoán, khắc phục được khó khăn, để đạt được thành công, chức tước vinh hoa.

Khuyết điểm: Là cách cục biến hóa từ Sát Phá Tham, dê mắc phải thị phi, khó tránh khỏi bôn ba vất vả.

Ca Quyết:

Cách danh triều đẩu quý vô nghi

Nhập miếu tu giao phúc lộc tề

Liệt liệt trùng trùng danh hiển diệu

Bình sinh an ổn hảo căn cơ

Thất sát Dần Thân Tí Ngọ cung

Tứ di củng thủ phục anh hùng

Khôi Việt, Tả Hữu, Văn Xương hội

Khoa lộc danh cao thực vạn chung

Nghĩa là:

Cách cục triều đẩu là đáng quý

Nhập miếu phúc lộc được vẹn hay

Rực rỡ uy danh thân hiển hách

Một đời yên ổn vững vàng thay

Thất sát tại Dần, Thân, Tí Ngọ

Khắp nơi quy phục kẻ anh hùng

Gặp Khôi, Việt, Tả, Hữu, Xương Khúc

Công dah hiển đạt lộc muôn trùng

Kinh văn có viết: ” Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh hoa”. ” Thất Sát tại Dần Thân, Tí Ngọ một đời ăn lộc cực vinh hoa”, “Triều đẩu, Ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa”, ” Thất Sát trấn mệnh, miếu vượng có mưu lược, gặp Tử Vi lại gặp các cát tinh ắt thành đại tướng”, ” Thất Sát trấn mệnh được Tả, Hữu, Xương, Khúc hội chiếu có được quyền sinh sát, phú quý siêu phàm”, ” Thất Sát nhập cung thân mệnh, gặp cát tinh cũng phải nếm trải gian nan”.

Sao Tử Vi Thất Sát Đồng Cung

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.

Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.

Muốn luận giải bản chất của hệ “Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành hành bá đạo”.

Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”, phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.

Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về “quyền uy”.

Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.

Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”. Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.

Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.

Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”, cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.

Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.

Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách “hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.

Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.

Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.

Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.

Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.

Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.

Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát” chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.

Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.

Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.

Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.

Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.

Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.

Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.

Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.

Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.

Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “Hình kị giáp ấn”, đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.

Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.

Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát” đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ gây tồn thất.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”, thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.

Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.

Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”, có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.

 

Thất sát và Tử vi đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.

Thông thường, tinh hệ”Tử vi Thất sát” có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện”khí bá đạo”, khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.

Tinh hệ”Tử vi Thất sát” rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi”hóa sát làm quyền” của mệnh cách này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như”anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp”, khó tránh khỏi có những biểu hiện”tàn nhẫn, bá đạo”, chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.

Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được”hình thương, khắc hại”.

Nữ mệnh gặp tinh hệ”Tử vi Thất sát”, nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua nhiều sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.

Sao Liêm Trinh Thất Sát

Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.

Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.

“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.

Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.

“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.

“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.

Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.

Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.

Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.

Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.

Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.

Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.

Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.

Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.

Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.

Sao Thất sát và sao Liêm trinh đồng cung ở Sửu hoặc ở Mùi, tam phương hội hợp với các sao”Vũ khúc Phá quân” và”Tử vi Tham lang”, và gặp Thiên phủ ở cung Thiên di. Kết cấu này tuy toàn là sao mạnh, nhưng bị Thiên phủ của cung đối diện gây ảnh hưởng, nên, lại chủ về muốn khai sáng nhưng lại quá thận trọng, sở trường nhất là quản lý tài chính, thường không vì hưng phấn nhất thời mà phạm sai lầm, có điều vẫn khó tránh khỏi chìm đắm trong thú hưởng lạc.

Liêm trinh bị ảnh hưởng bởi Thất sát, nên phần nhiều tâm tính hay thay đổi, vì vậy không thể làm việc quá lâu ở một bộ phận chuyên trách nào, cũng như không thể theo đuổi một sự việc quá dài lâu, khi tình trạng công việc phải tuân thủ theo thời gian lâu dài, thường nảy sinh tâm trạng buồn bực, chán nản, hờ hững, nhiệt tình thuyên giảm, thường không theo đuổi công việc từ đầu đến cuối, do vậy tính kiên nhẫn và khả năng chịu đựng thường ảnh hưởng đến mệnh cách. Mệnh tạo cũng không được thừa hưởng tổ nghiệp hoặc giữ nghiệp của cha, thậm chí còn không ưa kế thừa nghề của cha. Do hay thay đổi, nên đời người cũng khó tránh phải trải qua nhiều gian khổ.

“Thất sát Liêm trinh” ưa biến động thay đổi, nên thích hợp với những chức vị hành chính, do tính chất đào hoa của Liêm trinh bị Thất sát tác động ảnh hưởng, nên có tính yêu thích văn hóa văn nghệ, nhất là thi phú âm nhạc; nếu gặp Văn xương Văn khúc hội hợp, sở thích yêu văn nghệ càng phát triển; nếu gặp thêm các sao Sát Kị cùng tụ tập, phần nhiều khó tránh có những sở thích không lành mạnh phong hoa tuyết nguyệt, mê đắm tửu sắc. Nhưng bất kể thế nào, mệnh tạo sẽ không vì tửu sắc mà khuynh gia phá sản.

Kết cấu tinh hệ giầu tính biến động thay đổi, thích quản lý tài chính, nên thường muốn hợp tác với người để thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh, nhưng trong quá trình hợp tác, nếu ở cương vị lãnh đạo hay ở cương vị chủ chốt, thì công việc kinh doanh và sự nghiệp sẽ phát triển không thuận lợi. Có từ hai ba Sát tinh trở lên hội chiếu, thì nên chuyển hướng theo ngành công nghệ.

“Thất sát Liêm trinh” thủ mệnh, chủ về đường hô hấp yếu; nếu có Hồng loan, Thiên hỷ đồng cung và đối chiếu, chủ về mắc bệnh hen xuyễn. Nếu Hóa Kị mà còn gặp Đà la đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh máu mủ. Có Hóa Kị lại gặp tứ Sát hội cùng chiếu, mà không có Hóa Lộc hoặc có Lộc tồn và Văn xương Văn khúc giải cứu, chủ về cả đời thân thể hư nhược, hoặc yểu mạng; Có tứ Sát cùng chiếu mà còn gặp các sao Hình Kị, chủ về các bệnh máu như tăng bạch huyết cầu, thiếu máu bẩm sinh, bệnh máu trắng.

Tinh hệ”Thất sát Liêm trinh” đồng độ, khi mà Liêm trinh Hóa Kị còn gặp tứ Sát, cổ nhân có thuyết”chôn thây trên đường” (lộ thượng mai thi); vào đại hạn Bính (như Bính Tý, Bính Dần, …), hoặc lưu niên Bính, cần phải đặc biệt cẩn thận, không nên đi xa.

Nữ mệnh gặp tinh hệ”Thất sát Liêm trinh”, thường dung mạo ưa nhìn, nhưng khó bị người khác giới dụ dỗ, cung Phu tất có Thiên tướng, nếu không gặp các sao Sát Kị thì hôn nhân hạnh phúc, phu xướng phụ tùy, vợ chồng đồng lòng thì sự nghiệp ắt sẽ phát triển, nhưng phần nhiều dễ vì đối tượng không hợp ý mà kết hôn muộn. Thích hợp nhất là lấy chồng hơn mình tám tuổi trở lên.

“Thất sát Liêm trinh” của đại hạn và lưu niên, chủ về có biến động thay đổi, gặp Cát tinh thì thăng tiến phát triển rộng, hoặc được tăng lương, chủ về có tích lũy; gặp Sát tinh thì không nên chủ động thay đổi. Nếu các sao Hình Kị cùng đến, nhất là Vũ Khúc Hóa Kị gặp Liêm trinh Hóa Kị, mà không gặp Hóa Lộc, Lộc tồn giải cứu, cần phải đề phòng tai nạn chảy máu, không nên đi xa, tránh mọi tranh chấp kiện tụng.

Sao Vũ Khúc Thất Sát Đồng Cung

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.

Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.

Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.

“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.

Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.

Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.

Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.

Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.

Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.

Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.

Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.

Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.

Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.

Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.

Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.

Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.

Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.

Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.

Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.

Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu; tổ hợp kết cấu các sao cực kỳ mạnh mẽ, cần phải được Tả phụ Hữu bật vây chiếu, nếu được gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, thì những”tế ngộ” trong cuộc đời mới được thuận lợi toại ý; nếu không dễ sống trong tình cảnh cô lập, không có cứu viện, mà còn bị phá tài.

Đặc tính của tinh hệ này là nhạy bén, nhưng lại hay nóng vội, mưu tính nhiều nhưng lại không nhìn xa; tinh tế, sáng suốt, có năng lực làm việc, nhưng lại hay thích sát phạt, cần được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc điều hòa, mới có thể biến thành thông minh, lão luyện, mà không bị rơi vào tệ suy nghĩ thiển cận, bạc tình. Nếu được Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên mã hội chiếu, có khả năng được hưởng phúc trạch dày.

“Thất sát Vũ khúc” ở Mão, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, cổ nhân nói có tai họa”cây đè sét đánh”, xã hội ngày nay cần đề phòng thêm tai họa điện giật. Khi ở Dậu, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, chủ về tai họa bất trắc, đột ngột, dễ mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh ở đầu.

“Thất sát Vũ khúc” có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về vì lợi lộc mà xảy ra bất trắc; lại gặp Vũ khúc Hóa Kị và Kiếp sát, hoặc có Đại hao đồng độ, chủ về gặp tai nạn trộm cướp; có Kình dương đồng độ, chủ về vì tài lợi mà gẫy đổ; nếu gặp Liêm trinh Hóa Kị, chủ về tai nạn chảy máu hoặc bệnh nặng phải phẫu thuật.

Do hợp lực các sao quá mạnh, khiến cho mệnh tạo luôn sung sức, làm việc có phách lực và nghị lực cao, ở thời tuổi trẻ nếu mạnh dạn bốc đồng làm ăn đầu cơ mạo hiểm, thường không có hiệu quả, chủ về thất bại.

“Thất sát Vũ khúc” tam phương có Lộc tồn Thiên mã đồng độ với”Liêm trinh Tham lang”, hoặc Lộc tồn ở cung đối diện hiệp trợ cùng với Cát tinh hội hợp, là điềm tượng”anh hùng mạt lộ gặp quý nhân”, chủ về đột nhiên phát đạt trong cảnh khốn khó.

“Thất sát Vũ khúc” hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, sao Hình, thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát hoặc là công tác bảo an. Nếu Sát tinh quá nhiều, chủ về làm đồ tể. Nếu có văn tinh, hoặc gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về hợp với nghiệp bác sỹ ngoại khoa, gặp Liêm trinh Hóa Kị thì thích hợp theo khoa phụ sản.

“Thất sát Vũ khúc” có các sao Sát Hình, mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì trái lại, nên làm ăn kinh doanh.

Nữ mệnh”Thất sát Vũ khúc”, nên lấy chồng hơn mình ít nhất tám tuổi.

Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên có”Thất sát Vũ khúc”, chủ về biến động thay đổi lớn. Thấy có Hóa Kị chủ về bị đình chỉ chức vụ, có nguy cơ vỡ nợ hay sập tiệm; gặp Sát tinh là gặp trắc trở hoặc sức khỏe không tốt.

Bàn thêm về Sao Thất Sát

Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.

Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.

Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.

Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.

Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.

Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.

Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)

Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.

Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.

Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)

Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.

Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.

Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.

Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đứng luẩn quẩn văn vẻ làm gì nửa văn nửa vũ thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.

Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệt giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.

Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiênma bách triết mới thành công.

Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”

Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn nguyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.

Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.

Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rât cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.

Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.

Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.

So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.

Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:

“Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh

Bình sinh tác sự quả thông minh

Chí cao khí đại vô nam nữ

Bất miễn hình phu lịch khổ tân”

(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)

“Thất Sát cô tinh Tham tú phùng

Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí

Nữ mệnh đắc thử tính bất lương

Chi hảo cô phòng vi tì thiếp”

(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)

“Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng

Ác sát gia chi dâm sảo dung

Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ

Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông”

(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)

Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hũ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.

Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)

Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?

Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?

Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.

Nếu đem hai câu viết ở mục Trú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?

Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.

Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hang lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.

Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.

Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:

Thất Sát lâm Thân chung thị yểu

Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc

Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.

Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:

– Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân

(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)

– Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư

(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)

– Sát Phá hỉ trợ Kình Dương

(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)

– Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật

(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)

– Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh

(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)

– Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong

(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)

– Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân

(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)

– Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong

(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)

– Sát Kinh tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn

(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)

– Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kị Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong

(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kị Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)

– Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ

(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)

– Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai

(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)

– Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân

(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)

– Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân

Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân

(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)

– Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân

(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)

– Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư

(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)

– Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ

(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)

– Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân

Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành

(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)

– Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn

(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)

– “Mấy người thủy ách, hỏa tai

Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham”

(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)

– “Dần Thân Sát Kị trùng gia

Thương chiêu đá mạ thật là gian truân”

(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)

– “Sinh con điếc lác ngẩn ngơ

Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không”

– “Sát phùng Phù Hổ hay đâu

Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung ”

– “Sát tinh chiếu ở cung Đoài

Vì người tham của Phật đài họa toa”

(Câu này không rõ nghĩa lắm)

– “Ngôi cao chức trọng công hầu

Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung”

– “Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát

Tính cang kiên tài cán đảm đương

Được thêm Kỷ Ất sinh nhân

Anh hùng trí dũng mười phần khá khen”

– “Sát Kình ở tại Ngọ cung

Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời

Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế

Bậc anh hùng địa vị thênh thênh”

– “Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi

Sát Phá Tham lại hội Văn Xương

Ấy là góa bụa đáng thương

Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình”

– Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân

(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)

– Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân

(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)

– Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương

(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)

– Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết

(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)

– Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược

(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)

– “Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá

Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi

Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì”

– “Thìn Tuất Thất Sát xem qua

Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên”

Thay lời kết

Phàm, Thất sát thủ mệnh, nếu gặp Sát tinh, đời người ắt sẽ có chỗ thiếu sót, hoặc không thể phú quý, hoặc phú quý mà vợ chồng hình khắc phân ly, hoặc hôn nhân hạnh phúc mà lại không có con, hoặc có con mà lại không có con trai, hoặc có con trai mà bản thân nhiều bệnh tật. Nếu Lục thân không có khiếm khuyết, cơ thể khỏe mạnh thì lại không được phú quý. Cho nên cần phải xem xét toàn diện 12 cung để nhận thức những khiếm khuyết đáng tiếc của nó.

Nữ mệnh có Thất sát nhập miếu, gặp các sao Cát như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên vu, Thiên thọ, chủ về phú quý sống thọ, nhưng có chí hướng hơn chồng. Nếu Thất sát ở hãm địa, gặp Hóa Kị, hội hợp với Hung tinh, Sát tinh như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Thiên hư, Âm sát, Thiên nguyệt, thì nửa đời cô độc, hoặc nạn tai tật bệnh đeo đẳng theo người, chủ về làm kế thất, hoặc ở hai nơi, như vậy cũng làm giảm hình khắc đối với chồng và con cái.

Đại hạn và lưu niên, có Thất sát nhập cung mệnh, nếu Thất sát nhập miếu, gặp các Cát tinh, chủ về sự nghiệp gặp cơ hội chuyển biến tốt, làm công ăn lương thì chủ về được thăng chức hoặc chuyển đổi công tác tốt hơn. Nếu lạc hãm, gặp Sát tinh và Hung tinh, chủ về hình khắc phá tán, thất bại, xem 12 cung để luận giải nguyên nhân ở cung nào? mệnh cách cao hay thấp? Nếu gặp Hung tinh mà được cát hóa, bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đều chủ về trước nguy sau an. Nếu lạc hãm mà có tứ Sát cùng chiếu, lại gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, chủ về có nguy cơ đến tính mạng.

- Advertisement -