Bàn về Phong thủy của việc xây thành, là một việc khó khăn, học giả xưa nay ít người dám nhắc đến. Nhưng dù sao, thực tế thì không thể phủ nhận, bởi vì ngoài yếu tố Phong thủy, sẽ còn nhiều lý do khác để người ta không đi được đến đích. Một trong những lý do đó, chính là sự bảo thủ, chuyên quyền và độc đoán của Hồ Quý Ly.
Nhân thể vừa qua có chuyến giao lưu với chi nhánh CLB Phong thủy Thăng Long trong Thanh Hóa, tôi viết bài này lạm bàn đôi lời. Cũng chỉ là vài lời khoác lác che mắt thành nhân vậy thôi, mục đích để giúp mua vui bên bàn trà cho khách hữu duyên.
Toàn cảnh địa thế Thành nhà Hồ
Sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hóa, đã cho xây thành Tây Đô. Mặc dù đã có rất nhiều lời can gián, nhưng Hồ Quý Ly vẫn nhất quyết thiên đô. Vì ông cho rằng mảnh đất này có thế “Long Xà tương ngộ, Thạch bàn tác ấn”, có thể ở được đến “lục thập niên” tức là 60 năm.
Tuy nhiên, thực tế thì nhà hồ chỉ tồn tại được có 7 năm (Từ năm 1400 đến năm 1407).
Năm Đinh Sửu (1397) quyết định khởi công xây thành. Theo sử liệu, thì thành chỉ xây trong thời gian rất ngắn, khoảng 3 tháng là xong. Bắt đầu từ tháng Giêng năm Đinh Sửu đến tháng 3 năm Đinh Sửu thì hoàn thành. Về cơ bản, đây là con số kỷ lục về xây thành đá và vẫn còn nhiều nghi vấn, sau khi xây xong thành, thì các công trình kiến trúc khác bên trong thành còn tiếp tục được hoàn thiện đến năm 1402.
Kiến trúc, thành có 2 vòng là Thành Ngoại và Thành Nội. Thành ngoại đắp bằng đất trồng tre gai, có hào sâu bên ngoài rộng đến 50m, trên bố trí các vọng canh để phòng thủ. Thành Nội bằng đá, “chu vi vuông cạnh 424 tầm, cao 1 trượng 2 thước” (theo Vĩnh Lộc huyện chí).
Địa thế Thành Nhà HỒ dưới góc nhìn Phong Thủy
Về phong Thủy, theo nhìn nhận của chính bản thân Hồ Quý Ly cho rằng đất này là nơi có “Sơn phong bát diện, lưỡng thủy hội đường”. Tức là bốn phương có núi non bao bọc, hai dòng hước hội tụ tại minh đường. Nhưng thực tế thì sau khi dời đô về đây, nhà Hồ chỉ tồn tại được có 7 năm. Và có một kết thúc khá bi thảm. Vậy thì thực sự là tòa thành đá mới xây đó, có được như lời mô tả của Hồ Quý Ly hay không?
Xem xét tổng thể khu đất này, cho thấy vị trí xây thành cũng là một đại địa, thế long hùng dũng đổ xuống từ Vân Nam, qua Sơn La theo dòng sông Mã dẫn mạch về đến khu núi Tượng thì dừng lại, mở ra một khu bình nguyên rộng lớn. Khí mạch rất hùng dũng, tại đây dòng sông Mã chuyển mình uốn khúc trước khi hội với sông Bưởi để chảy tiếp về hướng Đông Nam. Hai dòng nước hợp nhau như hai tà áo khép lại. Cũng chính vì khí thế hùng dũng như thế, cho nên nó đã trở thành kinh đô, được Hồ Quý Ly chọn làm đất xây thành.
Đại cục thì như thế, tuy nhiên, xem xét phong thủy không chỉ có thế. Quan sát khí mạch khi nhập huyệt trường, ta sẽ thấy khi về đến đồng bằng, long mạch mở rộng phân tán, các sống núi tản mát chia thành các nhánh hướng thẳng về khu vực thành. Địa hình này trong địa lý gọi Kiếp Long”, là hung địa. Tất cả các dày núi trái phải đều chạy thẳng xuống, xuyên thẳng vào trung tâm huyệt trường, sát khí rất lớn. Do vậy, dẫu cho có khí thế hùng mạnh cũng không thể lâu bền. Chỉ hợp với chiến tranh, làm thành lũy phòng thủ, mà không thể là đất đế đô muôn đời.
Chẳng thế mà Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết trong thư can Hồ Quý Ly về việc chọn đất xây thành đã viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ (…). Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước. An Tôn đất đaii chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị”.
Với cái nhìn của Nguyễn Như Thuyết, thì thế đất mà Hồ Quý Ly chọn, chỉ là nơi “đầu non cuối nước”, không phải là cát địa, chỉ thích hợp với chiến địa. Xem trong lịch sử thì đúng như vậy, ngay sau khi thiên đô, thì họa chiến tranh đã ập đến. Hồ Hán Thương (con trai của Hồ Quý Ly) là một người rất am tường địa lý, cũng can gián rằng “Tuy là thạch bàn long xà, nhưng thễ đất còn non lắm, chỉ là long xà ẩm thủy, không quá lục niên”. Theo nhìn nhận của Hồ Hán Thương, thì thế đất này chỉ là đất “Long Xà ẩm thủy” không quá được 6 năm. Quả nhiên, từ khi dời đô về đây, 6 năm sau thì thành thất thủ, nhà Hồ diệt vong.
Khi chọn vị trí xây thành, Hồ Quý Ly đã chọn núi Đốn Sơn làm án (địa phương gọi là núi Đún). Núi Đún sơn nằm chính diện cửa Ngọ Môn, cách khoàng 2,5km. Hồ Quý Ly đã cho đắp 1 con đường chạy thẳng từ chính diện cửa Ngọ Môn lên Đốn Sơn, và trên núi đặt đàn tế Nam Giao. Tuy nhiên, núi Đốn sơn thế vốn nằm dọc, như một mũi tên nhọn chiếu thằng vào cửa Ngọ Môn. Trong địa lý, kị nhất là “thương sa, trực lộ”, tức là sa sơn như mũi thương đâm thẳng vào, đường đi xuyên thẳng vào trung tâm. Cả 2 điều đó Hồ Quý Ly đều vấp phải. Điều này tạo nên một thế xung sát rất mạnh, nguyên nhân của đại họa diệt vong sau này.
Về thủy, đây là chỗ hợp lưu của 2 con sông : Sông Mã và Sông Bưởi. Sông Mã bắt nguồn từ hệ thống chi lưu ở khu vực Vân Nam, hợp nhau tại bên Lào rồi đổ vào đất Việt từ địa phận tỉnh Sơn La. Sông Bưởi bắt nguồn từ khu vực Cao Phong Hòa Bình, hai dòng sông hộ tống thủy này khí thế đều mạnh mẽ, sông Mã nổi tiếng với khí thế hung hãn, nhiều vực sâu thác lớn. Khi về đến khu vực thành thì uốn lượn, bồi đắp nên một vùng đồng bằng trù phú.
Hồ Quý Ly cho rằng như thế mới có khí thế hùng mạnh. Nhưng trong địa lý, thì Thủy quý ở chỗ thanh kỳ khuất khúc mà hiền hòa chậm rãi, còn nếu quá cương mãnh thì mang hung khí đến, không phải cát địa. Và căn cứ vào vị trí hợp lưu của sông Mã và Sông Bưởi, Hồ Quý Ly cho rằng đó là nơi hợp thủy, khí mạch ắt sẽ tụ lại, và chọn đất ấy đặt thành là hợp cách.
Tuy nhiên, trên địa hình thực tế, dòng sông Mã tại đây 2 lần chuyển mình, lần thứ nhất tại khúc sông phía trên thành, chỗ đầu núi Voi. Sau khi chuyển mình, do khí thế còn quá sung mãn, nên tiếp tục lao xuống và chuyển mình uốn khúc lần thứ hai tại khu vực thị trấn Vĩnh Lộc ngày nay, đó là phía dưới chỗ đặt thành, và thành nằm giữa hai đoạn uốn khúc này. Như vậy, xét về mặt địa lý, thì vị trí đặt thành chưa phải là nơi đắc địa. Bởi lẽ, chỗ đặt thành hiện tại, khí mạch vẫn chưa dừng, chưa đáp ứng được yêu cầu “long đình, khí chỉ”, tức là thành vẫn nằm trên “hành long”. Nếu vậy, vị trí mà Hồ Quý Ly chọn thuộc thế Kị Long, là đất không thể định đô, vì thế Kị Long vốn là kỳ địa, rất hiếm khi ổn định, chỉ thích hợp với việc xây đền miếu, mà không thích hợp cho việc làm đô thị dương cơ.
Về sa, thì sa sơn ở đây tản mát, long hổ không chầu, không bao bọc được cho trung tâm. Quan sơn (trước huyệt trường) thì thấp nhỏ, mà Quỷ sơn (sau huyệt trường) thì lại cao lớn và quá nhiều sát khí.
Một vị trí mà thế mạch vốn dĩ đã khẩn yếu, lại thuộc thế Kị Long, sa sơn đã tản mát mà lại hung hãn lao vào chính huyệt, án sơn là núi Đốn cũng thấp nhỏ, hình thế như mũi thương lao thẳng vào Đoan môn. Cho nên, có thể kết luận một điều rằng, đất này không thể là cát địa, lại càng không thể là nơi đế đô muôn đời được. Lịch sử đã chứng minh, triều Hồ diệt vong chỉ trong vòng 7 năm sau khi lên ngôi và thiên đô vào đất này.
Một nhầm lẫn lớn trong cách nhìn nhận của Hồ Quý Ly về thế đất nơi đây. Đó là ông cho rằng vị trí hợp lưu của 2 con sông sẽ là nơi khí mạch tụ lại, bất chấp lời can gián của các học giả, thậm chí bỏ ngoài tai cả lời nhận xét của con trai mình. Thực tế thì cho thấy, khí mạch của nơi đây vốn phát tích từ Vân Nam, nếu cho rằng dòng sông Mã dẫn khí mạch xa ngàn dặm về, đóng vai trò hộ tống thủy thì đúng. Nhưng còn dòng sông Bưởi, là dòng sông nhỏ, chạy bên đất Hòa Bình đổ xuống, bản thân nó chỉ là một chi lưu cuối nguồn của sông Mã, mà nhất định không phải là hộ tống thủy. Bởi vậy, Nguyễn Như Thuyết, Hồ Hán Thương đều là những người am tường địa lý mới nhận xét rằng đó chỉ là nơi “đầu non cuối nước”, không phải nơi thịnh vượng.
Đối với môn địa lý, khí mạch tạo nên đất đế đô, không nhất thiết phải là hợp lưu. Quan trọng phải là tìm nơi “thủy bão loan hoàn, long đình khí chỉ”. Dòng sông Mã tại khu vực này vẫn đang trên đà dẫn mạch xuống đồng bằng, và phải đến tận thành phố Thanh Hóa khí mạch mới dừng, và nơi đó chính là thành Vĩnh Hồ và là thành phố Thanh Hóa ngày nay. Còn tại vị trí thành nhà Hồ bây giờ, chưa phải là nơi khí mạch dừng hẳn, chỉ là một khúc chuyển mình thôi.
Về Thủy pháp, Cửa Ngọ Môn của thành ở chính cung Tỵ, mà chỗ xuất thủy đi cũng từ chính cung Tỵ chảy thẳng đi, nước đó là nước vô tình, là bại cục chi địa. Hình cục của Thủy thành ở đây thuộc Kim Cục. Dòng sông Mã chảy vào từ cung Càn, vòng sang phải đổ ra cung Tỵ. Dòng sông Bưởi chảy vào từ cung Cấn chảy vòng sang bên phải và đổ ra cung Tỵ. Cả thuận nghịch cục thì cung Tỵ đều là cung Sinh – Vượng, nước đi ra từ cung này sẽ là Bại cục vì theo nguyên tắc “thu minh sinh, phóng ám tử”, nước phải thu sinh vượng mà chảy đi từ nơi Tử Tuyệt mới là cát thủy, sinh thủy, còn trong trường hợp này, nước mang khí tử tuyệt đến, và mang khí sinh vượng đi thì không thể dùng. Như vậy là cách lập hướng thủy pháp cũng bộc lộ vấn đề.
Về vận khí, theo sử sách, thành bắt đầu xây tháng giêng năm Đinh Sửu (1397) đến tháng 3 thì hoàn thành. Như vậy thành xây trong vận 4. Trong các tài liệu đều nói rằng các cửa thành đúng hướng Đông Tây Nam Bắc, nhưng trên thực tế, thì cửa Nam thành vào khoảng giữa 149-150 độ. Thành tọa Hợi hướng Tỵ, lập chính hướng. Theo vận này, thì Tọa tinh phạm Phục ngâm, Ngũ hoàng của Tọa nhập trung cung, vận tinh Tam Bích đáo hướng, Vận tinh Ngũ Hoàng đáo Tọa. Đều là những hung sát tinh chủ về tai kiếp chiến tranh, giặc giã. Hơn nữa, vận 4, chính thần tại Đông Nam đây cũng là phương của thủy khứ, là cách rất hung.
Một chút chấm phá bằng con mắt trần tục hẹp hòi của mình, tôi không dám đi sâu vào bàn luận cách chọn đất xây thành của cổ nhân. Chắc hẳn bên trong còn nhiều điều bí ẩn mà chúng ta chưa thể nhận ra.
Thay lời kết
Lịch sử đã qua, tất cả rồi cũng trở thành cát bụi. Cho dù là thành quách nào cũng sẽ có lúc phải sụp đổ dù phong thủy có đẹp đến đâu cũng không thể tồn tại mãi mãi với trời đất.
Chỉ có một tòa thành duy nhất, chẳng cần đến phong thủy, chẳng cần đến núi non, sông suối mà mãi mãi vẫn bền vững, có thể che chở bảo vệ cho bất cứ vương triều nào, trước bất cứ giặc ngoại xâm nào. Đó chính là Tòa thành trong LÒNG DÂN.
Điều mà Hồ Quý Ly đã đánh mất trước khi xây thành đá, cho nên dù đúng phong thủy, hay sai phong thủy, thì tòa thành đó cũng đã sụp đổ ngay trước khi nó được xây, khi mà ngay con trai Hồ Quý Ly cũng phải nói “đánh thì thần không ngại, chỉ sợ lòng dân không theo”.
Trúc Phong Ẩn Sĩ