27 C
Hanoi
Thứ Tư, 17 Tháng Tư, 2024
spot_img
HomeTử ViĐại Thi Hào NGUYỄN DU Dưới Lăng Kính Tử Vi

Đại Thi Hào NGUYỄN DU Dưới Lăng Kính Tử Vi

- Advertisement -

1) Lá số Tử Vi

MỆNH đóng Cung Dậu ( Kim ) với Thái Tuế, Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Quyền – Thái Âm, Long Phượng hội chiếu. Tam giác ( Mệnh, Quan, Tài ) được Vòng Thái Tuế ( Danh Vọng và Quyền Thế ). THÂN cư Thiên Di nằm trong Tam Giác ( Di, Phúc Đức, Thê ) ở Thế Tuế Phá, nhưng được Vòng Lộc Tồn ( Lộc Trời cho, dù không giầu cũng hưởng mọi sự may mắn khác, hóa giải mọi bế tắc, rủi ro và tật bệnh ). Cung Huynh Đệ nằm trong Tam Giác ( Huynh Đệ, Điền Trạch, Tật Ách ) được Vòng Tràng Sinh ( hình bóng của 2 Vòng Thái Tuế và Vòng Lộc Tồn kết hợp ). Cung Phụ Mẫu với Sát Phá Tham hội Thiếu Dương, Tứ Đức, Ân Qúy, Văn Tinh + Đào Hồng : Cha lúc nhỏ thông minh học giỏi, lớn lên tài thao lược Văn Võ song toàn ( từ Võ « Sát Phá Tham+Địa Kiếp đắc địa » ra Văn : ở ngôi Tể Tướng 15 năm ) ở vị trí nào cũng có tài ứng biến, sắp đặt gọn ghẽ mọi việc bề bộn ; được cả Vua lẫn Chúa khen là người Nhân Đức và Tài Trí. Với Văn Tinh + Đào Hồng : nổi danh về thơ phú, ca hát cả Cha lẫn Mẹ. Cung Phúc Đức với Cơ Âm Cự Đồng hội Song Lộc, Xương Khúc, Tướng Ấn, Mã Khốc Khách được Vòng Lộc Tồn : dòng Họ Nội Ngoại nhiều Đời Danh Vọng, Giàu có ( Công Hầu Khanh Tướng ) – một Thời Vang Bóng !. Cung Huynh Đệ đóng tại Thân ( Kim hợp Mệnh Thủy ) đưọc Vòng Tràng Sinh với Tử Phủ Vũ Tướng hội Hóa Khoa, Tả Hữu, Khôi Việt, Thai Toạ ( anh em xuất thân từ các Dòng Họ Đại Qúy Tộc, Công Danh « thành đạt + nổi danh về Văn Thi Nghiệp » điển hình Anh Cả Nguyễn Khản tuổi Giáp Dần 1734 hành Thủy và Nguyễn Đề tuổi Tân Tỵ 1761 hành Kim đều hợp với Thủy Mệnh của Nguyễn Du – nên thời trẻ anh em có nhiều gắn bó liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng với Bộ Hung Sát Tinh : Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa Tinh cũng gây cho Anh Chị Em nhiều sóng gió trong cuộc Đời – kể cả Đương Số !).

 Tuổi Ất Dậu với Can Ất đứng vào hàng đầu hàng Can với Thái Tuế tại Mệnh là người thông minh hơn người trong bất cứ Lãnh Vực nào, lúc trẻ cũng vượt trội bạn đồng trang lứa, mẫu người nhiều tham vọng, nặng lòng với Quê Hương, Đất nước, có tình nghĩa với Đồng Bào và bà con Dòng Họ. Nhật Nguyệt + Tứ Linh « Long Phượng Hổ Cái » : sống lý tưởng, có tài về Văn Chương Nghệ Thuật. Mệnh ứng với thời trẻ trước 30t ở Đại Vận ( 2-11t ) khi sinh ra Cha đang làm Tể Tướng nên sống trong giàu sang Phú Qúy, lên 3 tuổi được Tập Ấm ( Hòang Tín Đại Phu, xuất thân Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc Bá ). Với hàm ấy Nguyễn Du đã đứng vào hàng Sĩ Tịch của Triều Đình của Triều Đình Lê – Trịnh, mặc dù chưa phải là một Vị Quan tại chức !. Tướng Mạo khôi ngô, thông minh ( Nhật Nguyệt+Tứ Linh ), lên 6t bắt đầu học chữ Hán, sách vở chỉ xem qua 1 lần là nhớ. Có lần Quận Việp Hòang Ngũ Phúc đến nhà chơi thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường bèn tặng ông 1 thanh Bảo Kiếm. Dù Mệnh được Vòng Thái Tuế + THÂN cư Thiên Di được Vòng Lộc Tồn nhưng Nhật ( tượng Cha ), Nguyệt ( tượng Mẹ ) gặp Hóa Kị, Phục Binh, THÂN ( ứng với thời gian từ Trung Vân đến Hậu Vận ) nằm ở Vòng Tuế Phá ( gặp nhiều ngang trái, bất mãn, có tinh thần cách mạng, nhưng nhờ Lộc Tồn +Mã Khốc Khách « Nghị Lực cao » đã vượt qua nhiều Sóng Gió của Cuộc Đời ).

 Từ năm Ất Mùi 1775 khi đi vào Hạn La Hầu 10t+Triệt, Ông đã chịu nhiều mất mát : anh trai Nguyễn Trụ cùng Mẹ tuổi Đinh Sửu 1757 qua đời vào Hạn La Hầu 19t+Kình Đà, cũng vào cuối năm đó Cha đau bệnh mất vào Hạn Thái Bạch 67t+Kình Đà. Hai năm sau Mẹ tuổi Canh Thân 1740 mất năm Mậu Tuất 1778 vào lúc Vận Số của Ông đi vào Năm Tuổi 13t+Hạn Thái Bạch+Kình Đà ( nên nhớ Mệnh của ông ở Dậu với Mệnh của Phụ Mẫu ở Tuất : Dậu và Tuất ở Thế Nhị Phá và Thế Hỏa khắc Thế Kim + Cha Mệnh Hỏa, con Mệnh Thủy ). Mồ côi cả Cha lẫn Mẹ cuộc sống trở nên khó khăn vào Thời Điểm này nằm trong Đại Vận ( 12t-21t ) tại Cung Huynh Đệ, ông phải về sống với Anh Cả Nguyễn Khản, người Anh cùng Cha khác Mẹ hơn Ông 31t rất tài hoa, làm Quan to tại Triều được Chúa ưu đãi. Đời sống của người Anh Cả đã có ảnh hưởng nhiều đến ông trên đường Sự Nghiệp !.

Năm Canh Tí 1780 Nguyễn Khản đang làm Trấn Thủ Sơn Tây bị khép vào tội mưu lọan trong Vụ án năm Canh Tí ( phò Thế Tử Trịnh Khải âm mưu phế bỏ Trịnh Cán ) bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận Công. Lúc này Nguyễn Du được người bạn thân của Anh Cả là Đoàn Nguyễn Tuấn ( là Anh Vợ sau này ) đón về Sơn Nam Hạ ( Nam Định ) nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu Binh phế Trịnh Cán tôn Trịnh Khải lên ngôi Chúa. Nghĩ tình Thầy Trò, Trịnh Khải đón Nguyễn Khản về Triều với chức Thượng Thư Bộ Lại còn Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây.

 Năm Qúy Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam đậu Tam Trường ( Tú Tài ) vào năm 18t. Cũng trong năm này Nguyễn Đề ( anh cùng Mẹ tuổi Tân Tỵ 1761 ) đỗ Giải Nguyên khoa Thi Hương ở Điện Phụng Thiên và Anh Cả Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo cuối năm thăng chức Tham Tụng ( Tể Tướng ).

 Sau sự kiện Kiêu Binh đốt cháy Dinh Thự của Anh Cả ở Phường Bích Câu ( Thăng Long ). Hòan cảnh khó khăn nên Anh Cả đành xin cho ông làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên năm Bính Ngọ 1786 – đó là năm đầu của Đại Vận ( 22t-31t ) tại Cung Thê gặp Tuần+Triệt. Tiểu Vận năm Bính Ngọ 1786 đi vào Vận Đào Hồng Hỉ, Ông lập gia đình với bà Đoàn Thị Huệ, con gái Tiến Sĩ Đòan Nguyễn Thục đang làm Ngự Sử tại Triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam ( nay là tỉnh Thái Bình ). Năm Đinh Mùi 1787, Tây Sơn tiến quân ra Bắc, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp Triều Thần bàn chuyện chống Tây Sơn, nhưng việc chưa thành thì ông bị bệnh mất tại Thăng Long. Nguyễn Du theo Vua không kịp, phải chạy trốn về Quê Vợ ở nhờ nhà anh vợ Đòan Nguyễn Tuấn tại Thái Bình ( Vận Số đi vào Hạn Thái Bạch 22t+Kình Đà +Vận Triệt ).

 Đại Vận ( 22t-31t ) tại Cung Thê nằm trong Tam Giác ( THÂN cư Di, Thê, Phúc ) tuy gặp Vòng Lộc Tồn, nhưng ở Thế Tuế Phá, Ông có tập hợp Hào Mục để tính chuyện Phục Quốc, nhưng chí không thành !. Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu Quê Vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Ông, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng Thời Gian này là Mười năm gió bụi « Thập tải Phong Trần ». Hàng ngày Ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì mà đã rơi vào cảnh cùng khổ !. Thời gian này nhà Vợ, bố vợ và anh vợ đều mất, ông đành trở về Quê Cha đất Tổ ở Tiên Điền. Trở lại Quê nhà, thấy nhà cửa tan hoang, anh em lưu lạc khắp nơi, Ông đã phải thốt lên « Hồng Lĩnh vô Gia, Huynh Đệ tán ». Tuy vậy ở Tiên Điền vẫn còn bà con thân thuộc – nên Ông được bà con chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong nhung lụa của một Gia Đình Đại Qúy Tộc nên về Quê, Ông chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở Thánh Hiền !. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột rúc chạy trên đống sách khiến tâm trạng lại càng thêm buồn tủi. Để khuây khỏa Ông thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu nai hay xuống sông Lam bắt cá.

 Năm Kỷ Dậu 1789 Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Đòan Nguyễn Tuấn ra hợp tác với nhà Tây Sơn giữ chức Thị Lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở Quê Vợ ( Quỳnh Côi, Thái Bình ). Tháng 10 năm Tân Hợi ( 1791), Nguyễn Quýnh, người anh thứ 4 cùng cha khác mẹ của Ông do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, Dinh Cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị phá hủy !.

Năm Quý Sửu 1793 Ông về thăm Quê ở Tiên Điền, cuối năm Ông vào Kinh thăm anh ruột Nguyễn Đề đang làm Thái Sử ở Viện Cơ Mật và anh rể Đòan Nguyễn Tuấn.

 Mùa Đông năm Bính Thìn ( 1796 ), ở năm đầu của Đại Vận ( 32t-41t ) tại Cung Tử Tức gặp Tuần +Triệt, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Chúa Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận Công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng ở Nghệ An, may nhờ anh ruột Nguyễn Đề quen với Thận nên được tha ( Hạn Thái Bạch 31t+Kình Đà ). Trong thời gian ở Tù, Ông có làm bài Thơ My trung mạn hứng « Cảm hứng trong Tù ».

2) Thời Kỳ tham chính

 Đại Vận ( 32t-41t ) nằm trong Thế Thiếu Dương +Sát Phá Tham+Đào Hồng Hỉ + Tuần Triệt : 10 năm nhiều sóng gió, sau bế tắc, nhờ Triệt tháo gỡ, vào các năm cuối của Đại Vận, cuộc đời đã đi vào trang Sử mới.

 Năm Nhâm Tuất 1802 Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn ; khi ra Bắc Hà có xuống chiếu mời các Quan Chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nguyễn Du được truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được làm quan. Tháng 8 cùng năm được bổ làm Tri Huyện Phù Dung ( thuộc Khóai Châu, Sơn Nam ). Tháng 11 được thăng Tri Phủ Thường Tín. Mùa Đông năm Qúy Hợi 1803 để tiếp Sứ Thần nhà Thanh sang phong sắc cho Vua Gia Long, Ông được cử cùng các Tri Phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên ; Tri Phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên ; Tri Phủ Tiên Hưng là Trần Lân ra Cửa Nam Quan nghênh tiếp Sứ Thần.

       Mùa Thu năm Giáp Tí 1804 lấy cớ bị bệnh ( Hạn Thái Bạch 40t+Tam Tai+Kình Đà ) Ông xin từ chức về Quê. Con đường Hoạn Lộ với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với Triều Đại này !. Về Quê chưa được bao lâu thì Vua Gia Long có chỉ triệu vào Kinh Đô. Mùa Xuân năm Ất Sửu 1805, Tiểu Vận vào Quan Lộc (+Hạn Thái Dương 41t+Tướng Ấn, Song Lộc, Mã Khốc Khách) được thăng Đông Các Đại Học Sĩ, tước Du Đức Hầu. Đây là ân sủng lớn mà Triều Đình dành riêng cho Ông ; vì Ông chỉ đỗ Tam Trường ( Tú Tài ) mà thời đó phải đỗ Hương Cống ( Cử Nhân ) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ Triều Đình đặc cách phong cho Ông vì thấy Ông là người có tài ; hơn nữa Ông lại xuất thân trong 1 Đại Gia Đình Khoa Bảng lỗi lạc một thời gian dài là Giường Cột của Triều Lê. Hơn nữa với mục đích trọng dụng những người như Ông có thể thu phục được nhâm tâm của Sĩ Phu Bắc Hà khi còn luyến tiếc Triều Lê!.

 Tuy làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Ông chẳng lấy thế làm vui, mà lại thêm buồn vì thời thế đã đổi thay, lại thương cho Số Phận của mình. Những đêm mưa rả rích ở Xứ Huế, một mình nhìn về Phiá Bắc Đèo Ngang, lòng càng thêm đau sót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách ( Thập khẩu đề cơ Hòanh Lĩnh bắc « Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang » ).

 Năm Đinh Mão ( 1807 ), năm đầu của Đại Vận ( 42t-51t ) tại Cung Tài Bạch tuy là Đại Vận Thái Tuế +Tứ Linh, nhưng Nhật Nguyệt gặp Hóa Kị, Phục Binh+THÂN Tuế Phá : 10 năm được vài năm đầu ưng ý, thỏa mãn với vài ước vọng thủa thiếu thời, nhưng nhìn cảnh Quan Trường còn đầy rẫy kẻ xu thời trục lợi chỉ thích vơ vét cho đầy túi tham, hơn nữa lòng còn vọng tưởng Cố Quốc một thời Danh Vọng của Đại Gia Đình. Ông càng cám cảnh cho thân phận cá chậu chim lồng của mình !.

 Tháng 9 năm Đinh Mão ( 1807 ) được bổ làm Giám Khảo trường Thi Hương ở Hải Dương. Xong việc Ông xin về Quê được Vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tỵ ( 1809 ) Vua lại có chỉ bổ Ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Qủang Bình. Trong 4 năm giữ chức Cai Bạ mọi việc trong Hạt như : lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng Thuế, Ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được Sĩ Phu và nhân dân yêu mến.

 Tháng 9 năm Nhâm Thân ( 1812 ) Ông xin tạm nghỉ 2 tháng về Quê xây mộ cho anh Nguyễn Đề. Tháng 2 năm Qúy Dậu ( 1813 ) có chỉ triệu về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại Học Sĩ ( Vận Thái Tuế ), sau đó được cử đi Sứ Trung Quốc với tư cách Tuế Cống Chánh Sứ cùng 2 Phó Sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần văn Đại và Nguyễn văn Phong.

- Advertisement -

 Trong dịp đi Sứ sang Tàu, có dịp trở lại Thăng Long ; bạn bè mở tiệc tiễn đưa ở Dinh Tuyên Phủ có gọi mấy chục Nữ Nhạc đến giúp vui. Trong đám Nữ Nhạc, Ông có nhận ra 1 người mà 20 năm trước, khi Ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Đề đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Nhìn dung nhan tiều tụy, chạnh lòng nghĩ đến Thế Sự đổi thay, Ông buồn bã thốt lên : « Than ôi ! Sao người ấy lại đến nỗi này. Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống ngậm ngùi cho cảnh xưa nay ». Lòng cảm thương vô hạn, Ông đã gửi vào bài thơ Long Thành cẩm giả ca. Trong thời gian đi Sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi qua đền chùa, các Danh Lam Thắng Cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, Ông thường ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Võ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can…qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trầm mình, Ông làm bài thơ Phản Chiêu Hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về Dương Gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, Ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết Trung Thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng bạc mệnh, Ông làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận Mình « Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như ».

 Tháng 4 năm Giáp Tuất ( 1814 ) trở về nước, Ông có làm tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa Hạ năm Ất Hợi ( 1815 ) Ông được phong chức Hữu Tam Tri bộ Lễ tước Du Đức Hầu. Năm Kỷ Mão 1819 Ông được cử làm Đề Điệu trường Thi Quảng Nam, Ông dâng biểu xin nghỉ được nhà Vua chuẩn y. Thời Điểm này là năm đầu của Đại Vận ( 52t-61t ) tại Cung Tật Ách ở Thìn ( Thổ khắc Mệnh ) có Kình Dương ( Kim ) rất độc với Can Ất ( Mộc ), lại Nhị Hợp với Mệnh ( Nhật Nguyệt gặp Hỏa Linh, Hóa Kị : Tinh Thần mệt mỏi luôn luôn lo lắng đến sức khỏe ). Năm Canh Thìn 1820 Vua Gia Long băng hà, Minh Mệnh lên ngôi, có lệnh sai Ông đi làm Chánh Sứ sang Tàu cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất vì bệnh Dịch Tả ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ( 16/9/1820 ) tại Kinh Thành Huế khi Tiểu Vận vào Tật Ách gặp Kình, Vận Số đi vào Hạn La Hầu 55t+Kình Đà, Không Kiếp.

 Bệnh Dịch Tả này là trận Dịch lớn xuất phát từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta, phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lan ra Bắc, người chết không biết bao nhiêu mà kể, cả thành thị lẫn thôn quê đều náo loạn !.

 Hiện nay Nhà Thờ của Đại Thi Hào Nguyễn Du ở Tiên Điền có gắn 4 chữ ( Địa Linh Nhân Kiệt ) và Nhà Lưu Niệm trong đó có Tượng Đài của Ông được xây tại tỉnh Hà Tĩnh.

3) Tác Phẩm

a- Chữ Hán

– Thanh Hiên Thi tập gồm 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan Triều Nguyễn.

– Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài ngâm nga lặt vặt lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía Nam Hà Tĩnh.

– Bắc Hành tạp lục gồm 131 bài Thơ ghi chép các sự kiện khi đi Sứ sang Tàu.

b- Chữ Nôm

– Đoạn Trường Tân Thanh ( truyện KIỀU ) gồm 3254 câu Thơ theo thể Lục Bát viết bằng chữ Nôm có nội dung dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân ( người Tàu ) xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính- một cô gái có Tài Sắc nhưng Hồng nhan bạc phận.

– Văn Chiêu Hồn : Văn Tế 10 loại chúng sinh theo thể Thơ Song Thất Lục Bát.

– Thác lời Trai phường Nón : 48 câu Thơ thể Lục Bát với nội dung thay lời anh con Trai Phường Nón làm thơ tỏ tình với Cô Gái phường Vải.

– Độc Tiểu Thanh ký viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn của Trung Quốc, 16t bị gả làm vợ lẽ của nhân vật thuộc nhà quyền qúy. Vì Vợ Cả hay ghen nên đuổi nàng ra sống một mình ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ, không bao lâu bị bệnh chết ở tuổi 18t. Trước khi chết, nàng có để lại nhiều bài Thơ và Họa, nhưng hầu hết bị người vợ cả đốt !. Bài thơ viết theo thể Thất ngôn Bát cú Đường Luật.

– Văn Tế sống Trường Lưu nhị Nữ : gồm 98 câu viết theo lối Văn Tế để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với 2 cô gái Phường Vải.

 Sáng tác của Nguyễn Du không nhiều về số lượng, nhưng có Vị Trí đặc biệt quan trọng trong Di Sản Văn Hóa Dân Tộc. Từ Kiệt Tác Truyện KIỀU đã nảy sinh biết bao những hình thức Sáng Tạo Văn Học và Văn Hóa khác nhau : thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh ; rồi vô số dạng thức của Nghệ Thuật Dân Gian : đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài Bình Luận, những Công Trình Phê bình ( từ xưa đến nay ), kể cả Nghiên Cứu.

 Dưới mắt người ở nước ngoài : Nguyễn Du là Nhà Thơ lớn của Thế Giới lúc bấy giờ, họ coi Ông là Vị Thánh của nền Thi Ca Việt Nam. Họ qúy trọng Ông vì đã đóng góp công vào nền Thi Ca Thế giới. Ông là nhân vật kiệt xuất của thơ ca Việt Nam. Năm 1965 Ông được Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới của UNESCO công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới và quyết định Kỷ Niệm trọng thể nhân dịp Kỷ Niệm 200 năm, năm sinh của Ông.

 Paris Mùa Xuân năm Mậu Tuất 2018

 Phạm Kế Viêm

- Advertisement -
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Advertisement -
- Advertisment -

Có thể bạn thích

BÌNH LUẬN GẦN ĐÂY