23 C
Hanoi
Thứ Sáu, 29 Tháng Ba, 2024
spot_img
Home Blog Page 3

Phá Quân độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân

0

Phá Quân độc tọa hai cung Dần hoặc Thân; đối cung là “Vũ Khúc, Thiên Tướng”; cung tam phương là Thất Sát độc tọa, và Tham Lang độc tọa.

Muốn phán đoán tinh chất của Phá Quân ở cung này, cần phải chú ý một đặc điểm, đó là tính phản kháng và tình thuận tòng của Phá Quân. Nắm vững đặc điểm này mới có thể biết được bản chất của cung mệnh.

Trong các tình huống thông thưòng, tính phản kháng của Phá Quân mà càng mạnh thì sự biến động thay đổi trong đời người càng có biên độ lớn; còn tính thuận tòng của Phá Quân mà càng mạnh thi sự biến động thay đổi trong đời người sẽ có biên độ càng nhỏ.

Phàm người có Phá Quân thủ cung mệnh, vận thế sẽ lên xuống như hình yên ngựa, tức phải trải qua chìm nổi nhiều lần. Lúc vận thế bốc lên, bỗng nhiên sẽ gặp trở ngại, chuyển thành hướng đi xuống, sau đó lại bốc lên lần nữa. Cho nên, phán đoán được tính phản kháng và tính thuận tòng của Phá Quân thì có thể phán đoán được sự chìm nổi của vận thế.

Điểm này quan trọng khi luận đoán. Bởi vì cũng cùng là người Phá Quân độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có một số người liên tiếp thay đổi công việc, nhưng lại có một số người có thể làm việc trong một cơ cấu nào đó suốt đời; đây là do biên độ chìm nổi cao thấp có sự phân biệt lớn nhỏ.

Lấy bản thân Phá Quân để nói. Phá Quân có sao lộc, không gặp các sao sát, kị hình thì tính thuận tòng khá lớn; ngược lại, nếu Phá Quân không có sao lộc, hoặc gặp các sao sát, kị, hình nặng thì tính phản kháng khả lớn.

Gặp Tả Phụ, Hữu Bật Thiên Khôi, Thiên Việt sẽ không làm thay đổi đặc tính của Phá Quân, mà chỉ làm mạnh thêm, tức thuận tòng thi càng thuận tòng hơn, phản kháng thì càng phản kháng hơn.

Hai sao Vãn Xương, Văn Khúc đồng thời hội họp Phá Quân, có thể làm tăng tính thuận tòng; nếu chỉ gặp một sao thì không phải vậy. Nếu như chỉ gặp một minh Xương hoặc Khúc Hóa Kị, thi trái lại, sẽ làm tăng tính phản kháng.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” của đối cung, phàm Vũ Khúc Hóa Lộc hay Thiên Tướng thuộc “Tài ấm giáp ấn” đều có thể làm mạnh thêm tính thuận tòng của Phá Quân. Nếu Vũ Khúc Hòa Kị, Thiên Tướng thuộc “Hình kị giáp ấn” thì có thể làm tăng tính phản kháng của Phá Quân.

Tham Lang của cung tam hợp mà Hòa Lộc hay đồng độ với Lộc Tồn, sẽ làm tăng tính thuận tòng của Phá Quân; nếu Hóa Quyền, thì cần phải xem có các sao sát, kị, hình đồng thời hội hợp hay không; nếu có, sẽ làm tăng tính phản kháng; nếu không có, sẽ làm tăng tính thuận tòng. Tham Lang Hóa Kị cũng làm tăng tính thuận tòng.

Khi Thất Sát của cung tam hợp đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, sẽ làm tăng tính phản kháng của Phá Quân; khi đồng độ với Tả Phụ, Hữu Bật thì chỉ làm mạnh thêm bản tính của Phá Quân; đồng độ với các sao khoa văn (như đồng độ với Văn Xương Hóa Khoa, hoặc gặp sao đôi Long Trì Phượng Các ), sẽ làm mạnh thêm tinh thuận tòng cùa Phá Quán.

Phá Quân nặng tính thuận tòng ưa đến các cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Phủ” (Hóa Lộc, Hóa Khoa), Thái Âm (Hóa Lộc, Quyền, Khoa), Tham Lang (Hóa Lộc, Quyền), “Vũ Khúc, Thiên Tướng” (Hóa Lộc, Quyền, Khoa, Tài ấm giáp ấn), “Thái Dương, Thiên Lương” (Hóa Khoa), Tử Vi (Hóa Khoa).

Phá Quân nặng tính phản kháng ưa đến các cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Phủ” (gặp Tả Phụ, Hừu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt), Tham Lang (có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ). “Thiên Đồng, Cự Môn (Hóa Lộc), “Vũ Khúc Thiên Tướng” (Hình kị giáp ấn), “Thái Dương, Thiên Lương” (Hóa Lộc, Quyền), Thất Sát (hội Hóa Lộc hoặc Lộc Tộn), Tử Vi (Hóa Quyền).

Phá Quân nặng tính thuận tòng đến các cung hạn thích hợp, tuy có biến động thay đổi trong cuộc đời, nhưng sẽ không thay đổi bản chất (như thay đổi nghề nghiệp), hơn nửa, biến động thay đổi sẽ theo chiều hướng thuận lợi, hoặc vì lợi thế mà phải thay đổi. Nếu đến các cung hạn không thích hợp, biến động thay đổi sẽ lớn, mà còn chuyển biến theo chiếu hướng xấu, gian khổ.

Phá Quân nặng tính phản kháng đến các cung hạn thích hợp, tất sẽ ở vào thế không thể không biến động thay đổi, hơm nữa, phần nhiều thuộc về thay đổi có tính căn bản; vả lại lúc thay đổi phải trải qua gian khổ. Nếu đến các cung hạn không thích hợp, sẽ có biểu hiện là phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, hoặc đánh mất cơ hội tốt.

Về đại thể, những cung thích hợp với Phá Quân nặng tính phản kháng, sẽ không thích hợp với Phá Quân nặng tính thuận tòng; ngược lại, những cung thích hợp với Phá Quân nặng tính thuận tòng sẽ không thích hợp với Phá Quân nặng tính phản kháng.

Phá Quân nặng tính thuận tòng đến các cung hạn không có các sao sát, kị, hình, hao (hoặc chi gặp một hai sao), nhưng có các sao phụ, tá, Hóa Lộc, Hóa Quyến, tất sẽ chủ về phát triển thiếu tính đột phá. Tuy có thể giảm bớt sự chìm nổi thất thường trong đời người, nhưng nếu đang hàn vi mà gặp cung hạn này thì khó mà đột phá để phát đạt một cách nhanh chóng.

Phá Quân nặng tính phản kháng mà đến các cung hạn ít Lộc, Quyền, Khoa, lại chi gặp một hai sao phụ tá, tất sẽ chủ về xảy ra biến động thay đổi có tinh đột ngột, nếu đã giàu có thì không nên, nhưng đang hàn vi mà gặp cung hạn thì có thể nhờ biến động mà đắc lợi, hoặc sẽ thay đổi vận trình thành khá hơn (như đến các cung hạn “Vũ Khúc, Thiên Tướng” hay Thiên Tướng có Hình Kị giáp cung). Nhưng nếu có quá nhiều sao sát kị, hình, hao hội hợp thì cũng không tốt, là điểm ứng gian khổ, phá sản, thất bại.

Hiểu được nguyên tắc thuật ở trên, là biết được phép xu cát Tỵ hung, “biến động thay đổi” hay không “biến động thay đổi giữa “hành động” và “dừng lại” rất là quan trọng.

Phá Quân nặng tính thuận tòng mà gặp nhiều sao sát hình, sẽ chủ về hơi có thành tựu thì đã lơ là, thỏa mãn; vì vậy rất kị gặp Linh Tinh, Đà La; gặp chúng thì sẽ đình trệ, không tiến bộ, khó thành đạt cao; rất nên gặp Hỏa Tinh, Kình Dương, trái lại sẽ được chúng kích thích để tiến lên.

Phá Quân nặng tính phản kháng mà gặp nhiều sao sát, hình, thì trái lại, có lúc sẽ chủ về vì đời người gập ghềnh, gặp quá nhiều chuyện bất đắc chí, mà mất hết chí khí. Lúc này phải xem xét cung Phúc đức và cung Thiên di của mệnh tạo. Nếu cung Phúc đức tốt thì nên có nhiều trải nghiệm để tìm cơ hội thay đổi mệnh vận (vì vậy cần lưu ý đại vận hoặc lưu niên tốt), vận dụng sức mạnh tinh thần để thay đổi cảnh ngộ. Nếu cung Thiên di tốt thì còn tìm cơ hội xuất ngoại để phát triển (vì vậy cần lưu ý cung Thiên di của đại vận hoặc lưu niên), vận dụng sự thay đổi hoàn cảnh để cải thiện mệnh vận của bản thân.

(Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tam Hợp Phái)

LỤC THẬP TINH HỆ: TỬ VI Ở CUNG TÍ HOẶC NGỌ

0

Tử Vi độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ; đối cung là Tham Lang độc tọa; cung hội hợp là “Vũ Khúc, Thiên Tướng” và “Liêm Trinh, Thiên Phủ”.

Muốn luận đoán đánh giá tính chất của Tử Vi độc tọa, cần phải chú ý một điểm quan trọng, đó là sự quân bình giữa tinh thần và vật chất.

Bản thân Tử Vi đã có bản chất thuộc về phương diện tinh thần (như tính độc đoán mạnh, về phương diện yêu ghét có cá tình đặc thù, về phương diện tinh thần ắt sẽ có tiêu khiến và yêu chuộng, có lực quyết đoán, v.v…); cũng có tính chất thuộc phương diện vật chất (như thú vui, sở thích hưởng thụ vật chất, tài lãnh đạo, tài tổ chức, v.v…); hội hợp với các sao khác nhau, sẽ làm mạnh thêm tính chất về phương diện tinh thần, hoặc làm mạnh thêm tính chất về phương diện vật chất, hay là trong hai có một phương diện yếu đi, thậm chí nhuyễn hóa thành một đặc tính khác, khi luận đoán thực sự cần xem trọng.

Tham Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ là các sao thuộc về tính vật chất. Liêm Trinh, Thiên Tướng là các sao thuộc về tính tinh thần.

Nếu Tham Lang Hóa Lộc hay Hóa Quyển, Vũ Khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền, Thiên Phủ Hóa Khoa đều làm mạnh thêm tính vật chất của Tử Vi; được bách quan triều củng, đặc biệt là Tả Phụ, Hữu Bật, cũng làm mạnh thêm tính vật chất của Tử Vi.

Nếu Liêm Trinh Hóa Lộc, Thiên Tướng thành cách “Tài ấm giáp ấn”, thì sẽ làm yếu đi tính tinh thần của Tử Vi, do đó tính vật chất tương đối có thể mạnh thêm.

Nếu Tham Lang Hóa Kị, Vũ Khúc Hóa Kị, thì sẽ làm yếu đi tính vật chất của Tử Vi, do đó tính tinh thần tương đối có thể mạnh thêm

Nếu Tham Lang đồng độ với Thiên Hình, hoặc đồng độ với sao không; Liêm Trinh cùng ở một cung với các sao đào hoa hay cùng  một cung với Văn Xương, Văn Khúc; Thiên Tướng thì thuộc “Hình kị giáp ấn”; cho tới sao không và tạp diệu Hoa Cái, đào hoa đồng độ với Tử Vi; thi sẽ làm mạnh thêm tính tinh thần của Tử Vi.

Lấy bản thân Tử Vi để nói, Tử Vi được “Bách quan triều củng” Tử Vi Hóa Quyền là nặng tính vật chất; Tử Vi là “tại dã cô quân”, Tử Vi Hóa Khoa thi nặng tính tinh thần.

Cần phải đo lường bản chất của Tử Vi ở hai cung Tí hoặc Ngọ như vậy, mới có thể luận đoán lúc nó đến 12 cung, và tính chất của sự giao nhau giữa các tinh hệ.

Thông thường, Tử Vi độc tọa nặng tính vật chất thì ưa đến các cung hạn có các tinh hệ như Phá Quân, “Liêm Trinh và Thiên Phủ”, “Vũ Khúc và Thiên Tướng”, Thất Sát, Thiên Cơ. Nếu các cung hạn này cũng nặng tinh vật chất thì có thể phối hợp tất sẽ là đại vận hoặc lưu niên đắc chí hay phát tài.

Nói nặng tính vật chất là các nhóm: “Phá Quân Hóa Lộc hay Phá Quân Hoa Quyền”; “Liêm Trinh Hóa Lộc và Thiên Phủ”; “Vũ Khúc Hóa Lộc và Thiên Tướng”; “Thất Sát gặp Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn”; Thiên Cơ Hóa Lộc gặp Tả Phụ, Hữu Bật.

Tử Vi nặng tính tinh thần thì ưa đến các cung hạn có các tinh hệ như Thái Âm, “Thái Dương và Thiên Lương”. Nếu hai cung này cũng nặng tính tinh thần, thì phối hợp rất tốt, tất sẽ vào đại vận hoặc lưu niên được danh vọng, có tiếng tăm.

Nói nặng tính tinh thẩn, là các nhóm: Thái Âm Hóa Lộc, Quyền, Khoa”; “Thái Dương Hóa Lộc, Quyền, Khoa”; “Thiên Lương Hóa Khoa”.

Các kết cấu như “Thiên Phủ Hóa Khoa và Liêm Trinh”, “Thiên Tướng và Vũ Khúc bị Hình kị giáp ấn”, “Thiên Cơ Hóa Khoa”, nếu lại gặp Văn Xương, Văn Khúc, cũng là các tinh hệ nặng tính tinh thần.

Nêu hiểu được nguyên tắc luận đoán thuật ở trên, sẽ không khó trong việc tìm hiểu sự biến hóa khi có các sao “phụ, tá, sát hóa, tạp” hội họp, không cần trình bày chi tiết ở đây.

Từ Vi nặng tính vật chất mà đến cung hạn Tham Lang nặng tính tinh thần tọa thủ thi sẽ nhuyễn hóa thành sắc dục. Khi Tham Lang ở cung Mệnh, cung Phúc đức, hay cung Phu thê, đều là điềm triệu mệnh tạo phát sinh tình cảm với người khác mà không phải là người phối ngẫu. Nếu là lúc Tham Lang tọa thủ cung Tật ách, thì chủ về bệnh tật đường sinh dục và thận.

Tử Vi nặng tính vật chất đến cung hạn Tham Lang nặng tinh vật chất, trái lại sẽ không chủ về sắc dục; nếu ở cung Tật ách thì chủ về bệnh gan, bệnh dạ dày, đường ruột.

Tử Vi nặng tính tinh thần đến cung hạn Tham Lang nặng tính vật chất, cũng có thể nhuyễn hóa thành sắc dục.

Tử Vi nặng tính tình thần đến cung hạn có Tham Lang nặng tính tinh thần, có thể có khuynh hướng trốn đời, hoặc thành sáng tác nghệ thuật sẽ vào vận trình phát huy sự hưởng thụ tinh thần. Nếu Tham Lang ở cung tật ách, chủ về các bệnh không có thực chất như rối loạn chức năng thần kinh hưng phấn hoặc thần kinh suy nhược, hoặc do hệ nội tiết mất quân bình khiến cho khí quan mẫn câm. (Làm cách nào phân biệt Tham Lang nặng tính vật chất hay nặng tính tinh thần, sẽ bàn luận kĩ ở sau. Ở đây chỉ xin đơn cử thêm một ví dụ: Tham Lang của Hóa Lộc là nặng tính vật chất; Tham Lang của Hòa Kị là nặng tính tinh thần).

Tử Vi nặng tính tinh thần đến cung hạn có Thiên Đồng, Cự Môn của lưu niên hoặc đại hạn, tất sẽ xảy ra rắc rối về tình cảm, hoặc sự nghiệp không như ý, hoặc xảy ra tình trạng có những cảm thụ đặc biệt cần phải xem hội hợp với các sao phụ, tá, sát, hóa nào để định.

Tử Vì nặng tính vật chất đến cung hạn có “Thiên Đồng, Cự Môn” nếu Thiên Đồng Hóa Lộc, thường thường đây là năm hoặc vận trình thu hoạch; nếu Thiên Đồng Hóa Kị, cũng có thu hoạch, nhưng chủ về có trở ngại trong quá trình thu hoạch. Rất ngại Cự Môn Hóa Kị đấy là đại hạn hoặc lưu niên chủ về thất bại, tổn thất.

Tử Vi nặng tính vật chất đến cung hạn có Thất Sát lập tức phát sinh chuyển biến; Tử Vi nặng tính tinh thần đến cung hạn có Thất Sát chủ về kéo dài một thời gian rồi mới xảy ra chuyển biến (nếu Thất Sát là cung Mệnh của lưu niên, chủ về sự chuyển biến sẽ xảy ra vào nửa năm cuối; nếu Thất Sát là cung mệnh của đại vận, chủ về sự chuyển biến sẽ xảy ra vào 5 năm cuối).

Hơn nữa, tính chất chuyển biến của hai trường hợp này cũng khác nhau. Trường hợp trước chủ yếu là chuyển biến về sinh hoạt vật chất; trường hợp sau chi chuyển biến về đời sống tinh thần.

Phá Quân hơi giống Thất Sát, chuyển biến ở biên độ khá lớn.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số Tam Hợp Phái – Nguyễn Anh Vũ )

Sao Liêm Trinh nhập hạn

0

Năm hạn đến sao Liêm Trinh, có thể phát sinh các sự việc liên quan đến công việc, vợ chồng, tình dục, sức khỏe, tài lợi, danh dự… Không nên cầu tài, có thể cầu danh, cầu tài không thành, cầu danh thì được vinh quy, chủ về tự khen mình, tự cho mình siêu phàm, thường có cảm giác cô độc.

Dễ vướng đến hình ngục, không thể vì tham phú quý mà tham ô, phạm pháp, hãm hung mà đồng cung với Tham Lang càng nên chú ý.

Đề phòng tai họa đổ máu bất ngờ, thêm Hồng Hỉ, Thiên Hình càng ứng nghiệm, không nên đi xa, mạo hiểm, tránh xa các đồ sắc nhọn.

Gặp tiểu hạn, mùa xuân, mùa thu khá cát lợi, mùa hạ không lợi bằng, mùa đông bất lợi.

Miếu vượng, không có sát tinh, có cơ hội tốt có tính đột phá, người trong chính trường thì thăng quan tiến chức, người kinh doanh buôn bán thì phát tài, người chưa kết hôn thì dễ gặp được đối tượng phù hợp; thêm cát tinh hoặc cát hóa, càng là hỷ khí đến nhà, có thể đầu tư lớn; thêm sát tinh thì sự nghiệp gặp trở ngại; trung niên và vãn niên khá tốt; đối cung thấy Hỏa Tinh và Tham Lang, càng có nhiều cơ hội bất ngờ.

Thất hãm, dễ rơi vào tà ác, cực đoan, hư ngụy, gian trá, tiền tài và danh tiếng đều bất lợi, vận thiếu niên dễ bị kích động, phạm pháp, vận trung niên gặp phải chủ về nhiều tai họa, bệnh tật, sau 45 tuổi khá ổn định; thêm sát tinh, dễ có việc kiện tụng, bệnh tật, thương tích, nên khiêm tốn, cẩn thận, tuân thủ pháp luật;

Nếu nguyên bàn cung quan lộc gặp tứ sát (hung nhất là Kình Dương) hoặc Thiên Hình, Bạch Hổ, không phải việc kiện tụng thì là bệnh tật, thương tích.

Liêm Trinh, Thiên Tướng, tiểu hạn hành đến, ở cung Ngọ, nóc nhà dễ dột; ở cung Tí, đường nước xuống không thông, vấn đề đường ống dẫn nước; thêm Dương, Nhận, dễ có mối lo kiện tụng hoặc tủ lạnh có thể hỏng. Thêm Kình Dương, đại hạn hành đến, gặp Bính lưu niên, dễ có kiện tụng, hình ngục hoặc tai họa đổ máu, phải hành sự cẩn thận, tuân thủ pháp luật, tránh xa các vật sắc nhọn.

Liêm Trinh Hóa Kị, đề phòng những việc thương cảm (ít qua lại với người thân, gặp việc thì tham gia trước, tuyên bố sau), càng nên phòng những việc kiện tụng, thị phi, phạm pháp; nếu đồng cung với Thiên Hình, Quan Phù, Bạch Hổ, ắt vì sắc dục mà dẫn tới kiện tụng; nếu hội hợp với Vũ Khúc ở cung nguyên mệnh, có nguy hiểm bị cây đè, sấm động, đề phòng tai nạn xe cộ, cây đè, thú cắn;

Gặp hung sát hoặc Cô Quả, hoặc gặp song Hóa Kị ở cung Điền Trạch chủ về người già trong nhà có họa đổ máu hoặc  tim, huyết quản bệnh nặng; thất hãm càng hung;  gặp song Hóa Kị nhập cung Nô bộc, có thể bị bạn bè khác giới bán rẻ, phụ bạc hoặc liên lụy; Hóa Kị nhập cung Tử nữ, đề phòng con cái có tai nạn đổ máu; cung Tật ách nhập thất hãm hoặc có hung sát tinh, bản thân người này có họa đổ máu; cung Phu thê nhập thất hãm hoặc có hung sát tinh, người phối ngẫu có họa đổ máu. Các trường hợp có họa đổ máu phía trên, nếu thêm Hồng Hỷ, Thiên Hình, càng ứng nghiệm.

Phàm các tai họa của Liêm Trinh, Hóa Kị đa phần ứng vào trước tháng 5.

Liêm Trinh tọa mệnh, lưu niên tiểu hạn đến đó, lại gặp lưu niên Bạch Hổ đến, chủ về tai họa kiện tụng, lao ngục (nếu phải ngồi tù, phải gặp năm mệnh bàn Hóa Khoa hoặc lưu niên Hóa Khoa mới có thể ra tù).

Gặp Hóa Lộc hoặc Hóa Kị, hạn niên đến đó, dễ khổ sở vì tình.

Hành hạn gặp Liêm Trinh, ở hãm địa gặp Hỏa Tinh, dễ tự tìm đến cái chết; nếu sát tinh nhiều, chủ về đột tử, nhẹ thì cũng bị thương tích, tàn tật.

Cùng đồng cung với Thiên Hình, Hóa Kị, Kình Dương, đề phòng kiện tụng mà vào tù, nếu lại gặp Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì càng nghiêm trọng, hoặc chủ về bệnh tật nặng nề.

Đại hạn lưu niên gặp Liêm Trinh Hóa Lộc, người chưa kết hôn sẽ có hỷ sự, sau kết hôn có chuyện đào hoa. Liêm, Tham đồng cung càng ứng nghiệm.

Liêm Trinh Hóa Kị gặp Lộc Tồn rất có duyên với người khác giới, Liêm, Tham Hóa Lộc cũng vậy.

Liêm Trinh đóng ở lưu niên cung phụ mẫu, thêm Sát, Phá, Lang hoặc các sát tinh Hình, Kị, lại gặp lưu niên Bạch Hổ, Tang Môn, lưu Dương, chủ về cha mẹ có nguy hiểm thương vong; năm Liêm Trinh Hóa Kị gặp Vũ Khúc Hóa Kị, cũng như vậy.

Cung Điền trạch của lưu niên gặp Liêm Trinh Hóa Kị, đồ điện trong nhà thường xảy ra sự cố; lúc có sát tinh, cũng chủ về người trong nhà có bệnh hoặc tử vong.

Cung Tật ách của lưu niên gặp Liêm Trinh Hóa Kị, đề phòng cảm cúm, dị ứng, nếu sát tinh nghiêm trọng, nên chú ý phẫu thuật thương tích bất ngờ.

“Hình Sát hội Liêm Trinh vu quan lộc, gia tỏa đồng lưu”: nếu Kình Dương, Thất Sát, Liêm Trinh cùng đóng ở cung sự nghiệp, đại hạn, tiểu hạn lưu niên đến đó, không gặp tai họa thì cũng bị hình thương (hãm địa thì mới đúng).

Vận này, phương vị này nên cầu danh cầu chức, không nên cầu tài.

Liêm Trinh nhập hạn cát hung quyết:

Liêm Trinh nhập hạn vượng cung lâm,

Hỷ phùng cát diệu phúc lộc thâm,

Tài vật tự nhiên năng súc tích,

Nhâm nhân đắc ý vị cao thăng.

Đại tiểu nhị hạn ngộ Liêm Trinh,

Canh hữu Thiên Hình Kị Dương xâm,

Nùng huyết hình tai đào bất đắc,

Phá quân Tham Sát phó u minh.

(Liêm Trinh nhập hạn, cung vượng tới; Hỷ gặp cát diệu, phúc lộc nhiều; tự nhiên có thể tích chứa tài vật; người xu nịnh đắc ý, địa vị được thăng tiến; đại hạn, tiểu hạn gặp Liêm Trinh, lại có Thiên Hình, Hóa Kị, Kình Dương xâm phạm, không tránh được tai họa đổ máu, phạm hình pháp; Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang hội tụ thì theo về âm ty).

(Trích Giáo Trình Tử Vi Đầu Số Trung Cấp – Viện NC Kiến Trúc và Văn Hóa Phương Đông)

Phong Thủy Thành Nhà Hồ – Địa thế & Vận khí

0
Phong Thủy Thành Nhà Hồ – Chuyện xây thành, thiên đô chắc chắn phải là đại sự quốc gia, sẽ là tập trung tất cả tinh túy về phong thủy của nhiều bộ óc uyên thâm. Không thể một vài câu mà nói cho hết được.

Bàn về Phong thủy của việc xây thành, là một việc khó khăn, học giả xưa nay ít người dám nhắc đến. Nhưng dù sao, thực tế thì không thể phủ nhận, bởi vì ngoài yếu tố Phong thủy, sẽ còn nhiều lý do khác để người ta không đi được đến đích. Một trong những lý do đó, chính là sự bảo thủ, chuyên quyền và độc đoán của Hồ Quý Ly.

Nhân thể vừa qua có chuyến giao lưu với chi nhánh CLB Phong thủy Thăng Long trong Thanh Hóa, tôi viết bài này lạm bàn đôi lời. Cũng chỉ là vài lời khoác lác che mắt thành nhân vậy thôi, mục đích để giúp mua vui bên bàn trà cho khách hữu duyên.

Toàn cảnh địa thế Thành nhà Hồ

Thành nhà Hồ, một công trình kiến trúc được xây dựng làm kinh đô của Việt nam trong thời kỳ Hồ Quý Ly làm vua, còn được gọi là Tây đô (để phân biệt với Đông Đô – Thăng Long).

Sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hóa, đã cho xây thành Tây Đô. Mặc dù đã có rất nhiều lời can gián, nhưng Hồ Quý Ly vẫn nhất quyết thiên đô. Vì ông cho rằng mảnh đất này có thế “Long Xà tương ngộ, Thạch bàn tác ấn”, có thể ở được đến “lục thập niên” tức là 60 năm.

Tuy nhiên, thực tế thì nhà hồ chỉ tồn tại được có 7 năm (Từ năm 1400 đến năm 1407).
Năm Đinh Sửu (1397) quyết định khởi công xây thành. Theo sử liệu, thì thành chỉ xây trong thời gian rất ngắn, khoảng 3 tháng là xong. Bắt đầu từ tháng Giêng năm Đinh Sửu đến tháng 3 năm Đinh Sửu thì hoàn thành. Về cơ bản, đây là con số kỷ lục về xây thành đá và vẫn còn nhiều nghi vấn, sau khi xây xong thành, thì các công trình kiến trúc khác bên trong thành còn tiếp tục được hoàn thiện đến năm 1402.

Kiến trúc, thành có 2 vòng là Thành Ngoại và Thành Nội. Thành ngoại đắp bằng đất trồng tre gai, có hào sâu bên ngoài rộng đến 50m, trên bố trí các vọng canh để phòng thủ. Thành Nội bằng đá, “chu vi vuông cạnh 424 tầm, cao 1 trượng 2 thước” (theo Vĩnh Lộc huyện chí).

Địa thế Thành Nhà HỒ dưới góc nhìn Phong Thủy

Về phong Thủy, theo nhìn nhận của chính bản thân Hồ Quý Ly cho rằng đất này là nơi có “Sơn phong bát diện, lưỡng thủy hội đường”. Tức là bốn phương có núi non bao bọc, hai dòng hước hội tụ tại minh đường. Nhưng thực tế thì sau khi dời đô về đây, nhà Hồ chỉ tồn tại được có 7 năm. Và có một kết thúc khá bi thảm. Vậy thì thực sự là tòa thành đá mới xây đó, có được như lời mô tả của Hồ Quý Ly hay không?

Xem xét tổng thể khu đất này, cho thấy vị trí xây thành cũng là một đại địa, thế long hùng dũng đổ xuống từ Vân Nam, qua Sơn La theo dòng sông Mã dẫn mạch về đến khu núi Tượng thì dừng lại, mở ra một khu bình nguyên rộng lớn. Khí mạch rất hùng dũng, tại đây dòng sông Mã chuyển mình uốn khúc trước khi hội với sông Bưởi để chảy tiếp về hướng Đông Nam. Hai dòng nước hợp nhau như hai tà áo khép lại. Cũng chính vì khí thế hùng dũng như thế, cho nên nó đã trở thành kinh đô, được Hồ Quý Ly chọn làm đất xây thành.

Đại cục thì như thế, tuy nhiên, xem xét phong thủy không chỉ có thế. Quan sát khí mạch khi nhập huyệt trường, ta sẽ thấy khi về đến đồng bằng, long mạch mở rộng phân tán, các sống núi tản mát chia thành các nhánh hướng thẳng về khu vực thành. Địa hình này trong địa lý gọi Kiếp Long”, là hung địa. Tất cả các dày núi trái phải đều chạy thẳng xuống, xuyên thẳng vào trung tâm huyệt trường, sát khí rất lớn. Do vậy, dẫu cho có khí thế hùng mạnh cũng không thể lâu bền. Chỉ hợp với chiến tranh, làm thành lũy phòng thủ, mà không thể là đất đế đô muôn đời.

Chẳng thế mà Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết trong thư can Hồ Quý Ly về việc chọn đất xây thành đã viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ (…). Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước. An Tôn đất đaii chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị”.

Với cái nhìn của Nguyễn Như Thuyết, thì thế đất mà Hồ Quý Ly chọn, chỉ là nơi “đầu non cuối nước”, không phải là cát địa, chỉ thích hợp với chiến địa. Xem trong lịch sử thì đúng như vậy, ngay sau khi thiên đô, thì họa chiến tranh đã ập đến. Hồ Hán Thương (con trai của Hồ Quý Ly) là một người rất am tường địa lý, cũng can gián rằng “Tuy là thạch bàn long xà, nhưng thễ đất còn non lắm, chỉ là long xà ẩm thủy, không quá lục niên”. Theo nhìn nhận của Hồ Hán Thương, thì thế đất này chỉ là đất “Long Xà ẩm thủy” không quá được 6 năm. Quả nhiên, từ khi dời đô về đây, 6 năm sau thì thành thất thủ, nhà Hồ diệt vong.

Khi chọn vị trí xây thành, Hồ Quý Ly đã chọn núi Đốn Sơn làm án (địa phương gọi là núi Đún). Núi Đún sơn nằm chính diện cửa Ngọ Môn, cách khoàng 2,5km. Hồ Quý Ly đã cho đắp 1 con đường chạy thẳng từ chính diện cửa Ngọ Môn lên Đốn Sơn, và trên núi đặt đàn tế Nam Giao. Tuy nhiên, núi Đốn sơn thế vốn nằm dọc, như một mũi tên nhọn chiếu thằng vào cửa Ngọ Môn. Trong địa lý, kị nhất là “thương sa, trực lộ”, tức là sa sơn như mũi thương đâm thẳng vào, đường đi xuyên thẳng vào trung tâm. Cả 2 điều đó Hồ Quý Ly đều vấp phải. Điều này tạo nên một thế xung sát rất mạnh, nguyên nhân của đại họa diệt vong sau này.

Về thủy, đây là chỗ hợp lưu của 2 con sông : Sông Mã và Sông Bưởi. Sông Mã bắt nguồn từ hệ thống chi lưu ở khu vực Vân Nam, hợp nhau tại bên Lào rồi đổ vào đất Việt từ địa phận tỉnh Sơn La. Sông Bưởi bắt nguồn từ khu vực Cao Phong Hòa Bình, hai dòng sông hộ tống thủy này khí thế đều mạnh mẽ, sông Mã nổi tiếng với khí thế hung hãn, nhiều vực sâu thác lớn. Khi về đến khu vực thành thì uốn lượn, bồi đắp nên một vùng đồng bằng trù phú.

Hồ Quý Ly cho rằng như thế mới có khí thế hùng mạnh. Nhưng trong địa lý, thì Thủy quý ở chỗ thanh kỳ khuất khúc mà hiền hòa chậm rãi, còn nếu quá cương mãnh thì mang hung khí đến, không phải cát địa. Và căn cứ vào vị trí hợp lưu của sông Mã và Sông Bưởi, Hồ Quý Ly cho rằng đó là nơi hợp thủy, khí mạch ắt sẽ tụ lại, và chọn đất ấy đặt thành là hợp cách.

Tuy nhiên, trên địa hình thực tế, dòng sông Mã tại đây 2 lần chuyển mình, lần thứ nhất tại khúc sông phía trên thành, chỗ đầu núi Voi. Sau khi chuyển mình, do khí thế còn quá sung mãn, nên tiếp tục lao xuống và chuyển mình uốn khúc lần thứ hai tại khu vực thị trấn Vĩnh Lộc ngày nay, đó là phía dưới chỗ đặt thành, và thành nằm giữa hai đoạn uốn khúc này. Như vậy, xét về mặt địa lý, thì vị trí đặt thành chưa phải là nơi đắc địa. Bởi lẽ, chỗ đặt thành hiện tại, khí mạch vẫn chưa dừng, chưa đáp ứng được yêu cầu “long đình, khí chỉ”, tức là thành vẫn nằm trên “hành long”. Nếu vậy, vị trí mà Hồ Quý Ly chọn thuộc thế Kị Long, là đất không thể định đô, vì thế Kị Long vốn là kỳ địa, rất hiếm khi ổn định, chỉ thích hợp với việc xây đền miếu, mà không thích hợp cho việc làm đô thị dương cơ.

Về sa, thì sa sơn ở đây tản mát, long hổ không chầu, không bao bọc được cho trung tâm. Quan sơn (trước huyệt trường) thì thấp nhỏ, mà Quỷ sơn (sau huyệt trường) thì lại cao lớn và quá nhiều sát khí.

Một vị trí mà thế mạch vốn dĩ đã khẩn yếu, lại thuộc thế Kị Long, sa sơn đã tản mát mà lại hung hãn lao vào chính huyệt, án sơn là núi Đốn cũng thấp nhỏ, hình thế như mũi thương lao thẳng vào Đoan môn. Cho nên, có thể kết luận một điều rằng, đất này không thể là cát địa, lại càng không thể là nơi đế đô muôn đời được. Lịch sử đã chứng minh, triều Hồ diệt vong chỉ trong vòng 7 năm sau khi lên ngôi và thiên đô vào đất này.

Một nhầm lẫn lớn trong cách nhìn nhận của Hồ Quý Ly về thế đất nơi đây. Đó là ông cho rằng vị trí hợp lưu của 2 con sông sẽ là nơi khí mạch tụ lại, bất chấp lời can gián của các học giả, thậm chí bỏ ngoài tai cả lời nhận xét của con trai mình. Thực tế thì cho thấy, khí mạch của nơi đây vốn phát tích từ Vân Nam, nếu cho rằng dòng sông Mã dẫn khí mạch xa ngàn dặm về, đóng vai trò hộ tống thủy thì đúng. Nhưng còn dòng sông Bưởi, là dòng sông nhỏ, chạy bên đất Hòa Bình đổ xuống, bản thân nó chỉ là một chi lưu cuối nguồn của sông Mã, mà nhất định không phải là hộ tống thủy. Bởi vậy, Nguyễn Như Thuyết, Hồ Hán Thương đều là những người am tường địa lý mới nhận xét rằng đó chỉ là nơi “đầu non cuối nước”, không phải nơi thịnh vượng.

Đối với môn địa lý, khí mạch tạo nên đất đế đô, không nhất thiết phải là hợp lưu. Quan trọng phải là tìm nơi “thủy bão loan hoàn, long đình khí chỉ”. Dòng sông Mã tại khu vực này vẫn đang trên đà dẫn mạch xuống đồng bằng, và phải đến tận thành phố Thanh Hóa khí mạch mới dừng, và nơi đó chính là thành Vĩnh Hồ và là thành phố Thanh Hóa ngày nay. Còn tại vị trí thành nhà Hồ bây giờ, chưa phải là nơi khí mạch dừng hẳn, chỉ là một khúc chuyển mình thôi.

Về Thủy pháp, Cửa Ngọ Môn của thành ở chính cung Tỵ, mà chỗ xuất thủy đi cũng từ chính cung Tỵ chảy thẳng đi, nước đó là nước vô tình, là bại cục chi địa. Hình cục của Thủy thành ở đây thuộc Kim Cục. Dòng sông Mã chảy vào từ cung Càn, vòng sang phải đổ ra cung Tỵ. Dòng sông Bưởi chảy vào từ cung Cấn chảy vòng sang bên phải và đổ ra cung Tỵ. Cả thuận nghịch cục thì cung Tỵ đều là cung Sinh – Vượng, nước đi ra từ cung này sẽ là Bại cục vì theo nguyên tắc “thu minh sinh, phóng ám tử”, nước phải thu sinh vượng mà chảy đi từ nơi Tử Tuyệt mới là cát thủy, sinh thủy, còn trong trường hợp này, nước mang khí tử tuyệt đến, và mang khí sinh vượng đi thì không thể dùng. Như vậy là cách lập hướng thủy pháp cũng bộc lộ vấn đề.

Về vận khí, theo sử sách, thành bắt đầu xây tháng giêng năm Đinh Sửu (1397) đến tháng 3 thì hoàn thành. Như vậy thành xây trong vận 4. Trong các tài liệu đều nói rằng các cửa thành đúng hướng Đông Tây Nam Bắc, nhưng trên thực tế, thì cửa Nam thành vào khoảng giữa 149-150 độ. Thành tọa Hợi hướng Tỵ, lập chính hướng. Theo vận này, thì Tọa tinh phạm Phục ngâm, Ngũ hoàng của Tọa nhập trung cung, vận tinh Tam Bích đáo hướng, Vận tinh Ngũ Hoàng đáo Tọa. Đều là những hung sát tinh chủ về tai kiếp chiến tranh, giặc giã. Hơn nữa, vận 4, chính thần tại Đông Nam đây cũng là phương của thủy khứ, là cách rất hung.

Một chút chấm phá bằng con mắt trần tục hẹp hòi của mình, tôi không dám đi sâu vào bàn luận cách chọn đất xây thành của cổ nhân. Chắc hẳn bên trong còn nhiều điều bí ẩn mà chúng ta chưa thể nhận ra.

Thay lời kết

Lịch sử đã qua, tất cả rồi cũng trở thành cát bụi. Cho dù là thành quách nào cũng sẽ có lúc phải sụp đổ dù phong thủy có đẹp đến đâu cũng không thể tồn tại mãi mãi với trời đất.

Chỉ có một tòa thành duy nhất, chẳng cần đến phong thủy, chẳng cần đến núi non, sông suối mà mãi mãi vẫn bền vững, có thể che chở bảo vệ cho bất cứ vương triều nào, trước bất cứ giặc ngoại xâm nào. Đó chính là Tòa thành trong LÒNG DÂN.

Điều mà Hồ Quý Ly đã đánh mất trước khi xây thành đá, cho nên dù đúng phong thủy, hay sai phong thủy, thì tòa thành đó cũng đã sụp đổ ngay trước khi nó được xây, khi mà ngay con trai Hồ Quý Ly cũng phải nói “đánh thì thần không ngại, chỉ sợ lòng dân không theo”.

Trúc Phong Ẩn Sĩ

Thiên Đồng cư Sửu Mùi; Cự Môn đồng cung

0

Thiên Đồng tại Sửu, Mùi, Cự Môn đồng cung, nhập Mệnh thì khá thích hợp cho việc làm nghiên cứu hay chuyên về học vấn. Hai sao này vốn hãm địa, Cự Môn lại là sao chủ thị phi, hai sao này đồng cung không hợp là vì lẽ đó. Khuyết điểm của Cự Môn là dễ bộc lộ ra nhất. Là người mồm năm miệng mười, một đời thường rước chuyện khẩu thiệt thị phi. Gặp thêm Kình, Đà, nam nữ dâm dục, thân thể bị thương, mắt bị tật. Hỏa, Linh đồng cung, tất có nốt ruồi lạ. Nếu hội quá nhiều sát tinh, hung tinh mà không có cứu cách ở các cung khác thì chết ngoài đường.

Là người suy nghĩ tinh tế, xem xét kĩ lưỡng, có cách nhìn nhận độc đáo, nhưng tính tình tự tư, lời lẽ bất nhất, nhỏ mọn đa nghi. Hội ác sát tinh thì ăn nói dễ nghe mà nội tâm gian trá. Nữ mệnh ngang bướng, keo kiệt, thích trưng diện, lòng dạ hẹp hòi, hay nói suông, có chồng sợ vợ.

Thiên Đồng Cự Môn tại Sửu, Mùi nhập Mệnh, bất luận Nam Nữ, một đời vất vả, thiếu niên bất lợi, hay bất hòa với mọi người, quan hệ giao tiếp không viên mãn. Có Quyền Lộc ở Mệnh cung có thể giảm được những khuyết điểm nói trên.

Người sinh năm Giáp, Canh tọa quý hướng quý (Thiên Khôi ở Mệnh, Thiên Việt ở Di, hoặc ngược lại).

Người sinh năm Ất cung quan lộc Thiên Cơ hóa Lộc. Người sinh năm Quý, Cự Môn hóa Quyền.

Người sinh năm Tân Cự Môn hóa Lộc, hội cát tinh tài quan song mỹ, nhưng khó tránh thị phi.

Người sinh năm Bính, Thiên Đồng hóa Lộc, cung quan lộc Thiên Cơ hóa Quyền, có thể phú quý.

Người sinh năm Đinh, Thiên Đồng hóa Quyền, Thiên Cơ hóa Khoa, Cự Môn hóa Kị, dù phát tài cũng tất không bền, thường xung đột với người khác.

Mệnh cung ở Sửu, Mùi, vô chính diệu, đối cung là Thiên Đồng, Cự Môn. Mệnh vô chính diệu, luận cung xung chiếu. Sách viết: “Nhật Mão Nguyệt Hợi, an mệnh Mùi, thiềm cung chiết quế chi vinh”. Mệnh cung tại Mùi, đối cung Thiên Đồng, Cự Môn, người sinh năm Tân, Nhâm thượng cách, tiếp đến là người sinh năm Ất, tam hợp Nhật Nguyệt miếu địa, là cách “Minh châu xuất hải”, nếu được Tả Hữu Xương Khúc hội chiếu hay giáp mệnh, chủ đại phú đại quý.

Mệnh cung cư Sửu, xung chiếu Đồng Cự, Xương Khúc cư Mệnh cung, chủ người vinh hoa xuất thế, người sinh năm Bính, Mậu, Tân là thượng cách.

(St)

MỆNH THIÊN ĐỒNG TẠI TÍ, NGỌ

0
Thiên Đồng ở Tí, đồng cung với Thái Âm, là cách cục “Thủy trừng quế ngạc”, đàn ông tướng mạo tuấn tú, phong thái nhẹ nhàng, nho nhã, là mỹ nam kiểu thư sinh. Nữ nhân thì thanh tú, dịu dàng, xinh đẹp, là mỹ nữ điển hình.
Nam nữ đều rất yêu thích văn nghệ, nếu không gặp phải sát bại tinh: Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Tang Hổ Cô Quả thì đời sống tinh thần lạc quan, biết hưởng thụ, ưa sạch sẽ, có duyên sâu sắc với người khác phái. Ra ngoài thường được người khác phái giúp đỡ, khéo ăn nói, bụng dạ sâu xa. Hội nhiều cát tinh thủ chiếu, phú mà quý, Tả Hữu Xương Khúc hội chiếu, chắc chắn quý hiển, công thành danh toại. Người dương nam, âm nữ, âm dương thuận lý càng dễ thành công, sự nghiệp rất bền.
Người sinh năm Bính, Đinh, Kỷ, Quý là thượng cách. Người sinh năm Bính, Đinh thì phú quý trung lương, vì người sinh năm Bính mệnh cung Thiên Đồng hóa Lộc, cung Thìn, Thiên Cơ hóa Quyền, không bị Kị Kình Đà xung chiếu;
Người sinh năm Đinh, Lộc Tồn ở cung Ngọ xung chiếu, mệnh cung Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, cung Thìn thì Thiên Cơ hóa Khoa, hai mệnh cách trên đều có thể giữ các công việc quan trọng, là người trung thành, mệnh đại quý.
Người sinh năm Quý, Lộc Tồn cư Tí, Thái Âm hóa Khoa, Phụ Bật tương phùng, phú quý, nổi danh thiên hạ.
Nữ mệnh tính tình dịu dàng, khí chất bên ngoài tốt, cuộc sống vinh hoa, nên kết hôn muộn. Có một hai sát tinh ở tam phương tứ chính, đa phần là vợ hai, hoặc lấy người đã từng ly hôn. Hỏa, Linh ở mệnh hoặc Thiên Di lại là điềm bất cát.
Thiên Đồng cung với Thái Âm cư Ngọ, hai sao trên đều hãm địa, là mệnh phiêu bạt, nam nữ tình cảm đều phong phú, hay tưởng tượng, yếu đuối, nam mệnh không tốt cho vợ, nữ mệnh một đời tình cảm không thuận lợi, dễ là vợ hai.
Người sinh năm Giáp, Đinh, Kỷ, Quý hội cát tinh, tài quan song mỹ.
Người sinh năm Bính, Mậu, Kình Dương ở Ngọ cung, chủ sự nghiệp có thành tựu lớn, là quý cách “Mã đầu đới tiễn”, có thể trở thành tướng lĩnh trấn giữ biên ải, thường xa quê lập nghiệp, sự nghiệp gian nan nhưng sau có thành tựu, khổ tận cam lai, cuối cùng lên như diều gặp gió. Nếu như sát tinh quá nhiều thì phá cách; hội Hỏa, Linh, chủ hình thường đoản thọ, có tai nạn tù ngục.
Người không phải sinh năm Bính, Mậu mà nhiều sát tinh là người vất vả bôn ba, làm nghề thủ công, kỹ thuật để lập thân, thân thể gầy yếu hay ốm đau bệnh tật.
Mệnh cung ở Tí Ngọ, vô chính diệu, đối cung là Thiên Đồng, Thái Âm. Mệnh cung vô chính diệu, luận cung xung chiếu. Mệnh cung cư Ngọ xung chiếu Đồng Âm miếu vượng, là cách “Nhật Nguyệt tịnh minh”, người sinh năm Giáp, Đinh, Kỷ, Canh, Quý, Tân; hội Tả, Hữu, Xương, Khúc, phú quý. Mệnh cung cư Tí xung chiếu Đồng Âm lạc hãm, người sinh năm Đinh, Kỷ, Quý, Canh thuận lợi. Nữ mệnh, thường làm vợ lẽ.
(Nguồn: Tử Vi Đại Toàn)

 

DỤNG THẦN – LỤC THÂN PHÁT ĐỘNG

0

Dụng hào phát động tại cung trung,
Túng trị hưu tù diệc bất hung.
Cánh đắc sinh phù kiêm vượng tướng,
Quản giao tác sự vĩnh hanh thông.
(Trong quẻ Dụng thần phát động,
Nếu có hưu tù cũng không hung,
Nếu được sinh phù cùng vượng tướng,
Khiến công việc mãi được hanh thông.)

Phụ động đương đầu khắc Tử tôn,
Bệnh nhân vô dược chủ hôn trầm.
Nhân thân tử tức ứng nan đắc,
Mãi mại lao tâm lơi bất tồn.
Quan vọng hành nhân thư tín động,
Luận quan hạ trạng lý tiên phân.
Sĩ nhân khoa cử đăng kim bảng,
Thất vật đào vong yếu tố luân.
(Phụ hào động trước hết là khắc Tử tôn,
Xem bệnh thì không có thuốc chữa, chủ hôn mê
Hôn nhân và cầu con khó thành tựu,
Buôn bán vất vả mà chẳng có lợi.
Mong người đi xa thì có thư tín,
Về quan sự  trước hết phải phân luận định các lý,
Người đi thi thì có tên ở bảng vàng.
Xem về mất đồ vật và xem việc bỏ trốn cần nên luận rõ.)

Tử tôn phát động thương Quan quỷ.
Chiêm bệnh cầu y thân tiện thuyên,
Hành nhân mãi mại thân khang thái,
Hôn nhân hỉ mỹ thị tiền duyên
Sản phụ đương sinh tử dịch dưỡng
Từ tụng tư hoà bất đáo quan.
Yết quí cầu danh hưu tiện tiến,
Khuyến quân thủ phận thính hồ thiên.
(Tử tôn động thì khắc Quan quỷ,
Xem bệnh, mời thầy thuốc thì bệnh sẽ lành.
Xem người đi xa, buôn bán thì mạnh khoẻ thông suốt
Hôn nhân vui vẻ, tốt đẹp vốn có tiền duyên (nếu Nữ nhân xem thì bất lợi)
Xem sản phụ thì sinh con dễ nuôi,
Kiện tụng thì hoà khỏi phải lên quan.
Yết kiến quí nhân, cầu chức vị thì chớ tiến hành,
Khuyên bạn nên thủ phận, theo mệnh trời.)

Quan quỷ tòng lai khắc Huynh đệ
Hôn nhân vị tựu sinh nghi trệ.
Bênh khốn môn đình hoạ sùng lai
Canh chủng tàm tang giai bất lợi.
Xuất ngoại đào vong định kiến tai.
Từ tụng, quan phi hữu tù hệ
Mãi mại tài khinh đỗ bác thâu.
Thất vật nan tầm đa ám muội.
(Quan quỷ xưa nay khắc Huynh đệ,
Hôn nhân chưa thành nhiều cản trở,
Bệnh thì nguy mà hoạ đến nhà.
Trồng cày dâu tằm đều không lợi,
Đi xa, bỏ trốn gặp tai ương.
Kiện tụng, phạm việc quan khiến tù tội.
Buôn bán lợi ít mà đánh bạc tất thua
Mất vật khó tìm mà lắm nghi ngờ.)

Tài hào phát động khắc văn thư,
Ứng cử cầu danh tổng thị hư.
Tương bỏn kinh doanh vi đại cát
Thân nhân như ý lạc vô ngu.
Hành nhân tại ngoại thân tương động,
Sản phụ cầu thần dị thoát trừ
Thất vật tĩnh an gia vị xuất,
Bệnh nhân thương vị cánh thương tì.
(Tài hào động khắc Văn thư
Thi cử, cầu danh đều vô ích,
Đem vốn kinh doanh thì rất tốt,
Hôn nhân như ý chẳng gì lo.
Xem người đi xa thì sắp di chuyển,
Sản phụ cầu thần thì đễ qua khỏi,
Mất vật thì vật còn trong nhà chưa đem ra ngoài,
Xem bệnh thì đau dạ dày và đau tì.)

Huynh đệ giao trùng khắc liễu Tài,
Bệnh nhân nan dũ vị li tai.
Ứng cử đoạt tiêu vi kị khách,
Quan phi âm tặc hao tiền tài.
Nhược đới cát thần vi hưu trợ,
Xuất lộ hành nhân tiện vị lai
Hoá vật kinh thương tiêu chiết bổn
Mãi tì cầu thê sự bất hài.
(Huynh đệ động là khắc Thê tài,
Người bệnh khó lành chưa thoát khỏi tai hoạ.
Thi cử. cầu danh thì Huynh là kị khách,
Việc quan và trộm cướp khiến hao tiền.
Nếu có cát thần thì được giúp,
Người đi xa đã lên đường mà chưa đến,
Buôn bán kinh doanh hao tiền vốn,
Mua tì, kiếm vợ việc không vui.)
Trích: Tăng bổ Bốc phệ chính tông

Thông báo thay đổi group facebook và cảnh báo lừa đảo.

0
Hack face book

Thay mặt ban quản trị group Tử Vi Việt Nam chúng tôi cảm ơn các bạn hữu gần xa đã tin tưởng và hỗ trợ trong suốt thời gian qua.

Như mọi người cũng đã biết , Group Tử Vi Việt Nam cũ đã bị hack trong vài tháng gần đây, chúng tôi đã cố gắng làm việc để lấy lại nhưng không được. Vì vậy chúng tôi tuyên bố chính thức : Huỷ bỏ group cũ và chuyển sang group mới. Và kêu gọi mọi người rời bỏ group cũ và thông tin lại cho bạn bè rời xa khỏi group cũ để tránh những chuyện không hay xảy ra.

Hiện tại group cũ vẫn tiếp tục mượn danh của Tử Vi Việt Nam để hoạt động, mọi hành động của group cũ không phải là phát ngôn hay thông báo của Tử Vi Việt Nam . Ban quản trị TVVN không chịu bất kỳ trách nhiệm nào với các thông tin của các group đang lợi danh tiếng của TVVN, mọi thành viên ban quản trị cũng đã rời khỏi Group cũ

Mọi người hãy tham gia vào Group mới CHÍNH THỨC của TỬ VI VIỆT NAM để được hỗ trợ luận giải miễn phí và trao đổi học thuật : https://www.facebook.com/groups/diendantuvivietnam/

Group TỬ VI VIỆT NAM CŨ đã bị hack, Ban QT đó đều là những kẻ lừa đảo, khuyến cáo mọi người hãy cảnh giác, không tiếp tay cho bọn ăn cắp và rút lui khỏi Group đó để tránh những hậu quả đáng tiếc. Xin hãy chia sẻ thông tin này trong Cộng đồng để tránh bị bọn xấu lừa đảo.

Tiết Tiểu Mãn – Canh Tí Niên

Sự kiện đầu năm Tân Sửu : Đoán Hạn Nhận Quà.

0

Sự kiện đầu năm Tân Sửu : Đoán Hạn Nhận Quà.

Chào mừng thành viên thứ 100.000 của group #tuvivietnam. BQT group tổ chức cuộc thi “Đoán hạn nhận quà” với thể lệ như sau :
  • Mỗi ngày ban tổ chức sẽ đưa ra 01 lá số và yêu cầu đoán hạn vào năm được chỉ định.
  • Người chơi chỉ được đoán một lần trong 1 topic làm kết quả dự đoán.
  • Mỗi lần đoán đúng là được 5 điểm. Tối đa 50 điểm ( 10 lá số sẽ được đưa ra, 1-2 ngày sẽ ra một đề )
  • Sau 24h kể từ khi ra đề sẽ chốt sổ ban thư ký sẽ tổng hợp điểm ngay. Những dự đoán sau 24h sẽ không được tính . Kết quả sẽ công bố sau 48h
  • Người tham gia : Tất cả các thành viên của group. Có thể đoán toàn bộ 10 topic.
  • Có thể sự dụng bất kỳ môn thuật số nào (tử vi, tử bình, kỳ môn, lục nhâm , quẻ dịch ….) để tham gia cuộc chơi.
  • Khi xảy ra tranh chấp, quyết định của ban tổ chức là kết quả cuối cùng.
  • Khi số điểm bằng nhau người chơi sẽ tiếp tục đoán hạn để chọn ra người có số điểm cao hơn.
  • Thời gian bắt đầu : Ngày 19/02/2021 Tức ngày mùng 8 tết .

Phần thưởng :

    – Cơ cấu giải thưởng : 01 giải nhất, 01 giải nhì và 02 giải 3
    – Giải nhất : 3.000.000 vnd
    – Giải nhì : 2.200.000 vnd
    – Giải ba : 2 phần quà vật phẩm trị giá 1.000.000 vnd mỗi phần quà
   – Được vinh danh trên website và các group của TVVN và PTTL
Cảm ơn các nhà tài trợ :
– Công ty cổ phần ứng dụng công nghệ mới Orenji – anh Hoang Trung
– Thầy Đông Hải Vila Beach
– Thầy Nguyễn Ngọc Đô
BQT group vẫn tiếp tục kêu gọi tài trợ từ các cá nhân và tập thể để tạo ra sân chơi hữu ích và lành mạnh cho tất cả mọi người. Các thông tin tài trợ sẽ được tổng hợp và gửi chi tiết công khai, các hoạt động vinh danh nhà tài trợ diễn ra trong suốt sự kiện. Giải thưởng sẽ được mở rộng khi có thêm nhà tài trợ.
Xin kính chúc các thành viên một năm mới an khang thịnh vượng, tấn tài tấn lôc, vạn sự như ý.

Thông báo phát hành Lịch Vạn Sự – Lịch Thông Thư – Lịch Huyền Không Đại Quái.

0

Lịch Vạn Sự – Lịch Thông Thư – Lịch Huyền Không Đại Quái.

Để giúp công đồng và những người nghiên cứu có công cụ online mạnh mẽ. Chúng tôi tiếp tục phát hành bộ lịch online miễn phí đồ số nhất, lớn nhất và mang tính hàn lâm nhất cho tất cả mọi người. Có thể nói đây là nỗ lực không ngừng nghỉ của đội ngũ làm phần mềm trong suốt thời gian qua.

1- Ai có thể dùng phần mềm .

  • Tất cả mọi người từ Nam Phụ Lão Ấu đến Sỹ Nông Công Thương đều có thể dễ dàng sử dụng phần mềm.
  • Đen Bỏ Đỏ Dùng ” với những yếu tố được xem là “tốt – cát ” sẽ có màu đỏ để dễ dàng nhận biết. Những người không nghiên cứu vè Trạch Cát vẫn có thể lựa chọn theo màu sắc thì xác xuất ngày tốt rất cao

2 – Trình bày về phần mềm

  • Phần mềm được trình bày theo nhiều cấp độ khác nhau theo độ khó từ trên xuống dưới
  • Phần chia khu vực rõ ràng, rành mạch cho các những trường phái khác nhau.
  • Lựa chọn ngày trực tiếp trên lịch tháng mà không cần load lại trang web.
  • Hiển thị gọn đẹp trên tất cả các thiết bị di động và laptop.

3 – Nơi cung cấp phần mềm

  • Phần mềm được cung cấp miễn phí tại 2 website : #tuvivietnam#phongthuythanglong.
  • Tên của phần mềm là : Lịch Vạn Sự
  • Hoạt động trên các nền tảng web,

4 – Phần mềm có gì

  • Âm lịch/ Dương lịch
  • Lịch can chi
  • Hoàng đạo / Hắc đạo
  • 24 Tiết khí
  • Ngày Julius
  • Cát hung phương: Hỷ thần, Tài thần, Hạc Thần
  • Lục Nhâm Tẩu Mã
  • Nguyệt Tiên
  • Mặt trời mọc và lặn của 4 cực của đất nước
  • Thập nhị Trực
  • Nhị thập bát tú
  • Cát thần – Hung thần
  • Kim phù kinh
  • Đại Quái: năm tháng ngày giờ.
  • Đại Quái: Phương Vị và Mệnh Tạo
  • Đại Quái : Xuất Quái (Không Vong)
  • Đại Quái: Huyết Thống Quái
  • Cửu tinh năm tháng ngày giờ.
  • Cát hung của 12 giờ trong ngày
Trong suốt quá trình nghiên cứu , tìm tòi , tra cứu và lập trình có thể thiếu hoặc sai sót không đáng có, rất mong cộng đồng góp ý để đội ngũ lập trình có thể sửa đổi và cập nhật hoàn thiện.
Link truy cập trực tiếp :
Kính Đại Hàn – Canh Tí Niên
- Advertisement -

BÀI VIẾT KHÁC