25 C
Hanoi
Thứ Năm, 28 Tháng Ba, 2024
spot_img
Home Blog Page 2

Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Tài bạch

0

Nghiên cứu huyền Cơ Từ Vi Đẩu Số chẳng phải để thông thiên thấu địa, mà mục đích cuối cùng là giúp người ta hiểu được thế luận ra cá tính, tư tưởng, phương thức sống từ góc độ địa bàn và nhân bàn, bạn có thể biết được tình hình cát hung họa phúc có thể xảy ra trong thời gian nào, sau khi định được xu thế của cát hung vận vẫn nằm trong tay của chủ nhân mệnh bàn, vì định số là tương đối chứ không phải định số là tuyệt đối. Nếu thời điểm luận mệnh còn cách xa với sự kiện sẽ thành hiện thực, thì định số tồn tại một cách tương đối, không phải là xu thế tất định, không cách nào thay đổi. Những luận đoán còn chưa hình thành trong thực tế thì định số vẫn còn ở tương lai, cái “nhân” chưa được kích thích để phát ra phản ứng, thì chưa có cái “quả” của nó. Vì vậy mệnh lý học vừa là túc mệnh luận vừa không phải là túc mệnh luận. Nếu thực sự chuyện gì cũng đã được định sẵn thì mệnh lý học dùng để làm gì?

Nói chung, Hóa Lộc ở cung Tài bạch là chủ về thái độ xử sự của mệnh tạo có thể làm cho người khác cảm nhận được tình cảm nồng hậu của mệnh tạo, họ có sức quyến rũ rất đặc biệt, do đó dễ lọt vào mắt xanh của người khác giới, họ cũng có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn người bình thường, nhưng khó giữ được, vì thái độ tiêu xài tiền của mệnh tạo rất khẳng khái và rộng rãi, tiền bạc ra vào nhiều mà nhanh, nhưng chuyện tình cảm tụ tán cũng nhiều mà nhanh như vậy!

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp: Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Tài bạch như sau:

  1. Hóa Lộc có hàm ý là “nhiều”, “cầu được nhiều”. Lúc Hóa Lộc ở cung Tài bạch, ảnh hưởng đầu tiên chính là bản thân rất có hứng thú kiếm tiền, trạng thái tâm lí kì vọng vào việc kiếm tiền thể hiện rõ rệt hơn người bình thường, học sẽ suy nghĩ tính toán nhiều phương thức kiếm tiền và con đường kiếm tiền khác nhau, và cũng biến nó thành hành động thực tiễn, những hành động thực tiễn có mạnh mẽ hay không thi phải xem tình hình của sao hóa kị.
  2. Lúc Hóa Lộc ở cung Tài bạch là chủ về mệnh tạo có nhiều cơ hội kiếm tiền, nhất là trường hợp các sao hóa miếu vượng, lượng tiền chảy vào theo đó mà tăng lên mạnh lên, tốc độ kiếm tiền cũng theo đó mà tăng lên nhanh hơn, cho nên có quan điểm cho rằng Hóa Lộc ở cung Tài bạch là giàu có.
  3. Thực ra Hóa Lộc ờ cung Tài bạch là chủ về trong cuộc đời từng có nhiều thời cơ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng không nhất định sẽ giàu có, vì đây chỉ là điều kiện có, mà chưa phải là điều kiện đủ. Muốn biết có giàu có hay không, trước tiên phải xem cung nào có sao Hóa Kị [năm sinh] tọa thủ, tính chất “thu vào” của Hóa Kị có được thích đáng hay không, nếu nó ở vị trí không thích đáng, thì động tác kiếm tiền, luôn luôn có cơ hội tiến vào.
  4. Kế tiếp phải xem sao Hóa Lộc. Vì sao Hóa Lộc chủ về “phong phú”, “nhiều”, nhưng còn chủ về “tình”. Trường hợp bản thân có sao Hóa Lộc có thành phần “tình” quá lớn hoặc toàn bộ mệnh cục chủ về tình cảm quá phong phú, thì Hóa Lộc ở cung Tài bạch chủ về “tình” chứ không về “lợi”, tuy vẫn có cách suy nghĩ của người giỏi kiếm tiền và có cơ hội kiếm tiền, nhưng lượng tiền vào giảm bớt. Nếu Thiên Đồng hay Thiên Lương là sao Hóa Lộc ở cung Tài bạch, thì Hóa Lộc này chỉ hướng luận về tiền bạc không quá lớn, nhưng do chịu tác động của Hóa Lộc, nên bất luận mệnh tạo tự kinh doanh, hay đi làm lương, thì kiếm tiền vẫn dễ hơn người bình thường.
  5. Cung Tài bạch còn là cửa ngõ giao dịch, do đó không chỉ có nhiều con đường tiến vào, nhiều con đường kiếm tiền, mà con đường tiêu xài tiền cũng rất nhiều, mà còn tiêu xài tiền với tốc độ rất nhanh.
  6. Như đã thuật ở trước, vì Hóa Lộc chủ về “nhiều”, nên có nhiều phương thức kiếm tiền, ứng nghiệm trong thực tế, là chủ về dễ có nhiều nghề khác, có tố chất chuyên nghiệp, và có nhiều cách kiếm tiền. Nếu có tứ hóa, là chủ về làm thêm bán thời gian, kiêm nhiều nghề.
  7. Vì cung Tài bạch còn là cung vị biểu hiện, cho nên Hóa Lộc tượng trưng cho “có tình nghĩa”, “đa tình”, biểu hiện ở hành vi ngôn ngữ và thái độ đều làm cho người ta cảm thấy mệnh tạo có tình người, mà cách xử sự cũng dùng tình cảm rất tế nhị.
  8. Vì Hóa Lộc ở cung Tài bạch, nên cũng có nghĩa là biểu hiện tính chất Hóa Lộc (vì cung Tài bạch là cung vị chủ về biểu hiện), biểu thị “Hóa Lộc” tức là biểu hiện có tiền của, nên dù mệnh tạo không có tiền cũng sẽ biểu hiện là người có tiền. Nếu vị trí của “Hóa kị” và “Hóa lộc” không thích đáng, có lúc phải gượng chống đỡ, khiến người ta hiểu lầm mệnh tạo là người rất có tiền, thực ra chỉ là người rất biết xài tiền mà thôi.
  9. Tổng hợp các điều (5), (7), (8), là chủ về mệnh tạo đối đãi với bạn bè rất khẳng khái và rộng rãi.
  10. Vì có thái độ đầy tình cảm, lúc dùng lời nói cũng tràn đầy tình cảm, khiến người ta cảm nhận được lòng chân thành của họ, kèm với cách dùng tiền thoải mái và rộng rãi, nên rất thu hút sự chú ý của người khác giới.
  11. Cung Tài bạch còn là cung vị Phu thê của cung Phu thê, nên hình ảnh của mệnh tạo trong cách nhìn của người phối ngẫu, trường hợp có Hóa Lộc, nếu so sánh thì người phối ngẫu sẽ cho rằng mệnh tao đa tình hơn họ, do đó dễ bị người phối ngẫu hiểu lầm là đa tình đào hoa.
  12. Một khi bước ra xã hội đi làm kiếm tiền, trong một khoảng thời gian, quan niệm về tình cảm của mệnh tạo sẽ thay đổi, vì tâm tính dễ xúc động cũng là tượng trưng cho sự tụ tán li hợp rất nhanh, rất gấp, người ngoài sẽ cho rằng họ là người không chuyên nhất trong tình cảm.

Hóa Lộc ở cung Tài bạch, hiện tượng phát sinh của Hóa Lộc quá nửa không thoát ra khỏi vấn đề tiền bạc. Bất luận là theo đuổi tình yêu, hay thái độ đầy cảm tính với bạn bè, đều phải khiến mệnh tạo chi ra tiền bạc. Nếu thảo luận chi tiết, thì các sao Hóa Lộc như Vũ Khúc, Thái Âm, Liêm Trinh, Tham Lang, là có biểu hiện mưu lợi tài lợi về tiền bạc rất rõ dệt. Còn thái dương, Cự Môn thường thường không như người bình thường, cất giấu rất tốt, khiến cho người ta không đoán ra được, còn phá quân Hóa Lộc, thì phần lớn phải xem Phá Quân nằm ở cung vị nào mà định, hơn nữa còn tùy theo tính mạo hiểm, tâm tình thoải mái, tâm trạng được như ý của nó. Do đó luận đoán trường hợp Hóa Lộc ở cung Tài bạch tuy là có một số ý tượng cơ bản, nhưng còn phải xem xét hình cung Tài bạch phi hóa.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Tử nữ

0

Hóa Lộc đại biểu cho dục vọng, mong cầu, lúc loại dục vọng này ở cung Tử nữ (là lục thân) thì sẽ xảy ra chuyện gì? Cung Tử nữ ở ngoài ý nghĩa cơ bản là đại biểu cho con cái, còn chủ quan hệ tình yêu; nhưng ở cung Tử nữ là chủ về xảy ra quan hệ nam nữ thực tế, chứ không phải quan hệ tình yêu kiểu Platon; đồng thời cung Tử nữ cũng tượng trưng cho sự hợp tác, tiêu xài.

Nói chung, Hóa Lộc ở cung Tử nữ là chủ về mệnh tạo cảm thấy hứng thú và vui vẻ trong chuyện tình cảm, đối với chuyện phòng the họ rất sôi nổi nhiệt tình! Ngoài ra, rất trân quý con cái là thiên tính của họ, họ sẽ mang toàn bộ tình yêu thương trao cho con cái; tụy mệnh tạo rất yêu thương gia đình; nhưng sức lôi cuốn mệnh tạo ra bên ngoài, đi xa, xuất ngoại rất lớn. Mệnh tạo rất thích giao du, cũng dễ chìm đắm trong thế giới tình cảm!

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ờ cung Tử nữ như sau:

  1. Hóa Lộc ở cung Tử tức, là ở cung lục thân, chủ về con cái khá tốt nhưng do vị trí của Hóa Lộc và Hóa Kị không thích đáng, nên phương thức nuôi dạy con cái quá nuông chiều, hơi giống như “phụng sự” con cái.
  2. Vì mệnh tạo mang những điều mình trông mong đặt vào cung này, nên họ kì vọng quá nhiều ở con cái, mong muốn con cái thành rồng phượng. Hóa Lộc ở cung Tử tức, chủ về con cái đa tình hơn mệnh tạo, hoặc con cái rất có duyên với những người xung quanh. Còn về con cái có thành tài hay không cần phải xem hiện tượng cung Tử tức phi hóa mà định.
  3. Một hàm nghĩa của cung Hóa Lộc là “nhiều”, vì vậy Hóa Lộc ở cung Tử tức là chủ về muốn sinh con cái (Hóa Lộc là kỳ vọng, hy vọng, mong muốn) và nhiều con
  4. Huyền nghĩa của cung Tử nữ là chủ về đào hoa nam nữ thân mật, nên người Hóa Lộc ở cung Tử nữ phần nhiều đều được hưởng thụ niềm vui và sự trói buộc mềm mại của tình yêu, vui vẻ chìm đắm trong tình cảm lãng mạn.
  5. Theo nguyên tắc “kép”, cung Tử nữ còn chủ về đối tượng cũng là người được hưởng thụ, còn đa tình hơn mệnh tạo, có thể “người ấy” có kinh nghiệm phong phú trong tình trường.
  6. Do Hóa Lộc [năm sinh] ờ cung Tử nữ, nên điều mong cầu là con cái, tình yêu, vì lú còn trẻ dễ gặp vận đào hoa thân mật  mà còn có nhiều đối tượng yêu đương.
  7. Do tuyêh “từ điền” là tuyến dẫn động vận đào hoa, có Hóa Lộc là chủ về trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn đêu dễ xảy ra tình trạng không chuyên nhất trong hôn nhân, hay theo đuổi những tình yêu gặp ở bên ngoài, sau khi kết hôn cơ hội đào hoa cũng nhiều hơn người bình thường.
  8. Cũng do Hóa Lộc “tha cung”, dễ bị Hóa Kị phá, gặp Hóa Quyền thúc đẩy làm thay đổi, đây là lúc vận đào hoa bị ảnh hưởng mà mất dần, khiến cho đoạn tình cảm đào hoa này không duy trì được lâu
  9. Cung Tử nữ còn chủ về việc tiêu xài, lúc các sao trong cung quá mạnh, thì tình trạng tiêu sài, chi xuất sẽ nhiều hơn bình thường một cách rõ rệt. Nhất là trường hợp có Hóa Lộc ở cung Tử nữ, mệnh tạo sẽ rất dễ vì tính bốc đồng nhất thời mà tiêu xài tiền một cách liều mạng.
  10. Do tuyến “Tử Điền” còn đại biểu cho sự vui vẻ, có Hóa Lộc là chủ về giao tế thù tạc nhiều, tiền tiêu xài trong lúc thù tạc cũng nhiều, đồng thời cơ hội gặp dịp vui chơi cũng tương đối cao.
  11. Vì cung Tử tức là cung vị hợp tác sự nghiệp, do ảnh hưởng của hưởng của hai yếu tố (9) và (10), mệnh tạo thường tích cực đi tìm cơ hội hợp tác ở bên ngoài, đồng thời cũng tốn khá nhiều thời gian trong chuyện thù tạc, mà việc hợp tác sự nghiệp cũng đa dạng. Nhưng rốt cuộc hợp tác có thành công hay không thì phải xem tình hình ở cung tam hợp của cung Tử nữ, và hiện tượng cung Tử nữ phi hóa, để luận giải.
  12. Hóa Lộc ở cung Tử tức chiếu về Điền trạch là chủ về mệnh tạo rất quan tâm gia đình, nhưng lại thu xếp không hợp lý, đây chỉ là quan tâm bằng tình cảm, chứ không có hành động thực tế nào.
  13. Hóa Lộc vốn chủ về “nhiều”, nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, tự Hóa Kị, hoặc Lộc tồn, là chủ về trong lòng thì muốn có nhiều, nhưng cảnh gặp gỡ tình cảm trong thực tế lại rất ít.

Trong Tử Vi Đẩu số, muốn luận giải một sự kiện nào đó có thành lập hay không, thường thường phải dựa vào tác động của nhiều tuyến cung vị mới được, cung Tử tức có Hóa Lộc thường là tuyến đầu tiên được dùng để luận đoán mối quan hệ đào hoa. Tuy không thể đoán định trực tiếp cung tử có Hóa Lộc ắt sẽ liên quan đến đào hoa, nhưng sao Hóa Lộc là Liêm Trinh, Tham Lang, Thiên Đồng,v.v…, là các sao ngầm chứa sắc thái đòa hoa, thì phần nhiều sẽ xẩy ra vận đào hoa theo khuynh hướng của sao đó.

Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Phu thê

0

“Hỏi thế gian tình là vật gì, mà bao người cứ phải hẹn thề sống chết bên nhau?”, đây là câu nổi tiếng trong bộ Thân Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc các bạn đều biết. Đến với mệnh lý học, ngoại trừ thảo luận về công danh lợi lộc, vấn đề thường được hỏi nhất chính là chuyện tình duyên, hôn nhân. Trong Tử Vi Đẩu Số, Hóa Lộc thường là công cụ quan trọng dùng để luận giải tình cảm, duyên phận. Đặc biệt là người có Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Phu thê nói chung đối với tình yêu thường là chân tình yêu rất sâu đậm, đồng thời vì tình yêu mà sẽ bất chấp tất cả, nhưng chính vì vậy mà họ rất mẫn cảm đối với tình yêu, cũng dễ thành nhân vật chính trong bi kịch tình yêu.

Nói chung, Hóa Lộc ở cung Phu thê là chủ về mong ước, theo đuổi một cuộc sống hôn nhân, vì vậy mệnh tạo sẽ có tình yêu trai gái khá sớm hoặc có hiện tượng kết hôn sớm theo đuổi hạnh phúc, cho nên mệnh tạo rất thương yêu và trân quý người yêu hay người hôn phối, quá nhiều tình cảm sâu đậm, nên tình cảm hôn nhân của mệnh tạo khó chuyên nhất cho đến cùng, bất luận là chủ động hay bị động, đều có thể xảy ra tình trạng “một người trước, một người sau”, “một người công khai, một người bí mật”, hoặc “tay trái choàng, tay phải ôm”, đây không phải là sai lâm của mệnh tạo, mà là vì chữ “tình” mà tự chuốc họa!

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bàn của trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Phu thê như sau:

  • Cung Phu thê là cung lục thân, có Hóa Lộc [năm sinh] là chủ về người phối ngẫu ắt sẽ đa tình, hoặc có duyên với người khác giới hơn mệnh tạo.
  • Hóa Lộc là ký vọng của mệnh tạo, mệnh tạo mang “Hóa Lộc” đặt ở cung Phu thê, là bản thân có là bản thân có khát vọng tình yêu, rất có duyên với người khác giới, còn chủ về rất mong muốn có cuộc sống hai người, học rất giàu cảm xúc và có cảm thụ khá cao đối với tình cảm, họ sẽ vì tình yêu mà kết hôn.
  • Tổng hợp hai điều (1) và (2) , là chủ mệnh tạo sẽ nỗ lực theo đuổi tình cảm, mong muốn có cuộc hôn nhân, mệnh tạo không đa tình bằng đối tượng, còn chủ về có đối tượng đáp ứng tình cảm vì vậy có thể định luận sẽ có kết hôn.
  • Hóa Lộc còn chủ về “nhiều” chủ về tình cảm phong phú, còn chủ về có nhiều đối tượng tình yêu, giả sử tổ hợp sao ở cung Phúc đức có khí đào hoa thì mệnh tạo có khuynh hướng đa hộ.
  • Vì Hóa Lộc ở cung phu/thê, bất luận đại vận đi thuận hay nghịch thì cung mệnh của đại vận hay cung Tài bạch của đại vận cũng đều tiếp nhận Hóa Lộc [năm sinh] ở đại vận thứ ba, Hóa Lộc [năm sinh] phát động ở cung Phu thê của thiên bàn đây thường là hiện tượng kết hôn quá sớm.
  • Nhưng vì Hóa Lộc ở cung Phu thê chẳng, phải là “ngã cung”, nên khi bị Hóa Kị đến xung hay có Hóa Kị nhập cung, sẽ dễ bị trường hợp song trùng đả kích, cho nên người có kết cấu dạng này dễ có câu chuyện tình oanh oanh liệt liệt, đầy nụ cười và nước mắt, và cũng sẽ dễ li hôn.
  • Vì Hóa Lộc còn chủ về lí tưởng, ảo tưởng, cho nên họ sẽ lí tưởng hoá tình nhân, lí tưởng hóa tình yêu của hai người quá độ, theo đuổi tình yêu kiểu lãng mạn, nên khi quay về đối mặt với hiện thực sẽ có cảm giác hụt hẫng quá nặng.
  • Hóa Lộc năm sinh chủ về hy vọng của đời người, cho nên cũng chủ về có kì vọng rất cao đối với người phối ngẫu, nhưng vì vị trí của Hóa Lộc và Hóa Kị không thích đáng, nên khi mang cuộc sống mình kì thác ở người phối ngẫu, thường họ sẽ thất vọng.
  • Hóa Lộc chủ về tình cảm, cho nên sẽ rất trân quý người phối ngẫu, nhưng không nhất định người phối ngẫu sẽ đối xử tốt với mệnh tạo, cũng không có nghĩa là sẽ không ly hôn. Tổ hợp sao ở cung Phúc đức phải đủ cát thì mới có thể “đầu giường cãi nhau, cuối giường hòa hợp”
  • Cung phu thê là cung vị khí số của cung Thiên di không những có nhiều cơ hội xuất ngoại, đồng thời còn chủ về cảnh ngộ gặp phải ở bên ngoài rất đa dạng, hơn nữa lúc ở bên ngoài, cách suy nghĩa của người này rất phong phú.
  • Cung Phu thê cũng là cung vị biểu hiện của cung phúc đức, thường người có Hóa Lộc ở cung Phu thê học có cách tiêu khiển, giải trí rất tinh tế, có hứng thú và sở thích đa dạng, mà những sở thích này thường phải tiêu xài không ít tiền.
  • Vì bản thân có Hóa Lộc [năm sinh] có những lực tác động kể trên, nên lúc cung Phu thê lại tự hóa, thì học lại càng ra sức truy tìm tình yêu, thường sẽ có nhiều chuyện tình.

Người ta thường nói “say rồi mới biết rượu nặng, say rồi mới biết là tình trọng”, có thể nói phu thê có Hóa Lộc [năm sinh] rất có tư cách nhưng cũng cần phải xem sao nào Hóa Lộc và nằm ở cung vị nào. Ví dụ như Vũ Khúc Hóa Lộc nhập cung Phu thê, thì rất có thể chỉ có thể giới hoan lạc trong nội tâm mà không hành động thực thế, nếu là Liêm Trinh Hóa Lộc, một khi tình cảm đã phát ra thì không thể sửa chữa được nữa. Cung vị cũng sẽ ảnh hưởng mạnh yếu đối với Hóa Lộc.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Huynh đệ

0

Những hiện tượng do cung có tứ hóa [năm sinh] sinh ra, bản thân mệnh tạo sẽ nhận biết rãt rõ ràng, nhưng thường thường tứ hóa ở cung chủ về biểu hiện của mệnh tạo hay ở cung lục thân mới làm cho người khác nhận biết được. Do đó tứ hóa ở các cung như Tật ách, Quan lộc, Điền trạch, Phúc đức, thường thường cũng giống như uống nước nóng, lạnh người uống tự biết, còn tứ hóa xuất hiện ở cung khác, dễ sinh ra hiện tượng cụ thể dễ nhận biết.

Nói chung, Hóa Lộc ờ cung Huynh đệ thì “giàu có”, “tiền bạc dồi dào” là thuộc tính của mệnh tạo, tuy đa tình không phải là bản tính, nhưng chưa đến 20 tuổi, mệnh tạo có thể đã rơi vào thế giới tình cảm nam nữ hoặc hôn nhân, có thể đây là do di truyền từ song thân theo lí thuyết, lúc còn rất trẻ, mệnh tạo đã từng trải qua một sự kiện phong lưu rồi triền miên xót xa, ngậm ngùi trong lòng.

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở cung Huynh đệ như sau:

(1) Ý nghĩa cơ bản nhất của cung Huynh đệ trong mệnh bàn là chủ về tình hình anh chị em. Trước đã nói, hàm ý của Hóa Lộc là có nhiều anh em, nhưng ngày nay vì ảnh hưởng của quan niệm hạn chế sinh đẻ, nên ít thấy hiện tượng có nhiều anh em, nhưng nhất định có anh, chị, em.

(2) Lúc thảo luận về cung lục thân, lấy nhân vật để giải thích, cách luận đoán là so sánh và quy chiếu về cung mệnh, cho nên gặp trường hợp Hóa Lộc xuất hiện ở cung huynh để (lục thân) tuy không thấy anh em có tiền hơn mệnh tạo (Hóa Lộc không nhất định là có tiền của), nhưng có thể đoán là đa tình hơn mệnh tạo.

(3) Cung Huynh đệ còn là cung vị Điền trạch của cung Tài bạch, nếu lấy cung Tài bạch làm cửa ra vào tiền bạc, thì Huynh đệ là đại biểu cho số tiền đang có. Hóa Lộc có hàm nghĩa là “nhiều”, lúc đang xem về tiền của, là chủ về có nhiều tiền của.

(4) Tổng hợp điều (2) và (3), thông thường chủ về tình cảm giữa mệnh tạo và anh em khá tốt, còn có qua lại về tiền bạc.

(5) Hóa Lộc ở cung Huynh đệ, bất luận là đại vận đi thuận hay đi nghịch, lúc vận đến đại vận thứ hai, trường hợp thứ nhất do cung mệnh của đại vận tiếp nhận Hóa Lộc  [năm sinh], trường hợp thứ hai là do cung Phu thê của đại vận tiếp nhận Hóa Lộc [năm sinh] cả hai đều chủ về dễ xảy ra sự kiện tình cảm, đồng thời Hóa Lộc ở giữa cung Phu thê và cung Mệnh, nên giữa hai người sẽ rất lãng mạn và hạnh phúc vui vẻ, tâm trạng xung động muốn kết hôn, vì vậy bất luận là đi thuận hay đi nghịch đều khiến cho người này dễ kết hôn sớm.

(6) Cung Huynh đệ còn là cung vị khí số của cung Tật ách, là chủ về thể chất không khỏe mạnh như vẻ bề ngoài (vì Hóa Lộc ở “tha cung” sẽ bị Hóa Kị xung phá), nên nguy cơ mắc bệnh không nhỏ; còn vì tác dụng của Hóa Lộc mà dùng nhiều cách trị liệu (cung Huynh đệ còn là cung vị biểu hiện của cung Điền trạch), chủ về sẽ thử nhiều cách trị liệu khác nhau (Đông y, Tây y, thậm chí liệu pháp kinh nghiệm dân gian).

(7) Là cung vị biểu hiện của cung Điền Trạch, là chủ về động sản của mệnh tạo có giá trị không nhỏ, hoàn cảnh nhà ở trang hoàng rất tinh xảo và sang trọng.

(8) Vị trí của cung Huynh đệ là ở giữa cung Mệnh và cung Phu thê, là tượng trưng cho sự trò chuyện trao đổi giữa vợ chồng, cũng là cầu nối thành lập mối quan hệ của hai người. Vì vậy, Hóa Lộc ở đây là ý tượng, hai người trò chuyện trao đổi với nhau rất tốt đẹp, còn có chung tài sản.

(9) Cung Huynh đệ là cung vị Phu thê của cung Phụ mẫu, người xưa luận lấy nam làm chủ, lấy nữ là người phối ngẫu, do đó lấy cung Huynh đệ để luận về mẹ, vì đại biểu cho mẹ, nên trường hợp có Hóa Lộc là chủ về có thể có nhiều mẹ.

(10) Cung Huynh đệ còn là cung vị Phụ mẫu của người phối ngẫu, cho nên cũng tượng trưng cho nhà vợ (hay nhà chồng), nên cũng chủ về thái độ của họ đối với mệnh tạo khá tốt, tất quan tâm mệnh tạo.

Trường hợp Hóa Lộc ở cung Huynh đệ, vì cung Huynh đệ là cung vị Điền trạch, nên chủ về vợ chồng cùng sở hữu tài sản; rõ ràng có ý tượng chủ về tiền bạc, vì vậy về tiên thiên, mệnh tạo Huynh đệ có các sao như Vũ Khúc, Thái Âm, Liêm Trinh, Thiên Phủ, v.v… vì họ nhạy bén hơn người khác trong việc đánh hơi thị trường, và có quan niệm cẩn thận trong việc quản lí tiền bạc, nên thông thường sẽ nhờ đầu tư vững chắc mà tích lũy được một gia sản to lớn. Tóm lại, nguyên tắc luận đoán tác dụng của Hóa Lộc là phải phối hợp với tính chất của sao Hóa và các sao khác trong cung, cùng với hoàn cảnh của cung vị (địa chi). Phân tích tổng hợp như vậy mới có thể biết rõ ý tượng của tứ hóa chủ về sự kiện lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Hóa Lộc [Năm sinh] ở cung Mệnh

0

Hóa Lộc ở cung Mệnh: “Tình” và “dục” là suối nguồn của cuộc đời mệnh tạo, vì vậy họ là người đa tình, đầy cảm tính, lạc quan, nhiệt tình, giàu sức tường tượng; trong cuộc sống thường ngày phần nhiều đều có biểu hiện bao dung và đầy tình người. Vì đa tình, nên tiếp xúc chuyện tình cảm khá sớm, nhưng giàu tình cảm mà thiếu lí tính, sớm trưởng thành khiến mệnh tạo giống như đóa hoa nở sớm, trên con đường tình hay cuộc sống hôn nhân, rất có thể sẽ gặp nhiêu trắc trở điêu linh! Nhưng người cung mệnh ở Thìn hay Tuất, yêu oán tình sầu lúc thanh xuân thường đều ẩn giấu trong lòng. Dưới đậy xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở cung mệnh như sau:

(1) Do là tượng trưng của sự bắt đầu, nên cũng biểu thị người này có nguyện vọng, ý dục, và hy vọng của mệnh tạo là có thể “thu vào” được, cho nên trường hợp Hóa Lộc ở cung mệnh phần nhiều là thiên nặng “chủ nghĩa, lợi kỷ”, chủ quan.

(2) Bởi vì Hóa Lộc là tình trạng lòng ham muốn khơi động, cho nên cũng biểu thị về dục tình. Người cung mệnh có Hóa Lộc, đối với nhân tình thế thái hoặc lúc gặp chuyện cách suy nghĩ cách nhìn của họ đều đứng từ góc độ cảm tính, cho nên sẽ khiến cho người ta có cảm giác người này giàu tình cảm, đầy tình người.

(3) Hóa Lộc ở cung mệnh, chẳng phải chủ về tiền bạc, mà cần phải xem xét tính chất của các sao khác trong cung để định tính chất, cho nên cũng không nhất định đây là người có tiền. Trái lại, nếu cung Huynh đệ hay cung Điền trạch thấy Hóa Lộc [năm sinh] thì rõ ràng là có lợi về tiền bạc.

(4) Vì bản thân Hóa Lộc có ý nghĩa là đa cầu, nên cũng chủ về nhiều dục vọng. Vì vậy phần nhiều sễ có tính đa tình và không chuyên nhất, thiếu lí trí, thiếu thân trọng, xử sự về tình cảm, cũng chủ về không chuyên tâm học hành.

(5) Về cá tính, họ thường là người lạc quan, dễ hòa đồng, khi mộng tưởng nào đó bị đổ vỡ họ sẽ tạo ra mộng tưởng mới, có lúc cũng lạc quan quá độ, ham muốn tùy tiện, thay đổi bất thường. Nhưng nếu Hóa Lộc và Hóa Kị [năm sinh] đều nhập “ngã cung”, thì họ sẽ nỗ lực thực hiện mộng tường cùa mình, cơ hội thành công cũng nhiều.

(6) Vì Hóa Lộc có hàm ý là “nhiều”, cho nên trong cuộc sống họ có nhiều tâm trạng khác nhau, muốn gặp và muốn biết rất nhiều chuyện, rất muốn bàn thân thành công, nhưng dễ bị tình trạng học nhiều mà thiếu tinh.

(7) Do thường nhìn sự vật từ góc độ cảm tính, nên họ thích được người khác xu nịnh, rất thích được người ta nâng niu, chiều chuộng.

(8) Họ có sự cảm thụ trong tình yêu khá cao, phần nhiều đều bước vào con đường tình quá sớm. Nhưng vì các đại vận sẽ lại khơi động Hóa Lộc, nên con đường tình thường chóng nở chóng tàn, và cùng đó là tình yêu đơn phương.

(9) Đối với vợ chồng, cung mệnh là cung vị Phúc đức của cung Phu thê, Hóa Lộc ở cung mệnh là chủ về sau khi kết hôn, cách xử sự với nhau khá tốt; nhưng cũng vì Hóa Lộc ờ cung vị Phúc đức của cung Phu thê, nên người phối ngẫu cũng dễ có “tâm viên ý mã”.

(10) Bên trái và bên phải của cung Mệnh là cung Phụ mẫu và cung Huynh đệ, có thể luận đây là cầu nối giữa cha mẹ và anh em. Người có Hóa Lộc ở cung mệnh, phần nhiều đều có tình cảm tốt đẹp giữa những người trong gia đình.

(11) Đối với con cái, cung mệnh là cung vị Điền trạch của cung Tử nữ, cung mệnh có Hóa Lộc [năm sinh] là chủ về con cái hướng về gia đình, vui vẻ duy trì sự hòa hợp trong gia đình.

Trên là nhưng luận giải cơ bàn về trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở cung mệnh, nhưng biết sao nào Hóa Lộc sẽ biết rõ hơn về xu hướng của Hóa Lộc. Ví dụ như Vũ Khúc Hóa Lộc, vì là sao thuộc tính kim, khí “kim” cùa Hóa Lộc có tính “thu vào”, thường thường có tình mà cũng giàu cảm tính, nhưng vì quá ư “thu vào” nên không cách nào biểu đạt thoải mái những điều muốn nói người ngoài sẽ khó đoán được là họ muốn gì. Vì vậy Vũ Khúc Hóa Lộc thường có hướng nỗ lực trái ngược với phương cách kiếm tiền, hơn nữa, Vũ Khúc là sao tiền tài, có cơ hội thành tựu về tiền bạc nhiều hơn các sao Hóa Lộc khác, đồng thời vì khí “kim” thịnh nên khó lộ ra, nên ngoài da có thể lốm đốm nhiều hơn người khác. Nếu là Thiên Lương Hóa Lộc vì Thiên lương thuộc thổ, “khí thổ” làm vượng thịnh “khí kim” của Hóa Lộc, nên sẽ bộc lộ trí tuệ và năng lực để tồn tại. Vì vậy người Thiên Lương có Hóa Lộc ở cung mệnh, sau khi tiêu hóa kiến thức đã học được, phần nhiều học đều có năng lực mang sở học sở kiến của bản thân ra phát triển và thể hiện tốt hơn gấp bội, họ còn có khẩu tài mang kinh nghiệm cùa người khác nói thành của mình. Nhưng, nếu Thiên Đồng Hóa Lộc bị ảnh hưởng của các sao chủ về tâm trạng, vốn chủ về trong tình cảm dễ có sự thay đổi tăng sức tưởng tượng và phạm vi tung hoành của Hóa Lộc sẽ bị giảm bớt tác dụng. Điều này cho thấy, tinh diệu Hóa Lộc khác nhau, sẽ làm cho Hóa Lộc có phạm vi tác dụng khác nhau; ngoài ra, yếu tố cung vị (địa chi), cũng ảnh hưởng đấn tác dụng của tinh diệu Hóa Lộc.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Ý tượng căn bản của Hóa Kị

0

1. Thùy tượng của Hóa Kị:

Hóa Kị đại biểu cho sự kết thúc hay kết quả của sự việc, kết toán toàn bộ. Hóa Kị chủ về mọi sự phát triển đều đầy “biến số” và rơi vào tình trạng bị bắt buộc, không còn cách nào khác, bất luận bạn có vừa ý, thỏa mãn hay không. Hóa Kị là cần phải tiếp nhận cái “kết quả” tất nhiên trong cuộc sống. Nó đại biểu cho sự kết thúc và thu chứa, giống như mùa đông, cần phải dự trữ vật dụng để chờ năm mới đến. Vì vậy, Hóa Kị là cuộc sống không thuận lợi toại ý, biến động và thị phi, đầy sóng gió trắc trở bất ngờ; nó cũng chủ về tài vận không được tốt, tiền bạc dễ thiếu hụt, khó giữ tài vật, kiếm tiên khá lao tâm lao lực, thu nhập ít hơn chi xuất. Đương nhiên, cần phải xem sao nào hóa và nó ở cung nào, để tính toán sức ảnh hưởng của nó lớn hay nhỏ.

Tóm tắt ý tượng cơ bản của Hóa Kị như sau:

– Chung kết của dục vọng, mắc nợ tình tiền…, thị phi rắc rối, bối rối, lúng túng, khó xử, tán loạn.

– Tiêu cực, lui về phòng thủ, thu chứa, phá hoại, tính toán so đo, chịu thiệt.

– Hư nhược, tinh thần sa sút, bất an, tiều tụy.

– Hoảng loạn, tùy tiện, tâm trạng trào dâng, lửa tình hừng hực, dính mắc một cách thiếu lý tính.

2. Hóa kị tinh giải:

Ngũ hành của Hóa Kị thuộc thủy, là kết thúc, kết cục. Nếu nói Hóa Lộc là “nhân”, thì Hóa Kị là “quả”; nhưng “nhân” và “quả” ở đây không liên quan “nhân quả nghiệp báo” của các nhà tôn giáo. Hầu như các nhà nghiên cứu Đẩu Số đều xem chữ “Kị” trong “Hóa Kị” là “điểm bất tường”, và dùng quan niệm này để luận giải. Trên thực tế, không phải tất cả “Hóa Kị” thực sự là “rất Kị”. Đương nhiên, khi nghiên cứu hiện tượng Hóa Kị chúng ta sẽ phát giác “luận định nhất thời” trên mệnh bàn, có kết quả tốt chỉ có 1/8 cơ hội, cho nên người ta sợ gặp Hóa Kị là có lí do. Nhưng tuyệt đại đa số lại không biết 1/8 “kết quả tốt” đó nằm ở đâu.

Phàm là nghi kị, tự ti, không cởi mở, cầu toàn, thà chịu thiệt chứ không chịu chiếm lợi thế của người khác, phải chịu đựng trong im lặng, v.v…; hơi có chút tình cảm lân mẫn, thương hại, đông tình, tiêu cực… thảy đều có quan hệ với Hóa Kị. Trường hợp Hóa Kị nhập vào các sao ở cung lục thân (Phụ mẫu, Huynh đệ, Phu thê, Tử nữ, Nô bộc), có thể lấy ý “mắc nợ nhau” để giải thích mối quan hệ giữa mệnh tạo với họ là rất thỏa đáng. Lấy trường hợp Hóa Kị nhập vào sao tọa thủ cung phu thê để làm ví dụ, tình cảnh này thường thường sẽ là “do yêu mà thành hận nhưng không đành gạt bò”, “triền miên xót xa, bùi ngùi trong lòng”. Vì vậy “suốt cuộc đời của hai người phải thanh toán mối quan hệ giữa chủ nợ và người mắc nợ này” là cách giải thích rõ ràng nhất của tình trạng Hóa Kị nhập cung lục thân!

Vì khoảng 7/8 trường hợp Hóa Kị sẽ mang lại “quả” khổ, nên Hóa Kị đúng là hơi giống “sao chổi” chiếu. Như đã thuật ở trước, Hóa Lộc là động tâm khơi niệm; Hóa Quyền là lực thực hiện những điều do Hóa Lộc khởi niệm; Hóa Khoa là trợ giúp cho Hóa Quyền, còn đại biểu cho danh vọng, danh vị; còn Hoa Kị là luận định nhất thời của Hoa Lộc. Vì Hóa Khoa, còn có nhiệm vụ thu thập tàn cuộc của Hóa Kị, cho nên lúc Hóa Khoa phát huy lực trợ giúp, thường thường có kèm ý vị đắng cay trong đó. Ví dụ như sau khi mắc bệnh, đi gặp lương y, bác sĩ, uống thuốc, châm cứu, phẫu thuật, v.v… Trường hợp không giải được tai ách của Hóa Kị, lúc đó lực tác động cùa Hóa Khoa là che đậy cái xấu, “dọn dẹp cái đống lộn xộn”.

Luận giải Tử Vi Đâu Số là thuyết minh những cảnh ngộ gặp phải trong cuộc đời thực do mệnh bàn phản ánh, trong đó không có quan niệm “thiện có thiện báo, ác có ác báo” như trong tôn giáo; vì vậy, việc định luận cát hung của Hóa Kị, ngoại trừ phải tính đến cung vị nó tọa thủ, còn một then chốt khác là cung nào có Hóa Lộc. Lúc Hóa Kị là hung, có thể gặp tình trạng tranh chiến với Hoa Quyền, nhưng còn có cơ hội là Hóa Khoa hóa giải tai ách, cho nên thấy Hóa Kị không nên quá bi quan.

Bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyên, hay Hóa Khoa làm phát sinh sự cố, dù chuyện tốt hay chuyện xấu, cũng đều do Hóa Kị tạo ra kết cục.

“Mọi chuyện đều phải có kết thúc”, “trong cuộc đời không có bữa tiệc nào không tàn”, Hóa Kị còn có hàm ý “ngậm ngùi không rời bỏ được”, “cảm giác mất mát một cái gì đó không diễn tả được”, hoặc thương cảm, hoài cảm. Ngũ hành của Hóa Kị thuộc thủy, tính thủy là “thấm xuống”, “chảy xuống”; cho nên cũng có khí thế bàng bạc như “nước sông ào ạt chảy băng nghìn dặm, khó mà dừng lại”. Nhưng không phải mọi kết cuộc đều là bi kịch, vì vậy không cần phải cau mày, sợ hãi khi thấy Hóa Kị. Vì dục vọng của con người là vô hạn, nên lòng tham, ý niệm xấu, dục cầu vĩnh viễn khó mà thỏa mãn; cho nên Hóa Kị thường đóng vai trò làm cho người thất vọng!

Thông thường người cung mệnh có Hóa Kị dễ sinh ra mặc cảm tự ti, thường là người hướng nội, không tin vận tốt sẽ đến với mình; họ là người hay hoài nghi, lòng nghi kị cũng nặng, nhưng đây chỉ là những phản ứng mang tính phòng vệ để bản thân không bị tổn hại mà thôi. Cho nên người cung mệnh có Hóa Kị sẽ chi lầm bầm tự nói với mình, hay giấu sự oán trách trong lòng, lúc cãi vã hơi có ngữ khí khắc bạc; vì Hóa Kị sẽ “giới hạn” mệnh tạo làm chuyện xấu (dù muốn làm). Người cung mệnh có Hóa Kị, trừ phi ở cung mệnh có thêm Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền, nếu không, hành động phản kích chỉ là để bảo vệ bản thân, sẽ không chủ động mưu đồ làm chuyện xấu hại người khác, mà trái lại, thường sẽ biểu hiện “lòng nhân từ của phụ nữ”. Vì vậy, người cung mệnh có nên tiếp cận tôn giáo tín ngưỡng, vận động nhiều, thường tiếp xúc với hoàn cảnh bên ngoài để tìm ra điều làm mình thỏa mãn, như vậy tâm tình mới thoải mái, nhân sinh được như ý! Vì Hóa Kị ở cung mệnh là ngã cung, đó cũng là đất “thu vào”, đối với chuyện tốt hay xấu đều sẽ để trong bụng!

Đừng cho rằng người có Hóa Kị ở cung Mệnh nhất định sẽ chịu thiệt thòi, thực ra họ chỉ không chiếm lợi thế của người khác; nhưng nếu trong tình trạng Hóa Lộc nhập “ngã cung”, thì người có Hóa Kị ở cung Mệnh có thể tận hưởng thành quả mà bản thân đã vất vả trả giá cho nó, thậm chí có thu hoạch lớn!

Lúc người ta may mắn, chuyện gì cũng có thể xảy ra; lúc người ta ở vận vượng, làm gì cũng thành, tài vận có khí thế mạnh mẽ, không cách nào cản trở. Trong Tử Vi Đẩu Số, muốn luận giải tinh tế phải dựa vào tứ hóa; nhất là nắm vững hệ thống cung có Hóa Lộc và Hóa Kị tọa thủ, chúng có thể cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin. Lúc Hoa Kị và Hóa Quyền đồng cung, sẽ tạo thành hiện tượng mâu thuẫn; vì Hỏa Kị thủy và Hóa Quyền hỏa sẽ giao chiến, muốn biết tình hình thắng bại, phải xem sao hóa nào lớn, sao hóa nào nhỏ để định. Tình trạng “áp suất khí quyển cao” và “áp suất khí quyển thấp” cùng tồn tại một nơi, lúc nào đó sẽ tạo thành cuồng phong, có thể nói là khó dự đoán. “Sắc bén”, “chủ quan”, “không chịu thua” là kết luận lúc Hóa Quyền đồng cung với Hóa Kị, vì vậy người có cách cục này sẽ khiến cho người ta cảm thấy họ xử sự không tốt.

Hóa Kị ở cung Mệnh, cung Tài bạch, cung Tật ách, cung Quan lộc, cung Điền trạch, hay cung Phúc đức, là thuộc “ngã cung”, là ở nơi có tình trạng “thu vào”; còn lúc ở “tha cung”, nó sẽ quay lại “ngã cung”, nhất định sẽ xung kích “ngã cung”; lúc này Hóa Lộc thành chẳng được gì, còn xúi Hóa Kị gây ra họạ.

Người ta rất sợ thấy Hóa Kị, vì cho rằng nó là kết thúc “hài kịch” hoặc sáng tạo ra “bi kịch”. Nhưng xin đừng quên, mệnh bàn nào cũng phải có Hóa Kị. Nếu Hóa Kị bay vào cung không thích đáng, thì đúng là sẽ không như ý; nhưng nếu nó bay vào cung thích đáng, thì vẫn là kết cục có hậu. Phần nhiều khi Hóa Kị bay vào “ngã cung” thì không phải là chuyện xấu, còn rơi vào “tha cung” thì không phải là chuyện tốt.

Như đã biết, cung Mệnh, cung Tài bạch, cung Tật cách, cung Quan lộc, cung Điền trạch, cung Phúc đức là các “ngã cung”; mà “ngã cung” là các cung có liên quan mật thiết với mệnh tạo. Nếu nói Hóa Kị ở cung Thiên di là không tốt, vì ảnh hưởng và lực phá hoại của Hóa Kị sẽ bắn trực tiếp sang đối cung, nhưng cung nó nhập vào là “ngã cung”, là khí “thu vào”.

Giả thiết Hóa Lộc ở cung Điền trạch, còn Hóa Kị ở cung Mệnh, nếu luận đoán theo kiểu đơn giản là chủ về người có tiền, có bất động sản, giàu có; nhưng trong cuộc sống lại là người khá lao tâm và lao lực, nguyên nhân chủ yếu là vì để có tiền của, bất động sản, để làm cho người nhà vui vẻ, hòa hợp, sống sung túc. Trong ví dụ này, Hóa Kị bay vào cung mệnh (ngã cung), là chủ về những gì cho ra và nỗ lực đều là do mệnh tạo chịu đựng. Hóa Kị bay vào “ngã cung” là “thu vào”; nếu Hóa Kị rơi vào “tha cung” thì nó sẽ vì tác động “thu vào” mà quay sang “ngã cung”, do đó sinh ra lực xung kích “ngã cung”. Ví dụ, Hóa Kị nhập cung Phụ mẫu (tha cung); lúc quay sang cung Tật ách (ngã cung) để “thu vào”, mà sinh ra lực xung kích cơ thể, cơ thể dễ mắc bệnh. Người Hóa Kị ở cung Mệnh, tuy hơi khổ sở, nhưng cuộc sống có nội dung phong phú, đúng là “vui vẻ làm, tình nguyện chịu”.

Giả thiết Thái Âm tọa thủ cung Mệnh ở Hợi, Thái Âm sẽ vì cục ngũ hành (thủy nhị cục, mộc tam cục, kim tứ cục, thổ ngũ cục, hỏa lục cục) khác nhau mà có lực tác động khác nhau. Hóa Kị ở cung Điền trạch là cách cục của người có tiền, bởi vì Hóa Kị là “thu vào trong”, chỉ nói riêng về cung Điền trạch, đây là chủ về “luôn luôn không thỏa mãn”, cho nên ở trong một số cung Hóa Kị là chuyên tốt, chứ không phải lúc nào cũng ảm đạm, hung hao.

Còn phá cách trong cung Điền trạch là Hóa Kị đồng cung với Hóa Lộc, Hóa Quyền, hay Hóa Khoa; hoặc trong cung Điền trạch có Hóa Kị xuất hiện thêm Địa Kiếp, Địa Không, hoặc Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh; như vậy sẽ khiến Hóa Kị biến chất.

Như đã thuật ở trên, Hóa Kị ở cung Điền trạch là phú cục. Nếu có sao Hóa Khoa đồng cung, hầu như ai cũng cho rằng Hóa Khoa là tốt, Hóa Kị là xấu. Nhưng thực ra, trong hiện tượng này sao Hóa Khoa là chuyện xấu, còn sao Hóa Kị là chuyện tốt. Tinh huống này sẽ làm cho Hóa Kị  không hoàn thành được công dụng “thu vào” (Hóa Kị thuộc thủy, mà thủy sẽ sinh mộc, mà Hóa Khoa thuộc mộc), vì vậy sẽ chủ về tài sản, bất động sản của mệnh tạo sẽ xảy ra tình trạng đáng tiếc là “trong cái được có cái mất”

3. Phụ lục về ý tượng của Hóa Kị

Sao Hóa Kị chủ về tình trạng thu nạp cất chứa, không thuận, biến động, thị phi, tổn thất, khiếm khuyết, ganh ghét.

Sao Hóa Kị nhập cung Mệnh, chủ về tính thẳng thắn, đường đời gập ghềnh, nhiều biến động, khá vất vả, tính cô tịch, ít nói, trọng tình cảm.

Sao Hóa Kị nhập cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di, cung Điền trạch, chủ về biến động, hơn nữa, trong đời dễ xảy ra sự cố, tai ách bất ngờ.

Sao Hóa Kị nhập cung Tài bạch, chủ về thu nhập không ổn định.

Sao Hóa Kị nhập cung Phúc đức, chủ về mệnh vất vả, kiếm tiền rất khó khăn mà không có phúc hưởng thụ.

Sao Hóa Kị nhập cung Phu thê, phần nhiều kết hôn muộn.

Sao Hóa Kị nhập cung Quan lộc, chủ về vận sự nghiệp không thuận, nên đi làm hưởng lương là tốt nhất.

Sao Hóa Kị nhập cung Thiên di, chủ về lúc đi xa, ra ngoài không được người ta trợ giúp, không thuận lợi toại ý.

Sao Hóa Kị nhập cung lục thân, chủ về tình hình phải cho ra. Nếu ở cung Phu thê, chủ về trong cuộc đời này mệnh tạo phải “trả nợ” khá nhiều cho người phối ngẫu; ở cung Phụ mẫu, tất phải hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ, cũng chủ về phá tướng; nhập cung Tử nữ, con cái ương bướng, làm theo ý mình, cần phải hao phí tâm lực để dạy dỗ; nhập cung Huynh đệ, duyên bạc với anh chị em, dễ bị bạn bè gây lụy, nên phòng tiểu nhân.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Ý tượng căn bản của Hóa Khoa

0

1. Thùy tượng của Hóa Khoa:             

Hóa Khoa đại biểu cho tài năng hiển lộ, có phong thái và tiết tháo cao nhã, có danh tiếng, có trí tuệ và năng lực học tập được khẳng định và nổi tiếng ở mức độ nhất định trong lãnh vực chuyên nghiệp nào đó. Nó có thể ví với cảnh đẹp của mùa thu, vì vậy phương thức kiếm tiền của nó là dựa vào tri thức chuyên môn va mức độ nổi tiêng.

Tóm tắt ý tượng cơ bản của Hóa Khoa như sau:

–           Quý nhân, có phương pháp, giáo hóa, giáo dục, biến phức tạp thành đơn giản.

–           Hóa giải nguy cơ, thanh danh, danh dự, ổn định.

–           Nhu hòa, văn nhã, thanh mảnh, chất phác, nét đẹp không dung tục, thiếu, nhỏ.

–           Nội hàm, phong độ, lãng mạn, hiền hòa, không cố chấp.

2. Hóa Khoa tinh giải:

Về bản chất, Hóa Lộc và Hóa Khoa là đối lập nhau, vì kim sẽ khắc mộc. Về thực chất, thuộc tính của Hóa Khoa là danh vọng, danh dự; trái ngược với thuộc tính tham lam, dục niệm trùng trùng của Hóa Lộc. Nhưng Hóa Khoa còn có công dụng làm nổi bật lực tạo tác của Hóa Lộc và Hóa Quyền, cho nên một khi Hóa Khoa và Hóa Lộc đồng cung, là rất không bình thường. Bối cảnh đó là nhờ tài năng đặc biệt nào đó mà nổi tiếng, tương tự như thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc là quyền lợi đối với hình ảnh của mình, chứ không phải là hình tượng, danh vọng hay danh tiếng đơn thuần.

Nếu Hóa Lộc là dục niệm, lòng tham, còn Hóa Quyền là dũng cảm xông tới chỗ Hóa Lộc sai khiến, làm bất cứ chuyện gì, thì Hóa Khoa cũng sẽ vì sự thiên vị này mà hết lòng với trách nhiệm của mình là tung hô “tiếng tốt” của chúng, hơi có ý vị “thêm cánh cho cọp”, “giúp kẻ xấu làm chuyện ác”! Vì Hóa Khoa thuộc mộc, còn Hóa Quyền là hỏa; trong tình trạng mộc giúp hỏa thiêu đốt, nếu Hóa Lộc là dục niệm, vậy Hóa Khoa và Hóa Quyền sẽ ở thế hợp lực lam chuyện ác, có thể nói là “khí thế mạnh mẽ, không cách nào cản trở”, vì vậy mới có kết quả xấu của Hóa Kị. Nhưng vì Hóa Khoa còn có sứ mệnh thiên phú là hóa giải tai ách, hóa giải nguy cơ, cho nên Hóa Khoa cũng sẽ có động tác cứu vãn hậu quả của Hóa Kị.

Hóa Kị thuộc thủy, còn Hóa Khoa thuộc mộc, thủy sẽ sinh mộc, chỉ có mộc mới có thể làm thông suốt sự khó khăn của thủy; tức là nói, Hóa Khoa có thể giải tai ách của Hóa Kị. Hóa Khoa đóng hai vai trò rất rõ ràng, một là hạ mình trong động tuyến “Lộc Quyền” để làm tăng thanh thế Hóa Lộc và Hóa Quyền; hai là, bất luận là đúng hay sai, đây đều là “sứ mệnh”, sau khi trải qua các tác động của Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì Hóa Kị là kết quả của chiến trường; nếu kết quả là xấu, thì Hóa Khoa sẽ phát huy lực cứu vãn hay bù đắp; nếu kết quả của Hóa Kị là tốt, vậy Hóa Khoa được hưởng sự vinh diệu vô hạn!

Như đã đề cập, lúc luận giải ý tượng của tứ hóa, chúng ta cần chú ý sao mà tứ hóa nhập vào là lớn hay nhỏ để tính toán tình trạng được mất, tốt xấu. Đây là căn cứ rất quan trọng. Giả thiết Hóa Kị [đại vận] nhập cung Nô bộc của đại vận và xung cung Huynh đệ của đại vận, như vậy trong đại vận này có thể sẽ xảy ra tai nạn bất ngờ; nhưng nếu trong cung Huynh đệ của đại vận có Hóa Khoa [đại vận], nếu sao Hóa Khoa lớn hơn sao Hóa Kị, thì chỉ kinh sợ mà không nguy hiểm; giả thiết Hóa Khoa [đại vận] ở cung Huynh đệ của đại vận, còn Hóa Kị [đại vận] ở cung Mệnh của đại vận, đó là chủ về mệnh tạo sẽ bị thương, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng; hoặc chủ về mệnh tạo vô sự, nhưng thân hữu của mệnh tạo sẽ xảy ra chuyện…

Ngũ hành Hóa Khoa thuộc mộc, phàm là khoa danh, giáo hóa, nội hàm, phong độ, danh tiếng, lí tính, hiền hòa, không cố chấp, che đậy, tính bình thường, quý nhân trợ giúp, phùng hung hóa cát, đều thuộc phạm trù của Hóa Khoa.

Hóa_Khoa là một khâu quan trọng trong tứ hóa, toàn bộ động tuyến của tứ hóa là Hóa Lộc (động tâm khởi niệm) -> Hóa Quyền (thực hiện, thực tiễn) -> Hoa Khoa (tuyên dương, chính danh, giáo hóa) -> Hóa Kị (kết cục, trong động tuyến này, lực tác động của Hóa Khoa là làm rõ nét lực tác động của Hóa Lộc và Hóa Quyền, vì vậy mà có các ý tượng như: tạo lập danh vong, làm chợ thông, giáo hóa, tính bình thường, tính hợp lý, v.v… Nhưng ý tượng quan trọng nhất của Hóa Khoa lại thường bị bỏ sót, đó chính là công dụng hóa giải tai ách, “phùng hung hóa cát”!

Ngũ hành của Hóa Kị thuộc thủy, còn Hóa Khoa thuộc mộc, thủy sẽ sinh mộc. Đó là nói, mộc có thể hướng dẫn hung tính của Hóa Kị thủy đi theo hướng hợp lí. Giả thiết kết quả hay kết cục của Hóa Kị là “xấu”, như vậy Hóa Khoa mộc mới có đất dụng võ, phản ứng của nó trong hiện thực nhân sinh là, lúc Hóa Lộc và Hóa Quyền có tác dụng không thỏa đáng, để Hóa Kị mang lại họa tai, thì Hóa Khoa có thể phát huy công dụng điều tiết, hóa giải tai ách. Nếu sự cố quá lớn, đến nỗi Hóa Khoa không giải quyết được, thì Hóa Khoa cũng sẽ phản ứng bằng cách che đậy, khoa trương, giả tạo.

Lúc Hóa Khoa thực hiện chức trách, phát huy tác dụng hóa giải tai ách, giả thiết kết quả của Hóa Kị là xấu, muốn biết Hóa Khoa có thể hóa giải hoàn toàn lực phá hoại của Hóa Kị hay không, thì phải xem Hóa Khoa nhập vào sao lớn hay nhỏ. Tức là, lúc sao Hóa Khoa lớn hơn sao Hóa Kị, thì có thể giải trừ nguy cơ; nếu nhỏ hơn sao Hóa Kị, thì sẽ để lại hậu di chứng. Giả thiết Hóa Kị là thiện chung, trong cùng một cung lại thấy thêm Hóa Khoa, đó lại là “chuyện xấu”, tức sẽ làm cho Hóa Kị thủy đang tĩnh lặng bỗng nổi cơn sóng gió ba đào. Tình trạng này giống như Hóa Kị nhập cung Điền trạch, nếu Hóa Kị có kết cục tốt, thì tài phú của mệnh tạo có “khó giữ”, nhưng có Hóa Khoa đồng cung, vậy lực tác động của Hóa Khoa càng là “xấu”, ứng nghiệm trong cuộc sống hiện thực, là chủ về “được rồi lại mất”. Cung Điền trạch là “ngã cung”, có ý tượng là “thu vào”; nhưng nếu Hóa Lộc ở “tha cung”, như vậy Hóa Kị ở cung Điền trạch là không tốt, cần phải có Hóa Khoa để giải Hóa Kị. Giả thiết Hóa Lộc ở “ngã cung”, còn Hóa Khoa, Hóa Kị cùng ở cung Điền trạch như vậy Hóa Khoa nhất định sẽ phá hỏng “kết quả tốt” của Hóa Kị, khiến “thủy” dừng rồi lại chảy, cho nên “bất động sản” của cung Điền trạch có hiện tượng “được rồi lại mất”.

3. Phụ lục về ý tượng của Hóa Khoa:

Hóa khoa chủ về phong cách văn nhã. Lúc nhập cung Mệnh, sẽ có dáng dấp thanh tú, nho nhã, ôn hòa từ ái, thông minh hiếu học, sức học tập mạnh, tài năng bộc lộ; nhưng nếu đồng cung với hung tinh, thì dễ vì chuyện xấu mang tiếng tăm; nhập cung lục thân, chủ về là người hòa hoãn, hòa hợp với mọi người.

Hóa Khoa chủ về quý nhân. Nếu Hóa Khoa nhập cung quan lộc, chiếu cung phu thê, chủ về mệnh tạo là quý nhân của người phối ngẫu; nếu Hóa Khoa nhập cung Huynh đệ, chiếu cung Nô bộc, chủ về mệnh tạo là quý nhân của bạn bè; nếu Hóa Khoa nhập cung Thiên di, chiếu cung mệnh, chủ về người khác là quý nhân của mệnh tạo.

Hóa Khoa là chủ về thanh bạch, nhập cung lục thân là chủ về lục thân có xuất thân thanh bạch. Nếu Hóa Khoa nhập cung Phu thê, chủ về người phối ngẫu có gia cảnh thanh bạch, hoặc người phối ngẫu là quý nhân.

Hóa Khoa còn chủ về đào hoa, đào hoa của Hóa Khoa là đào hoa có phong độ, hết duyên thì tan (trong khi đào hoa của Hóa Quyền là đào hoa của dục vọng chiếm hữu; đào hoa của Hóa Lộc là chủ về sự nhiệt tình, đào hoa của tiếng sét ái tình; đào hoa của Hóa Kị là chu về đào hoa của chuốc họa vào thân, dám yêu dám hận).

Hóa Khoa nhập cung Tài bạch, cung Quan lộc, chủ về nên phát triển về phương diện văn, thích hợp ngồi ở bàn giấy.

Hóa Khoa nhập cung Điền trạch, chủ về nhà ở bài trí tao nhã; nếu Hóa Kị nhập cung Điền trạch, thì trong nhà ắt rất lộn xộn, rối tung.

Hóa Khoa nhập cung Phúc đức, chủ về nhiều phúc vận, lạc quan, ưa hưởng thụ, tình trạng kinh tế phần nhiều có thể cân bằng giữa nhập và xuất.

Hóa Khoa nhập cung Thiên di, vận đi xa, ra bên ngoài đều tốt, có nhiều quý nhân trợ giúp, nhiều cơ hội phát triển.

Hóa Khoa nhập cung Tử nữ, con cái thông minh lanh lợi, có giáo dục.

Hóa Khoa nhập cung Nô bộc, bạn bè giao du đa phần là người có khí chất cao thượng (trong khi Hóa Lộc nhập cung Nô bộc, thì chủ về bạn bè giao du đa phần là người có thành tựu; Hóa Quyền thì chủ về bạn bè giao du đa phần là người rất tài cán; Hóa Kị thì chủ về bạn bè giao du đa phần là người ở tầng lớp thấp trong xã hội.

Nam mệnh, đại vận, lưu niên mà gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, phần nhiều đều có tiến bộ và biểu hiện tốt.

Nữ mệnh thì nên lưu ý, vì giỏi hơn chồng có thể ảnh hưởng đến tình cảm hôn nhân lúc lưu niên đến cung hạn gặp Hóa Khoa, phần nhiều sức khỏe tốt.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Ý tượng căn bản của Hóa Quyền

0

1. Thùy tượng của Hóa Quyền:

Hóa Quyền có thể ví với ngọn lửa dữ dội, giống như sức nóng của mùa hè, thẳng thắn, thích ra oai, phách lối, cương liệt, có mưu lược, giàu có, tài năng, có năng lực cạnh tranh, ham muốn lãnh đạo người khác, có năng lực khai sáng.

Hóa Quyền chủ về cần phải phô diễn thực lực mạnh mẽ cùa mình trong cạnh tranh để đạt được quyền lực và địa vị chủ đạo; tức là, tài phú của Hóa Quyền phải dựa vào cạnh tranh mới có được. Có được quyền thế và địa vị trong cạnh tranh hay không là do phương cách vận dụng tiền bạc, trong quá trình thực hiện gian khổ cũng sẽ xảy ra thị phi và tranh chấp, có lúc khó tránh có rắc rối với bạn làm ăn.

Tóm tắt ý tượng cơ bản của Hóa Quyền như sau:

– Thực tiễn, quyền lực, danh vọng và uy thế, chuyên nghiệp, năng lực, hiệu suất.

– Nghĩa khí, biến động, cải cách, thực dụng.

– Cứng, lớn, mạnh, kĩ thuật, hao tổn tinh thần và hình thể, đích thân làm.

– Chủ quan, thích ra oai, phách lối, suy đi tính lại, chiếm hữu, can dự, can thiệp.

2. Hóa Quyền tinh giải:

Hóa Quyền thuộc hỏa, hỏa có tính nóng và hướng lên; sao có Hóa Quyền nhập vào sẽ có một hoạt lực đặc biệt. Lúc Hóa Lộc động tâm khởi niệm cho một nguyện vọng, lý tượng, dục vọng, lòng tham, sẽ dừng lại ở “ý định”, đó chỉ là bắt đầu, mới thành hình ở trong đầu. Còn Hóa Quyền là thực hiện, là đưa ra hành động thực tế, sự thực hiện này là tích cực, cảm giác có sứ mệnh, nghiêm túc, không ngừng nghỉ; vì để đạt thành nguyện vọng của Hóa Lộc mà siêng năng, chăm chi, cần mẫn…

Giả thiết sao ở trong cung mệnh có Hóa Quyền nhập vào, vậy mệnh tạo là người khá chủ quan (vì lực tác động của Hóa Quyền sẽ khiến năng lực và hình tượng của mệnh tạo được nâng lên), vì vậy người này sẽ có khuyết điểm là hay tự cho mình là đúng, dù mệnh tạo biết rất rõ khuyết điểm của mình, vẫn không thể hạ mình nhận sai. Là người tự tin, tự phụ, còn luôn nhắm đến địa vị quyền uy; vì cảm thấy mình có sứ mệnh, nên cho rằng mình là trung tâm của mọi người. Vì vậy, trong một nhóm người họ khá nổi bật. Vì nhiệt năng của “lửa” (hỏa) có thể “phát sáng”, dựa trên nguyên lí này, chúng ta có thể liên tưởng đến các hiệu năng khác của Hóa Quyền.

Lực tác động của Hóa Lộc là ở tưởng tượng, lực tác động của Hóa Quyền là ở thực hiện. Ngũ hành của Hóa Lộc thuộc kim, Hóa Quyền thuộc Hỏa; kim của Hóa Lộc được hỏa rèn luyện mới thành dụng cụ, vi vậy nếu không có Hóa Quyền tạo tác, thì không cách nào thành tựu nguyện vọng của Hóa Lộc. Trong mệnh bàn, thông thường khá vui khi thấy Hóa Lộc và Hóa Quyền cùng ở một nơi, nhưng chỉ tập trung ở “ngã cung” mới có ý nghĩa. Nếu đều ở “tha cung”, thì cũng giống như người khác ăn mà mình la nóng!

Nói về ý tượng cơ bản, Hóa Quyền có thể bảo vệ Hóa Lộc, là nhân tố thực hiện ý muốn của Hóa Lộc, vì Hóa Lộc mà phấn đấu, cũng là thần phù hộ của Hóa Lộc cũng là thần phù hộ cùa Hóa Lộc. Trong lí luận ngũ hành, kim của Hóa Lộc gặp thủy của Hóa Kị, dựa vào nguyên lý “kim sinh thủy”, nguyện vọng của kim sẽ biến thành hư ảo (Hóa Kị là kết thúc, kết cục), cho nên ý muốn của Hóa Lộc phải có Hóa Quyền thực hiện. Vì Hóa Quyền và Hóa Kị ở thế đối lập nau, nên lúc ở cùng một cung sẽ thành cục diện “thủy hỏa giao chiến”; nhưng thủy không nhất định sẽ đánh thăng “hỏa”, việc phân thắng bại phải căn cứ thuộc tính ngũ hành của cung vị, và phân biệt các sao lớn nhỏ mạnh yếu mà luận thành bại. Thứ tự phân biệt sức mạnh lớn hay nhỏ của các sao như sau:

Tử Vi, Thiên Phủ > Thái Dương, Thái Âm > Vũ Khúc > Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang > Thiên Cơ, Liêm Trinh, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Cự Môn > Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật.

Vì các sao có sự phân biệt lớn nhỏ, nên lúc sự kiện xảy ra có thể biết được cát hung họa phúc nặng nhẹ thế nào! Người có Hóa Quyền và Hóa Kị cùng ở cung mệnh, thường sẽ tự mâu thuẫn, cũng không ưa bị ai gây sự. Thử nghĩ, người mà trong lòng lúc nào cũng  mâu thuẫn, tính khí của họ đương nhiên là nóng nảy và không ổn định, có thể gây sự được không?! Ai đi gây sự với người này, thì cũng giống như đùa với lửa!

Ngũ hành của Hóa Lộc thuộc kim, mà lực tác động của kim là ngưng tụ, từ dịch thể ngưng tụ thành thể rắn, hay mang linh kiện tổ hợp thành phẩm cũng là lực tác động của kim. Vì vậy, nhà máy sản xuất sản phẩm tổ hợp cũng thuộc về tính “kim”; lúc chúng ta tập trung tinh thần nhìn chăm chú vật gì đó, cũng là trạng thái có tính “kim”; lúc các bạn leo lên đỉnh núi, loại bỏ mọi tạp niệm, giữ tâm tình thoải mái, trong lòng khoan khoái nhẹ nhàng, đó cũng là ý cảnh của “kim”. Trong sinh hoạt cuộc sống, tùy tiện, chẳng có nề nếp, trong nhà rối loạn, không gọn gàng, thường có thể là do khí “kim” bất túc hoặc là ở vào những vận hạn mất khí “kim”. Rất nhiều bạn nhỏ lúc học hành không cách nào tập trung, hoặc có một số người mắt nhìn vật không cách nào chuyên chú, đó đều thuộc về khí “kim” của ngũ hành; nguyên nhân gây ra lo nghĩ, âu sầu cũng có quan hệ với khí “kim”. Trong sinh hoạt thường ngày, có nhiều hiện tượng có thể quy nạp vào tính “kim”, ví dụ như: biên tập sách báo, làm hoàn chỉnh kịch bản truyến hình, v.v… đêu thuộc về ý tượng của khí “kim”. Rất nhiều người thấy hành “kim” liền liên tưởng đến vàng, kim loại; nhưng xin lưu ý, nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực tài chính, tiền tệ, là nghề nghiệp thuộc mộc, không phải thuộc kim, nghề cổ phiếu chứng khoán cũng thuộc mộc. Không phải thấy tiên tệ thuộc “kim” thì cho rằng đó là nghề nghiệp thuộc kim, đây cũng là chỗ thường bị hiếu lầm!

Hóa Lộc thuộc kim, đó là tượng ý niệm và dục niệm ngưng tụ; từ “động tâm khởi niệm” cho đến ngưng tụ thành dục vọng, nguyện vọng, lòng tham, hi vọng, v.v… đều thuộc phạm trù của Hóa Lộc kim. Ví dụ, mong muốn giàu có, mong muốn có quyền lực, mong muốn học hành giỏi, mong muốn có chồng giỏi vợ đẹp, đều đã thành hình trong đầu; sự trông mong, nguyện vọng đều thuộc về lực ngưng tụ của khí “kim”. Cho nên “kim” là khởi đâu của sự kiện. Những ý niệm này nếu không có hành động tạo tác thực tế, thi chỉ là vọng tưởng hay chỉ là khát vọng của nội tâm.

Kim của Hóa Lộc phải trải qua sự rèn luyện của Hóa Quyền hỏa mới “thành khí cụ”; nếu không, ý niệm của kim chỉ là hư ảo, không cách nào thành hiện thực. Vì vậy, có thể xem Hóa Quyền là lực hướng lên, leo lên. Phàm được thăng chức là thuộc về phạm trù của “hỏa”. Trong sinh hoạt thường ngày, có không ít hiện tượng thuộc về hỏa, ví dụ như: chiến tranh, cãi vã, vì muốn có thành tích tốt mà nỗ lực học tập, thanh thiếu niên còn đang phát triển, v.v… đều thuộc “hỏa”; công xưởng sản xuất linh kiện là nghề nghiệp thuộc hỏa. Kịch liệt, quyền uy, không ngừng nghỉ, v.v… là những hiện tượng của Hóa Quyền. Các bạn có thể xem Hóa Quyền là hành động thực hiện ý niệm của Hóa Lộc. Hóa Lộc được người ta thích chỉ vì có ước mơ, ước mơ tốt hay xấu là căn cứ tính của sao được Hóa Lộc nhập vào và cung nó tọa thủ để phân biệt; còn Hóa Quyền là lực thực hiện, lực hành động, lực đốc thúc. Cho nên trường hợp Hóa Quyền ở cung mệnh, thường là người chỉ trông cậy vào chính mình, tự đánh giá mình quá cao, mong họ khiêm tốn e rằng rất khó, muốn người khác không chú ý họ cũng khó, vì đó là tác dụng của Hóa Quyền!

3. Phụ lục về ý tượng của Hóa Quyền

Hóa Quyền chủ về dục vọng chiếm hữu mạnh, phát huy được tài năng, biểu hiện năng lực, ưa nắm quyền, tính cố chấp, theo ý mình.

Nếu muốn kiếm tiền thuận lợi, hoặc sáng lập cơ nghiệp làm ông chủ, thì cung Mệnh hoặc cung Thân phải cùng lúc thấy Hóa Lộc và Hóa Quyền. Nếu chỉ thấy Hóa Quyền thì chỉ vẻ vang bề ngoài mà thôi; nếu chỉ có Hóa Khoa thì chỉ gặp quý nhân tương trợ, kiếm tiền khá nhẹ nhàng; cần phải gặp Hóa Lộc và Hóa Quyền mới có thể sáng lập cơ nghiệp thuận lợi.

Sao Hóa Quyền nhập cung mệnh, tính độc lập, kiêu ngạo, có chủ kiến, xử sự thận trọng, thích nắm quyền, ưa quản thúc người nhà, mà không thích bị quản thúc, phàm chuyện gì cũng muốn đích thân làm, cho nên vất và bận rộn.

Sao Hóa Quyền  nhập cung Tài bạch, chủ về nắm tiền, có dục vọng cao đối với tài phú.

Sao Hóa Quyền nhập cung quan lộc, có dục vọng cao đối với sự nghiệp, quyền lực, biểu hiện của bản thân dễ được ủng hộ, nhưng cũng chủ về vất vả, người có chức vị dễ lên chức vị cao hơn, cơ hội thăng tiến khá lớn.

Sao Hóa Quyền nhập cung lục thân, chủ về thích ra oai, phách lối, dễ đụng chạm với lục thân.

Sao Hóa Quyền nhập cung Phu thê, người phối ngẫu khá chủ quan, có năng lực.

Sao Hóa Quyền nhập cung Tử nữ, nhiều con cái, nhiêu đào hoa, tính dục khá mạnh.

Sao Hóa Quyền nhập cung Thiên di, thích đi đó đi đây, được người ta xem trọng.

Sao Hóa Quyền nhập cung Phúc đức, chủ về lãng phí, hưởng thụ, ưa tạo sự chú ý.

Sao Hóa Quyền ở cung Tật ách, chủ về vất vả, dễ nổi giận, trở mặt rất nhanh.

Sao Hóa Quyền nhập cung Huynh đệ, anh em ưa can thiệp vào cuộc sống của mệnh tạo.

Sao Hóa Quyền nhập cung Phụ mẫu, rất có duyên với người khác giới, nhiều cơ hội đào hoa.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Ý tượng căn bản của Hóa Lộc

0

1.Thùy tượng của Hóa Lộc:

Có thể nói Hóa Lộc là khởi đầu của mọi sự việc, là nơi của hạnh phúc và hoan lạc, giống như mùa xuân, vạn vật nảy mầm sinh trưởng, mọi sự hưng phát, hòa hợp thịnh vượng, có nên Hóa Lộc có ý nghĩa là phong phú và vui vẻ hạnh phúc, là khởi đầu của việc kết mọi thiện duyên. Hóa Lộc còn chủ về tiền tài, làm tăng thêm tài phú; còn đại biểu cho quý nhân, có thể giảm bớt trở lực, khiến sự việc tiến hành được thuận lợi toại ý. Tóm lại, khởi đầu là “thiện nhân” thì sẽ kết “thiện quả”, có thể lợi dụng sức quyến rũ và sự tốt đẹp của bản thân trong quan hệ giao tế để tăng thêm tài phú.

Tóm tắt ý tượng cơ bản của Hóa Lộc như sau:

– Quý nhân và tiền bạc.

– Tình cảm, đa tình, duyên phận, quan tâm, nhiệt tình, dục vọng, mở đầu

– Phức tạp, nhiều, mềm, mập.

– Lạc quan, cam tâm tình nguyện, giai đoạn đầu của tình yêu, sự kết hợp của hôn nhân.

2. Hóa Lộc tinh giải

Tứ hóa là tinh túy của Tử Vi Đẩu Số, nếu không nắm vững phương pháp vận dụng tứ hóa, thì không cách nào luận đoán mệnh vận một cách tinh tế, nhất là ờ hành hạn càng phải dựa vào tứ hóa để xem xét tình trạng biến động thay đổi của vận khí mà đưa ra luận giải một cách chính xác. Tứ hóa [năm sinh] bất kể ở cung nào, đều chỉ là “thùy tượng”, giống như cái bóng của vật thể, nếu bất động, thì cái bóng là cố định bất biến; nhưng dù vật thể bất động, thì góc độ ánh nắng mặt trời chiếu cũng sẽ thay đổi! Vì vậy vận mệnh vận sẽ biến chuyển theo thời gian.

Tứ hóa không phải là các sao, mà là các loại động thái. Nhưng các nhà Đẩu Số thường mang tứ hóa gọi thành “hóa diệu” để tiện giải thích; nhưng cũng vì vậy mà gây ra nhiều ngộ nhận đối với việc nhận thức tác dụng của tứ hóa trong Tử Vi Đẩu Số.

Hóa Lộc trong ngũ hành là thuộc kim, còn Lộc Tồn thuộc thổ, chỉ giống nhau ở chữ “Lộc”, nhưng ý tượng cơ bản của chúng là khác nhau. Hóa Lộc là động tâm khởi niệm về dục vọng, nguyện vọng, lí tưởng, tình cảm, tài phú, v.v… đó là những điều tồn tại trong não. Về quan niệm, có thể cho rằng Hóa Lộc là một loại “động thái”, một loại “lực tác động”; còn Lộc Tôn là một “thực chất. Nếu Hóa Lộc nhập vào sao ở cung mệnh, ý tượng cơ bản là: đa tình, đa dục, ưa ảo tưởng; còn trường hợp Lộc Tồn ở cung mệnh, là chủ về bảo thủ, cố chấp, nguyên tắc, nặng tâm lí phòng vệ. Sự phân biệt này tuy hơi sơ lược, nhưng có thể chỉ ra chỗ khác nhau của chúng. Vì ngũ hành của Lộc Tồn thuộc thổ, cho nên có ý tượng tĩnh lặng, bất động, yên ổn, thích tĩnh mà không thích động; còn Hóa Lộc là khởi nguồn của “dục vọng”, cho nên xu hướng sau khi “Hóa Lộc” là “động”, vì vậy giữa chúng có sự khác biệt rất lớn.

Hóa Lộc là khởi đầu của dục vọng, không phải là kết quả; là nơi kí thác hi vọng, nguyện vọng, khát vọng, chứ không phải là “kết quả”, cho nên không được vì thấy Hóa Lộc, thì xem nó là tiền bạc.

Tuy có giấc mộng rất đẹp, nhưng không phải mộng tường nào cũng thành hiện thực. Trường hợp cung mệnh có Hóa Lộc, là người không để cho bản thân chịu thiệt thòi, lúc nào cũng suy nghĩ cho bản thân, tình cảm có tính xung động, có thế có biểu hiện xuất sắc hơn người (trừ phi cung mệnh ở Thìn, Tuất là hai cung Thiên La Địa Võng, bị kiềm chế, nếu không, người có Hóa Lộc ở cung Mệnh sẽ không cam chịu cô đơn tịch mịch); còn người có Lộc Tồn ở cung Mệnh thì cam chịu sự cấm cố trong cô đơn tịch mịch. Hóa Lộc ở cung Mệnh, bất luận nhập vào sao nào, đều không liên quan đến “tiền bạc”, mà là có mộng tưởng muốn trờ thành “người có tiền”, nhưng giữa mộng tường và hiện thực là một khoảng cách khá xa.

Hóa Lộc ở cung Phu thê không chủ về người phối ngẫu có nhiều tiền, mà là rất đa tình. Cũng có thể luận giải là, tình cảm của mệnh tạo chân thật hơn “một nửa kia”; cũng có thể vì “người ấy” quá nhiều dục tình mà xảy ra tình trạng tràn lan, đối tượng có thể đa tình hơn mệnh tạo và cũng có thể sẽ thay lòng đổi dạ.

Như đã biết, Hóa Lộc là khởi đầu của dục vọng. Cung mệnh có Hóa Lộc là người đa tình, giàu cảm tính, lạc quan, đầy tình người, tạo quan hệ tình cảm nam nữ khá nhanh, có khuynh hướng trưởng thành sớm về tình dục, nhưng nếu kết hôn quá sớm sẽ dễ gặp sóng gió hắc trở. Đây chỉ là thuật các ý tượng cơ bản, cần phải căn cứ tính của sao Hóa Lộc để luận giải. Nhưng ý tượng cơ bản của Hóa Lộc tọa cung Mệnh ở cung Thìn và cung Tuất (cung Thiên La Địa Võng) cũng có chỗ khác nhau, ít nhiều cũng có hàm ý “yêu trong lòng mà miệng khó nói ra”.

Trong Tử Vi Đẩu Số, Hóa Lộc là nguyên động lực của sinh mệnh, bản năng sinh tồn cũng thuộc phạm trù của Hóa Lộc; còn cách kéo dài cuộc sống là do tác động của Hóa Quyền; mỹ hóa và lý tưởng hóa cuộc sống là do tác động của Hóa Khoa, giống như vừa thấy một giai nhân liền khởi ý niệm theo đuổi, “cuộc tình cờ gặp gỡ” này gọi là “đào hoa”, có cảm tình với giai nhân là khởi niệm dục tình, muốn theo đuổi là bao gồm “muốn sở hữu” hoặc “thu nạp làm của riêng”, những điều này đều thuộc lực tác động của Hóa Lộc. Nhưng phương thức thực hiện “nhiệm vụ” theo đuổi là do tác động của Hóa Quyền, còn vị trí Hóa Khoa và Hóa Kị tọa lạc là then chốt quyết định có theo đuổi được hay không! Nếu Hóa Kị ở cung Thiên di, một là, hỷ sự sẽ gặp nhiều gian nan; hai là, vì mộng tưởng không thành mà bị đả kích. Trường hợp Hóa Khoa ở cung Phúc đức, là sẽ theo đuổi trong tình trạng gian nan kéo dài; nếu Hóa Khoa rơi vào cung khác thì mộng tường có thể không thành.

Nêu chỉ mong Hóa Lộc có thể biến thành tiền bạc, thì bạn có thể “hi vọng”, nhưng đừng quá nhiêu. Hóa Lộc là một loại động thái, nó phải nhập vào sao mới phát huy tác dụng, dựa vào ý tượng của sao để biết đối tượng của dục vọng muốn theo đuổi là gì. Hóa Lộc không quan hệ trực tiếp với tiên bạc, dù sao Hóa Lộc ở cung Tài bạch là sao chủ về kĩ thuật, có sở trường đặc biệt, thì có khi cũng chỉ chủ về có biểu hiện khá nổi bật, mà nguyên nhân làm cho người ta chú ý là vì có tính chất tình người. Ứng dụng tính chất của sao Hóa Lộc là để thêm điểm trong việc kiếm tiền mưu sinh. Cho nên, Hóa Lộc ở cung Tài bạch không phải là rất biết kiếm tiền, cũng không nhất định là kiếm được tiền, mà là rất muốn kiếm tiền, nhưng hành động lại không tích cực lắm, có phong thái rất khách khí; không giống như tác động của Hóa Quyền và Hóa Kị là bằng mọi giá phải đạt tới mục đích.

Cung Mệnh thấy Hóa Lộc không nhất định là người giàu có, mà là người đa tình, lạc quan, nặng tư tâm, tư dục. Đứng ở góc độ khác để giải thích, đó là người nặng tính ích kỷ. Còn cung Điền trạch thấy Hóa Lộc là người mang kỳ vọng lớn nhất của cuộc đời đặt vào gia đình, họ sẽ miệt mài làm cho giấc mộng đẹp của mình thành hiện thực; có thực hiện được nguyện vọng hay không, thì phải xem xét toàn bộ kết cấu mệnh bàn, cho nên Hóa Lộc ở cung Điền trạch cũng không nhất định là người giàu có.

Như đã thuật, Hóa Lộc cần phải có Hóa Quyền để thực hiện tâm nguyện. Vì vậy Hóa Lộc và Hóa Quyền đồng cung, hoặc Hóa Quyền ở cung tam hợp hay ở đối cung của Hóa Lộc là thực hiện được ước muốn của Hóa Lộc.

3. Phụ lục về ý tượng của Hóa Lộc

Hóa Lộc cai quản phúc đức, chủ tài lộc, nhưng không chủ về kiếm được tiền hoặc tích lũy được tài phú, mà chỉ hiển thị nguồn tiền bạc đến. Hóa Lộc là “nhân”, không chủ về “quả”; hữu duyên không nhất định là hữu phận. Hóa Lộc chủ về duyên phận, ra ngoài có duyên với người, cảnh ngộ gặp phải khá tốt.

Tài tinh ưa gặp Hóa Lộc, chủ về tài lợi dễ đến, hơn nữa nguồn tiền bạc đến bất ngờ. Sao Hóa Lộc ưa nhập vào các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Điền.

Sao Hóa Lộc nhập cung mệnh, cung thân, chủ về thiện lương, hứng thú, có nhiều sở thích, gặp chuyện phần nhiều có thể giải quyết thuận lợi. Nếu được cát tinh ở tam phương tứ chính vây chiếu, phần mà có mệnh cách này, chồng đa phần có địa vị cao, mà còn sinh quý từ. Nhưng nếu cung mệnh ở cung Tứ Mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, dù hóa cát vẫn có tác dụng không lớn.

Sao Hóa Lộc nhập cung Phụ mẫu, cung Tật ách, là người khá thông minh, lạc quan, nhưng lười biếng.

Sao Hóa Lộc nhập cung Phu thê, chủ về người phối ngẫu thông minh, rất có duyên với người chung quanh, có thể trợ giúp chồng nhưng không chủ về có tiền; gặp thêm Lộc Tồn là có tiền lẫn tình, được người phối ngẫu trợ lực.

Sao Hóa Lộc nhập cung Tật ách, chủ về lao tâm nhưng không lao lực.

Sao Hóa Lộc nhập cung Tài bạch, cung Điền trạch, là tượng tài xuất tài nhập, nhưng không chủ về có tiền. Cần phải xem có tài tinh hợp hóa hay không, và tài nhập hay tài xuất, mới có thể đoán là có tiền hay không. Nếu ờ cung Tứ Mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, thì tiền bạc giữ được.

Sao Hóa Lộc nhập cung Thiên di, chủ về dịch mã, ra ngoài rất có duyên với người xung quanh, gặp cảnh ngộ khá tốt.

Sao Hóa Lộc nhập cung Quan lộc, là có tượng đầu tư; lúc nhỏ học hành thông minh, nhưng không nhất định là người có dụng công học tập.

Sao Hóa Lộc nhập cung Nô bộc, chủ về thích kết giao bạn bè.

Sao Hóa Lộc nhập cung Tử nữ, con cái thông minh hoạt bát, rất yêu thương con cái.

Sao Hóa Lộc nhập cung Huynh đệ, anh em có thể nâng đỡ nhau, cuộc sống vô lo.

Sao Hóa Lộc nhập cung Phúc đức, chủ về hưởng thụ, trong sinh hoạt vật chất, gặp thêm phúc tinh thì phúc trạch rất tốt.

Hóa Lộc chia ra thành “Lộc nhập”, “Lộc xuất” và “Lộc đi theo Kị”. Lúc Hóa Kị nhập các cung Mệnh, Tài, Quan, Điền, Tật, thì Lộc là “Lộc nhập”. Ví dụ như Hóa Kị nhập cung Tài bạch, còn Hóa Lộc nhập cung Điền trạch là “Lộc nhập”, chủ về tiền được kiếm đều giữ được.

Hóa Lộc rất sợ bị Hóa Kị xung và trường hợp Hóa Lộc đồng cung với Hóa Kị, chủ về không thuận lợi, không có duyên với người, vất vả lo lắng; gặp thêm sát tính thì trong cát có hung.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái)

Các loại tứ hóa trong Bắc Phái

0

Trong Tứ Hóa Phái, có mấy loại tứ hóa như: tứ hóa [năm sinh], tức tứ hóa của nguyên cục; tứ hóa [đại vận], tức tứ hóa của địa bàn; tứ hóa [lưu niên], tức tứ hóa của nhân bàn; và tứ hóa [can cung], tức tứ hóa do can cung phi xuất và nhập vào cung nào đó. Đại đa số các chi lưu thuộc Tứ Hóa phái đều không dùng phương pháp luận đoán “tiểu hạn”, vì nó có chỗ mâu thuẫn với Thái Tuế lưu niên và không gắn kết được với hệ thống tứ hóa trong mệnh bàn.)

Người có năm sinh khác nhau sẽ có thiên tượng tứ hóa khác nhau để thành tứ hóa của thiên bàn. Ví dụ như: Người sinh năm Giáp Dần, tứ hóa của can Giáp là Liêm Trinh Hóa Lộc, Phá Quân Hóa Quyền, Vũ Khúc Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Kị.

Các bạn đều biết, các sao ở các cung khác nhau (Tí, Sửu, Dần, v.v…) sẽ vì ảnh hưởng của cung vị mà điều chỉnh tác dụng của chúng. Lúc các sao nhập các cung chức (mệnh, huynh đệ, v.v…) chúng sẽ được giới hạn sứ mệnh do cung chức đó giao cho, vì vậy sẽ phát huy công dụng khác nhau; vì vậy tứ hóa cũng sẽ tùy theo tác dụng của sao ở từng cung chức mà điều chỉnh tác dụng, và bị cung chức đó chỉ huy mà phát huy công dụng theo chức năng của cung chức đó. Vì vậy, dù tứ hóa [năm sinh] giống nhau, nhưng mỗi một mệnh bản đều sẽ có ảnh hưởng khác nhau.

Lúc tứ hóa [năm sinh] (tứ hóa của thiên bàn) theo các sao phân bố trong các cung, đồng thời sẽ hình thành cơ chế tứ hóa của can cung từ cung này phi nhập cung khác. Các can cung này là tồn tại nhất định, nhưng không có nghĩa là lúc nào cũng được vận dụng. Thời điểm mà chúng được dùng đến là:

– Lúc đến đại vận khác, can cung mệnh của đại vận sẽ sinh ra tứ hóa. Giả thiết bạn là mệnh thủy nhị cục, năm nay 22 tuổi, vậy sẽ sang đại vận (22-31), tức là hành trình cuộc đời của bạn đến giai đoạn 22-31 tuổi sẽ tự động bước vào hành hạn khác, lúc này can cung mệnh của đại vận 22 đến 31 tuổi sẽ sinh ra tứ hóa, đây là tứ hóa [đại vận].

– Lúc bị sao tứ hóa [năm sinh] tác động. Cung bị tứ hóa [năm sinh] tác động, can cung này sẽ phi xuất tứ hóa để phản ứng lại ảnh hưởng của tứ hóa [năm sinh]. Nếu nói tứ hóa [năm sinh] là lực tác động, vậy cung bị tứ hóa [năm sinh] tác động nhất định sẽ sinh ra lực phản ứng. Lực phản ứng này sẽ phát xuất từ cung có can phi xuất tứ hóa. Nghiên cứu tìm hiểu cơ chế “lực tác động” và “lực phản ứng” là một bộ phận rất khó và rất thâm sâu của Tử Vi Đẩu Số, hiểu rõ những điều ảo diệu trong đó bạn mới có thể vận dụng Tử Vi Đẩu Số một cách tinh tế trong lúc luận đoán mệnh vận.

Mỗi một cá nhân tùy theo năm sinh ra mà có tứ hóa của thiên bàn; Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Kị sẽ theo đó mà nhập vào các sao ở các cung. Những mỗi một cung còn có “can cung” (can cung là dùng “Ngũ Hổ Độn” để xác định), lúc từ đại vận thứ nhất sang đại vận thứ hai, can cung mệnh của đại vận thứ hai sẽ dẫn phát tứ hóa [đại vận].

Sức ảnh hưởng của tứ hóa [năm sinh] (thiên bàn) là chuyên nhắm đến đại vận, còn tứ hóa [đại vận] thì chuyên nhắm đến hành hạn lưu niên, còn tứ hóa [lưu niên] thì ứng nghiệm ở lưu nguyệt. Giả thiết mệnh tạo sinh năm Giáp, tứ hóa [năm sinh] là Liêm Trinh Hóa Lộc, Phá Quân Hóa Quyền, Vũ Khúc Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Kị.

Lúc hành hạn đến đại vận thứ hai, can cung đại vận thứ hai là Bính, tứ hóa của Bính là Thiên Đồng Hóa Lộc, Thiên Cơ Hóa Quyền, Văn Xương Hóa Khoa, Liêm Trinh Hóa Lộc. Vì can của đại vận thứ 2 khiến Liêm Trinh Hóa Lộc [năm sinh] chuyển thành Liêm Trinh Hóa Kị [đại vận], như vậy cần phải đặc biệt chú ý sao Liêm Trinh này, nó sẽ có sức ảnh hường rất lớn đối với đại vận xảy ra hiện tượng này. Nhưng lực tác động của tam hóa [năm sinh] khác cũng sẽ chuyên nhắm đến các cung của đại vận thứ 2 này; tức là nói, các sao tứ hóa [năm sinh] sẽ có ảnh hường đến đại vận này. Lúc đại vận này dẫn phát tứ hóa, nếu tứ hóa [đại vận] không va chạm tứ hóa [năm sinh], thì tứ hóa của lưu niên sẽ ảnh hưởng.

Còn tự hóa là gì? Tứ hóa [năm sinh] nhập vào các sao ở các cung khác nhau, những cung có sao tứ hóa [năm sinh] đóng sẽ có phản ứng. Sức mạnh của tứ hóa [năm sinh] cũng giống như gió bão ập tới, người ở khu vực bị xâm phạm sẽ làm công việc phòng chống bão. Lực tác động chính là tứ hóa [năm sinh], lúc cung có tứ hóa [năm sinh] nhất định sẽ sinh ra lực phản ứng. Nhưng lực phán ứng có thể sẽ không có chút sức đê kháng nào mà còn bị dẹp tan, nhưng cũng có thể lực phản kháng sẽ rất mạnh, điều này phải xem can cung tự hóa khởi động sao hóa nào mà định.

Tự hóa chỉ sinh ra trong cung có tứ hóa [năm sinh], ví dụ: Hóa Quyền [năm sinh] ờ cung Tử nữ (Thiên Đồng Hóa Quyền), mà can cung Tử Nữ là Canh, khiến Thiên Đồng tự Hóa Kị, như vậy hiện tượng đào hoa do Thiên Đồng Hóa Quyền ở cung Tử nữ sinh ra sẽ bị tự Hóa Kị làm biến mất. Nhưng nếu can cung Tử nữ là Bính, vậy Thiên Đồng sẽ tự Hóa Lộc, cảnh ngộ đào hoa của Thiên Đồng sẽ thành lập. Hiện tượng đào hoa xuất phát từ cung Tử nữ là quan hệ trai gái thân mật, cho nên “tự hóa” là một khâu khá quan trọng trong phương pháp luận đoán (tự hóa chỉ sinh ra trong cung có sao hóa [năm sinh] hưởng ứng, không bay loạn đến cung khác).

Do mỗi một năm sinh chỉ có thể sinh ra một nhóm tứ hóa, cho nên can các cung vị mới sinh ra sao tự hóa và phi hóa để điều chỉnh tứ hóa [năm sinh]. Lúc cung vị sinh ra tự hóa, nhất định sẽ phi xuất tam hóa còn lại nhập vào các cung vị khác, đó là hiện tượng rất tự nhiên. Rất nhiều lúc có thể xem cung tự hóa và phi hóa là lực phản ứng, nói “lực phản ứng” là vi lúc cung có tứ hóa [năm sinh] hay tứ hóa [đại vận], mới kích thích mà sinh ra tự hóa và phi hóa. Ví dụ, lúc các cung tam hợp mệnh, tài, quan của đại vận có hiện tượng tự hóa và phi hóa thì phải tìm hiểu xem đó là vấn đề gì, bởi vì trong đại vận này nhất định sẽ xảy ra hiện tượng nào đó, đây là động thái bình thường. Còn lúc tứ hóa [đại vận] nhập các cung không thuộc phạm vi tam hợp, cung này sản sinh phản ứng tự hóa và phi hóa, đây là động thái không bình thường, cũng có thể xem là hiện tượng ngẫu nhiên, rất có thể là trời ban hồng phúc hay là giáng họa ương.

Về lý thuyết, tự hóa và phi hóa là chuyên nhắm đến các sao hoặc tứ hóa để điều tiết hoặc điều chỉnh. Bởi vì bất kể tứ hóa [năm sinh] hoặc tứ hóa [đại vậ] đều quá cứng ngắc và rập khuôn, cần phải dựa vào can cung tự hóa hoặc phi hóa để điều chỉnh cá tính cùa mệnh tạo hoặc điều chỉnh tình trạng thái quá hay bất cập của hành hạn, là phản ứng của mệnh tạo đối với những cảnh ngộ gặp phải trong cuộc đời. Nếu không nắm vững hàm nghĩa thực sự của tứ hóa, thì không thể thấy được chỗ kỳ diệu và sâu sắc của Tử Vi Đẩu Số. Lúc ở “ngã cung” và “tha cung” sinh ra tự hóa và phi hóa, sẽ có phương thức giải thích hoàn toàn khác nhau.

Ví dụ, cung Mệnh thấy Hóa Lộc và Hóa Khoa [năm sinh] đồng cung, vì Hóa Lộc và Hóa Khoa [năm sinh] đồng cung, vì Hóa Lộc và Hóa Khoa [năm sinh] ở “ngã cung”, đây là kết cấu danh lợi cỏ đủ; nếu lại thấy thêm tự Hóa Quyền; đó là ý tượng: sẽ bỏ ra rất nhiều nỗ lực để Lộc và Khoa thành tựu ở bản thân mệnh tạo. Một ví dụ khác, lúc Hóa Lộc và Hóa Khoa [năm sinh] ở cung Phụ mẫu lại thấy tự Hóa Quyền, đó là ý tượng: sau khi song thân sinh ra mệnh tạo, dần dần mất đi ý chí phấn đấu, mất đị quyền lực, thậm chí sự nghiệp dần dần khô héo, bởi vì tự Hóa Quyền rất có thể chuyên nhắm đến tình huống “Lộc phá Khoa” mà mất đi lực tác động của Hóa Quyền, cũng có thể giải đoán là, làm cho sự nghiệp của cha mẹ gặp cảnh tiêu điều ở đại vận thứ nhất. Cùng một mô thức “Hóa Lộc và Hóa Khoa gặp tự Hóa Quyền” nhưng xảy ra ở các cung khác nhau, nhất là “ngã cung” và “tha cung”, sẽ cỏ cách giải đoán hoàn toàn khác nhau.

(Nguồn: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số – Tứ Hóa Phái – Nguyễn Anh Vũ)

- Advertisement -

BÀI VIẾT KHÁC